Saturday, December 24, 2022

 NGƯỜI GÓA PHỤ - fb Yến Ngọc Hải Âu

 NGƯỜI GÓA PHỤ
Vinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
Thắp Nén Hương Tưởng Niệm Tử Sĩ Anh Hùng

Tang thương cảnh vắng lòng cô phụ
Chinh chiến tan rồi anh ở đâu ?
Rừng thiêng nước độc hay sông sâu
Trại Ba Sao - hay tù Suối Máu

---------------------------------

Không còn gặp nhau nữa sao anh !
Đêm đông canh cánh trong lòng
Bóng người góa phụ mãi chờ mong
Chạnh lòng nghĩ tới người hiu quạnh
Bốn bức tường giam lạnh lẽo nằm
Trăm ngàn thù roi lòng ai oán
Giáng xuống người anh những căm hờn
Vạn lời xỉ vả - xả nguồn cơn
Chịu ải - trầm luân cảnh chán chường
Thương anh ! Em sống đời góa phụ
Dẫu nỗi buồn dù thấu trời xanh
Anh linh thiên - yên lòng an nghỉ
Ái ân tình em nguyện khắc ghi
Dẫu qua đi những gì kỷ niệm
Người góa phụ lặng lẽ trong đêm .
Để tìm về quá khứ không quên
Tháng tư đen - ba mươi ngày ấy
Triệu con người góa phụ như em ! 
------------------------
 
Yến Ngọc Hải Âu
GÓA PHỤ THÁNG TƯ 
Vinh Danh phụ nữ và những góa phụ miền Nam Việt Nam. Những người vợ âm thầm là nơi hậu phương vững chắc cho chồng và gánh vác thay chồng sau biến cố 1975 , họ đã kiên định lèo láy vượt qua những khó khăn muôn trùng khi khung cảnh hỗn loạn của thời cộng sản sau khi cướp Saigon.
Tháng tư tang trắng tiễn chồng
Lệ nhòa ướt đẫm má hồng nhạt phai
Từ nay thân gái đôi vai
Đàn con thơ dại gánh thay cho chồng !
Tủi thân số phận má hồng
Chồng tuy mất sớm nhưng lòng thủy chung
Thủy Quân Lục Chiến kiêu hùng
Hy sinh anh dũng vẹn cùng non sông...
Tổ Quốc, trách nhiệm đã xong
Mong anh an nghỉ , thay chồng vì con
Dẫu nay tuổi sắc còn son
Lòng em kiên định nuôi con thờ chồng ..!
Cầu mong đất nước an lành
Không còn thấy cảnh đau thương chia lìa
Miền Nam tia sáng được mùa
Lúa xanh tươi tốt , nắng mưa chan hòa ...
Không còn nước mắt lệ nhòa
Chia xa mỗi nẻo , chồng ra biên thùy
Không còn đưa tiễn nhau đi
Cảnh người cô phụ không còn chia ly ....
Yến Ngọc Hải Âu
-------------------------
 

Chân Dung Người Vợ Lính VNCH

Trong cuộc sống, sự thành công hay thất bại nào cũng có cái giá của nó. Trong chiến tranh cũng vậy, cái giá của những chiến tích lừng danh mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) phải trả, là những đồng đội đã hi sinh, những đồng đội khác đã để lại một phần thân thể trên khắp miền đất nước, và hệ lụy dài lâu là những đứa trẻ vĩnh viễn xa cha, những người vợ vĩnh viễn xa chồng! Người quân nhân hi sinh vì tổ quốc, là sự hi sinh cao cả mà tổ quốc mãi mãi ghi công. 

Nhưng, hình ảnh người quả phụ, với một nửa tâm hồn, một nửa con tim, một nửa phần hơi thở, theo chồng lên đài tổ quốc ghi công, và những nửa còn lại có trách nhiệm trang bị cho các con một hành trang vào đời, phải được thừa nhận là sự hi sinh không kém phần cao cả như người chồng dũng cảm nơi chiến trường, rất xứng đáng được chúng ta kính trọng.

Cũng trong chiến tranh, chồng ở chiến trường, vợ ở nhà quán xuyến công việc gia đình mà công việc gia đình nhiều đến nỗi có những việc chưa kịp đặt tên, nhưng tất cả đều là việc. Chăm sóc các con, chăm sóc tình thân gia đình quyến thuộc, chăm sóc tình bạn bè bằng hữu. Để rồi, những giờ phút yên tỉnh về đêm khi các con chìm trong giấc ngủ, mơ màng nghĩ đến chồng nơi chốn xa xôi, hay đang trong chiến trường khốc liệt, với bao khắc khoải lo âu, sầu muộn!
Rồi chiến tranh chấm dứt trong nỗi nghẹn ngào uất hận, bởi đây là cuộc chiến mà cuối cùng “bị chấm dứt để thua trận”! 

Sau lời tuyên bố của vị Tổng Thống cuối cùng, hàng trăm ngàn đồng bào, quân nhân, viên chức, cán bộ, bỏ của chạy lấy người, tị nạn trên đất Mỹ. Với những thành phần tương tự như vậy gồm 222.809 người, lũ lượt bị lừa vào 200 trại tập trung trên khắp miền đất nước. Người 5 năm, 10 năm, 15 năm, thậm chí 17 năm ròng rã, do lòng thù hận tột cùng của nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Hằng trăm ngàn gia đình di tản ra ngoại quốc, cũng như hằng chục triệu gia đình còn lại trên quê hương, tất cả đều hụt hẫng. Hụt hẫng vì cuộc sống trên đất người với biết bao xa lạ trong một xã hội kỹ nghệ mà bước đầu chưa thể hội nhập. Hụt hẫng vì phút chốc, từ chế độ tự do bị đẩy vào chế độ độc tài trên toàn cõi Việt Nam!

Cảnh đời thứ nhất. Trong cuộc đời tị nạn, vợ chồng con cháu có cơ hội bên nhau, cùng chia xẻ khổ đau, cùng gánh vác nhọc nhằn, cùng nhận chung nỗi nhục! Nỗi nhục phải rời khỏi quê hương trong thân phận lưu vong! Với những bà vợ chúng ta, vốn sinh ra và trưởng thành trong xã hội nông nghiệp, nay phải cùng chồng từng bước hội nhập vào xã hội kỹ nghệ nơi định cư, đã phải đêm đêm đếm bước từ bến xe công cộng về nhà trong màn tuyết lạnh sau những giờ nhọc nhằn nơi hãng xưởng. Lạnh đến nỗi không biết giọt nước lăn trên má là nước mắt, hay mảnh tuyết vừa tan!

Cảnh đời thứ hai. Trong xã hội mà kẻ thắng trận đầy lòng thù hận, thì gia đình ly tán, sự sống bị bóp nghẹt đến tận cùng của khổ đau, của nước mắt bởi chính sách bịt mắt bịt tai bịt miệng! Cái chế độ mà những người lãnh đạo luôn miệng huênh hoang là “dân chủ gấp trăm lần dân chủ tư bản”, lại bắt mọi người phải sống trong nỗi sợ hãi triền miên với những đôi mắt rình rập quanh năm suốt tháng!

Cảnh đời thứ ba. Riêng với những bà vợ ở lại mà chồng đã vào tù, còn tệ hơn nhiều so với hai cảnh đời nói trên. Hằng ngày phải đối phó với bọn cầm quyền địa phương, cái bọn mà đầu óc toàn đất sét và rác rưởi, chỉ biết đàn áp để cướp đoạt. Đồng thời phải chăm lo cuộc sống các con từng ngày, lo nuôi chồng từng tháng!

Những bà vợ chúng ta, hải ngoại hay trong nước, thật sự là Những Người Đàn Bà Việt Nam rất can đảm khi phải chịu đựng và vượt qua nỗi đau nỗi nhục đó! Đau đến nỗi không còn nước mắt để khóc, nhục đến nỗi chẳng còn lời để than! Nếu đem so sánh giữa hai cảnh đời trong nước với ngoài nước, thử hỏi: “Ai đau hơn ai và ai nhục hơn ai?” Với tôi, không ai đau hơn ai, cũng không ai nhục hơn ai! Vì nỗi đau nào cũng có cái đau riêng của nó, nỗi nhục nào cũng có cái nhục riêng của nó! Xin những ông chồng diểm phúc, hãy nhìn lại đôi nét về hình ảnh Những Bà Vợ Chúng Ta trong cuộc sống khổ đau thầm lặng đó, mà người viết được những bà vợ trong cuộc kể lại:

Một cảnh đau thương. Một bà vợ cùng con cầm giấy phép “gánh gạo” nuôi chồng trên đất Bắc. Ba ngày đi, ba ngày về, 2 tiếng đồng hồ gặp gở! Khi trở về cư xá Bắc Hải, nhà bị niêm phong với dòng chữ “nhà vắng chủ”. Đau đớn biết bao! Xót xa biết dường nào! Bỗng dưng nhà bị mất! Bà gục đầu vào cửa! Bà cùng gia đình định cư tại Houston, Texas từ tháng 4 năm 1991. Một cảnh đau thương khác. Một bà vợ đã bao nhiêu lần bị công an Phường ra lệnh đi khu kinh tế mới, nhưng bà vẫn không đi. 

Chúng hành hạ bằng cách gọi bà đến văn phòng, bảo ngồi đó từ đầu giờ đến cuối giờ, ngày nào cũng vậy, và ròng rã 6 tháng như vậy. Một hôm, chúng bảo đưa giấy tờ nhà để giải quyết. Khi chụp được hồ sơ, lập tức tên công an ra lệnh trong vòng 24 tiếng đồng hồ bà phải ra khỏi nhà. “Ôi! Còn nỗi đau nào cao hơn nỗi đau này trong cảnh đời thua trận!” Bà xiêu vẹo trên đường về nhà cách đó mấy dãy nhà liên kế cũng trong cư xá Bắc Hải, và gục ngã ngay trước nhà! Bà cùng gia đình định cư vùng bắc California từ năm 1993, nhưng chồng đã qua đời vào năm 2003.

Một cảnh đau thương khác nữa. Một bà vợ có chồng bị giam trên đất Bắc hằng chục năm trời, bỗng dưng mất liên lạc. Bà lặn lội khắp các cơ quan tại Sài Gòn, Hà Nội, tốn kém, mệt nhọc, nhưng hoàn toàn bặt tin. Nỗi buồn đến với bà quá sức chịu đựng của người phụ nữ tuổi 50, mà có lúc bà cảm thấy như mình đang bên bờ vực thẳm, rồi ngã dần xuống…… 

Bà bị tai biến mạch máu não, nằm bất động một chỗ. Nhiều tháng sau đó, bất ngờ, người nhà của bà nhận được giấy cho phép bà thăm chồng. Trại tù chỉ cách nhà vỏn vẹn 1 cây số (khám Chí Hòa). Bạn bè khiêng bà đến nhà tù. Cả hai “chồng đứng đó vợ liệt toàn thân”, chỉ biết nhìn nhau, òa khóc…! Khóc cho mình! Khóc cho cuộc đời! Phải chăng, mọi khổ đau trên cõi đời này đang bao quanh hai con người đau khổ đó? Không. Không chỉ có vậy. Mà là tất cả những bà vợ có chồng bị cộng sản giam giữ trong tù, tiêu biểu qua 3 cảnh đời trên đây trong hàng vạn cảnh đời trên đất nước Việt Nam, đều trong nỗi khổ tột cùng đó! Tình trạng bại liệt đó theo Bà cùng chồng định cư tại Houston, nhưng rồi Bà đã từ trần năm 2004!

Sài Gòn-Hà Nội 1.736 cây số, xe lửa tốc hành chạy 72 tiếng đồng hồ, tức 3 ngày 3 đêm. Mỗi người chỉ được mang theo 20 kí lô lên xe lửa, mang nhiều hơn số đó phải hối lộ cho một loạt nhân viên từ cổng vào cho đến nhân viên trên xe lửa. Hành lý ngổn ngang cả trên lối đi giữa toa xe. Ban ngày cũng phải lách từng bước chân vào chỗ trống. Còn ban đêm, thật khó mà tưởng tượng! Hai băng ngồi đối diện, một băng 3 người. Hai băng phía bên kia lối đi, mỗi băng 2 người ngồi. Hai đầu trên của hai băng 6 người, máng được 3 cái võng cho 3 người, 1 người nằm co quắp trên sàn xe đen đúa nhầy nhụa giữa 2 băng đối diện, và 2 người còn lại cũng nằm co quắp trên 2 băng ngồi. Nếu nhìn toàn cảnh của toa xe sẽ thấy, băng ngồi đầy người nằm, những chiếc võng bé xíu che kín trên đầu băng, cả lối đi vốn dĩ đã nhỏ hẹp cũng đầy người nằm chen lẫn trong đống hành lý thật hổn độn. Những bà vợ thăm chồng, mang theo hằng trăm kí lô, biết bao là nhọc nhằn gian khổ!

Giả thử, nếu những ông chồng chứng kiến những hành khách nằm cong queo trong cái gọi là chiếc võng kia, hay co quắp giữa những gói quà đầy ấp tình thương trên sàn xe nhớp nhúa đó, là những bà vợ của mình, liệu có cầm được nước mắt không? Nghe nói lại, nghe thuật lại, ông chồng nào cũng đớn đau thương cảm cho tình cảnh những bà vợ quanh năm gánh gạo nuôi chồng! Nhưng không có đớn đau thương cảm nào có thể đem cân bằng nỗi đớn đau thương cảm của những bà vợ trọn tình vẹn nghĩa như vậy được cả!

Tôi hình dung những bà vợ chúng ta qua hình ảnh trên đây mà chính tôi trông thấy khi tôi ra trại tập trung cùng với 90 “bạn đồng tù”, từ Nam Định về Sài Gòn bằng xe lửa đúng 72 tiếng đồng hồ hồi tháng 9 năm 1987.

Trên đây là một cố gắng dựng lại hình ảnh “Những Bà Vợ Chúng Ta”, nếu không rõ nét thì ít ra cũng là những nét chính của hình ảnh ấy, qua sự kết nối bốn hợp phần sau đây: Hai hợp phần trong chiến tranh, là những bà vợ mà chồng đã hy sinh, và những bà vợ mà chồng đang chiến đấu.

Hai hợp phần sau chiến tranh, là những bà vợ cùng chồng con di tản ngoại quốc, và những bà vợ ở lại Việt Nam, vừa nuôi con trong một xã hội đầy hận thù và kỳ thị, vừa nuôi chồng trong những trại tập trung nghiệt ngã!

Những cảnh đời bi thương, những khổ đau sầu muộn, những nước mắt, mồ hôi, được khơi lên từ những góc cạnh li ti trong hằng vạn hằng vạn cảnh đời như vậy, mà Những Bà Vợ Chúng Ta đã chịu đựng trong những năm dài thật dài!

Quyển “Chân Trời Dâu Bể” của Giao Chỉ, kể chuyện trên đất Mỹ, và quyển “Giữa Dòng Nghịch Lũ” của Duy Năng, kể chuyện trên quê hương Việt Nam. Hai tác phẩm này trong một mức độ nào đó, có thể xem là tiêu biểu cho rất nhiều tác phẩm dưới dạng chuyện kể thật bình thường, nhưng ôm ấp biết bao xót xa thương cảm cho thân phận người phụ nữ Việt Nam sau ngày thua trận, dù sống trong hai xã hội cách nhau nửa vòng trái đất. Với tác phẩm của Duy Năng, người kể chuyện là bà Hàng Phụng Hà. Bà là một trong số hằng trăm ngàn bà vợ thăm nuôi chồng trong tù. Ở phần kết, bà nói:

“… Các anh trong tù, khổ về vật chất và đau về tinh thần đến vạn lần, điều đó chúng tôi biết. Nhưng, chúng tôi -những bà vợ của các anh- đau khổ gấp ngàn cái vạn lần của các anh nữa, các anh có biết không? Tôi không đề cao một bà vợ nào, mà tôi đề cao tất cả những bà vợ thăm nuôi chồng trong các trại tù cải tạo. Bởi vì: Họ, đã đứng vững trong phẩm giá Người Vợ Miền Nam. Họ, rất xứng đáng được các anh kính trọng. Và Họ, chính là Vợ của các Anh”.

Vì vậy mà một số bạn đồng tù chúng tôi trong trại tập trung, đã không quá lời khi nói với nhau rằng: “Ra tù, chúng ta phải cõng vợ chúng ta đi vòng quanh trái đất, để đền bù đôi chút về sức chịu đựng biết bao nhọc nhằn gian khổ đã nuôi các con và nuôi chúng mình”. Bây giờ nhìn lại, trong một ý nghĩa nào đó, những cựu tù nhân chính trị chúng ta, đã cõng vợ đi được nửa vòng trái đất rồi. Đến ngày Việt Nam thật sự tự do dân chủ, chúng ta sẽ cõng vợ trở về quê hương là trọn vòng trái đất như đã tự hứa, phải không quí vị?
Với nét chân dung đó, tôi quả quyết rằng, Những Bà Vợ Chúng Ta rất xứng đáng được vinh danh. Và nếu quí đồng đội và quí vị đồng hương đồng ý với tôi, chúng ta cùng nói to lên rằng: 

“Chúng ta cùng vinh danh Những Bà Vợ Chúng Ta là những người đàn bà cao cả, rất xứng đáng được kính trọng. Bởi, trong hoàn cảnh nghiệt ngã của chế độ độc tài cộng sản, nhưng đã đứng vững trong phẩm giá Người Vợ Miền Nam, cùng lúc, chu toàn thiên chức làm Mẹ, và tròn bổn phận làm Con”.

NguoiVoLinh Vinh danh bằng những tiếng nói ân tình bên tai vợ, trao tặng vợ một bông hồng thật đẹp, hôn vợ những nụ hôn thật dài. Điều đó luôn nhắc nhở người chồng trong cuộc sống thường ngày, phải thể hiện lòng hiểu biết vợ mình nhiều hơn, cảm thông vợ mình nhiều hơn, rồi quàng tay vào lưng vợ mình chặt hơn, để cùng nhau đi suốt chiều dài còn lại trong cuộc sống lứa đôi thật mặn nồng, như chưa bao giờ mặn nồng đến như vậy. 

Trường hợp vì lý do gì đó mà bạn đang sống một mình, xin bạn hãy gắn bông hồng màu đỏ lên nơi nào mà khi nằm nghỉ bạn đều trông thấy, để trao tặng vợ khi đoàn tụ bên nhau. Hoặc sự trông thấy đó, sẽ giúp bạn có được những giây phút sống lại những năm tháng mặn nồng trong tình yêu vợ chồng thuở chung chăn chung gối, thuở mà hai người dùng chung một tên./.

-----------------

Nguyễn Viết Quý

Chú tâm đọc bài này tôi ứa nước mắt. Thương cho thân phận phụ nữ lấy chồng là lính thời chiến tranh. Và tôi nhớ mẹ của tôi đã từng nhận hung tin báo tử. Cảnh này tôi không quên đâu. Thương mẹ vô cùng.
NGƯỜI GÓA PHỤ
Tg: Cao Tran
- Anh đi lính chết trận trong mùa hè đỏ lửa năm 1972 chỉ vừa kịp để lại giọt máu trong bụng chị.
 
Một mình chị lủi thủi trong căn nhà tole vách ván trong khu gia binh. Ngày nhận giấy báo tử chị như không còn là chị xinh đẹp ngày nào, tóc tai chị rũ rượi, chị như người mất hồn thơ thẩn vào ra cùng cái bụng lùm lùm. Chiều chiều chị hay ngồi trước nhà hướng đôi mắt buồn rũ rượi nhìn về những dãy núi xa xanh mờ, nơi có từng đám mây trắng đang lững thững bay buồn buồn trên đó.
 
Thi thoảng tôi đi ngang nhà chị, khi nhìn thấy chị tóc tai rũ rượi trợn mắt nhìn tôi là tôi co giò chạy, cứ như nhìn thấy ma quỷ vậy.
 
Thời gian cứ thế lặng lẽ trôi qua. Rồi chị cũng sinh một đứa con trai và nỗi đau mất chồng có lẽ cũng nguôi ngoai phần nào.
 
Sau 30/4/75 vài tháng, cuộc sống ai cũng đổi thay theo hướng ảm đạm, bi quan và buồn hơn trước. Khu gia binh quạnh hiu thưa thớt người, vắng bóng đám trẻ nhỏ í ới đùa vui mỗi ngày, do nhiều gia đình quân nhân đã di tản trước khi thành phố thất thủ, nên trong xóm đã buồn càng buồn hơn. Chị vẫn quẩn quanh trong ngôi nhà nhỏ cùng đứa con. Hàng ngày vào buổi sáng sớm, chị đi xuống đồng cắt rau, hay mò cua bắt ốc...đắp đổi qua ngày. Mỗi khi ra đồng chị đều dẫn theo đứa con con của mình.
 
Một buổi gần trưa, người ta thấy chị bế đứa con đang rũ rượi, mềm nhũn trên tay, từ phía cánh đồng chị đang tất tả chạy về nhà mình, có khi chị chới với ngã xuống con đường cát nóng ban trưa, rồi chị gượng dậy, tay vẫn ôm chặt con mình. Tiếng gào khóc thê thảm như xé toang không gian buổi trưa vốn yên tĩnh lâu nay.
 
Đứa con ra đồng cùng chị, chị loay hoay vớt bèo về bán...Nó tha thẩn chơi rồi rớt xuống ao...khi chị nhìn lại thì nó đã chìm hẳn. Chị lội xuống ao mò rồi vớt nó lên...Và để rồi không còn kịp nữa. Trái tim đứa bé đã mãi mãi ngừng đập.
 
Người trong xóm xúm lại lo hậu sự cho đứa bé. Còn chị như một bóng ma co ro ngồi nơi góc nhà, mắt chị ráo hoảnh, chị cứ lẩm nhẩm điều gì không rõ.
Những người đàn ông đi cạy mấy tấm vách ván từ một căn nhà trong khu gia binh bỏ hoang. Họ cưa ra rồi đóng một cái hòm nhỏ, sau đó xúm nhau đặt đứa bé vào đó. Rồi 2 người bỏ cái hòm nhỏ lên vai khiêng ra khỏi nhà. Chị nhào tới hét lên: Trả con cho tao...!!! Chị cào cấu vào mấy người đàn ông, rồi chị tự xé áo quần của mình, đôi mắt chị long lên vằn những tia máu. Vài người phụ nữ ôm chị đè xuống nền nhà..chị lại khóc, tiếng khóc ai oán, não nùng làm sao.
Hai người đàn ông lầm lũi khiêng cái hòm đi về phía cánh đồng.
 
Sau đó vài tháng, cũng vào buổi trưa, cả xóm nhốn nháo vì tiếng hét bên nhà chị, tiếng hét thất thanh đầy đau đớn tột cùng. Vài ba người đàn ông hối hả chạy sang nhà chị. Chị nằm trên nền nhà, hai tay ôm bụng quằn quại mắt chị trợn ngược toàn tròng trắng, trong nhà mùi thuốc sâu nồng nặc, vỏ chai thuốc bị vứt nằm lăn lóc bên cạnh chị. Những người đàn ông tới bên chị, người giữ tay, người giữ chân, chị quằn quại la hét, bọt mép trào ra có pha lẫn máu hồng. Vài người rơi nước mắt, họ im lặng giữ chị như vậy khá lâu, rồi chị lịm dần đi, hai mắt chị cố nhướng lên rồi vĩnh viễn nhắm lại. Chị đã đi xa rồi, nơi đó có lẽ chị sẽ gặp lại người chồng quân nhân kiêu hùng và đứa con của chị.
 
Xưa có bài hát:" Sao không chết người trai khói lửa, mà chết người gái nhỏ phương xa..." Nhưng nay thì:" Sao đã chết người trai khói lửa, còn chết người gái nhỏ phương xa..." Thật đau xót cho một kiếp hồng nhan.
 
Vài phụ nữ đứng quanh xác chị. Họ rì rầm đọc kinh cầu siêu cho hương hồn người phụ nữ vắn số được thanh thản về miền xa xôi nào đó ở thế giới bên kia. Vài cơn gió trưa nhẹ thổi qua căn nhà nhỏ, vài chùm phượng cháy đỏ rụng bên hiên nhà. Có lẽ chị còn lưu luyến chút gì đó trước khi mãi mãi rời đi khỏi thế gian buồn nhiều hơn vui này.

No comments: