fb Hồ Đắc Việt
Ngày ấy, tôi 21 tuổi, đúng rồi năm 1972, xuân qua, hè đến, rực cháy đỏ lửa Trị Thiên của chiến tranh bên nầy Bến Hải.
Tôi ở bên nầy, vì hoàn cảnh phải nhập ngũ từ 1969, trong lính tôi có Tú Tài 2 ban A, là lính trơn, chỉ hạ sĩ, tôi đươc "phong tước" dạy kèm các con "Sếp".
Khi căng thẳng, thiếu người giao hàng, đặc biệt là Pile dành cho máy vô tuyến điện thoại AN/PRC-25 với tên gọi BA-4386. Cứ mỗi tuần theo "Công-voa" có 2 hoặc 3 xe GMC chở ra Mang Cá, tôi phải đi, ngồi vắt vẻo trên thùng gỗ cả mét khối đựng Pile, xe chạy, lắc lư qua về. Ngồi trong cabin thì nóng, thùng xe thì mát, nhưng xe chạy dầu diesel, thấy tội nghiệp cho hai lỗ mũi...như ống khói tàu lửa !
Tháng 11 năm 1972, tôi được ban 1 Tiểu đoàn gọi lên nhận Sự vụ lệnh vô Sài Gòn kiểm tra trình độ ngoại ngữ để đi học chuyên môn ở nước ngoài. Nhóm tôi đi có hai hạ sĩ quan, một sĩ quan và tôi, đứng chót danh sách vì số quân của tôi cũng "trẻ nhất" 71/... ....
Khi xuống phi cơ. Cả nhóm tự "tan hàng" cố gắng. Ai có nhà quen thì về, ai không có thì vào Căn Cứ Chuyển Vận nằm đầu cầu Tân Thuận.
Hôm đầu vào Trường Sinh Ngữ Quân Đội, nôm na là thi "A,B,C khoanh", sau đó sực nhớ có thư của một bạn ở Quảng Tín gởi về nhà...xin tiền, tôi về Phú Nhuận để chuyển.
Vào nhà ấy, tôi được em gái của bạn tiếp, trưa đến cha mẹ bạn ấy đi làm về với lời khuyên nên ở lại nhà để tiện vào ra Trường, chỉ sau cổng xe lửa, thay vì ở bên Cầu Tân Thuận.
Ngày tháng chuyển dần đến cuối tháng chạp năm ấy, trước và sau Giáng Sinh, chuyện ném bom Hà Nội của Hoa kỳ, chuyện máy bay rơi, chuyện phi công bị bắt và quan trọng nhất, đối với tôi, không có phi cơ để trả tôi về Đà Nẵng. Tôi sáng ở Căn Cứ Chuyển Vận để hóng cái tên của mình trong manifest. Nhưng bất lực, Tờ Sự Vụ Lệnh, đầy chữ ký và con dấu của Thiếu Tá Lâm Kỳ Thơ, đầy mặt trước và mặt sau, cũng không mong có tên xếp "flight".
Các vị đi cùng đoàn, nhớ vợ nhớ con đều bỏ tiền túi ngồi phi cơ DC-10 của Air Vietnam về nhà từ đời tám hoánh. Cho đến ngày 29 tháng chạp âm lịch, tôi được lệnh phải vào Căn Cứ ở để hôm sau 5 giờ sáng lên đường.
Đúng thật 5 giờ sáng 30 Tết, cả chục xe GMC của Căn Cứ Chuyển Vận chở chúng tôi xuống Quân Cảng Khánh Hội, nơi đây có 2 Dương Vận Hạm với cái mồm há ra, riêng tôi xuống HQ-502 đi Đà Nẵng, còn nhóm khác đi tàu khác về Nha Trang.
Xuống thiệt sớm, phơi mình trên boong tàu, với cái nắng Miền Nam chảy mỡ, tôi nép mình dưới Ụ súng 12 ly 7 chờ khởi hành.
Nằm lâu cũng chán, ăn hết túi cơm sấy với hộp thịt ba lát, xuất ăn chiều thì tàu khởi hành,
Tàu chạy trên sông Sài Gòn, qua Lòng Tảo, Cần Giờ, cứ khúc quanh nguy hiểm thì xuất hiện xạ thủ 12 ly 7 với áo giáp nón sắt đứng sau ụ súng.
Hoàng hôn xuống, tàu ra cửa biển Vũng Tàu, ánh nắng đẹp vô cùng, gió biển quá mát, như thầm báo, nguy hiểm đã qua. Êm dịu ban đầu, bắt đầu "đổi thế", tàu tăng tốc, sóng mạnh, tôi từ "nôn nao" đến khó chịu, tội nghiệp bịch cơm sấy và hộp thịt, xin trả lại cho đại dương, trả hết, trả không còn gì cho dạ dày, tôi không đi nổi, tôi bò, bò không nổi thì lết, tôi tìm chỗ trốn, trốn gió, trốn lạnh.
Tôi nằm như thế không biết bao lâu cho đến khi nghe còi tàu hụ từng hồi, nhìn lên cột cờ, tất cả cờ lệnh đều kéo lên, rồi pháo sáng, trong lòng hồ nghi, ra ngoài đại dương rồi, mà còn "uýnh" nhau sao.
Lại sực nhớ, tàu đón giao thừa rồi trời ạ. Tàu đi, gặp tàu bạn lại hú còi, là chào nhau ạ. Đầu óc tôi, tự cho mình cũng thông minh đấy chứ, luật hàng hải mà.
Sau đó tôi thiếp đi vì mệt mỏi, tôi mơ mình vào bắc cực, lạnh lắm luôn, bên tai nghe văng vẳng như giọng đọc của Thầy Nguyễn Văn Thiện của Trường Trung Học Ngoại Ô năm Đệ Tứ về "North Pole" trong English For Today.
Chợt tỉnh khi mặt trời hé sớm đàng đông, nằm bên hông con tàu, tôi tỉnh giấc, khoẻ mạnh trở lại, đứng thẳng người, nhìn xuống biển thấy cá lội, từng đám rong tảo, như chạy lui đàng sau.
Đến 8 giờ, con tàu trước tôi rẻ trái, hẳn là chuẩn bị xuống bến quân cảng Nha Trang, còn tàu tôi, tiếp tục rẻ sóng về hướng Bắc.
Dường như tôi đã thích nghi biển cả, tôi nhìn lên bờ biển, gần Đà Nẵng, nhìn ngọn Sơn Trà, nhìn đài Radar, nhìn những cổ mộ giữa lưng chừng núi, nghe đâu từ thời Pháp...Tàu vào Quân Cảng Đà Nẵng, tôi về nhà, nghỉ ngơi...mai trình diện.
Sau nầy, được biết, sau khi ký Hiệp Định Paris, tất cả phí cơ đều được trưng dụng chỉ chở lính Mỹ, phần còn lại cung ứng cho battlefields. Tôi bị "treo" là đúng rồi.
Riêng tôi, lần đầu tiên nếm được, dầu chỉ là một phần ngàn của Navy, từ một hạ sĩ sửa chữa máy truyền tin, của Infantry.
Một kỷ niệm không quên.
Còn bây giờ, tôi cũng ở Sài Gòn, tôi đang hưởng cái lạnh dịu dàng của Sài Gòn, mà tìm lại chuyện xưa !
Không thấy nữa...
SG, Đông 2022.
No comments:
Post a Comment