Friday, August 5, 2022

QLVNCH - Những Người Tù Cải Tạo (Tù KHỔ SAI)

QLVNCH - Những Người Tù Cải Tạo (Tù KHỔ SAI)
 
 
------------------------------------
 ------------------------------------
 
Phạm Tín An Ninh
 
   
30/04/1975. Theo âm-lịch thì ngày này vẫn còn là mùa xuân. Câu hỏi được làm đề tựa cho bài viết này, ai cũng đoán ra là mùa xuân 1975. Xuân thường ý-nhị, tươi thắm, tình nồng-nàn. Nhưng xuân 1975 mang nhiều bộ áo khác nhau. Tôi thì nghĩ rằng, mỗi bộ áo đó không phản ảnh những khía cạnh của 1 mùa xuân nói chung. Mà rằng, mỗi bộ áo chính nó là một mùa “xuân”, và nhiều bộ áo thì có nhiều ý xuân khác nhau trong cái
“xuân chung 1975”.

Mùa xuân 75, với “Bên Thắng Cuộc” đương nhiên là tưng-bừng, hả hê. Tuy thế, hãy cẩn-thận. Vui đậm thì buồn cũng phải đến (là thế xoay vần của trời đất), và hẳn cũng buồn đậm, buồn thảm! Vay trả có luật của nó.

Người di-tản 75 + kẻ vượt biển, vượt biên từ đấy đến nhiều năm sau, lúc đầu thật thổn-thức. “Em còn nhớ mùa xuân”, bài ca nhạc của Ngô Thụy Miên cũng đã khiến người rơi lệ. Thế nhưng mươi năm sau thôi, tình-tự có khác trước. Xuân xưa trong ta chỉ là cảm-xúc nhất thời.
Thời-gian qua, cuộc sống bon-chen xứ người cuốn hút lấy ta. Một số gặp lại người thân, thì ca bài ca “hội ngộ, đoàn tụ”. Kẻ mà thời-gian và không gian là yếu tố chính cho những cuộc tình của họ, thì phần đông mất-mát, cay-đắng. Thế là những bài hát sau thành phong-trào : “10 năm tình cũ”, “10 năm yêu em”, “10 năm đợi chờ” .. đã thay thế “em còn nhớ mùa xuân”. Xuân đi qua, và “xuân đó không hề trở lại”, chỉ có “xuân mới” đang đến, sắp đến .. e xa lạ.

Người ở lại, còn trong nước : - kẻ đi tù cải tạo thì cứ tự nhiên mà đi, - những thiếu nữ còn trong yêu đương thì chờ đợi ngày về của bạn tình, - phụ nữ thì chờ chồng, và có thêm con dại, phải bươn-chải mưu sinh, - (còn ai thỏa hiệp) thì cứ đường ta đi tới. Khỏi bàn đến dạng sau cùng.

Nhưng “bên thắng cuộc” không để “kẻ bại” được yên. Áp-chế, bạo lực, cướp-đoạt .. nhận chìm “kẻ thù” xuống tận đất đen. Biết bao chuyện đau thương được kể. Là những thảm cảnh, mất mát, ly tan, chết-chóc, tù đày ..

Niềm đau thì không thể so sánh. (Anh bất hạnh hơn tôi sao?). Tuy vậy, người từ nửa vòng trái đất xa khơi, hay nói rõ hơn, từ bên kia bờ Thái Bình dương, có than-thở thì cũng “dễ thở”. Mà kẻ ở tù chắc khác : “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”. Ai từng ở tù, mới cảm-thông với câu nói trên. Tôi có 1 người bạn đồng tù. Từng đêm không ngủ, từ miếng nhôm pha thép cứng rắn, mài thành những chiếc lược. Cò chạm khắc lên miếng nhôm-thép những hàng chữ : “Đương quân hoài quy nhật. Thị thiếp đoạn trường thì”.

Bạn tôi, Huỳnh Văn Lượm, Cựu Trung Tá chế độ cũ (VNCH, khóa 17 VBQG ĐL, Lữ Đoàn Phó 1 LĐ TQLC) + 1 bạn cùng khóa 16 VBQG ĐL với tôi, PVN + tôi, 3 người hay tụ-họp vào chúa nhật tại Trại Giam Vĩnh Quang A. Tôi không có quà, chạy chân sai vặt, nhóm bếp, coi lò, nấu nướng. Nói thì nói vậy, Lượm không mặc tôi lăng xăng, mà nhiệt tình tiếp tay, dù phần lớn quà thăm nuôi đều đến với Lượm, giữa 3 chúng tôi.

Ăn uống, trò chuyện. Rất tế nhị không hỏi sâu về tình-trạng gia đình của nhau. Đều là vu-vơ cho chóng qua ngày tháng. Tên PVN thì từng học piano, phong cầm, nên thích nói về nhạc. Ở đây không có các phương tiện, nhạc khí. Lượm thì cũng giống tôi, thơ văn “đầu môi cuối mắt”. Thế mà cũng qua được 7 năm.

1982, chúng tôi chuyển Trại, từ Bắc xuôi tàu về Nam. Tôi không cùng chung xe, toa với 2 bạn trên. Về Nam, dù hình thức nào cũng là niềm vui cho đại-đa-số tù nhân. Không ai cô đơn. Hai người chung với nhau 1 “cái còng”. Ăn uống bên nhau. Đại, tiểu-tiện có nhau. Bị dân (tại Đồng Hới khi tàu ngang qua ban ngày) ném đá, ráng tránh, nhờ cửa tàu nhanh chóng được đóng lại, nhưng đều “hốt hoảng” chung.

Cùng ở Trại Z30A, Gia Ray Long Khánh. Lượm ở đội nhà bếp. Tôi thuộc đội 19. Có lẽ PVN ở đội 21. Chúa nhật được nghỉ, tự do họp mặt, tự do nấu nướng. 3 người chúng tôi cũng thường chung nhóm. Nay thêm người này, mai thêm người khác. Không còn bị giám sát chặt chẽ như lúc còn ở ngoài Bắc.

Một hôm, tôi gặp PVN (2 đội ở gần nhau - có khi cùng ra ngoài “cuốc đất lật cỏ” trên những thửa đất gần cạnh nhau), nghe N. nói rằng vợ + con của Lượm đến thăm chồng. N. nói “Có điều thấy nó có vẻ buồn”. Thăm nuôi mà buồn. Chắc gia đình có người đau ốm nặng, hay không may, có người “..”. Chỉ N. xuống nhà bếp, gặp và tâm sự với Lượm mới biết nội-tình.

Hai hôm sau N. mới nói cho tôi biết, nhờ gạn hỏi Lượm. Lượm không muốn than-vãn chuyện mình. Vợ Lượm đến báo tin cho chồng biết mình sẽ đi xa, không trở lại. Sơ khởi, con được giao cho bà nội, và trong tương lai sẽ tạo điều kiện đón nó (nội dung để lộ chuyện cô ta sẽ chính thức đi Pháp - không hiểu vì sao chỉ mỗi mình cô, và con phải giao cho mẹ Lượm). Theo N. thì bên trong không đơn giản. Ly-biệt là đây.

Ít ngày sau, Lượm gặp tai nạn. Chảo lớn nước sôi, trước khi đổ gạo vào, thì Lượm vào trước. Lượm chết. Vĩnh biệt cũng là đây.

Chuyện kể về tình xa của 2 bên bờ đại dương, rồi chuyện tình đời - thường là phụ nữ xa chồng, trong áp lực hay cám dỗ từ những đàn ông chế độ mới - hay chuyện người trong tù .. đã thành vô hạn, chồng chất những trang thơ, nhạc, các loại văn phẩm .. dưới mọi hình thức. Nhưng chuyện của Lượm thật quá thê thảm.

Tôi chỉ nói về mùa xuân 75. Tôi chỉ muốn hỏi “mùa xuân nào em còn nhớ?” “Là bộ áo nào em còn nhớ của mùa xuân 75?” Là xuân ly biệt? Quá nhiều cuộc ly biệt. Xuân uất hận? Đại đa số ai mà không uất hận. Xuân đau thương? Quá đau thương đi chứ - ai mà không đau thương? Hay xuân tái ngộ? Cũng không đơn giản. Không lắm cuộc tái ngộ yên lành đâu. Nếu không là chua xót, ngỡ ngàng, rồi đau thương.

Hay, cuối cùng là xuân vĩnh biệt? Chắc khi bước chân vào tù kể từ 6/1975, thì Lượm đã linh tính nghĩ đến 1 xuân “vĩnh biệt” rồi! Để lòng nhớ bạn, Huỳnh Văn Lượm!

(Stone Mountain GA - Aug.28, 2021 edited on Jan.19, 2022)
 

 
         Rừng Cà Tót âm u, bốn bên là núi cao sừng sững, hoàn toàn che khuất ánh nắng mặt trời. Chỉ đến gần trưa, người ta mới thấy được chút ánh sáng vì không còn gì che cản. Những cây Gáo, Bằng Lăng cổ thụ vươn cao khỏi ngọn tre già. Hết lán Lồ ô kế tiếp là lán cây Le trải dài một màu xanh thẩm. Vài lán cỏ tranh cao tới ngực chạy dọc bờ Sông Quao như những cánh đồng lúa bất tận.

Một tiếng chim kêu cũng làm vang động cả rừng vì dư âm vọng lại. Không gian tĩnh mịch quá, nếu có ai vô tình lạc vào đây thì cứ ngỡ là chốn Đào Nguyên, vì cảnh sắc thật đẹp và có vẻ như có chút huyền bí, nhưng có ai biết thung lũng Cà Tót này đang ẩn tàng sự chết chóc đáng sợ. Con Sông Quao nhẹ nhàng chảy lượn quanh khu trại Tù mà VC Bình Thuận dùng để nhốt các sĩ quan VNCH sau ngày 30/4/75 với làn nước trong veo, nhưng nó như cuồng nộ khi cơn mưa rừng đổ xuống chỉ trong tích tắc. Những cụm tre già mọc hai bên bờ sông uốn mình xuống dòng nước lắc lư theo con nước chảy, chỉ thiếu vắng con đò là tạo nên bức tranh tuyệt mỹ.

Bên kia bờ, trên một lán trống lớn, ba dãy nhà thật lớn lợp cỏ tranh được cất theo hình chữ U, dùng để cho tù binh VNCH ở. Giữa ba dãy nhà là cái sân rộng dùng để tập họp đám tù trước khi đi làm. Trước sân là con lạch lớn với chiếc cầu gỗ cũ kỹ bắt ngang. Ẩn mình bên dưới các tàn cây lớn là ba cái nhà nhỏ lợp cỏ tranh, BCH trại tù Cà Tót đặt bản doanh tại đây. Trước ngày 30/4/75 nơi đây đặt Bộ Chỉ Huy Tỉnh ủy Bình Thuận của Việt Cộng.

Trước mặt trại chừng năm chục mét là bến tắm dành cho tù cải tạo. Nước trong veo thấy từng viên sỏi và cá lội dưới đáy sông, tuy nhiên nước lạnh buốt nên ít người dám tắm. Chếch phía trên một chút, một cây cổ thụ ngã đổ bắt qua sông như chiếc cầu thiên nhiên. Hàng ngày toán đào khoai mì, sắn, măng rừng của chúng tôi phải đi qua chiếc cầu này để qua bờ bên kia mới đến rừng khoai mì, hướng bên trái là hai đám bắp thật lớn, không biết gieo trồng từ khi nào mà đã cao quá gối.

Từ cái ngày mới lên đây, tôi đã tình nguyện vào toán đào mì sắn măng cho trại để hy vọng có thể cải thiện thêm những thứ lá, củ rừng ăn được, giúp cho cái bao tử được no, chống chọi qua cơn bịnh tật sốt rét ác liệt tại nơi đây, đa số anh em chết tại đây là vì đói.

Như mọi ngày, sáu thằng chúng tôi khiêng ba cái giỏ cần xé với vài cái cuốc rựa đi hàng một qua chiếc cầu cây cổ thụ này để qua bên kia sông. Không phải ai cũng được phép qua vùng cấm địa này, bên kia là rừng khoai mì được VC trồng lâu lắm rồi, nghe tay Hợi cán bộ VC nói thì khoai mì ở đây đủ nuôi một Sư đoàn ăn một tháng mới hết.

Dùng chữ rừng khoai mì mới đúng vì nó vô cùng lớn, không biết nó được trồng từ lúc nào mà gốc mì gần bằng bắp vế, thân mì cao gần năm mét. Mỗi ngày chỉ cần đào vài gốc là đủ số lượng cung cấp cho nhà bếp luộc xong tán nhỏ trộn với cơm cho trên 4 ngàn người ăn. Nói cho đúng, nếu không được chỉ cách đào chắc phải vất vả lắm mới thanh toán được nó. Có củ to và dài hơn quả đạn pháo 155 ly, ăn thứ khoai mì Ấn Độ dùng cho trét hồ vải trong kỹ nghệ này lâu ngày thì không chết cũng có chuyện.

Gần đó ẩn mình dưới rừng Le là một Công Binh Xưởng của VC, dấu tích còn lại là những bễ rèn và dụng cụ lò rèn bỏ ngỗn ngang. Rải rác đâu đó là các nhà sàn, hầm hố dùng làm nơi chôn cất lúa tịch thu của nhân dân quanh vùng Thiện Giáo. Loại lúa này làm ra thứ gạo ẩm mốc trộn với khoai mì cho tù ăn.

Thật quá là tiện, nhà nước ta đâu có tốn xu nào để nuôi đám “Ngụy quân Ngụy quyền” mang danh cải tạo này. Thức ăn thì có sẵn, măng ở rừng ăn mãn đời cũng không hết, đọt khoai mì thì hầu như vô tận. Đọc báo VC thời “Giải phóng”, các nhà khoa học của Đảng ta “quy” ba ký đọt mì chất lượng đạm bằng một ký thịt bò. Thật là khôi hài cho cái đám mang danh học giả Xã Hội Chủ Nghĩa lại phát minh ra cái trò bịp bợm lừa dối dân nghèo.

Cũng nơi này biết bao Chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa can trường bị đầy ải, chết vì bệnh tật đói khát. Những nấm mồ hoang lạnh nằm rải rác bên bờ sông, dưới gốc Sao già đâu đâu cũng có. Nỗi oan khiêng trùng trùng biết bao giờ mới rửa sạch.

Chúng tôi, toán đào mì đang hì hục đào cho xong ba giỏ cần xé khoai mì để còn về nghỉ ngơi, chiều còn phải đi sắn măng, hái đọt mì. Tôi bất chợt thấy thoáng một bóng người rồi mất hút, tôi nghĩ thầm chắc có lẽ tên Thượng Sĩ Hợi cai tù răng hô VC đang kiểm tra bọn mình chứ gì. Nhưng nhìn kỹ thì không phải, một bóng trắng ẩn hiện sau các bụi khoai mì với tiếng sột soạt của bước chân giẫm trên cành lá khô làm chúng tôi quay lại. Một người đàn bà trẻ mặc bộ bà ba trắng với dáng vẻ thị thành, nhìn chị thật đẹp, mái tóc buông dài đang đứng dưới bụi khoai mì, ánh sáng mặt trời chiếu xuyên qua kẽ lá chập chờn trên chiếc nón lá đang cầm trên tay.

Sau một lúc định thần tôi hỏi nhỏ:
- Chị làm sao vào được nơi này và chị đi tìm ai ? Chị đáp:
- Tôi là vợ Bác sĩ T. Tôi muốn gặp anh ấy, các anh làm ơn giúp giùm. Tôi trả lời:
- Chị lên đây một mình hay nhiều người? chị trả lời:
- Tôi mướn xe Honda thồ chở lên đây chỉ một mình, có chuyện rất quan trọng cần hỏi ý kiến anh ấy. Tôi hỏi tiếp:
- Sao chị không vào trại xin gặp ảnh có phải tốt hơn không? Chị thở dài nói:
- Tôi không muốn vào trại, lỡ mấy ổng không cho gặp thì làm sao? và chuyện tôi nói người khác không nghe được, chuyện riêng. Tôi chỉ muốn gặp anh vài phút rồi về ngay, tôi gấp quá.

Chúng tôi thật khó nghĩ, nếu chuyện này bị tên Hợi cai tù răng hô biết được thì có mà bị cùm còn không giúp chị thì hèn quá. Sau khi bàn thảo với anh em trong toán, chúng tôi quyết định giúp chị cho dù nguy hiểm trùng trùng. Tôi đưa chị men theo lùm bụi rậm rạp tiến sát bờ sông và bảo chị ngồi núp trong một lùm bụi kín đáo. Tôi dặn chị nói ngắn gọn đừng để bị lộ mà gây bất lợi cho chồng chị và chúng tôi.

Thanh toán nhanh mớ khoai mì, chúng tôi về trại giao cho nhà bếp và tôi tìm anh BS T. trong số hơn ba ngàn người lố nhố không phải chuyện dễ, may mà tôi biết mặt anh nên tìm ra được. Khều nhẹ anh ra ngoài sân tôi nói nhỏ: “Vợ anh, chỉ ngồi bên lùm bụi bên kia sông đợi anh”, lúc đầu anh có vẻ không tin, nhưng thấy vẻ nghiêm trang của tôi thì anh tin ngay nhưng nét mặt thoáng lo lắng, tôi giải thích ngắn gọn anh mới hiểu. Tôi giải thích thêm:
”Anh theo tôi đi tắm, tôi canh chừng cho anh chị nói chuyện, nhớ nói ngắn gọn thời gian vài phút”.

Anh theo tôi ra bến sông, được cái lúc này không có ai tắm và toán đào mì của tôi đi tắm thì không ai để ý. Tôi chỉ vị trí chị ẩn núp cho anh xong, tản ra chỗ khác để anh chị nói chuyện tự nhiên và cũng canh chừng để báo động. Chừng năm phút tôi ra hiệu cho anh rút lui, tôi và anh vẫy tay chào từ biệt chị mặc dù không thấy, nhưng tôi tin chắc Chị dõi theo từng bước chân anh. Trên đường về anh T. nói nhỏ cho tôi nghe mặc dù tôi không hỏi.
- Bả hỏi ý kiến và xin phép tôi dẫn hai đứa nhỏ vượt biên tối nay.
Ý anh ra sao tôi hỏi lại.
- Cầu cho mẹ con nó ra đi bình yên còn thân mình ra sao cũng được, với giọng nói bùi ngùi nhưng nét mặt anh thật rạng rỡ. Tôi chia vui cùng anh, anh nắm tay tôi lắc nhẹ và nói lời thành thật cám ơn chúng tôi.
Tôi hình dung một người đàn bà dũng cảm, giờ này đang một mình len lõi giữa rừng già tìm ra nơi hẹn để về nhà cho kịp chuyến đi tối nay. Vĩ đại quá những người vợ lính VNCH thà chấp nhận hy sinh trên biển cả còn hơn sống với Cộng sản bạo tàn. Trong lần ra đi này có thể là vĩnh viễn không gặp nhau nữa, nên bằng mọi giá chị phải gặp anh lần cuối. Theo tôi được biết, chuyến đi thành công và anh chị đã trùng phùng trên đất Mỹ sau ngày anh đi diện HO.

Trong cảnh nước mất nhà tan, người vợ lính VNCH và gia đình cũng bị dày vò đày đọa trong cái Xã hội Chủ nghĩa cuồng loạn này, cùng chịu chung số phận đắng cay của cả dân tộc Việt Nam, có người nói, nếu cây cột đèn biết đi nó cũng đi thoát khỏi cái đất nước này. Riêng tôi cảm thấy lòng mình nhẹ nhõm vì vừa làm được cái gì đó, dầu không lớn lắm.

 
 
          Cái nắng tháng năm như thiêu như đốt, nóng như đổ lửa, bầu trời không một bóng mây, cả một cơn gió nhẹ cũng không có. Trại tù A30 Phú Khánh nhốt hơn 4000 tù VNCH như bị hầm trong lò nướng. Từng dãy nhà lợp tranh dùng làm nơi nhốt tù nằm san sát trên những nền đất cao, chính giữa sân là hội trường được xây bằng gạch lợp Tole. Kế đó, gần vòng rào kẽm gai là cái bệnh xá khiêm nhường với vài cái giường cho có lệ.

Bên góc lớn phía trước sân, trong vòng rào kiên cố là khu biệt giam, là nơi nhốt những người tù kiệt xuất kiên cường, không bao giờ chịu khuất phục trước bạo quyền Cộng Sản, dù có bị tra tấn, hành hạ dã man. Bao quanh trại tù là những lớp hàng rào kẽm gai cao trên 3 mét với những chòi gác do những tên áo vàng canh giữ nghiêm ngặt ngày đêm.

Gần giờ nghỉ trưa mà anh em trong nhà số 13 vẫn chưa mang về hết những bó bổi được bó lại từng bó to tướng cho lò đường của trại theo chỉ tiêu giao phó. Con sông Ba trước mặt đang lững lờ chảy, bên kia sông là ngọn đồi thấp đã bị anh em tù chúng tôi chặt sạch lấy củi, nay trở thành ngọn đồi trọc lóc. Xa xa là những đồi núi khác bao bọc khu thung lũng Mai Liên- Thạch Thành, càng làm cho không khí trong vùng thêm oi bức.

Nhìn từ xa đoàn tù như con rắn khổng lồ, nối đuôi nhau lội qua sông, trên vai vác những bó chà bổi nặng trĩu. Cuối cùng anh em trong đội cũng về đủ, quây quần dưới những bóng cây ăn buổi trưa bằng khẩu phần chết đói mà trại cấp phát. Đó là một thứ cơm nấu bằng gạo ẩm mốc, một ít khoai mì được quy ra gạo theo tiêu chuẩn chết đói mà ở ngoài đồng bào cả nước cũng phải ăn như vậy. Nhưng mọi người cũng ráng ăn để dịu bớt cơn đói sau một buổi lao tác cực nhọc.
Tôi cố nuốt vội mớ cơm hỗn độn đó cho xong bữa, húp miếng canh đại dương truyền thống nấu bằng nước muối với ít cải lềnh bềnh. Cũng cám ơn Đảng đã bồi dưỡng cho anh em tù chúng tôi vào những dịp Lễ, Tết Nguyên Đán mấy miếng thịt heo nái hoặc trâu già bằng ngón tay.

Trong lúc mọi người ăn cơm trưa, thì dưới bóng mát một gốc cây lớn khác, có một người tù già vẫn cặm cụi làm việc bên chiếc cối xây lúa. Điều làm cho tôi chú ý không phải là chiếc cối xây lúa mà là người tù già trạc 70 tuổi, với mái tóc để dài bạc trắng nhưng tay chân cử động còn nhanh nhẹn thoăn thoắt. Ông ta sắp hoàn thành một cối xây lúa mới.

Hình ảnh trên khiến tôi nhớ về quê nhà Chợ Lầu, thuộc Hòa Đa, Bình Thuận. Ở đây thời trước khi tôi còn nhỏ người dân quê cũng dùng những chiếc cối xay lúa như vầy để làm gạo. Vui làm sao những đêm trăng, thanh niên nam nữ trong thôn vừa xay lúa giã gạo, vừa đối đáp những câu hát huê tình thật là lãng mạn tràn đầy hạnh phúc. Niềm vui nho nhỏ gợi lại trong hồn, khiến cho tôi bạo gan đến gần làm quen với ông già không quen biết.
- Chào bác, bác làm chiếc cối xay này đẹp quá.
Ông ta ngưng tay nhìn tôi cười và đáp lại bằng giọng nói của người vùng Bình Phú.
- Nghề của tui mà.
- Vậy hả! nhưng bác đã già rồi sao còn bị bắt vào đây để làm việc?
Ông già không trả lời mà chỉ thò tay vào túi móc gói thuốc rê, vấn một điếu thật to, châm lửa hút, sau khi nhả vài ngụm khói mới bắt đầu nhỏ nhẹ nói:
- Tui nay đã hơn 80 tuổi, sinh quán tại Tuy Hòa, Phú Yên, ngoài đời là một thợ mộc và làm ruộng nên cũng khá giả. Vợ mất sớm để lại cho tôi mấy đứa trai lẫn gái, mấy đứa đều lớn khôn và có gia đình riêng. Sau đó tôi tục huyền với một người đàn bà nhỏ hơn tôi vài chục tuổi, Bả đã có hai thằng con với người chồng trước là du kích VC. Thấy hoàn cảnh của Bả và hai đứa nhỏ tội nghiệp, vì ba nó bỏ theo VC trên rừng không ai nuôi nấng. Tui đem về nhà nuôi nấng cấp dưỡng mẹ con nó, rồi bả chịu lấy tui.
Tôi chêm vào:
- Bác chịu chơi quá.
Sau khi làm vài hơi thuốc bác ta tiếp tục câu chuyện:
- Sau ngày 30-4-1975 mất nước, thằng chồng cũ của con vợ tui từ rừng núi mò về, làm trưởng Công an xã. Nó cho người đến bảo vợ tui về lại với nó, nhưng bả không chịu vẫn ở với tui, hai thằng con thì trở quẻ bỏ về ở với cha nó.

Thằng trưởng Công an mất mặt quá nên đâm ra thù tui, nó tìm đủ mọi cách để hại tui nhưng không được, nó xúi hai thằng con về nhà quậy phá. Một hôm, hai đứa lên xã vu cáo tui chống đối Cách mạng và chửi bới chế độ, để thằng cha nó có cớ sai du kích tới nhà bắt tui lên xã đánh đập dã man và nhốt không cho về. Vợ tui khi bả về biết được chuyện nên bả lên xã chửi bới thằng chồng khốn nạn và hai thằng con vô ơn bạc nghĩa. Bả đòi lên huyện khiếu nại, tố cáo thằng Công an xã vì thù riêng trả thù, nên thằng Công an sợ làm to chuyện nên đành thả tui về, nhưng nó không chịu để yên.
- Rồi sao nữa bác? tôi hỏi vì thấy gây cấn quá.
- Thằng con lớn theo cha nó vào du kích xã, một hôm hai đứa nó vác AK tới nhà tui chửi bới thậm tệ trong lúc má nó đi vắng. Nó còn chĩa súng vào tui, để cho thằng em nó lấy cây đánh. Đau quá tui không còn nhịn được nên dùng một thế võ bẻ tay cướp súng của thằng lớn, rồi tiện tay cho nó một báng súng vào đầu gục tại chỗ. Thằng nhỏ cũng bị tui đá văng vào vách nhà. Sau đó tui nhặt cây súng chạy lên công an Huyện trình diện vì sợ ở xã thì thằng cha nó trả thù nữa. Ai ngờ thằng lớn bị tui đánh trúng chỗ nhược nên chết mất tại chỗ. Tui bị bắt đưa ra tòa xét xử vì tội giết người, tụi nó kêu án chung thân. Nhưng bà vợ tui bả làm chứng nói thằng con bả chết vì thằng cha nó xúi, tui chỉ tự vệ cho nên tụi tòa án hạ tui xuống còn 20 năm.

Bác ta thở dài, khi đã kể xong câu chuyện, như trút đi nỗi uất hận đã chôn vùi trong tâm khảm bấy lâu nay, giờ mới có dịp giải tỏa.
- Còn Bác gái bả đối xử với bác thế nào khi bác ngồi tù?
- Như chú biết, tui bị kêu án 20 năm thì cũng như chung thân thôi vì tui già quá rồi, sống làm sao nỗi đến ngày về, may mà bả biết được chuyện này là do cha con nó gây ra, bả không hề giận tui. Hằng tháng bả thăm nuôi tui đều đều, cũng an ủi. Bả căm thù thằng chồng bạc ác, nỡ bỏ vợ bỏ con nghe lời xúi bậy chạy lên rừng làm du kích, để mẹ con đói rách, nếu không có tôi nuôi dưỡng không biết cuộc đời bả sẽ ra sao?

Nghe xong câu chuyện bác vừa kể, tôi cảm thấy thương người tù già bất hạnh này vô cùng. Đây là một thảm kịch xảy ra trên mọi nẻo đường của đất nước. Chế độ khốn nạn Xã Hội Chủ Nghĩa làm cho con người mất hết nhân tính, không còn chút tình người. Con giết cha, vợ giết chồng chỉ vì muốn lập công dâng Đảng. Hầu hết những gia đình có chồng đi tập kết đều có cái kết thúc giống như vậy.

       Tôi liên tưởng miên man đến chuyện về anh Đội trưởng nhà cấp dưỡng, Huỳnh Đơn do anh em nói cho biết, họ nhớ lúc đó anh Ngô Xuân Hoàng QGHC làm Đội phó . Vụ này xảy ra trước khi chúng tôi từ Tổng Trại 8 tại Bình Thuận và các trại khác dồn về A30 Phú Khánh cuối năm 1978 nên chỉ nghe anh em kể lại và chính Ban Trưởng Trại Trung Tá Công An Trần Đức Hạnh chắc cũng thấy xấu hổ quá nên công bố vụ này trước toàn thể trại viên, vì anh Nhà Trưởng Cấp Dưỡng Huỳnh Đơn thường xuyên về Tuy Hòa, luôn đi chung với anh Ba Béo người Tuy Hòa được Trại tin tưởng giao coi cửa hàng Căng Tin trại,  mua heo cung cấp cho Trại tự nhiên mất tích . Câu truyện xảy ra vào cuối năm 1977, đầu 1978 . Trong nhiều lần trước anh về nhà tại Tuy Hòa có nghe thân nhân và xóm làng xì xầm việc vợ anh có dan díu với một tay Thiếu uý công an khu vực đầy quyền lực tại đây, nên lần này anh quyết tìm cho ra hư thực.
         Sau khi từ giã vợ để trở lại trại như thường lệ, anh không về trại mà lén sang nhà người em ruột cách nhà anh 3 gian và ngủ lại đó phục kích cho qua đêm bắt cho được đôi dâm phu.. Quả thực như lời đồn đoán, mới hơn 8 giờ tối, tay Thiếu úy công an khu vực VC ngang nhiên đến nhà anh như thường lệ .

        Anh chờ lúc tên Thiếu uý Công an lên giường mây mưa với vợ anh  thì anh âm thầm đột nhập vào nhà để bắt quả tang vì anh có chuẩn bị trước . Trong ánh sáng lờ mờ anh dùng con dao mổ heo đâm túi bụi trên lưng tên sĩ quan công an VC dâm ô này và mặt vợ anh, Hắn hoảng hồn vùng chạy trong lõa lồ tri hô cầu cứu và bung  cửa chạy ra đường . Người vợ lăng loàn bị đâm chết vì bị nhiều nhát dao chí mạng . Anh thật bình tĩnh từ từ ngồi vào ghế Salon  rút thuốc ra hút và chờ công an tới bắt, còn hàng xóm trong lúc này không ai dám mở cửa bước ra ngoài.

       Nếu tay Ban Trưởng Bảy Hạnh không nói ra truyện này trước toàn thể trại viên thì chắc không ai biết nhưng...khi được biết rồi thì cả mấy ngàn người tù lúc đó đều xót thương cho hoàn cảnh của anh, chắc chắn anh bị đầy đọa thân xác trong một nhà tù mới . Thân phận một người tù, dưới chế độ cộng sản thua cả súc vật,  thân thì làm trâu ngựa cho bọn nó sai khiến, vợ ở nhà thì bị bọn nó dâm ô hằng ngày như đĩ điếm ! Mối nhục này anh phải trả, chỉ tiếc rằng tên Thiếu úy công an thoát chết, hắn chưa đền tội của hắn . Nói chung bọn VC từ Hồ Chí Minh, vị cha già dâm dục của chúng, cho đến Đỗ Mười, tên thiến heo, Lê Duẩn tên phu cai đồn điền cao su cho Pháp, Võ Nguyên Giáp tên Đại tướng chỉ huy Xưởng Đẻ Có Kế Hoạch, tên nào cũng vậy đều là bọn dâm ô đáng nguyền rủa .

Tiếng kêu tập hợp đi làm của người nhà trưởng làm tôi trở về với thực tại, nhìn ngọn đồi trọc cây trước mặt mà ngán ngẩm cho kiếp nhân sinh. Thân tù tội dưới thời cộng sản như bọt bèo, hoa rơi trước gió. Những ai còn mong tưởng nơi chế độ này sẽ tốt đẹp, thì đó chỉ là mơ tưởng hảo huyền.
 
 
           Trại Bình Sơn A30 Phú Khánh hôm ấy Chủ Nhật, đã hơn 6 giờ sáng rồi mà các cửa phòng giam vẫn còn đóng im lìm, không thấy đám trật tự trại đến mở cửa để được ra ngoài hít thở không khí trong lành.  Chúng tôi lao xao chuẩn bị các thứ để khi đám trật tự trại đến mở cửa là ùa ra bên ngoài ngay để nấu nước trà ngồi phơi nắng nói chuyện linh tinh. Ở Phân Trại Bình Sơn này cũng tương đối dễ thở, nên chúng tôi có thể qua lại các đội khác chơi mà không bị tội quan hệ linh tinh. Hôm nay vẫn như mọi ngày nhưng tôi bỗng thấy có gì là lạ, cán bộ Bính quản giáo của đội tôi cùng nhiều quản giáo khác đi vào những đội tìm gặp các đội trưởng, ra lệnh đội nào về đội nấy để chờ lệnh. Trong lòng tôi vô cùng hồi hộp vì nghĩ có lẽ có đợt thả tù chăng? Hy vọng là mình sẽ có tên trong đợt này. Quả nhiên cán bộ Bính đọc danh sách 8 người trong đội trong đó có tên tôi, và nói các anh có tên khẩn trương đem tư trang tập hợp chuyển xuống Trại chính Thạch Thành, trong lòng mừng không diễn tả được, số anh em không được may mắđến bắt tay chúc mừng, trên gương mặt ai cũng vui vì họ biết sẽ có những lần tha tù kế đến.

Tôi vội vàng thu xếp hành trang ít ỏi để lên đường, trao vội những đồ ăn mà gia đình vừa thăm nuôi tháng trước còn lại cho vài thằng bạn thân và bác Quang già, tôi ôm choàng lấy họ và nắm từng bàn tay chào giã biệt. Lần này chỉ riêng tại Bình Sơn được thả hơn 200 người và dưới trại chính cũng gần con số đó. Đám tù được tập trung trong những dãy nhà bỏ trống cách ly với đám tù bằng một hàng rào kẽm gai cao quá đầu, tôi nhìn thấy Thượng Sĩ Sạc Lai (Charlie) bạn cùng đội với tôi ở Bình Sơn và hơn 20 mươi anh em khác bị đưa xuống nhà kỷ luật vì tội đào trộm khoai lang của trại vì quá đói, đang đứng lô nhô bên kia rào. Sạc Lai nhận ra tôi chạy lại hỏi thăm và xin tôi cái nồi bằng gang của tôi. Tôi ngó lên trên tháp canh xin anh bộ đội đang gác được phép cho anh Sạc cái nồi, được đồng ý tôi quăng cái nồi qua hàng rào cho anh, rất tiếc là không còn gì cho các bạn ở nhà kỷ luật vì đã bỏ hết lại ở Bình Sơn.

Trước ngày về, trời bỗng đổ mưa tầm tả, nước Sông Ba dâng cao, muốn lụt như năm chúng tôi mới đến đây gần Tết năm (1978). Được tin anh đội trưởng đội gỗ vì muốn cứu mấy cây gỗ súc mà thuyền anh bị nước nhận chìm cuốn trôi, anh bị mất tích theo dòng nước đục ngầu đang cuồn cuộn chảy, chúng tôi buồn cho người bạn vắn số. Mỗi người được cấp phát cho 50 đồng tiền xe và một vắt xôi ăn theo đường. Giám Thị Trưởng (Ban Hạnh) nói trời đang mưa bão lớn, anh em nào có muốn ở lại chờ qua con bão thì Trại cũng sẵn sàng nuôi cơm. Chúng tôi nhìn nhau mĩm cười lặng lẽ lên lãnh giấy ra trại và ùn ùn kéo nhau ra Tỉnh Lộ 7B Tuy Hòa - Củng Sơn để đón xe về nhà. Thật là gian truân vì với số người đông như vậy, thật khó kiếm ra xe.

Tôi mới chợt nghĩ taị sao mình không đi ngược lên tới tận bến xe đầu trên rồi bao luôn một xe chạy xuống đây chở anh em . Tôi làm như thế và có xe cho anh em về Tuy Hòa cũng kịp có chuyến xe đò về Nha Trang .

Về tới Nha Trang thì trời đã tối, tôi nhập bọn với mấy anh em ở Đà Lạt cùng đi. Nhờ có giấy ra trại mà chúng tôi mướn được phòng ngủ theo giá nhà nước, mỗi người chỉ có 2$50 xu. Sau khi tắm rửa, chúng tôi đi dạo phố Nha Trang, con đường Độc Lập quen thuộc nay đã khác xưa, phố xá không còn rộn rịp trong thời còn bao cấp, hai bên toàn các cửa hàng nhà nước, rất ít người trên phố, hình như ai cũng bận rộn với miếng ăn. Đói bụng quá chúng tôi bước vào một cửa hàng ăn uống trên đường Độc Lập, tại đây có bán đồ nhậu, tiêu chuẩn mỗi người hai chai bia Con Cọp loại chai lớn 5$ nhưng phải mua kèm theo một dĩa mồi cũng với giá 5$. Sau gần 6 năm quên mùi bia con cọp, nay được uống lại nó ngon làm sao đó, cái cảm giác không diễn tả được. Mỗi thằng làm xong hai chai mà thấy chưa thắm béo gì nên xin mua thêm thì họ không bán, chúng tôi lại một lần nữa xuất trình giấy ra trại mong được thông cảm, và chỉ muốn mua 2 chai bia không có tiền mua mồi, may mà người Cửa Hàng Trưởng thông cảm cho những anh tù cải tạo vừa mới trở về nên đã chịu bán. Thật tình mà nói sau khi làm xong bốn chai Con Cọp lớn, thì thằng nào tâm hồn cũng cảm thấy lâng lâng, đi trên phố mà lòng phơi phới, quên mất mới hôm qua đây còn gian khổ. Lính mà em, sống huy hoàng được giờ nào ta cứ sống, đám bạn này ngày mai chia tay có còn ngày nào gặp lại không đây. Về đến khách sạn, đám chúng tôi ngủ vùi trong mộng đẹp, để ngày mai còn tiếp tục lên đường tìm về mái nhà xưa, nơi đó người thân đang chờ đợi. Tôi hình dung ra cảnh mình bước vào nhà, và mọi người mừng rỡ như thế nào, giấc ngủ đến thật êm đềm. Sáng thức dậy sớm để cùng lên bến xe Nha Trang, mới 5 giờ sáng chúng tôi đã có mặt ở bến xe, chúng tôi mua vé nhưng không còn vé nào cả vì đã bán chợ đen hết rồi, thời bao cấp nó vậy, một lần nữa tấm giấy ra trại lại cứu chúng tôi. Người coi bến xe đã sắp xếp cho chúng tôi lên chuyến xe đi Đà Lạt, riêng tôi về Phan Rí thì cũng đành đi xe này vào Phan Rang rồi tìm cách đi tiếp. Trên chuyến xe chở toàn là dân đi buôn, mấy chị xồn xồn hỏi tụi tôi đám thanh niên đi đâu mà đông vậy, chúng tôi nói đi tù về chứ đi đâu, mấy chị không tin vì thằng nào cũng đẹp trai, giấy ra trại lại móc ra để chứng minh mình là người tù vừa ra lò. Thế là mấy chị có cái gì ăn được đều tận tình chiếu cố phe mình. Thật là tình quân dân như cá với nước, những giây phút êm đềm qua đi, còn đường từ Nha Trang về Phan Rang có 100 cây số nhưng là đoạn đường tốt nên xe chạy rất nhanh. Đến ngã ba Tháp Chàm Phan Rang tôi một lần nữa bịn rịn chia tay các bạn mình để một mình lủi thủi đi từ đó cho hết con đường Thống Nhất dài hơn 3km để lên bến xe Phan Rang-Phan Rí ở đầu cầu Đầu Long . Hỏi mấy chuyến xe chở mấy người bán cá về Phan Rí thì họ nói chắc 7 giờ mới đi và về tới Phan Rí Cửa đâu 9 giờ tối . Cuối cùng tôi leo được lên xe bộ đội Molotova chở đi với giá 10$ một người, ngồi chung với mấy chị bán than ở Cà Ná dưới sàn xe.

Xe dừng lại ở gần Cầu Nam trên QL1, có đường rẽ vào thị trấn Phan Rí Cửa, tôi bước xuống cám ơn anh tài xế đã đưa tôi về đến đây. Đường từ đây đến nhà còn hơn cây số, tôi quyết định đi bộ về nhà cho dù anh lính cũ nay mở tiệm ăn ở đó sau khi mời uống nước, hàn huyên và muốn lấy xe gắn máy chở tôi về nhà . Mang theo chiếc ba lô trên lưng đi theo dọc đường Trần Hưng Đạo, con đường đi ngang qua Trường Trung Học Công Lập, trước là Trường Bán Công Phan Rí Cửa, nơi này tôi đã mài đỉnh quần nhiều năm, mang nhiều kỷ niệm tuổi học trò. Tôi muốn nhìn lại ngôi trường mình đã học giờ nó như thế nào dưới thời Xã Nghĩa, và khu phố thân quen đã bao năm gia đình tôi sống ở đó. Tôi cũng ao ước được gặp lại những người quen để chào hỏi họ, nhưng tuyệt nhiên như vô tình, không ai nhận ra tôi cả, cái đám nhỏ mới lớn thì không biết tôi, còn người lớn thì vắng cả rồi . Khi đi ngang qua ngôi trường xưa, từ xa tôi đã nghe mùi hôi thúi phảng phất trong gió, tôi nhận ra trên phần đất phía đầu trên của khu nhà trường đã bị ngăn lại biến thành hãng nước mắm chế biến hải sản của nhà nước. Hàng phượng vỹ và những cây me tây đã bị đốn chặt không còn, từ trong những dãy nhà chế biến hải sản đó người ta đang nấu nước mắm để cô động lại thành cục đem cung cấp cho bộ đội đang đánh nhau ở bên Campuchia, thành ra mùi thúi bay tỏa trong không gian mà tôi vừa ngửi được. Một cảm giác khó chịu len nhẹ vào lòng, nhưng biết làm gì hơn. Trường vẫn còn học, nhưng học sinh nhiều lớp đã túa ra sân đùa giỡn chờ giờ về, vài em đứng bên cổng tò mò nhìn tôi đi qua. Tôi biết trong đám trẻ ấy có hai đứa con của tôi đang có mặt trong đó, nhưng nó có nhìn ra ba của nó hay không? Tôi muốn thấy chúng để cùng đi về nhà nhưng không sao nhìn thấy.

Một mình rảo bước trên con đường nhựa, nay đã thành ổ gà ổ voi, đầy cát bụi, hình như có người nhận ra tôi, họ đưa tay vẫy chào, nhưng tôi không nhìn ra ai cả, tôi chỉ biết giơ tay vẫy chào lại. Tôi chưa về đến nhà mà đã có nhiều người mau chân chạy về báo rồi. Tâm trạng tôi lúc đó, không sao diễn tả được, có lẽ vì quá vui mừng mà xúc động đi chăng? Vợ tôi không tin là tôi đã trở về nhưng cũng bước ra trước thềm ngó lên, từ xa tôi đã nhận ra bóng dáng quen thuộc … 
Người thân quen đến đầy nhà, ai cũng lộ vẻ vui mừng vì thấy tôi trở về, đông nhất là đám con nít hiếu kỳ đến nhìn tôi vì chúng chỉ nghe nói mà chưa thấy mặt. Sau khi đã bình tĩnh, tôi đi vào con đường hẽm trước nhà để vô nhà thăm cha mẹ vợ cùng các anh chị em….

Tối hôm đó tôi đã quyết định trình diện ở Chợ Lầu quê tôi, nhà má tôi đang ở đó với các em tôi, vì nếu ở với gia đình thì có thể gia đình chúng tôi bị tống đi kinh tế mới theo chánh sách giản dân của địa phương về vùng đèo heo hút gió như các vùng Kinh tế mới xa xôi như Cà Giây và ở núi Nạn gần Long Hương. Thôi thì quyết định cứ tiếp tục hy sinh để bảo vệ gia đình khỏi phải khổ sở. Đoạn đường Chợ Lầu-Phan Rí Cửa chỉ có 9 km, muốn về lúc nào chả được… 
 
Nhưng chỉ qua ngày hôm sau, tôi đã được một cái giấy mời của Chi Bộ HTX Bình Phước, mời đến nói là có việc cần. Đêm đó tôi cứ suy nghĩ mãi, không biết chuyện gì nữa đây, mới hôm qua đây, tôi trình diện ở Công An Xã Chợ Lầu, họ cho biết là một tháng phải trình diện một lần tại xã sau đó lên Công an Huyện Bắc Bình tại Sông Mao, mỗi tháng như vậy phải làm một bản kiểm điểm, ghi rõ từng chi tiết, làm gì và đặc biệt là trong thời gian quản chế không được đi ra khỏi xã khi không được phép, thế là lại ở tù khéo thêm một năm nữa. Sau khi gặp Chi Bộ Thôn Tám Thượng, tôi bị bắt buộc phải nhận chức Thư ký đội 2 của HTX Nông Nghiệp Bình Phước.

Hơn một năm từ ngày ra khỏi Trại Cải tạo A30 Phú Khánh, tôi về trình diện tại xã Chợ Lầu, là nơi chôn nhau cắt rốn, những mong được che chở bởi tình làng nghĩa xóm. Nhưng dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa ưu việt này làm gì có nghĩa tình, biết vậy tôi đã trình diên tại Phan Rí Cửa ở với vợ con cho khỏi sống cảnh  “một cảnh hai quê” vì cái khốn nạn của cái Lệnh Quản Chế.
Hôm nay Công an xã Chợ Lầu và huyện Bắc Bình, triệu tập chúng tôi là những Sĩ quan QL/ VNCH đã học tập cải tạo mới về tại sân đình làng, cũng là sân phơi lúa của HTX/ Bình Phước (trước 75 là ấp Hiệp Phước). Đa số trong số này các anh về đã hơn hai năm rồi mà vẫn còn mang cái án quản chế. Nghe danh từ quản chế có vẻ nhẹ nhàng, nhưng nếu ai mang cái án này vào mình thì vô cùng phiền phức. Mặc dù trong giấy ra trại được ký bởi Thủ Tướng nhà nước ta có ghi rõ các đương sự khi về địa phương bị quản chế một năm. Nhưng hình như các quan địa phương có thói quen ít khi đọc các hàng chữ ghi bên dưới, hay là có lệ “phép vua thua lệ làng” mà mấy ngài tùy hứng muốn làm gì thì làm, nên đếch có thèm nghe lệnh ngài Thủ Tướng Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

Hôm nay, sân phơi lúa của HTX Bình Phước rộn rịp hẳn lên, mấy cây đèn “Măng xông” được thắp sáng phát ra tiếng xè xè, mặc dù ở vào thời đại văn minh của gần cuối thế kỷ 20 mà nước tôi Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa ưu việt mà vẫn không đủ điện để cho dân chúng dùng. Tuy vậy ánh sáng cũng không được sáng lắm, chỉ đủ sáng ở chỗ các vị chủ tọa ngồi, và chỗ của các Tù Cải Tạo được cho giải chế tối nay cho bà con xã viên thấy mặt. Đám con nít chạy nô đùa ồn ào như cái chợ, tất cả chủ hộ được mời tham dự, nhưng cánh đàn ông không biết làm cái giống gì mà không có mặt, chỉ thấy toàn mấy chị phụ nữ và các cụ già đang nhai trầu bỏm bẻm, chuyện trò râm rang như đám mổ bò.

Xã viên đã có mặt từ lâu mà các ngài thủ trưởng chưa đến, mãi gần 8 giờ tối các vị mới lò mò tới đông đủ. Trên bàn chủ tọa có Phó Trưởng Công an huyện Bắc Bình, Trưởng Công an xã,  Chủ tịch xã Chợ Lầu và Chủ nhiệm HTX Bình Phước. Đầy đủ các cán bộ HTX, không thiếu mạng nào ngồi đầy mấy hàng ghế kế bên. Sáu Tù Cải tạo được giải chế tối nay đứng dàn hàng ngang đối diện với bà con xã viên HTX. Nói chúng tôi là tù cũng không đúng, mà mất quyền công dân lại càng trật lấc. Nguyên do là trong sáu người có mặt hôm nay có đến bốn ông cũng mang danh cán bộ HTX như ai, vì vậy không có lý do gì mà lại còn đem ra hành tội.

Nhớ lại những ngày mới về, vì sợ ở Phan Rí Cửa, gia đình vợ con bị liên lụy, có thể Bác và Đảng đầy ải lên vùng Kinh tế mới Cà Giây khỉ ho gà gáy thì chết mất nên đành phải chấp nhận “một cảnh hai quê”, nghĩ rằng Chợ Lầu - Phan Rí cũng gần, tối về thăm nhà cũng được. Cái lệnh quản chế quái ác không cho phép bước ra khỏi thôn thì làm sau về thăm vợ con đây. Muốn về phải đợi tối mịt mới ra đi, chẳng khác nào tên tội phạm. Về nhà mới ba ngày tôi nhận được ngay giấy mời lên gặp Chi bộ Thôn làm việc. Ở cái thời XHCN này mà nghe lên làm việc với các quan chức của Đảng ta thì hổng này thì kia.

Quả vậy sau màn giáo đầu tràng giang đại hải nào là về địa phương phải chấp hành luật lệ, chịu sự sắp xếp của HTX làm bất cứ công việc gì, phải lao động cho thật tốt.... Cuối cùng là muốn tôi nhận chức Thư ký Đội 2 của HTX. Nguyên là năm 1981, với chủ trương của Đảng ta là đưa cả nước vào Hợp tác hóa nông nghiệp, ruộng đồng từ các hộ cá thể phải tự nguyện hiến cho nhà nước ta, nói cho có vẻ dân chủ chứ ai không tự nguyện giao nạp thì khó sống với chủ trương lớn của Đảng, ngay lập tức được gán cho cái nhản phản động chống đối nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa thì có nước bỏ mạng.

Vài gia đình cứng đầu không chịu vào HTX và tự ý cày gieo cấy trên mảnh ruộng của mình, nhà nước không làm gì hết chỉ cho máy cày đến cày không còn một cây lúa, nhiều người liều chết nằm lăn ra đất chận đầu máy cày thì được các “đầy tớ của dân” khiêng quăng lên bờ ruộng như con chó, còn mang tiếng chống Đảng, chống chính quyền nhân dân.
Vì bước đầu mới mẻ quá, nội cái công việc chia chác ruộng đất sao cho hợp lý, không bị chửi bới và đúng với từng đối tượng là cả một vấn đề. HTX cần người có chút học thức mới làm được việc này. Trong làng quê này tìm mấy người có tiêu chuẩn đó thì quá hiếm, nên chúng tôi là những đối tượng Đảng nhắm đến trước tiên vì không thể từ chối được.

Tôi từ chối lấy lý do là mới về cần có thời gian lo cho gia đình nhưng không được chấp thuận, đành phải nhận chức Thư ký đội 2 HTX. Đương nhiên trở thành ông Cán bộ như ai, cái tên cúng cơm tự nhiên biến mất, mọi xã viên trong đội kêu tôi là “ông thư ký”, ba anh bạn kia lên chức cán cũng trường hợp như tôi. Điểm danh có Tr/úy Nguyễn Tô Sư đoàn 21/BB , Xã  Lầu trước là xã trưởng Chợ Lầu , Ba Tê Trưởng Chi Chiêu hồi Hòa Đa ,Th/úy Trần Minh  Khuông Sư đoàn 23/BB, Ba Lạc Trưởng ấp Hiệp Phước, và tôi Sơn Tr/úy Tiểu Đoàn 229/ĐP/Bình Thuận .

Nhìn xuống hàng dưới bà con xã viên có mặt thật đông khác với mấy cuộc họp trước chỉ lèo tèo vài chục người mặc dù đa số là đàn bà và mấy cụ già. Chắc là để coi trả quyền công dân là cái giống gì mà từ trước giờ chưa có nghe nói, chỉ có nhà nước ưu việt ta mới có mà thôi. Đám đông ngưng nói chuyện ồn ào khi ngài Chủ tịch Xã Mạch Sơn Hà, một tay dốt nhưng thích nói, đứng lên bắt đầu đọc bài diễn văn tràng giang đại hải khai mạc buổi lễ. Nghe xong mọi người chẳng biết ông ta nói gì, nhưng bà con xã viên bên dưới cũng vỗ tay ào ào theo thói quen. Kế tiếp đó là bài diễn văn của ông Chủ nhiệm HTX Hai Vỵ một tay Thiếu tá VC hồi kết sau 1975, cũng không kém hùng hồn toàn lời dao to búa lớn, nhưng chủ yếu là khen ngợi sáu người được đề nghị trả quyền công dân hôm nay và sự khoan hồng của Đảng. Sau cùng là Trưởng Công an xã Chợ Lầu, ca tụng chính sách khoan hồng của Đảng, những Cải Tạo viên trở về được chính quyền ưu ái sắp xếp cho công việc làm hợp với khả năng. Tới đây tôi ngó xuống hàng mấy chị xã viên ngồi bên dưới thấy mấy chị chề môi lắc đầu.

Đến phiên từng người chúng tôi đọc bản Lý lịch và các hoạt động trước 75. Tôi thấy mọi người bắt đầu bàn tán ồn ào, mặc cho chủ nhiệm HTX đứng lên đề nghị bà con giữ trật tự. Trong đầu họ từ trước đến giờ cứ nghĩ rằng chúng tôi chỉ quen đánh đấm nay ngồi nghe mới biết là chúng tôi những Sĩ Quan QLVNCH được học hết khóa này đến khóa kia, toàn giữ những chức vụ quan trọng, có bằng cấp đàng hoàng không phải như các cán bộ của Đảng tốt nghiệp ở lớp ba trường làng. Tôi quên mình là người có tên trong “bảng phong thần” đang bị xét xử, còn chờ ơn mưa móc của các đầy tớ nhân dân cứu xét tha cho nên vô tình mĩm cười với mấy chị xã viên ..

Cái mĩm cười vô tình đáp lễ của tôi với bà con xã viên được ngài Phó trưởng Công an huyện nhìn thấy. Một phần vì thấy cái gọi là trả quyền công dân hôm nay thật lố bịch, chỉ cốt  đem chúng tôi ra làm trò hề, một phần vì nghĩ mình sắp có tự do đi lại thăm gia đình không còn phải trốn lánh nên tôi mĩm cười. Cái nụ cười không đúng lúc của tôi làm cho trên bàn chủ tọa có 5 phút hội ý. Sau khi quyết định xong thay vì phát cho mỗi người một tờ giấy chứng nhận đã ký sẵn, Trưởng Công an xã đứng dậy trịnh trọng tuyên bố:
- Vì anh Sơn có thái độ không nghiêm túc trước Chánh quyền địa phương, nên quyết định phạt các anh thêm một năm quản chế. Đúng là luật rừng, chúng nó muốn phạt ai thì phạt .

Đám đông bên dưới ồ lên ngạc nhiên, không ai hiểu chuyện gì đã xảy ra. Tôi khẽ nhún vai nhìn qua các bạn xem có ai buồn lòng không, thì lạ quá trên môi họ cũng có nụ cười như tôi và lặng lẽ tan hàng về nhà. Tôi thấy áy náy quá, vì mình mà liên lụy tới nhiều người khác bị quản chế thì một tháng phải làm kiểm điểm một lần và trình diện tận Công an huyện trên Sông Mao mất cả nửa ngày trời, và cái khốn nạn nhất là chính quyền nhân dân hễ có động dao động thớt là điều tụi này đi làm công Xã hội chủ nghĩa như sửa đường, chặt gai về rào Sân vận động, một lối hành xác tù Cải tạo, mặc dù chúng tôi đã là những ông cán. Thật nực cười cho cái chế độ này, may quá các bạn tôi chẳng những không giận, trái lại còn nói mày ngon thiệt. Tụi nó ngu quá đang lẽ ra làm như không thấy, không biết, khui ra chuyện này chỉ tổ làm cho dân họ cười, lòi ra cái ngu dốt của những đỉnh cao trí tuệ.
Từ ngày đó bà con xã viên trong HTX càng quý mến chúng tôi hơn, tôi nghĩ rằng trong lòng họ chúng tôi đến giờ này vẫn là những ông Thư ký đáng mến, Cộng Sản cố tình làm nhục những Sĩ Quan QLVNCH nhưng không bao giờ thành công được. Đúng một năm sau không còn cái trò này tái diễn nữa. Giấy giải chế được văn thư của HTX trao đến tận tay chúng tôi, tấm giấy này nay đã nhàu nát nhưng tôi vẫn mang theo khi đến được bến bờ tự do, lâu lâu lôi ra đọc lại để nhớ lại các bạn cùng cảnh ngộ nhưng còn kẹt lại ở thiên đường xã nghĩa.
Xuân An –Cao Hoài Sơn
 
 
22. SUY TƯ - B.PAS
Đêm lặng yên trong thanh vắng núi rừng,
Anh không ngũ lắng nghe côn trùng gọi,
Ngọn gió Lào từ hướng Tây thổi tới,
Lạnh rung người cơn rét đến se da.
Thương nhớ ơi hình ảnh của quê nhà,
Thời chinh chiến trên con đường binh lữa,
Lá cờ vàng ngày xưa không còn nữa,
Đã thay vào màu cờ đỏ bạo tàn.
Hồn vẫn vơ lòng suy nghĩ miên man,
Trời sắp sáng nghe tiếng cồng đánh thức,
Ánh nắng sớm hồn dâng lên rạo rực,
Cuộc hành trình còn đầy rẩy chông gai.
Trong tù đày luôn nghĩ đến tương lai,
Tự xếp đặt cho một ngày vượt thoát,
Đường quanh co trên ngỏ mòn xanh ngát,
Tiếng chim rừng kêu hót đón bình minh.
Lại nghĩ về những người bạn đã hy sinh,
Để ngày nay tụi chúng mình được sống,
Tim người lính vẫn còn dòng máu nóng,
Còn luân lưu hơi thở của tự do.
Vẫn quyết tâm xây dựng một cỏi bờ,
Dù phải đổi với lớp người nằm xuống,
Ngày Giải phóng cho dù rằng đến muộn,
Cũng là ngày Tổ Quốc được hồi sinh.
B.PAS
Nhóm Sóng Nước Trùng Dương
Gocong 1962
Sept 04, 2022

 
Tối ngày 28.6.1975 tôi bị di chuyển cùng chung với chồng từ Trường Trung Học Nguyễn Bá Tòng tại Sài Gòn đến Trại Suối Máu được khoảng 1 tuần lại bị chuyển đến trại Thành Ông Năm, Hóc Môn do đoàn 500 cộng sản Bắc Việt quản lý. Trại chia làm hai khu: Nữ Sĩ Quan (SQ) Quân đội, và Nữ SQ/ CSQG. Chúng tôi bị chia thành từng B và phải chen chúc lẫn nhau trong một diện tích chỉ đủ để nằm nghiêng.
Lúc nầy tôi mang thai cháu đầu lòng gần 7 tháng. Đây là thời gian thai nhi phát triển, nên thai phụ cần được nghĩ ngơi, thoải mái, tránh bị những áp lực và thai phụ cần phải được thực phẩm dinh duỡng vừa tinh khiết vừa đầy đủ. Nhưng với tôi thì hoàn toàn trái ngược. Ngoài môi truờng sống quá thiếu vệ sinh, lại phải ngồi nghe học tập, thảo luận. đấu tố.

Thể chất mệt mỏi, tâm trí lúc nào cũng lo sợ cho bản thân, cho gia đình, và cho chồng. Thai nhi càng lúc càng phát triển nên tôi thèm ăn lắm, nhưng bụng thì lúc nào cũng đói, dinh dưỡng chẳng có, áp lực càng lúc càng nặng và rồi hai chân tôi bị qụy, chỗ kín bị ra máu, không được chữa trị hoặc thuốc men. Tôi đuối sức! Trước tình trạng sức khỏe tồi tệ và mạng sống của tôi bị đe dọa, ngày 12.8.75 Cộng sản (CS) thả tôi về với lý do :”tạm hoãn quản huấn vì sắp đẻ”(nguyên văn).

Về đến nhà thì ba mẹ và các em nhỏ của tôi đã bị lùa ra khỏi Sài gòn theo chương trình gọi là hồi hương lập nghiệp tại Sa-Đéc. Sức khỏe quá yếu, không đi được tôi đành ở lại căn nhà cũ (bấy giờ thì gia đình thím tôi đang ở). Đến đầu tháng 9.75 đau chuyển bụng, tôi đến bảo sanh viện Từ Dũ . Sau khi sinh cháu bé, tôi mệt lắm, nhưng gắng gượng xem mặt cháu, biết cháu là gái, thấy khuôn mặt con hao hao giống bố, lòng mình dâng nỗi nhớ chồng và dào dạt thương con, tôi ôm con vào lòng và ngất đi vì bị băng huyết. Tỉnh dậy tôi trở về tâm trạng cũ, May mắn cho tôi là CS chưa kịp đưa người của chúng vào nên nhân viên và bác sĩ cũ vẫn còn tấm lòng nhân ái và phong cách Miền Nam và nhờ đó tôi thoát khỏi luỡi hái tử thần. Vì lý lịch, nên tôi bị tống ra khỏi bịnh viện sau 4 ngày mặc dầu tôi còn yếu và cháu bé gầy guộc chỉ được 2kg. Tôi lại phải bế cháu tìm đường về Sa Đéc.

Khi chiếc tàu đò đậu trước cửa nhà, lòng tôi càng thêm não nề. Đây là khu hoang địa, xưa kia là khu oanh kích tự do và không có dân cư, vì thế vùng nầy có rất nhiều hố bom. Thấy gia đình lam lũ, tôi vô cùng xót xa, vì vậy tôi ráng sức phụ giúp gia đình và tôi lại thêm lần nữa ngã quỵ. Đúng vào thời gian nầy, khi cháu được hơn một tháng thì mẹ con tôi bị bắt trở lại trại giam.

Sáng hôm ấy, đang cho con bú, tôi nghe tiếng ghe máy và tiếng người, rồi tiếng chân dồn dập nhảy lên bờ. chạy về phía nhà tôi. Sống trong vùng cộng sản kiểm soát tâm trạng tôi luôn luôn hồi hộp lo sợ...
Đang còn hoang mang thì tôi đã thấy họ bao quanh nhà tôi, những mũi súng chĩa thẳng vào mẹ con tôi. Tôi nghe đạn lên nòng và tiếng ra lịnh của tên chỉ huy: - Các đồng chí vào vị trí sẳn sàng tác chiến.
Sau đó tiếng quát ra lịnh: - Chị Lê Thị Xuân, tuyệt đối tuân theo mệnh lệnh, không được chống đối, chấp hành lệnh quản chế, thì sẽ đuợc cách mạng khoan hồng !

Tiếp theo là hai tên có võ trang tiến sát vào giường mẹ con tôi. Tôi biết là tôi đã bị bắt. Tôi không sợ, nhưng tôi thương con quá, phần không muốn phải xa con, phần sợ con phải chịu cảnh lao tù. Tôi thật sự lúng túng vì cả nhà tôi đang làm ngoài ruộng. Tôi ngỏ ý chờ người nhà tôi về... Nhưng chúng nhất định không cho. Bị thúc hối quá cấp bách; tôi chỉ viết vội là đã bị bắt lại cho gia đình biết, rồi gom nhanh ít tả lót, ít quần áo, vật dụng cho hai mẹ con và theo chúng xuống xuồng máy giữa hai hàng súng “ dàn chào bảo vệ” của chúng.

Sau nầy tôi biết tên hung tợn chỉ huy cuộc vây bắt hai mẹ con tôi tên là Hiếu. Tôi đã có lần gặp hắn tại Sài Gòn trong nhà người cùng quê với mẹ tôi. Người nầy là SQ Quân Lực VNCH che chở cho hắn trốn quân dịch, lúc ấy hắn làm phụ thợ hồ. Trước ngày tôi định cư tại Mỹ thì hắn là Phó chủ tịch Nông nghiệp huyện Thạnh Hưng, tỉnh Đồng tháp và dĩ nhiên là rất hống hách, ngang tàng và giàu có.

Bọn chúng chở hai mẹ con tôi về trại giam Đám Lát thuộc huyện Lấp Vò, Tỉnh Đồng Tháp. Trại giam nằm trên gò đất, chung quanh có nhiều hàng rào dây kẽm gai bao bọc, chúng cẩn thận gài mìn và chất nổ đề phòng sự trốn trại của tù. Trại nầy giam đủ thứ thành phần từ SQ chế độ cũ, tôn giáo, đảng phái chính trị… đến thường phạm. Vì có con nhỏ nên chúng cho mẹ con tôi ở riêng một góc xó nhà bếp. vách nhà làm bằng đất sình trộn với trấu, nên hôi hám và nhiều bụi dơ; gió mang theo hơi nóng làm rát da.

Tôi mượn nhà bếp hai tấm bao bố gạo làm chiếu và mền đắp cho con, còn mình thì nằm hẳn trên đất. Mỗi buổi chiều mẹ con tôi đuợc nữ quản giáo dẫn xuống một cái đìa nhỏ để tắm giặt. Vì cái đìa nhỏ nầy khi nuớc triều cường mới có chút ít nước từ sông cái tràn vào, do vậy mà những chất dơ bẩn không kịp thoát ra, vì thế nuớc có màu đen của dơ, màu váng của phèn; mùi hôi thối luôn luôn phảng phất, đó cũng là mần mống bịnh hoạn.

Thức ăn không đủ nuôi cơ thể thì làm sao có sữa để nuôi con! Vì thế, các bạn tù đồng ý cho tôi mỗi ngày đuợc lưng chén nuớc cơm có lẫn dăm hạt gạo đang sôi để phụ cùng với dòng sữa hiếm hoi nuôi con. Phải sống trong hoàn cảnh tù đày dưới chế độ cộng sản mới hiểu thế nào là đói, mới hiểu giá trị miếng ăn và mới hiểu đó là sự hy sinh, là tấm lòng nhân ái mà Xã hội Quốc Gia đã giáo dục cho họ.Tôi biết ơn các bạn tù, cơn đói không lúc ngưng dày vò, trí óc chỉ ước mơ đến chưyện ăn, như mơ được một chén cơm lưng, thẻ đường, hột muối, giọt mỡ. Ôi miếng ăn sao “vĩ đại” đến thế!

Ngoài cái đói triền miên hành hạ, tôi lại phải đối phó với muỗi. Khi bóng đen tràn tới cũng là lúc từng đàn muỗi xuất hiện. Chiếc mùng cũ lúc mang theo, bây giờ cũng rách mục như số phận làm người trong xã hội “thiên đường”cộng sản.

Tôi ngậm ngùi thương con, tôi lo cho sự an nguy của chồng, tôi lo cuộc sống lao đao vất vả của gia đình, thấy nhớ ba mẹ và các em thơ dại của tôi, tôi tội nghiệp cho bà mẹ chồng hiền lành và nỗi bất hạnh triền miên đè lên số phận bà. Dường như giọt lệ lúc nào cũng lưng lưng trong khóe mắt, thế nhưng miệng tôi thì lúc nào cũng phải nói những điều trái ngược. Tôi cảm thấy danh dự xúc phạm.

Do thiếu thốn vật chất, tinh thần hoang mang lo sợ cho tương lai mờ mịt tối tăm, và thương nhớ người thân – tôi mõi mòn và dần dần kiệt sức, con tôi thì còm cõi, yếu ốm và những bệnh do thiếu dinh dưỡng, do môi trường dơ bẩn cùng một lúc “hiệp đồng” tấn công trên cơ thể èo uột của tôi và của cháu. Lúc nầy thì con tôi tóc bết dính và lầy lụa mủ máu vì bị sài lở, toàn thân cháu nổi lên những mụn nhọt nhỏ li ti như muỗi đốt, móng tay như bị long và sứt rớt ra.
Tôi lo quá, có lần tôi đành gạt nước mắt chịu nhục, hạ mình xin thuốc cho cháu; nhưng bọn người lòng thú ấy dửng dưng, lạnh lùng và dường như trong ánh mắt chúng có đôi chút hả hê của lòng thù hận. Ôi đồng bào tôi đấy, ôi phẩm cách và lòng khoan hồng “cách mạng!”. Sự tàn nhẫn kinh khiếp ấy của giống “người” cộng sản làm ý chí tôi bỗng dưng phát triển mãnh liệt. Tôi hối hận về sự cầu cứu ấy và tự nhủ lòng sẽ không bao giờ cầu xin chúng, tôi dấu nỗi uất hận, không để lộ niềm đau. Dù chưa biết phải làm gì, nhưng tôi thấy tinh thần của lý sinh tồn và lòng tự trọng trong tôi vững vàng lắm!

Sắp đến ngày 2 tháng 9, ngày “quốc khánh” của chúng, một phái đoàn không biết từ đâu và cấp nào đến thanh tra. Một người trong bọn họ thoáng dừng lại trước mẹ con tôi, chúng phải bịt mũi vì mùi hôi từ chúng tôi. Có lẻ nhờ thế mà hôm sau, ngày 30.8.76 mẹ con tôi được chúng thả ra về với ba năm quản chế.
Về đến nhà, toàn cả gia đình tôi sống héo hắt, cùng cực vất vả, thiếu thốn, tôi đã hiểu tại sao gần năm qua tôi không có thư từ tin tức gia đình và tôi lại khóc, lòng tự trọng thúc đẩy tôi lao hết sức mình cho gia đình, cho đứa con muôn ngàn yêu dấu. Cậu em trai kế tôi, có gia đình, còn ở Sài Gòn cho tôi hay rằng người mẹ chồng hiền lành của tôi đã chết! Tôi thương và mừng cho bà đã thoát được cái thiên đường man rợ của lũ “vượn người cộng sản”. Tôi nguyện cầu cho bà sớm đuợc về cõi Phật như lòng bà hằng mong ước. Tôi xót xa cho chồng và mẹ chồng trong cuộc chia tay vĩnh viễn không được gặp nhau, không đuợc có mảnh khăn trắng ghi nhớ công ơn của mẹ hiền, không được cầm tay đứa con trai út mà bà nuôi nhiều kỳ vọng. Bỗng dưng tôi thở dài ngao ngán cho kiếp nhân sinh trong chế độ cộng sản.

Gần sáu năm sau kể từ ngày tôi được thả ra lần thứ hai thì chồng tôi mới đuợc thả về. Giây phút đầu tiên gặp lại nhau, tôi quá đỗi bất ngờ và cũng quá xúc động. Toàn thân tôi điếng lặng. Tôi không nhúc nhích, cử động gì được, nhưng giọt lệ cứ trào ra, lăn dài xuống đôi gò má thanh xuân nhưng đã sớm tàn phai vì thống thiết đau buồn, thương nhớ.

Nhìn cảnh nhà sa sút nghèo khổ và cũng vì có lần quá cơ cực tôi có ý định cùng với chồng con quyên sinh, nên ngay hôm sau ngày sum vầy chồng tôi bắt tay ngay vào cuộc sinh tồn. Dù cường quyền địa phuơng ngăn cản, luôn tìm cách tạo bất an, gây phiền nhiễu, khó khăn, anh vẫn quyết chí phấn đấu từ làm thuê, vác mướn, bán dạo… gia đình tôi lần hồi bước dần ra cảnh bần hàn. Nhưng tai họa lại ập đến! Bởi lao nhọc, thiếu thốn và di hại trong lao tù, chồng tôi ngã bịnh nặng. Bác sĩ cho biết một lá phổi anh bị khô nước, màng phổi bị dày dính nên kéo và làm trái tim bị lệch và thòng xuống, có dấu hiệu bị sạn thận, xơ gan. Bao nhiêu tiền bạc do công lao và tiện tặn dành dụm được đành phải bỏ hết ra để giành mạng sống của anh. Khi đồng bạc cuối cùng ra đi thì may thay, tôi gặp đuợc người chị cả của chồng tôi, hai chị em thất lạc từ thưở anh chưa chào đời. Nhờ chị, chúng tôi thoát nạn. Cũng kể từ đó, đời sống tinh thần và vật chất của chúng tôi được an ủi, khuyến khích và nâng đỡ. Chị trở thành người mẹ thứ hai của chồng tôi,

Bây giờ nhớ lại và kinh rợn chuỗi ngày sống dưới ách bạo tàn khắc nghiệt cộng sản, lòng bùi ngùi thương cảm cho những người còn trong nanh vuốt man rợ cộng sản. Xin thành kính nghiêng mình trước những bậc anh hùng đã ngã xuống vì muốn cứu nỗi bất hạnh của quê huơng, xin được khóc những dòng lệ cho những oan khuất tội tình của đồng bào tôi bị bàn tay máu của cộng sản áp bức khống chế.

Xin cúi đầu tưởng niệm hằng triệu chiến sĩ Quốc Gia, Con yêu của Tổ Quốc Việt Nam đã không tiếc máu xương vì sự an toàn và phát triển cho quê hương. Xin tưởng niệm 58 ngàn con yêu của Hiệp Chủng Quốc Hoa kỳ vĩnh viễn nằm xuống trong cuộc chiến đấu cho công lý và tự do trên quê huơng tôi.

Xin cám ơn lòng hào hiệp của nhân dân và chính phủ Hoa kỳ đã cứu vớt và đưa chúng từ nơi tối tăm bi thảm, nơi tầng cuối cùng của địa ngục trần gian đến vùng đất hứa, nơi tuyệt đối tôn trọng nhân phẩm con người.

Xin cám ơn những ân nhân, vì tình nhân ái, vì nghĩa đồng bào mà điển hình là hội Gia Đình Cựu Tù nhân Chính Trị đã không bỏ rơi chúng tôi, đã không quản ngại gian khó tốn kém cả tiền của lẫn thời gian và sức lực, đã ra sức đánh động cho Thế giới và nhất là Hoa kỳ biết nỗi thống hận ngút ngàn mà cộng sản trả thù bằng cách làm khô máu lên cuộc đời những chiến sĩ Quốc gia từng một thời dũng lược, nay đành thúc thủ.
Học theo Quý vị, chúng tôi nhất định không bỏ quên những người đang cần đến chúng tôi. Chúng tôi giữ gìn đạo lý và văn hóa Việt, chúng tôi nuôi dưỡng giáo dục các thế hệ tiếp nối về lòng nhân bản để trở thành công dân hữu dụng cho xã hội và cho sự tồn vong của Dân tộc. Thiết nghĩ dó là lời cảm ơn chân thành và thiết thực nhất.

Việt Nam là dân tộc biết mang ơn và biết cách đền ơn. Đó là lời cuối cùng của dòng tâm sự hôm nay của chúng tôi.
Little Sài Gòn, ngày Truyền thống CSQG/VNCH -
Cựu Thiêu-Úy CSQG LÊ THỊ XUÂN. Ẩn bớt

 
         Hùng thằng bạn tù cải tạo nằm cạnh, nó gốc lính Không Quân không phi hành, trăn trở hoài làm cho tôi cũng không ngủ được. Ngày hôm qua khi xếp hàng điểm danh để ra cổng Phân trại Bình Sơn đi lao động, Hùng được cán bộ Quản giáo Lia bảo hôm nay anh ở nhà, chút nữa trật tự sẽ đưa anh đi làm việc.
Chúng tôi vô cùng lo lắng cho nó, không biết chuyện gì đây? Ở trại tù này mỗi khi nghe tới lên làm việc là y như có chuyện. Thằng Hùng nó rất hiền từ, không làm mích lòng ai bao giờ nên mọi người đều quý mến.
Chắc có thằng ăng ten nào muốn lập công với Quản giáo Lia nên báo cáo bậy bạ chứ gì? Anh em vừa đi vừa đoán mò trò chuyện rôm rả cho qua chặng đường dài hun hút. Hôm nay Nhà 13 tiếp tục cái công việc nặng nhọc hàng ngày là băm chồi cho những đám Mía, cái công việc chán phèo nhưng cũng kiếm ăn được. Dưới đám lá mía nhiều thứ cải thiện được lắm, nào mấy con nhái bầu, chuột đồng và đặc biệt là những lóng mía được chúng tôi chôn vùi dưới đám lá hồi tháng trước khi chặt mía. Mỗi anh trong tổ trực vác bó cuốc nặng muốn oằn cả vai, nhưng mà chuyện cứ rôm rả. Từ ngày các anh bên khối Đại úy cướp súng đánh vào đầu tên cảnh vệ rồi vượt trại đến nay Quản giáo và Cảnh vệ không dám đi gần đám tù chúng tôi và dụng cụ đi lao động được bó thành bó vác đi vì sợ dọc đường chúng tôi nổi máu cho một cuốc vào đầu mấy tên Công an cảnh vệ rồi cướp súng đào thoát.

Anh em tôi khi đến nơi cuốc đất băm chồi túi bụi nên quên phắt đi cái chuyện thằng Hùng. Giữa trời nắng chang chang nóng như lò lửa, những nhát cuốc cứ phầm phập xuống đất, Quản giáo Lia và hai tên Cảnh vệ đứng dưới bóng cây canh chừng đám tù. Thung lũng Mai Liên Thạch Thành trước bảy lăm là Nông trường Mía của Pháp nên rất trù phú, ba mặt bao quanh bởi núi non sừng sững, chạy dài trùng điệp tiếp giáp với Đèo Cả, nhìn xung quanh chỉ toàn núi với rừng ngút ngàn, không khí ở đây khô và nóng vì gió ít khi lọt được vô cái thung lũng này nên nóng bức vô cùng. Mồ hôi chảy ướt đẫm cái áo may bằng vải bao cát mà tôi làm được ở đồn Đại Hàn gần xã Thạch Thành sau chiến tranh bị bỏ hoang phế.

Riêng tôi mong chiều về hỏi nó xem chuyện gì mà bị kêu lên phòng Chính trị, đám tù chúng tôi ngán nhất là được kêu lên phòng Chính trị vì khi lên đây tất có chuyện xảy ra không có lợi cho bản thân người tù. Đến khi chiều về gặp, thấy nét mặt nó buồn buồn nên thôi hỏi, tôi biết nó sẽ nói cho tôi biết thôi vì nó thường kể cho tôi nghe về những chuyện tình mông lung của nó.

Cơn gió lạnh buốt thổi qua hàng song sắt ở các cửa sổ, làm đám tù co ro trong những tấm mền rách, tôi nhìn qua chỗ nó nằm thấy nó nằm ngủ bình thường nên cũng yên tâm phần nào. Một ngày cuốc đất vất vả, thân thể mệt mỏi đau nhừ nên tôi ngủ thiếp đi lúc nào không biết, đến khi nghe tiếng kẻng đánh báo thức và đám trật tự trại lao xao mở cửa, tôi mới chịu thức giấc.

Hôm nay tôi đứng gần nó để băm gốc mía, thấy nét mặt nó dàu dàu, có vẻ buồn tôi lên tiếng hỏi:
“Hùng hôm qua có chuyện gì mà thấy mày buồn quá vậy? nói cho anh em biết đi”.
Sau một lúc suy tư Hùng bắt đầu kể cho tôi nghe với một giọng đều đều pha chút đắng cay, câu chuyện này chỉ có thể xảy ra ở dưới thời Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

“ Thằng trật tự Trại dẫn tôi đi gần ba cây số về trại chính A30 dưới Thạch Thành để gặp Ban phó Sinh tại phòng tiếp tân còn làm gì thì thằng trật tự cũng như nó mù tịt. Sở dĩ, thằng trật tự phải dắt đi là vì trại sợ nó vượt trại, tất cả những người tù mang mỹ danh cải tạo đều phải bị coi sóc tận tình khi đi ra ngoài kể cả trong lúc được đi thăm nuôi. Khi vừa đến phòng tiếp tân của trại dùng để đón tiếp mấy thượng khách từ các nơi đến thăm trại thì tôi đã thấy mụ Quản giáo Cơ đi ra đón vào, mặt mụ cứ ngó chăm bẩm vào tôi. Mụ này nổi tiếng tò mò hay nhòm ngó vào chuyện người khác, tôi nghĩ nhiệm vụ chính của mụ là quản lý nhà thăm nuôi, nhưng hôm nay không biết mụ ở đây làm gì.

Tôi có thắc mắc trong đầu nhưng không tài nào hiểu nổi mình có gì sai phạm mà bị dẫn đến đây, mà tại sao lại không phải phòng chính trị. Đến khi bước vào phòng thì tôi lại càng ngạc nhiên vô cùng vì thấy Vợ tôi đang ngồi lù lù trên ghế kề một người đàn ông có tuổi xa lạ mặc quân phục xanh cứt ngựa với quân hàm Thượng úy Quân đội Nhân Dân Việt Nam trên cổ áo, cái nón cối nằm úp trên bàn. Phó trại Sinh ngồi dựa ngửa trên chiếc ghế ở đầu bàn đang phì phèo điếu thuốc lá phun khói lên trần nhà.

Vợ tôi hôm nay trang điểm rất kỹ nên trông đẹp hẳn lên, cô ta đứng dậy lí nhí nói trong miệng khi thấy tôi bước vào: “Anh Hùng”, và ngồi xuống với đôi chút thẹn thùng còn sót lại trên gương mặt đầy son phấn. Phó Sinh đưa tay chỉ ghế cho tôi ngồi đối diện với tên Thượng úy VC.

Quản giáo Cơ rút ra trước cửa đứng lại chờ xem diễn tiến câu chuyện, chắc là mụ có đánh hơi biết sơ qua vụ này. Phó Sinh mở đầu bằng cái đằng hắng lấy giọng để phá tan bầu không khí im lặng đến nặng nề: “Mời anh Hùng uống nước rồi chúng ta nói chuyện”.
Nhìn người Tù cải tạo, với giọng đặc xệch miền Quảng Đà, pha đôi chút bối rối Phó Sinh ngập ngừng nói:
- Hôm nay tôi mời anh Hùng lên đây vì có sự yêu cầu của đồng chí Tâm Thượng úy đây, Phó Sinh chỉ vào người đàn ông ngồi bên vợ tôi. Ngừng một chút, Phó Sinh nói tiếp.
- Đồng chí Tâm đây quen với vợ anh một thời gian lâu lắm rồi, nay chị vợ của anh và đồng chí đây muốn tiến tới hôn nhân nên vào đây đề nghị với anh ký giấy ly hôn để hai người có thể làm hôn thú, vợ anh đã bằng lòng ký vào rồi chỉ còn có anh.

Tôi nghe như có tiếng lùng bùng trong lỗ tai, sao lại có chuyện lạ đời như vậy. Cái thằng Thượng úy VC này đã lấy vợ người lại còn dám vác mặt ra đây để đòi nó ký giấy ly hôn. Mấy lần thăm nuôi trước chỉ có mẹ già từ Sài Gòn ra thăm không thấy vợ đi thăm tôi đã có cảm nhận mơ hồ về điều gì đó không tốt sẽ xảy ra, mẹ tôi chỉ nói vợ nó bận làm ăn không đi được và tôi tin như vậy nên càng thương nhớ vợ tôi vô cùng.
Vợ tôi ngồi im lặng cúi đầu không dám nhìn thẳng mặt tôi, dầu sao thì cô ta cũng là con người nên có trơ trẽn đến đâu cũng phải có chút xấu hổ liêm sỉ. Tôi nghĩ nhanh trong đầu, chuyện đã đến nước này có không ký cũng không được. Nhìn hai người trước mặt và cách nói của Phó Sinh thì hai người đã sống chung với nhau lâu lắm rồi, không cần tôi ký thì hai người họ vẫn đường hoàng lấy nhau mà mình có làm gì được đâu, cái lũ người này chỉ chờ cơ hội là cướp vợ người không kể gì liêm sỉ, tư cách của người tự hào là Sĩ quan Quân đội Nhân Dân anh hùng.

Thân phận tù tội của thằng cải tạo như mình, đã ở cuối từng địa ngục khổ đau, nay còn bị thêm một lần đay nghiến của cuộc đời. Con đàn bà như vậy thì có gì phải tiếc rẻ, lưu luyến gì nữa. May mà tôi chưa có đứa con nào với người đàn bà này, không thì càng khổ đau. Trách ai được đây, trong cảnh tù tội không có ngày về. Vợ tôi, nó tất nhiên phải tìm nơi nương tựa, nhưng thà rằng họ cứ âm thầm lặng lẽ lấy nhau đừng vác nhau ra đây cho tôi bớt bẽ bàng và trong tâm mình lại càng đầy thống hận hơn vì con vợ mà mình ngày đêm thương nhớ, lại đi lấy một thằng Sĩ quan Việt Cộng không ra gì trong khi chồng đang bị chính lũ Việt Cộng này đày đọa trong tù. Đáng trách là trách tên Thượng úy này, thừa cơ chồng còn đang cải tạo mà đi giựt vợ người! Bên ngoài hết đàn bà rồi thì phải, ôi không còn gì để nói. Cuối cùng tôi nhìn thẳng vào Phó Sinh và nói:
- Tôi có được quyền chọn lựa nữa đâu mà không ký và còn gì để tiếc nuối, Ban đưa giấy cho tôi ký.
Hùng nó nói tiếp với chúng tôi:
“Không biết trong lòng Phó Sinh nghĩ thế nào, riêng tôi đứng vào địa vị một Ban phó của một trại tù, tôi không thể nào giúp cho ai cướp vợ người tù đang chịu dưới quyền quản lý của mình, dù hắn có là gì đi nữa. Ký xong tấm giấy ly hôn lòng tôi có chút bùi ngùi thật, nhưng tôi cũng thấy nhẹ nhàng trong cõi lòng, vì khỏi phải lo lắng về người vợ ở nhà nữa. Tôi đứng dậy chào Phó Sinh để ra về, vợ Hùng và tên Thượng úy cũng đứng lên cám ơn, và đưa tôi ra cửa phòng, sao nghe trong lòng chua chát quá, còn chút nữa là tôi bật khóc nhưng cố kềm lại được. Bước chân ra cửa, tìm tên trật tự để đi về lại Bình Sơn, chợt tôi thấy mụ Quản giáo Cơ nhìn tôi với ánh mắt đầy ái ngại, đây là lần đầu tiên tôi thấy mụ này dễ thương một cách kỳ lạ”.
Nghe thằng Hùng kể đến đây về cái nhận xét về mụ Quản giáo Cơ khiến tôi cười xòa, tôi chêm vào cho không khí bớt căng thẳng: “Hồi nào tới giờ tao nghe mày kể toàn là chuyện mày đá người ta, hôm nay mới nghe mày kể bị vợ đá”.

Tôi an ủi nó bằng những dẫn chứng nhiều câu chuyện còn oái âm đau khổ hơn chuyện tình bi đát nó vừa kể cho tôi nghe. Tôi đã chứng kiến cảnh một thằng bạn được vợ vào thăm nuôi với cái bụng chữa sắp đẻ đến nơi, mặc dù bạn tôi ở trong tù gần hai năm không một lần gần vợ.

Dù vậy người bạn này cũng ăn với vợ nó bữa cơm thăm nuôi một cách vui vẻ để nói lời từ biệt. Được biêt chị vợ cũng bị một thằng Thượng sĩ công an VC nó “cưởm” khi nó mới vào tù... còn nhiều nhiều quá nói ra càng thêm cay đắng.

“Thời gian sẽ làm cho mày quên lãng”, tôi an ủi nó. Chuyện trước mắt là mày và tao kiếm vài lóng mía vừa cuốc vừa ăn cho ấm lòng chiến sĩ. Số là khi chặt mía anh em tôi đã qua mặt bọn quản giáo đem chôn dưới đống lá mía vô vàn khúc mía, nay chỉ việc bươi đống lá lên là mặc sức bồi dưỡng.

Câu chuyện này có thật trong trại tù A30 Phú Khánh, lâu lắm rồi mà hễ nhớ đến thằng Hùng là cứ y như câu chuyện nó kể lại hiện ra trong đầu tôi. Không biết giờ này bạn tôi đang ở đâu và có tiếp tục những cuộc tình bay bướm của nó.
 
 
Tôi còn nhớ là những Sĩ quan cấp bậc Trung tá phải trình diện tại Trường học Don Bosco, Gò Vấp trong ba ngày từ 14, 15 và 16 của tháng 6 năm 1975. Tôi trình diện ngày giữa để không sớm mà cũng không trễ.

Chúng tôi ngoan ngoãn như những con cừu non mang theo đủ số thuốc men, đồ đạc và tiền để học tập ba tháng rồi sẽ trở về với gia đình (Theo thông cáo). Vợ tôi đã khuyên tôi trốn về quê hoặc nơi nào khác một thời gian rồi sẽ tính sau. Nhưng vì sự đi đứng của tôi khó khăn (chống gậy) và hơn nữa với 21 năm trong Quân đội và Hành chánh nên được nhiều người biết sẽ dễ bị lộ tông tích. Tôi cũng sợ liên lụy đến vợ con nếu tôi không ra trình diện.

Trong thời gian chờ thanh lọc, bọn CS nhốt chúng tôi tại trại Long Giao, căn cứ của Trung Ðoàn 48 thuộc Sư Ðoàn 18 Bộ Binh. Nơi đây tôi có gặp gỡ nhiều chiến hữu cùng cấp bực và nhiều vị Chỉ huy cũ của tôi như các cựu Ðại Tá Tôn Thất Soạn, Nguyễn Thế Lương, Nguyễn Năng Bảo, NT Nguyễn Thành Trí, cựu Tư lệnh phó Sư đoàn, sau khi tôi đã rời Binh chủng.

Tôi vẫn còn nhớ một hình ảnh khó quên về cựu Ðại Tá Tôn Thất Soạn, một chiến đoàn trưởng TQLC đã lập nhiều chiến công hiển hách trong thời gian ông chỉ huy các Tiểu đoàn TQLC hành quân trên 4 miền Chiến thuật. Sau cùng ông là Tỉnh trưởng Hậu Nghĩa khi tôi làm Quận trưởng Ðức Hòa. Ông cũng được mọi thành phần Quân Cán Chính mến thương như lúc ông còn là Chiến đoàn trưởng vì tính hiền hậu và nhã nhặn của ông ấy. Tôi không bao giờ quên và tội nghiệp cho một anh hùng lỡ vận. Mới vài tháng trước đây ông là một vị Tỉnh trưởng Hậu Nghĩa uy quyền, hôm nay thấy ông vác củi rừng và mặc bộ đồ Kaki vàng lượm được đâu đó đã rách tả tơi. Tôi rất xúc động và căm hờn. Tôi nghĩ rằng tinh thần của Ðại Tá Soạn cũng như tôi lúc bấy giờ còn tả tơi hơn bộ đồ Kaki rách rã rời này nữa. Ôi! một thời oanh liệt nay đã tiêu tùng theo vận nước!
Trước khi chở ra Bắc, bọn CS đưa tất cả Sĩ quan từ cấp Tướng đến cấp Tá về trại tù Suối Máu mà trước kia Chính quyền miền Nam giam tù phiến Cộng. Nơi đây trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, bọn chúng có giường ngủ, chăn màn đầy đủ. Chúng được ăn uống theo tiêu chuẩn Quốc tế cho nên tên tù Việt Cộng nào cũng mập béo. Các phái đoàn Mỹ và ngoại quốc đến thăm viếng thường xuyên. Trại được xây cất nơi thờ phượng cho các Tôn giáo. Khi chúng tôi vào trại Suối Máu thì những căn trại trống không, phải nằm đất và cơm ngày hai bữa với canh rau nấu muối hột, thỉnh thoảng có chút cá loại rẻ tiền hôi tanh khó ngửi.
Có một lần bọn CS cho chúng tôi ăn hủ tiếu đã lâu ngày bị mốc meo nên hầu hết anh em tù đều bị kiết lỵ, một số người bị chết vì không có thuốc trị. Vấn đề vệ sinh rất là bẩn thỉu, tồi tệ. Nhưng chẳng thấy phái đoàn nào đến thăm chúng tôi. Tôi còn nhớ là vài tháng trước ngày 30 tháng 4, 1975, phái đoàn của Ni sư Huỳnh Liên đã gây khó dễ với Chính quyền Tổng Thống Thiệu là phải được vào thăm bọn Việt Công bị giam tại Suối Máu. Khi chúng tôi vào trại này, các nơi thờ phượng đều bị bọn man rợ đập phá, các tượng Phật, tượng Chúa đều gẫy nát, không khác nào bị bọn ma quỷ phá nhà chay.

Mỗi buổi sáng chúng tôi cố phóng tầm mắt xa ra ngoài lộ xem có thấy bóng dáng vợ con mình lai vãng hay không cho thỏa lòng nhung nhớ! Vì CS đâu cho thăm nuôi. Tại Suối Máu tôi rất mừng gặp lại một đồng nghiệp sau cùng ở tỉnh Hậu Nghĩa là cựu Trung Tá Bùi Văn Ngô, một vị Quận trưởng lâu năm ở đây. Tôi đã được thuyên chuyển từ Dĩ An về Hậu Nghĩa hơn một năm rồi lại được trở về Dĩ An một tháng cuối cùng. Nhưng tôi cũng biết ông là một Quận trưởng có khả năng, luôn nghĩ đến Binh sĩ và hiền hòa dễ mến. Tôi xin hết lòng cám ơn ông Ngô đã tận tình giúp bạn bè lúc khổ nhọc vì mỗi chiều sau giờ cơm ông hay rủ tôi cùng đi tắm để ông xách nước giếng giùm tôi vì bàn tay mặt của tôi đã bị tàn phế do thương tích. Ông Ngô và gia đình đi diện HO, các con nay đã thành gia thất và thành công trên xứ người. Vợ chồng chúng tôi xin chúc mừng hai ông bà và các cháu.

Tôi cũng không quên ơn Mũ Xanh Trung Tá Lê Văn Khánh ở tù chung trại 1 Yên Bái đã nhiều lần xách hộ tôi chiếc Valise đựng quần áo mỗi khi chuyển trại. Ông luôn giúp đỡ tôi vì chân tôi đi khập khểnh khó khăn. Nếu không có ông Khánh trợ giúp thì tôi có thể té nhào xuống sông bến Tân Cảng vì phải đi qua chiếc cầu rất nhỏ từ bến xuống tàu Sông Hương chở ra Bắc. Tôi còn nhớ có một người trong chuyến tàu này mang túi đồ nặng trĩu trên vai đã lọt xuống sông bị chìm mất dạng mà bọn bộ đội CS vẫn đứng trơ mắt nhìn không tiếp cứu.

Nơi xứ này mỗi khi anh em có dịp gặp nhau là kể cho nhau nghe về đơn vị cũ, chiến trường xưa và cũng không bỏ qua chuyện tù Cộng Sản vô cùng nhục nhã khó quên.

Ðoạn đường xuôi Nam
Sau một năm bị giam cầm trong Nam và hai năm ở miền Bắc, bọn CS thả những người tù già yếu và bệnh tật trong đó có tôi mà bọn chúng thấy không còn lao động được nữa và bọn chúng nghĩ rằng có thả về nhà chúng tôi cũng sẽ chết thôi. Trước khi được thả về, bọn bộ đội CS ban Chỉ huy trại tù Yên Bái trả lại quần áo mà chúng tôi mang theo lúc trình diện để học tập “ba tháng” theo thông cáo. Tôi lấy bộ đồ mà tôi đã mặc đi trình diện ở Gò Vấp mặc thử xem ra sao. Khi vừa mặc chiếc quần tây vào thì cái quần bị tuột xuống tới chân làm cho tôi sững sờ vì không ngờ tôi ốm tới thế này, và mấy anh bạn tù cùng lán cười rộ lên khi nhìn thấy cái thân người khỏa thân của tôi nó teo nhách từ trên xuống dưới! Trong mấy năm tù có nhìn thân mình trong kiếng soi bao giờ mà biết được cái độ gầy ốm của thân người mình ra sao? mặt mày của mình như thế nào? Mấy năm đầu bọn Cộng Sản không cho gia đình thăm nuôi và tiếp tế lương thực nên anh em tù bị đói tả tơi, có người không chịu nổi cái đói đến kiệt sức mà chết!

Những người mập mạp lại càng tiều tụy hơn chúng tôi nhiều và càng dễ chết do thiếu dinh dưỡng. Hôm ngày tập trung về Ðoàn để chuẩn bị trở về Nam, một cựu Ðại Úy LLÐB đến chào hỏi tôi mà tôi không thể nhìn ra ông ấy là ai. Ông ấy bèn nói rằng: Anh Năm (Colonel) không nhận ra em sao? Em là Ðại Úy M… mập đây. Lúc bấy giờ tôi mới nhớ ra ông, vì ngày xưa ông rất mập và bụng to đến đổi khi ông ngồi lái xe Jeep là cái bụng bệ vệ và nặng nề của ông đụng tới cái Volant xe.
Ông ta bèn giở áo lên cho tôi xem cái bụng của ông có nhiều miếng da xếp lại không khác nào cây đàn Accordéon. Gương mặt tròn trịa của ông năm xưa nay bị hóp lại trông thật não nề!

Mọi người tù đều ốm yếu như nhau nên tôi cũng không nhận định được thân người của tôi nó gầy ròm như thế nào? Khi đến đón tôi được thả về tại cổng thành Ông Năm, Gò Vấp, vợ tôi chỉ nhìn ra tôi nhờ tôi chống gậy đi khập khễnh từ sau ngày tôi bị thương tại vùng giới tuyến vào cuối năm 1966, lúc tôi còn là Tiểu đoàn phó TÐ 3 Thủy Quân Lục Chiến.

Toán đầu được thả ra là những Sĩ quan thuộc ngành chuyên môn như Hành chánh hay Kỹ thuật. Trong toán này có một anh Thiếu tá ngành Quân Nhu, khi vùa tới cổng trại anh nhìn thấy bà vợ đang ngơ ngác nhìn tám người tù đi ra mà không nhận dạng được chồng bà. Anh ấy bèn lên tiếng: Em! anh là T… đây. Bà vợ nhìn chồng quá tiều tụy và xúc động đến ngã quỵ.

Anh Thiếu Tá cũng khóc sụt sùi nức nở nên bị giữ lại cho trở vào trại để lên lớp cùng với chúng tôi đang mong chờ đợi phiên về kế tiếp.

Tên quản giáo nói rằng: “Đảng và nhà nước với chánh sách khoan hồng đã nuôi các anh ăn học rất chu đáo để trở thành công dân tốt, chứ nhà nước đâu có hành hạ mấy anh đâu mà tại sao các anh lại tủi thân mà khóc với vợ con?”. Tôi bực mình và nói thầm: “Chúng tao đâu có chém trâu đốt nhà như loài Cộng sản chúng mầy mà được bọn bây giáo dục để trở thành công dân tốt?” Nghe mấy câu nói nhàm tai này tôi càng tức sôi gan và tôi nghĩ rằng chắc quý vị cũng rất bực mình nghe tôi kể lại câu chuyện này.

Bọn Cộng sản thả những người trong nhóm chúng tôi làm năm đợt, mỗi đợt tám người và cách nhau mỗi đợt một tuần lễ.

Cứ sáng ngày Thứ Năm trong tuần là anh em tù hồi họp chờ đợi tên cán ngố đến gọi tên mình và dẫn ra cổng trại. Sống với bọn này lúc nào cũng hoang mang và đầu óc luôn luôn bị căng thẳng!

Một cựu Trung Tá Phòng Nhì, lúc bấy giờ đã bảy mươi hai tuổi còn bị giữ lại với tôi sau khi toán cuối cùng đã được về hai tuần qua rồi. Ðiều này làm cho ông và tôi rất đắn đo vì tên thủ trưởng trại chẳng cho biết lý do tại sao? mà chúng tôi cũng chẳng dám hỏi. Ông ấy tự suy đoán và nói với tôi rằng: Có lẽ tôi là Nhân viên phòng Nhì còn cậu làm Quận trưởng lâu năm, chắc chúng mình thuộc thành phần “ác ôn” (Đây là danh từ của bọn Cộng sản gán ghép cho những người của chế độ miền Nam). Thật là nhức đầu với lối khủng bố tinh thần của lũ Cộng sản.

Về đến nhà tôi nhìn vào kiếng thấy người tôi chỉ còn da bọc xương, hai xương vai nhô ra, đưa bộ ngực Oméga sâu hõm, mặt mày xanh xao như tàu là chuối trông giống như người mắc bịnh Aids Disease mà bên Việt Nam gọi là bịnh Sida. Ðứa con trai út của tôi tám tuổi hỏi mẹ nó sao ba bây giờ không giống ba mấy năm trước vậy? Tôi buồn muốn rơi nước mắt vì tủi thân và nghĩ rằng không biết tôi có thể khỏe mạnh lại như xưa không? Khi đi trình diện tôi cân nặng 65 ký, bây giờ chỉ còn 40 ký. Tôi không biết rằng có được hồi phục sức khỏe để nuôi bản thân tôi và lo cho gia đình nổi không? Vì biết rằng tôi phải lao động cày cuốc theo chánh sách của bọn chúng (CS) khi được thả về với gia đình.

Lần này chúng tôi được chở về Nam bằng xe lửa từ Yên Bái đến Vinh, rồi từ Vinh đi bằng xe đò trong Nam ra đón chở thẳng về thành ông Năm, quận Hóc Môn. Tôi cũng xin nói rõ thêm là trên đoạn đường về Nam anh em chúng tôi được chuyên chở trong điều kiện thoải mái, không phải như lần ra Bắc bọn Cộng Sản nhốt chúng tôi dưới hầm tàu Sông Hương rất khổ sở từ bến Tân cảng Saigon ra Vinh rồi từ Vinh ra Yên Bái lại tiếp tục bị nhốt trong những toa sắt chở hàng hóa như súc vật.

Trên đoạn đường từ phía Nam cầu Hiền Lương ngay vĩ tuyến 17, về tới Saigon, tôi được nhìn thấy lại những phong cảnh và địa danh mà đơn vị TQLC chúng tôi đã hành quân qua trong những năm chinh chiến và không khỏi ngậm ngùi khi thấy và nhớ lại những mặt trận chạy dài theo Quốc lộ số 1 mà anh em Chiến sĩ cùng tôi đã một thời tung hoành, oanh liệt và đã cùng sống chết bên nhau trong các trận đánh đẫm máu với quân Cộng Sản Bắc Việt. Lúc bấy giờ tôi thật xúc động và buồn lắm! Còn một điều nữa làm cho tôi rất buồn và luyến tiếc là quê hương mình rất đẹp mà để quân Cộng sản vào gây chiến tranh tàn khốc và gây biết bao cảnh đổ nát điêu tàn, biết bao gia đình phải điêu linh!

Ðến thành phố Huế, hai “bộ đội” cho chúng tôi xuống xe để ăn trưa. Ðồng bào hay tin tù cảo tạo được về Nam từ các trại tù miền Bắc đã đổ xô tới bao vây chúng tôi. Các bà cụ già và các phụ nữ nhìn thấy chúng tôi mặt mày xanh xao hốc hác, bơ phờ và ốm gầy nên động lòng khóc nức nở. Chúng tôi bị cấm không cho tiếp xúc với đồng bào, nhưng khi nhìn qua ánh mắt của mấy bà tôi hiểu là các bà rất thương cảm chúng tôi và họ hình dung bóng dáng chồng con hay anh em của họ cũng tiêu điều như chúng tôi vậy, nên họ mủi lòng không cầm được nước mắt. Có một bà cụ chửi khe khẽ rằng: “Ðồ quân khốn nạn! Chúng bay đày đọa mấy người cải tạo ra nông nỗi này!” Một điều làm cho tôi luyến tiếc là phố Huế ngày xưa thanh bình thơ mộng, nay sao tôi thấy tiêu điều buồn tênh! Có lẽ phố Huế cũng buồn theo vận nước?

Anh em chúng tôi chia ra từng toán vào các quán ăn cạnh nhau trên một đường phố. Các người chủ quán đều không tính tiền và còn cho uống Beer và nước ngọt thật ngon lành vì mấy năm nay đâu được có những thứ này.

Ngồi trên xe đò đi tiếp về Saigon, chúng tôi nghe các anh lơ và tài xế chửi xỏ chửi móc chế độ Cộng sản thậm tệ bất cần hai “bộ đội” đi theo chúng tôi. Nhưng lúc ấy tinh thần chúng tôi bị sa sút sau mấy năm trong tù luôn bị đe dọa, bị khủng bố và hoang mang thành ra nhút nhát nên nghe họ chửi rủa anh em chúng tôi cũng ngại lắm. Một anh bạn tù cắt ngang những lời trách oán của anh lơ xe và hỏi anh lơ rằng: “Lúc này nước nhà được giải phóng và được thống nhất chắc là đồng bào mình có cuộc sống ấm no lắm phải không?” Tôi nghĩ là anh bạn tù này muốn hỏi để cho anh lơ ấy không chửi nữa vì sợ ảnh hưởng không tốt cho anh ta, chứ chúng tôi cũng biết dân miền Bắc khổ và đói rách lắm dưới sự cai trị của bọn bạo tàn cộng sản đã mấy mươi năm qua, làm gì mà dân Nam có được sung sướng? Nhưng anh lơ lại nói thêm: “Giải phóng cái con mẹ gì, giải phóng là phỏng… đó mấy ông ơi! Dân khổ chết cha đi mấy ông, muốn mua gạo ăn phải trình hộ khẩu và đăng ký, mua thứ gì cũng không có để mà xài, vật giá leo thang và đồng tiền rẻ mạt vì bị mất giá.”

Xe đò chở chúng tôi đi qua Thành phố Sài Gòn đến Gò Vấp rồi từ từ vào thành Ông Năm là trại giam Sĩ quan cấp Úy. Tôi rất ngậm ngùi khi thấy quang cảnh điêu tàn và buồn tẻ, các cửa hàng khang trang của Sài Gòn năm xưa đều đóng. Thủ đô Sài Gòn ngày nay không phải như trước năm 1975 mà lúc xưa được gọi là hòn ngọc Viễn Ðông.

Lòng mãi u buồn nhớ Sài Gòn.
Tên ấy không còn với nước non.
Sài Gòn mất tên trong sử sách.
Giặc Cộng vào bôi dấu bia son.
Sài Gòn trải qua cơn hỗn loạn.
Tự do, hạnh phúc cũng chẳng còn.
Hòn ngọc Viễn Ðông nay tan biến.
Lòng mãi u buồn tiếc Sài Gòn.

MC

Khi chúng tôi vừa mới tới thành Ông Năm, tên “thủ trưởng” trại chịu trách nhiệm toán chúng tôi nói rằng: “Các anh học tập tốt được Cách mạng cho về đây ăn học tiếp.” Tôi nói thầm: Tốt chỗ nào? Lao động khổ sai đói rét muốn bỏ mạng mà gọi là học tập, bọn chúng mầy lúc nào cũng nói láo. Ðầu óc chúng tôi rất hoang mang không biết còn phải ở tù thêm bao lâu nữa? Hay lại chuyện gì sẽ xảy ra đây? trong khi tên trưởng trại tù Yên Bái đã nói rằng chúng tôi được về sớm vì lý do già yếu, bịnh nặng gần chết và tàn phế, v.v… Thật là chánh sách của Đảng dạy bọn chúng mầy là nói láo, nói láo từ trên xuống dưới và nói láo từ nơi này đến nơi khác.

Trước khi chúng tôi được về có anh Trung Tá H… tùy viên quân sự của Tòa Ðại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại nước ngoài và một số tù cải tạo ở chung trại số 1 Yên Bái với tôi được chúng bảo chuẩn bị hành trang để được thả về. Nhưng một thời gian sau đó anh em đi vào rừng gặp lại anh H…đang lao động với anh em của trại khác. Một anh tù đã hỏi rằng: Sao anh H…còn ở đây? Chưa về với gia đình sao? Anh H…khe khẽ chửi thề: “Ðồ bọn nói láo, mấy anh đừng có tin chúng nó.”
Nhớ lại câu chuyện này tôi càng hoang mang lắm mặc dù đã về trong Nam rồi, nhưng tôi nghĩ rằng dù sao đi nữa về đây ở tù thêm cũng được gần gia đình và khí hậu ấm áp hơn.
Nỗi lo âu và tinh thần bị khủng hoảng khi về với gia đình.

Về nhà mừng vui được sum hợp gia đình nhưng không khí rất là ngộp thở vì những tên Công an Khu vực tới nhà xét bất cứ lúc nào. Lúc bấy giờ những tù cải tạo khi được thả về gia đình phải trình diện mỗi tuần hoặc hai tuần hoặc mỗi tháng một lần tùy ý của bọn công an địa phương. Vợ tôi phải đi báo cáo ngay cho công an khu vực khi vừa về tới nhà. Ngày hôm sau tôi phải trình diện đồn quân trấn Thủ Ðức và sau đó mỗi tuần một lần. Tôi nghe nói tên công an trưởng đồn quân trấn lúc trước là anh thợ vá vỏ xe đạp tại chợ Thủ Ðức. Tôi không bao giờ có ý chê bai hay khi dễ những người ít học. Tôi rất thông cảm hoàn cảnh sống nghèo khổ của mỗi người. Nhưng tôi rất bực mình thái độ đã vô học lại còn vô giáo dục với bản chất hèn hạ và nhỏ mọn của quân Cộng sản như lũ chém trâu đốt nhà và ăn hại đồng bào.

Mỗi lần tôi trình diện, tên này luôn luôn có cái bản mặt mày hằn học với tôi lắm, vì theo giấy ra trại hắn biết tôi trước năm 1975 là Quận trưởng Dĩ An, Biên Hòa và quận Ðức Hòa, Hậu Nghĩa. Còn tên Công an Khu vực cứ mỗi ngày đến kiểm soát tôi và hắn ta nói rằng: “Tôi tới thăm anh Châu khỏe không? và tiến bộ ra sao sau khi Cách mạng nuôi ăn học một thời gian”.
Tôi tức căm hờn với những câu nói này vì bị bọn Cộng sản chúng nó đày đọa gần chết mà nói ăn học cái gì? Chúng tôi đã nhiều lần nghe những lời nói y rập một khuôn của bè lũ này từ lúc vào Long Giao đến trại Suối Máu rồi ra Yên Bái. Tên Công an Khu vực thường đến nhà đúng lúc vợ tôi đi chợ về là hắn lục lạo vào giỏ đi chợ xem vợ tôi đã mua thứ gì để theo dõi hằng ngày mình ăn món gì, nhưng hắn nói trớ là xem vợ tôi “có mua đủ thức ăn cho tôi bồi dưỡng không”, theo ngôn ngữ của bọn Cộng sản.

Trong thời gian tôi làm việc tại quận Dĩ An, anh em Chiến sĩ Địa phương chúng tôi đã không ngại gian khổ hành quân ngày đêm nên tiêu diệt gần hết thành phần hạ từng cơ sở trong Quận. Vài tên còn lại phải bỏ vùng hoạt động và ẩn náu giũa hai liên ranh Dĩ An và Tân Uyên. Cho nên sau hai tháng được miền Bắc thả về, bọn Việt Cộng địa phương đến bắt tôi lại để trả thù, nhưng chúng nói là tôi được Công an tỉnh Sông Bé và Biên Hòa mời tôi lên đó làm việc với chúng trong 10 ngày. Chúng nó cho tôi mười phút chuẩn bị đồ đạc và thuốc men đủ dùng trong hai tuần lễ. Nhìn mặt chúng lộ vẻ đằng đằng sát khí nên tôi nghĩ chúng sẽ giết tôi để trả thù hay sẽ làm nhục tôi trước dân chúng tại quận Dĩ An nơi tôi làm việc trước kia, cũng như chúng đã bắt vài Sĩ quan trong Bộ Chỉ Huy chi khu của tôi đi quét đường và làm vệ sinh quanh khu phố. Tôi quyết định dùng thuốc tự sát thà chết tại nhà với vợ con hơn là bị bọn chúng làm nhục trước công chúng. Tôi đoán chắc rằng bọn nó sẽ giết tôi và vùi xác nơi nào đó mà vợ con không hề biết được. Tôi bèn mở tủ thuốc lấy một ống Optalidon mang vào phòng tắm vì không muốn cho hai con gái lớn của tôi thấy và uống gần hết ống thuốc. Sau đó vài phút tôi bắt đầu xây xẩm mặt mày và biết chắc chắn rằng tôi sẽ chết. Không còn sợ chi nữa và rất bực tức, tôi trở ra phòng trước chửi bọn chúng dữ dội và nói rằng chánh sách của bọn chúng bây là nói láo, đừng hòng mà bắt tao lại để trả thù. Ngay lúc đó vợ tôi đi vắng nhà vừa về và tôi chỉ còn nói được ú ớ vài tiếng rồi ngã vào vòng tay của vợ tôi và ngất lịm luôn.

Sau khi tỉnh lại, được vợ tôi thuật rằng chúng muốn chở tôi đến Bệnh viện Sông Bé để bọn chúng lo. Vợ tôi đoán rằng bọn Cộng sản sẽ giết tôi nên nhứt quyết không cho chúng chở đi. Trước sự giằng co dữ dội của vợ con tôi cùng sự chứng kiến của người cùng xóm, bọn Việt Cộng đành để vợ con tôi đem tôi ra xe chở vào Bệnh viện Nguyễn Văn Học và đuổi theo chúng tôi sau đó. Tôi đã may mắn được người cháu là Bác Sĩ Nguyễn Xuân Tùng đang là BS trực tận tình cứu tôi trong khi đó tên “BS” Cộng sản Trưởng khu cấp cứu nói rằng: Anh này đã chết rồi, anh Tùng không cần chạy chữa nữa. Tên “BS” Việt Cộng ra lịnh cho y tá rút ống dưỡng khí ra, nhưng vợ tôi và BS Tùng mạnh dạn kháng cự lại. Thật rõ ràng là bọn chúng muốn giết tôi chết. Tên này và bè lũ quả thật dã man, tàn ác. Trong thời gian này vợ tôi vất vả vô cùng vì sợ chúng giết tôi nên mỗi đêm phải nằm túc trực tại hành lang phòng hồi sinh để theo dõi và canh chừng tôi.

Sau ba ngày đêm nằm nơi phòng hồi sinh tôi tỉnh lại và tìm mọi lý do nằm thêm môt hai tuần nữa vì còn yếu sức để nghĩ ra mưu kế trốn thoát khỏi Bệnh viện vì vợ chồng chúng tôi được bà BS M…và cô Y tá A…, bạn học cũ Gia Long với vợ tôi, đã mật báo cho vợ tôi biết là mỗi buổi sáng khi bàn giao phiên trực, tên “BS thủ trưởng” đều lưu ý tất cả Nhân viên là hãy coi chừng và theo dõi một tên Trung Tá ngụy đang nằm chữa bệnh. Tôi đã biết là chúng nó sẽ bắt tôi tại bệnh viện. Lúc bấy giờ tôi cũng được hay tin có một số Sĩ quan về cùng lúc với tôi cũng bị bọn CS bắt lại, không biết số phận của các ông ấy đã ra sao?

Những phút giây hồi hộp.
Vào một buổi sáng bà BS M… mật báo cho vợ tôi biết là tên “thủ trưởng sẽ ra lịnh cho tôi xuất viện lúc 4 giờ chiều ngày mai”. Vợ chồng chúng tôi hiểu ngay là bọn chúng sắp đặt âm mưu để bắt tôi lại khi tôi ra khỏi cửa nhà thương. Vợ chồng chúng tôi quyết định phải trốn khỏi bịnh viện vào lúc sáng sớm ngày hôm sau.
Thấy tình hình nguy kịch, chị cả của tôi là một Soeur của nhà dòng Vinh Sơn và cũng là Y tá trưởng của Khoa Nhi Ðồng đang làm việc tại đây đã cùng vợ tôi đến gặp vị Linh mục của nhà thờ nằm ngay phía sau của Bệnh viện Nguyễn Văn Học để cầu cứu. Chị tôi kể sự việc của tôi đã xảy ra cho Linh mục nghe và nói rằng: “Bọn Việt cộng sẽ bắt em tôi lại tại Bệnh viện này vào chiều ngày mai, vậy nhờ Cha cho chúng con dẫn em con đi qua cửa sau để tẩu thoát, nếu không sẽ nguy cho tánh mạng của em con lắm.”

Linh mục được biết hoàn cảnh nguy hiểm của tôi liền chấp nhận và nói rằng: Sáng mai từ lúc 5 giờ Cha sẽ chờ và sẵn sàng mở cửa sau khi các con tới. Chị tôi nay đã trên tám mươi và đã về hưu, còn vị Linh mục đã cứu giúp tôi không rõ còn sống hay không?
Lúc bấy giờ tôi còn quá yếu, mặc dù bà chị và vợ tôi dìu hai bên giúp tôi đi cho nhanh, nhưng tôi lê lết từ bước chân đi âm thầm, chậm rãi và thật hồi họp dưới ánh đèn lờ mờ vào khoảng gần 5 giờ sáng, lúc bệnh nhân còn ngủ nên không ai hay biết. Vừa đến cửa sau thì linh mục nhanh tay mở cửa ngay cho chúng tôi đi qua. Sau khi chúng tôi vào phòng khách của nhà dòng vợ tôi lập tức gọi xe Taxi chở thẳng về nhà ông bà ngoại của mấy cháu tại Chợ Lớn.

Thế là một lần nữa tôi được thoát khỏi gông cùm Cộng sản trong gang tấc. Tôi không quên ơn cháu BS Tùng hiện đang hành nghề tại thành phố Winnibeg, Canada, đã cứu sống tôi. Cám ơn bà BS M… và bà Y tá A… đã mật báo cho vợ chồng tôi biết trước những âm mưu của Cộng sản trong lúc tôi đang nằm điều trị. Những ơn nghĩa lớn lao này chúng tôi còn mang mãi trong lòng đến trọn đời.

Vừa về tới nhà cha mẹ vợ ở đường Trần Hoàng Quân thì cháu gái lớn của chúng tôi xuống nhà báo cho biết là bọn Công an đồn Quân trấn Thủ Ðức đến bao vây và xét nhà để tìm tôi. Bọn chúng hỏi cháu rằng tôi đã ra khỏi bệnh viện rồi, bây giờ ở đâu? Cháu đã được vợ tôi căn dặn trước là tôi sẽ trốn ra khỏi nhà thương nên cháu trả lời là không hay biết gì, vì hai tuần nay phải ở nhà trông nom các em nhỏ. Tên công an trưởng ra lịnh cho con tôi là sáng ngày hôm sau phải ra trình diện đồn Quân trấn Thủ Ðức.

Chúng tôi dư biết rằng bọn man rợ sẽ bắt giam con gái tôi để điều tra nên chúng tôi bảo sáu đứa nhỏ phải lén trốn khỏi nhà ở Thủ Ðức mà về ẩn náu tạm nơi nhà bà chị tôi ở Gia Ðịnh. Con gái lớn chúng tôi lúc đó mới được mười bốn tuổi cùng một cháu gái con của cựu Trung Tá Tiểng, Tỉnh trưởng Ban Mê Thuột, ở Cư xá Kiết Thiết giúp đỡ phải dẫn dắt năm em nhỏ âm thầm chạy trốn trong lúc trời còn mờ sương chưa sáng.

Sau đó vợ tôi đưa mấy cháu về Chợ Lớn sống nhờ với ông bà ngoại để vợ tôi rảnh tay mà đối phó với tình hình vô cùng nguy hiểm của tôi. Chú Thím Châu còn nhớ ơn của cháu Trang đã không ngại nguy hiểm để lo cho mấy em được an toàn.

Tôi ngẫm nghĩ lại chế độ Tự do của miền Nam chúng ta quá rộng lượng và quảng đại. Trong thời gian tôi làm Quận trưởng, từ cơ quan Chính quyền đến Quân đội, anh em chúng tôi không bao giờ khuấy nhiễu hay hành hạ thể xác hoặc tinh thần của gia đình bọn Việt Cộng địa phương đang nằm trong lòng bàn tay quyền lực của chúng tôi. Nếu thế cờ Quốc tế đảo ngược lại, miền Nam thắng và chế độ Cộng sản sụp đổ, chúng ta sẽ đối xử chúng với khí thế quân tử của đại trượng phu. Miền Bắc sẽ không phải là một trại tù khổng lồ như miền Nam sau 30 tháng 4 năm 1975. Bọn Cộng sản chúng nó thật là quân hèn hạ và vô liêm sỉ!
Tôi còn nhớ trong thời gian tôi làm Quận trưởng Dĩ An, có một bà vợ bé của tên Tướng Việt Cộng Ðào Sơn Tây được chúng tôi để sống rất bình yên trước Bộ Chỉ Huy Quận của chúng tôi. Tướng VC Ðào Sơn Tây này trước kia là Công nhân của sở Hỏa xa tại Dĩ An hồi thời Pháp thuộc.

Những ngày tháng buồn não nề trên gác trọ.
Sau khi trốn ra khỏi nhà thương, tôi tuyệt đối không tiếp xúc với bất cứ ai ngoài vợ tôi. Mỗi chiều tối vợ tôi phải lén lúc đến nơi tôi sống ẩn dật để tiếp tế. Trong người tôi chỉ có tờ giấy ra trại và giấy chứng nhận trình diện của đồn công an Thủ Ðức mà nay đã vô dụng rồi. Tôi phải dùng tờ giấy Chứng cử tri của em trai kế tôi. Nhờ trên hình của tờ giấy rất thô sơ không có đóng mộc, thành thử tôi chỉ thay tấm hình của tôi vào mà xài mỗi khi di chuyển hay đổi chỗ ở. Mỗi lần đi vượt biên cũng xài giấy Công nhân giả do bạn tôi chứng nhận tôi đi công tác sửa chữa máy đèn. Bây giờ nhớ lại cũng buồn cười là tôi chẳng có biết chút kinh nghiệm gì về việc sửa chữa máy đèn hay máy phát điện. Nhưng cũng nhờ bọn Công an ngu ngốc không biết hạch hỏi tôi hoặc là nếu chúng nó nhờ tôi sửa máy đèn thì tôi chẳng biết gì và sẽ bi lộ tẩy ngay là tôi xài giấy tờ giả mạo.

Trong hoàn cảnh tôi là tù vượt ngục ai cũng rất ngại ngùng sợ bị mang họa cho gia đình họ nếu tôi bị phát giác và bị chúng nó bắt lại. Sau hơn sáu tháng sống rày đây mai đó rồi tôi cũng liều mạng cứ trụ lại một chỗ tương đối kín đáo tại cư xá Lữ gia, Phú Thọ. Người chủ nhà là một Sĩ quan cấp bực Chuẩn úy bà con dám chứa chấp tôi ở luôn. Nhưng mỗi khi nghe tin Công an sẽ xét nhà tôi lập tức dời đi nơi khác. Có một lần ông chủ nhà toa rập với bọn Việt Cộng giữ kho sơn tẩu tán một số sơn bột của Mỹ và cất giấu trong nhà ông ta. Ðã nghèo lại mắc cái eo, nhận thấy tình hình nguy hiểm quá tôi phải dời đi nơi khác một thời gian vì sợ vụ buôn lậu bị bại lộ thì tôi cũng lộ mặt luôn.

Tôi sống âm thầm cô đơn trên từng gác trọ thật không khác nào kiếp sống tù, nhưng dù sao tôi cũng được no ấm hơn anh em còn kẹt lại trong các trại tù ngoài Yên Bái. Lúc bấy giờ tinh thần tôi bị khủng hoảng trầm trọng vì sợ bọn Cộng sản tìm ra tôi và bắt lại là đời tàn. Cứ vài ba tháng tôi lén lút về thăm các con đang sống nhờ nơi nhà ông bà ngoại mấy cháu. Có một đêm nhằm lúc tôi về, tên Công an Khu vực đến xét hộ khẩu, tôi phải thoát ra cửa sau ẩn trốn cạnh chuồng gà. Ôi! thật là nhục nhã cho cuộc đời lính bại trận.
Trong thời gian đó vợ tôi luôn tìm đường dẫn tôi vượt biển để bảo toàn tánh mạng. Trong hoàn cảnh trốn chui trốn nhủi tôi bắt buộc phải vượt biển đơn thân độc mã đi trước. Thật là đau đớn không khác nào ra đi mà bứt tim gan để lại vì không biết đến bao giờ mới gặp lại vợ con? Nhưng tôi quyết phải ra đi để tìm con đường sống rồi sẽ tính tới việc gia đình sau.

Mối căm thù này không phải chỉ của riêng tôi mà cũng là của biết bao nhiêu Chiến sĩ đồng đội của tôi trong cùng một hoàn cảnh. Tôi không bao giờ quên mối hận này được, cho nên mặc dù qua Mỹ đã lâu rồi và tôi rất thương nhớ Quê hương, nhớ vài anh chị em ruột thịt còn kẹt lại bên quê nhà, nhưng tôi thật sự không muốn trở về lúc này để nhìn thấy lại mặt mày bọn man ri, mọi rợ và tôi cũng không muốn thấy lá cờ máu hôi tanh của bọn chúng!

Xuân, Hạ, Thu, Ðông, đã mấy lần?
Sống kiếp lưu vong, buồn quốc hận!
Mong ngày nào trở về quê cũ.
Nước thanh bình, thỏa thích vui Xuân!?

(Trích bài thơ bốn Mùa Trên Quê Hương – N.M.Châu )

Sau hai lần ra Nha Trang mà chuyến đi không thành phải trở về. Lần thứ ba có chuyến vượt biển từ Cà Mau nhưng bị đình hoãn. Vợ chồng chúng tôi rất khổ sở vì chuyến đi bị đình hoãn nhiều ngày rồi lại bỏ cuộc, nên trong hai tuần lễ ăn ở chờ đợi đã hết tiền. Vợ tôi phải bán mấy bộ đồ chúng tôi mang theo để sống qua ngày, đến cuối cùng không còn gì để bán ngoài bộ đồ đang mặc. Thật là thất vọng vô cùng! vì chẳng quen biết ai nơi đây mà xin xỏ hay vay mượn tiền, và lúc này cuộc sống của mọi nhà đều rất khó khăn. Tôi nói đùa với vợ tôi rằng: không lẽ chúng mình bán hết cả bộ đồ đang mặc và mặc đồ tắm biển mà trở về Sàigòn hay sao? Chúng tôi chỉ còn đủ tiền đi quá giang xe chở gạo đến nhà thờ Phụng Hiệp, Cần Thơ, để xin tiền bà chị tôi lúc đó đã đổi về làm bà Nhứt tại một nhà dòng tu nhỏ nơi đây để xin tiền mới có đủ mà mua vé xe chợ đen về đến Saigon. Thật là khốn cùng!

Cứ mỗi lần đi không được tôi quá thất vọng và chán nản vì phải tiếp tục cuộc sống âm thầm lén lút trên gác trọ với bao nỗi lo âu! Muốn tìm mảnh đất Tự do để dung thân không phải là dễ dàng. Hai chữ “Tự Do” thật là quí giá vô cùng!

Vấn đề di chuyển vào những năm đó rất khó khăn vì xe đò bị kiểm soát và rất hạn chế. Trong những lần đi tìm đường vượt biển vợ chồng chúng tôi ngủ bến xe rất thường cũng như bao nhiêu hành khách phải nằm bến xe để dành ưu tiên “Đăng ký” mua vé, nếu chậm trễ là hết. Muốn di chuyển từ Saigon ra Nha Trang hay từ Sàigòn xuống tỉnh cũng phải vất vả như thế. Có những khi chúng tôi phải ngủ bờ ruộng hay ngủ gò mã vì không dám vào khách sạn dễ bị bọn Công an chú ý.
Tôi đã quen những cảnh ngủ bờ ngủ bụi gian khổ như thế này trong những năm chinh chiến, nhưng trong cái thế hào hùng của người của người lính trận đi hành quân diệt giặc. Bây giờ trong hoàn cảnh của một kẻ tù vượt ngục và vượt biển thật là nhục nhã ê chề. Tôi thật thương vợ tôi vô cùng, tội nghiệp và xót xa cho vợ tôi phải chịu cảnh vất vả, đắng cay như thế này!
Cuối cùng tôi đi được an toàn đến bờ biển Thái Lan trên một chiếc thuyền con chỉ dài hơn chín thước. Sau khi được tin tức của tôi từ đất Thái, vợ tôi đã yên tâm và rãnh tay tự một mình hướng dẫn và lèo lái chiếc ghe nhỏ dẫn dắt sáu đứa con thơ đến bờ biển Mã Lai bình yên vô sự.

Thật là một ơn phước lớn của Thượng đế đã ban cho gia đình chúng tôi! Thế là từ đây một thời hoạn nạn khốn khổ của gia đình đã qua. Chúng tôi cũng nghĩ rằng mưu sự tại nhân và thành sự tại Thiên. Chúng tôi rất mang ơn Thượng đế đã giúp gia đình chúng tôi được sớm đoàn tựu và đã ổn định cuộc sống nơi xứ người.

Nhưng ngày nay lại rủi thay! với hoàn cảnh hiện tại tôi không hiểu rằng khi đất nước thật sự được Thanh bình và tự do dân chủ tôi có thể trở về lại quê nhà được không?!

Tôi xin ghi vài dòng thơ đơn giản nói lên một ước mơ ngày về thăm quê hương.

Nếu Tôi Về…
Nếu về, tôi xuống miền quê Cao Lãnh.
Viếng mồ cha mả mẹ ngủ thiên thu.
Ði trên đường đê, tìm ngôi trường cũ.
Thăm lớp học vỡ lòng thời thơ ấu.
Nếu về, tôi thăm Trà Vinh yêu dấu.
Nhớ lại một thời thiếu niên lận đận.
Sống đời côi cút, sống cảnh cơ bần.
Lao động, học hành, mong được tiến thân.
Nếu về, tôi thăm Gia định, người thân.
Tạ ơn anh, nuôi tôi sống an lành,
Nhớ chị, thay mẹ dạy dỗ thành danh.
Có một hành trang cho đời khôn lớn.
Nếu về, tôi thăm đồi Tăng Nhơn Phú.
Nơi đây được rèn binh thư, võ luyện.
Giúp tôi trở thành một người lính chiến.
Giữ yên bờ cõi, giữ vững giang san.
Nếu về, thăm vùng chinh chiến gian nan.
Tìm lại vết tích một thời oanh liệt.
Tìm kỷ niệm vui buồn đời lính chiến.
Và nhìn lại những danh lam thắng cảnh.
Nếu về, tôi đến Dĩ An đất lành.
Thăm các Chiến sĩ địa phương anh dũng.
Ðã cùng tôi diệt Cộng phỉ nằm vùng.
Gặp đồng bào, thăm xóm làng thân ái.
Nếu về, tôi sẽ lên miền Yên Bái.
Thăm bạn tù nằm giữa núi hoang vu.
Nơi bọn dã thú đày ải người tù.
Chỉ vì cái tội giúp dân cứu nước.
Nếu về, tôi đến Nghĩa Trang Quân Ðội.
Tìm lại hình bóng Pho Tượng Tiếc Thương.
Thăm những đồng đội gục ngã chiến trường.
Tưởng niệm anh hùng bỏ mình vì nước.
Những điều tôi muốn chỉ là mộng ước.
Vết đạn thù làm đời tôi nghiệt ngã.
Xe lăn bánh mỏi mòn trên đất lạ.
Chỉ mong ngày về trong đống tro tàn!
Nguyễn Minh Châu
https://khoa28tvbqgvn.com/nguoi-tu-cai-tao-ve-tu-yen-bai/

 
Chia sẻ câu chuyện lòng của một người sĩ quan Quân Đội VNCH, cựu tù “ cải tạo “  sau 1975 …
 
Nhìn tuyết rơi mà nhớ bao chuyện xưa!… Có những ân tình thấm đậm ruột gan và bao chuyện đời, vừa cười thầm vừa ứa nước mắt!

    Nhớ thương cậu Khuê của tôi!
Cả một đời vẫn không bao giờ quên được tình cảm của gia đình cậu mợ Khuê và các anh chị đã dành cho thằng cháu rễ, dù chỉ là bà con bên vợ nhưng cả nhà đã ưu ái thương yêu tôi như ruột thịt đã an ủi tôi rất nhiều trong suốt thời gian khốn khó ở vùng KTM Phạm v Hai ...

    Cậu tôi mất chừng một năm rưởi thì gia đình tôi đi HO qua Mỹ, đến hôm nay đã 29 năm, mỗi lẩn nhớ tới cậu là tôi lại muốn ứa nước mắt và bây giờ thì tôi đang khóc thầm khi viết về cậu giữa đêm khuya... cũng thấy bớt nhớ khi mình hồi tưởng và có cảm giác như được sống lại với bao dĩ vãng, vẫn như được nghe, được thấy, được trò chuyện với người mình thương yêu...

     Hai cậu cháu hai chiếc xe đạp cà tàng, người trước người sau, cậu đã trên 60 mập người nên đạp chậm như đi bộ qua nhiều đường phố mà tôi ở KTM lên chẵng biết là đang ở nơi đâu, đến chỗ một con hẻm có nhiều bàn đánh máy chữ, nhiều người ngồi thành một dãy dài, cậu Khuê dẫn tôi đi làm giấy tờ hồ sơ xuất cảnh và chỉ nay mai trở thành Việt kiều, ấy vậy mà hiện tại tôi chỉ có cái bị rết và bộ đồ rách bươm, nói đúng hơn là một tên nhà quê chính hiệu sắp được đi Mỹ diện HO, một giấc mơ lớn của bao người có nhiều tiền nhiều của. Đời là thế nhưng lúc bấy giờ tôi chả suy nghĩ gì hết, tuy nhiên viết đến đây tôi lại nhớ tới một chuyện cười mà nước mắt chực ứa ra ! có một lần tôi đứng lớ ngớ bên chiếc xe đẩy bán thuốc lá, một tay tôi xách chiếc bị rết ( đan bằng lát) đựng giấy tờ , nghiêng người đọc thông báo viết trên tấm bảng đen to đặt ngoài cửa phòng dịch vụ xuất cảnh, cũng do sợ mất chiếc xe đạp mà mắt cứ lấm lét không dám rời ra xa. Bất ngờ một đứa con gái chỉ lớn hơn con gái đầu tôi vài tuổi chụp lấy cái bị rết của tôi thò tay lục đồ, tôi đớ người chưa hiểu chuyện chi xảy ra thì con bé tru tréo lên    
   - Rình ăn cắp thuốc hở ? nhìn bộ mặt là biết gian! hôm qua tao đã bị mất một cây thuốc! 

    Úi Trời ! tôi không một chút  phản ứng chỉ nhủ thầm “ mình trông giống thằng ăn cắp sao !?”, Lúc bây giờ có mấy ông đứng chung quanh rất đông nhưng không ai can thiệp dù họ nhìn là nhận ra ngay dân “ cải tạo” thứ thiệt, chỉ khác là họ cũng khổ nhưng còn được ở thành phố, còn tôi từ vùng kinh tế mới lên, xem ra hình như họ sợ bị bẻ mặt lây nên chỉ ghé tai tôi nói khẻ “ ai biểu ông ăn mặc lôi thôi qúa !”. Tôi thầm cười vì nhục thì cũng đã từng bị nhục nhiều rồi! sá chi thêm một chuyện, quen sợ dạ lạ sợ áo quần này.Tôi chỉ cảm thấy tội nghiệp cho con bé !

    Giấy tờ đã đánh máy xong và cậu Khuê cũng đã trả tiền hồi nào tôi chẵng hay. Tôi đang đếm tiền hỏi bao nhiêu thì cậu ra dấu biểu cất đi và nói khẻ “ chuyện nhỏ”. Hai cậu cháu tiếp tục tới phòng xuất cảnh rồi trong lúc đứng chờ tôi nộp đơn, tình cờ cậu gặp một số bạn quen hỏi chuyện, tôi nghe cậu tôi trả lời tĩnh rót “ À! nạp đơn xuất cảnh đi HO! “ mấy người kia tưởng thật chúc mừng, cậu nheo mắt như hãnh diện thay cho tôi và tôi cử nhớ hình ảnh mà thương cậu hoài!...

    Thật trớ trêu! Ai ngờ cậu giởn chơi mà thành thiệt! cậu của tôi đã vĩnh viễn ra đi... đã từ giã cuộc đời trước khi tôi từ giã Quê hương!..  cứ nhớ mãi cái dáng mập mạp vui vẻ dễ dãi hay đùa cợt của cậu, dù sống dưới chế độ cọng sản kinh tế eo hẹp ai cũng bương bã nhưng nhờ mợ và các anh chị qúa giỏi, cậu không phải lo lắng chi hết, cậu hay nhìn tôi trìu mến lẫn ái ngại, cậu vừa thở ra vừa tự khoe như ngầm so sánh phần số giữa cậu và tôi để mà thương cảm, cậu nói  “ Phiếu biết không? cuộc đời cậu từ khi sanh ra tới chừ chưa nấu cơm lần mô hết! muốn ăn món chi cứ hô lên, vài giờ sau là có ngay “ cậu Khuê ơi! Con đang trách cậu đó, sướng như rứa mà không chịu sống để enjoy! bỏ ra đi đành đoạn...

    Dù ở tuổi 60 đang ăn ngon ngủ ngon phơi phới tự nhiên ngày mỗi giảm cân ngươi teo nhỏ dần, đang giữa bửa cơm tự nhiên bỏ đủa khóc mểu máo như trẻ con, tôi nhìn và hiểu hết tâm can cậu, ông Trời qúa oan nghiệt! cậu đang bị ung thư máu mãn tính, không thể chạy chửa, hồng huyểt cầu vơi dần.

    cậu ăn rất ít, chủ yếu là uống sữa tươi và trong nhà luôn mua bỏ tủ lạnh chỉ để dành riêng cho cậu, vậy mà bất cứ lần nào tôi ghé thăm, thấy bóng tôi vừa bước vô là cậu thoáng chút vui, cậu nói như reo “À! Phiếu lên!” vậy là cậu đứng dậy tự tay rót cho tôi ly sữa tươi đầy( qúy lắm) và mười lần như chục sau đó cậu lại nhìn tôi nước mắt tươm ra cùng câu nói “ nhớ! nhớ ôn qúa !”( ba của cậu) “tôi không biết tại sao cậu nói với tôi mãi câu này và không biểt cậu có chia sẻ với ai khác ?

    Thế rồi chiều mồng bốn âm lịch, tôi còn nhớ qua hôm sau là ăn lễ mồng năm, Tôi ghé thăm lần này cũng như mọi khi, được cậu tự tay pha cho một ly sữa tươi, nhưng hôm nay cậu không nói chi hết, mặt buồn mà tâm lại tĩnh táo lạ thường không mếu máo như những lần trước, và rồi suốt đêm hôm đó không hiểu sao tôi cũng không ngủ được nằm nhìn qua mùng ( cậu không thấy tôi và tưởng tôi đã ngủ) cậu cũng vậy không đi nằm, tôi thấy cậu ngồi quay mặt ra cửa sổ giữa đêm khuya ho húng hắng thở dốc, và hình ảnh này đã ám ảnh tôi suốt mấy mươi năm và ngay cả lúc tôi đang viết tâm sự này đây. Ai xui chi tôi đã không dậy ngồi bên cậu đêm cuối cùng! tôi cứ nghĩ và ân hận mãi!.. 

    Sáng ra tôi thấy cậu Khuê ngồi không vững nơi ghế, người run run yếu hẵn và nói hết nổi, vậy mà cậu vẫn nhép miệng ra dấu mời tôi ra quán trước đường uống cà phê, tôi rất ái ngại nhưng vẫn gật đầu chìu lòng để cậu vui, tôi tới định dìu mà cậu cứ khoát tay “ chờ chút mợ mi đưa tiền “ tôi nói con có tiền mà, cậu làm như không nghe cứ ngồi chờ mợ tôi từ dưới bếp lên đưa tiền mới chịu.

      Chỉ một đoạn ngắn mà cả tôi và mợ phải dìu hai bên, cậu chỉ còn như cái xác bước đi nhưng phần hồn tĩnh táo đến lạ lùng! cậu còn đòi mua vé số và cho tôi một tấm, tới nơi chủ tiệm cà phê đón tại cửa và lấy ghế dựa rồi phụ với tôi đặt cậu ngồi xuống, ly cà phê sáng hôm đó tôi chỉ nhắp môi cho có lệ còn ly của cậu hoàn toàn không đụng tới !  Trả tiền cà phê xong cậu biểu nhắn chị Nhơn đem xích lô tới đưa cậu và tôi đến tiệm phở ngon nhất (dù sát bên cũng có nhưng cậu không chịu ) khi hai tô phở gà được bưng ra cậu còn chê bán mắc ít thịt, mặc dù hôm đó cậu của tôi cầm chiếc muỗng cũng không cầm nỗi nói chi ăn! Phãi chăng đây là ly cà phê và tô phở cuối cùng hai cậu cháu bên nhau, mà cậu tôi muốn suốt cuộc đời của tôi sau này đừng bao giờ quên cậu!

    Qua hôm sau thì cậu của tôi đã đi vào hôn mê trong bệnh viện và chỉ chuyền nước biển cho tới chiều mồng 7 âm lịch tôi có giờ dạy một lớp anh văn ở Cầu Xáng, tự nhiên thấy nóng ruột qúa nên cho học trò nghỉ học, tôi hối hả đạp xe lên Sài Gòn vừa đúng lúc cậu của tôi đã được đưa về nhà   và đang hấp hối, có quay phim đầy đủ vợ con người thân đứng vây quanh tiễn biệt !...

     Đã 29 năm trôi qua, lúc nào tôi cũng buồn cũng nhớ! nhưng hy vọng cậu thân yêu của tôi đã được gặp và đang kề cận bên ôn mệ Ngoại, cũng an ủi và ấm lòng khi nghĩ rẳng điều ước mong của cậu đã được toại nguyện ...
Thật nhớ thương cậu Trương v Khuê của tôi!…
 
 
Quãng Trị là một tĩnh địa đầu giới tuyến, Cổ Thành đã từng bị cọng sản chiếm cứ một thời gian năm 1972 , nhưng chuyện gì đã xảy ra sau ngày gọi là “ giải phóng “ 1975…

Có những câu chuyện thật xảy ra ở đời thường, đọc xong cảm động quá cứ muốn khóc một trận cho đã nư! mà đã bước qua thất thập rổi, nước mắt cũng không có nhiều nữa để mà khóc !

    Tôi vừa đọc xong một câu chuyện thật cảm động , rồi lại nhớ chuyện ân tình xưa cách đây đúng 44 năm, thời gian tôi còn ở trong trại tù “ cải tạo” Ái Tử Quãng Trị … Khoãng năm 78 tôi và Dương v Ân, hai cựu sĩ quan miền nam bị VC cầm tù, đang bụng đói xẹp lép đứng lơ ngơ bên bờ sông An Mô thuộc tĩnh Quãng Trị lúc hai thằng thi hành công tác gánh nhu yếu phẩm ra bến đò tiếp ứng cho bạn tù làm ruộng muối ở Cửa Việt.

    Có một “ bà mẹ quê “ lam lũ, đi chân đất, áo dài bạc màu đầy chổ vá, chiếc nón lá đội trên đầu rách toe, mẹ trên đường đi chợ về và trong chiếc rố kẹp nách chỉ có rau muống, rau lang, mẹ dừng lại trước mặt hai thằng con xa lạ, mẹ mở cạp quần lấy ra hai tờ giấy bạc Bắc 1 đồng, dúi vào tay đứa 1 tờ rồi nhanh chóng quay lưng ( chợ nhỏ sát mé sông) Tôi đứng trơ người không một phản ứng, không kịp nói một tiếng cám ơn, nhìn dáng “ thím “ thoăn thoắt bước ra đường lộ... 44 năm đã qua rồi trong đời, tôi vẫn mãi in dấu hình bóng và khung cảnh năm xưa... 

    Thím ni chừ ở nơi mô thím ơi ! Lạy Trời cho tôi một chữ duyên để được biết tin !..
Phieu Le
 
MỘT BÀ GIÀ QUẢNG NAM XƯA!
 🔸THÍ LÊ | Quảng Nam Online
Khoảng năm 1981-1982, đời sống giáo viên cực kỳ khó khăn. Tôi quyết định đi xe đạp thồ để có tiền mua sữa cho con. Chiếc xe đạp để đi dạy hàng ngày được bổ sung thêm cái giỏ phía trước và cái yên nệm mút phía sau poóc ba-ga cho khách ngồi… êm đít!

Mỗi sáng cứ 5h là tôi ra đứng trước kiệt 7 Hoàng Diệu (Đà Nẵng) để chờ khách. Khi trời bắt đầu sáng thì bỏ đường Hoàng Diệu - nơi gần trường đang dạy, rất dễ gặp học trò - chạy xuống đường Lý Tự Trọng hoặc Trần Cao Vân đứng đón khách. Có khách hay không thì 10h30 phải quay về nấu cơm ăn để chiều… lên lớp.
Một buổi sáng đang bon bon trên đường Trần Cao Vân trước chợ Lầu Đèn, chạy về nhà chuẩn bị đi dạy, thì có một bà cụ dáng rất nhà quê đón xe. Vừa mừng vừa lo. Mừng vì được một cuốc xe có thêm tiền. Lo vì sợ khách đi xa không về ăn cơm kịp để 12h30 vào dạy tiết 1. Tôi phanh xe và hỏi:
- Cụ đi mô.
Bà cụ nói:
- Đây xuống bến xe Vĩnh Trung mi lấy mấy?
Thấy tuyến đường trùng với lộ trình về nhà của mình nên tôi nói:
- Đúng giá là một đồng rưỡi. Còn chừ cụ cho mấy cũng được, cụ không có tiền thì con chở giúp cụ một đoạn, con đang trên đường về.
Bà cụ cười giơ hàm răng toàn… lợi và nói:
- Thằng ni đi thồ mà nói nghe vui hỉ!
Nói xong bà cụ cúi xuống cầm đôi dép lào đã mòn lín. Hai cái gót đã thủng hai lỗ lớn bằng đồng bạc cào lưng. Cụ bỏ đôi dép vào giỏ xe của tôi và nói:
- Xuống bến xe mi nhớ nhắc tau lấy đôi dép ni chớ không phải mi đợi tau quên rồi lấy luôn nghe chưa!
Tôi cười bảo:
- Cụ yên tâm. Con không mang dép bằng tay nên không lấy đôi dép ni mô!
Lên xe chuyện qua chuyện lại mới biết bà ở Thanh Quýt (Điện Bàn) ra thăm, mang cho con trai đang làm công nhân ở cảng một ang gạo vì nghe nói gạo mua tiêu chuẩn ăn không đủ, bữa nào cũng chỉ lưng bụng mà đi làm. Còn bà thì biết tôi là thầy giáo cấp 3 đi xe thồ thêm ngoài giờ để mua sữa cho con. Nghe hoàn cảnh của nhau, cả hai bà cháu đều im lặng. Một chặp tôi nghe bà ngồi sau chép miệng rồi nói:
- Răng ai cũng khổ hết trơn ri hè!
Đến bến xe Vĩnh Trung, tôi quay lại dặn:
- Cụ ngồi im, đừng lo, để con tìm xe Vĩnh Điện cho cụ đi. Bến xe đông sợ cụ tìm không ra.
Tìm được xe đi Vĩnh Điện, tôi phanh xe đạp và nói với cụ:
- Cụ nhớ lấy đôi dép. Con chở hộ cụ một đoạn thôi không lấy tiền.
Bà trả lời:
- Thằng ni nói nghe được. Tau không trả tiền xe nhưng chờ tau một xí.
Vừa nói cụ vừa lật lớp áo ngoài rồi mở cây ghim túi áo trong và lấy ra 3 đồng, đưa cho tôi.
Tôi nói:
- Con nói rồi. Con chở giùm không lấy tiền xe.
Cụ bảo:
- Tau cũng không trả tiền xe. Tau cũng không cho mi. Mi có chưn có tay, có sức dài vai rộng mi làm mi ăn. Tiền ni tau gửi mi đem về mua sữa cho cháu tau. Mi không lấy tau la làng là mi móc túi của tau. Răng? Nhận đi con, cho bà vui.

Nói xong cụ nhét tiền vào túi áo của tôi rồi cắp nách đôi dép lào đã mòn gót leo lên xe.
Lần đó tôi đứng khóc một mình giữa bến xe Vĩnh Trung cho đến khi chuyến xe đò rời bến… chạy khuất!
Bà ơi. Bà đang ở cõi nào?

Nay con có thể viết những bài báo nhận nhuận bút. Đứa cháu nhỏ thời đó nay đã là tiến sĩ làm giảng viên của một trường đại học danh tiếng. Nhưng có lẽ, cho đến lúc chia tay cuộc đời này con vẫn còn nợ bà… một hộp sữa!
THÍ LÊ / Quảng Nam Online
   Bao Nguyen Quang ST
 
16. Võ Bị trong Tù Cộng Sản
(Tango Bui chuyển)
Tôi chưa thấy câu chuyện nào ở tù vì cộng sản VN, mà anh em VB hại anh em VB cả. 

Bạn Giang thân, Tôi xin kể một câu chuyện xảy ra tại trại Xuân Phước vào năm 1980. 
 
Lúc đó tinh thần tranh đấu và chống đối của các tù nhân trong các trại đều dâng cao,để dập tắt phong trào này chúng đã lập ra các Trại Trừng Giới là nơi tập trung những tay sừng sỏ,bất trị nhất thì trại Xuân Phước là một nơi quy tụ các thành phần này từ các trại Z30A, Z30D, Z30C và từ Khám Chí Hòa với số SQ nổi loạn đêm Giáng Sinh 1979 và tổ chức đánh anten tại Suối Máu. Khi các nơi tập trung lại sinh hoạt làm quen và tìm hiểu nhau, ai tốt ai xấu.

Qua đó thì tôi được biết tới một nhân vật từ trại Z30D chuyển lên, anh tên Nguyễn Khắc Quang,chỉ nghe đồn chứ chưa hề chứng kiến tận mắt, rằng anh có vài thành tích ở trại cũ như báo cáo, anten hoặc ít hòa đồng với mọi người, họ nói anh là một cựu Đ/U Nhảy Dù bị thương ở chân đi cà nhắc, ai cũng tránh xa không muốn dây dưa với anh, họ gọi anh là Quang (Què) và đặt biệt danh là TAM CÀ (Cà Lâm, Cà Thọt, Cà Chớn) cũng như mọi người tôi tránh tiếp xúc với anh,tuy từ ngày nhập trại đến giờ tôi chưa thấy anh biểu hiện một vấn đề gì cả,anh sống thui thủi một mình. Thường buổi trưa trời nóng tụi tôi hay ra ngồi hiên ăn cho mát, có cả anh nữa, trong khi ăn một người bạn cùng trại tù cũ Z30D với anh thầm thì:"Hình như anh ta cũng Đà Lạt đó"

Nghe xong tôi cảm thấy "nhói" trong tim,một lúc chịu không nổi tôi tiến tới chỗ anh và hỏi:"Anh Quang, nghe nói anh cũng Đà Lạt hả?"
Anh nhìn tôi cười và nói nhỏ:"Để lát nữa mình sẽ nói chuyện".

Đợi ăn uống xong xuôi tôi lại gặp anh,anh xác nhận với tôi là đúng,anh có gia nhập Khóa 24,nhưng chì trong giai đoạn Tân KS, vì sức khỏe kém nên đã nằm trong "Phái đoàn thiện chí" sau đó bị loại và đi Thủ Đức, qua những sự việc anh kể khi trong trường tôi thấy cũng hợp lý, nhưng phải công nhận một điều từ ngày tập trung về đây cho dến khi ra trại, tôi chưa hề thấy anh gây sự, va chạm hay có vấn đề với bất cứ một Cùi Alpha nào cả, điều đó khiến tôi không cò ác cảm với anh nữa. Như vậy ý nghĩa:"Một Ngày Võ Bị, Cả Đời Võ Bị", tinh thần đó cũng đã được thể hiện qua thời gian lao tù cs.
Trung Điên

* trunguyen1208@gmail.com:
    Câu chuyện nầy tôi đã đọc một lần. Nay đọc lại vẫn còn cảm động.
    Tập thể nào cũng có những cái hay cái dở. Tuy nhiên, chúng ta phải thấy rằng tập thể VB mình sau ngày 30/4/1975, dù có người gốc VB mà đi theo cộng sản VN (dù bất cứ lý do gì) thì số người nầy không hại những anh em VB mà không theo cộng sản. Và cái hay nữa là vẫn giữ cái tình VB rất đúng nghĩa.
    Tôi chưa thấy câu chuyện nào ở tù vì cộng sản VN, mà anh em VB hại anh em VB cả.
    Giang London

* http://k25tvbqgvn.blogspot.com/
".....Tôi cũng gặp ĐỖ VI TÂN, thằng bạn cùng khóa, bây giờ nó là xếp Trung Tâm Tín Dụng Mỹ Phước, Long Xuyên, có rất nhiều chi nhánh. Hiện Tân còn đang đầu tư một cơ sở nuôi yến sào.
Do nhu cầu sinh hoạt, một hôm tôi đến một chi nhánh tín dụng gần nhà vay 12 triệu, nhân viên tại đây xem xét giấy tờ rồi hẹn ba ngày sau sẽ cho biết kết quả. Gọi báo cho Tân hay thì nó bảo: “mày chờ đó , tao vào ngay”.

Đích thân hai vợ chồng Tân lái xe từ Long Xuyên vào tận chi nhánh và giao ngay cho tôi 12 triệu 
tiền mặt, không khấu trừ trước tiền lãi suất như thông lệ và cũng không ký giấy tờ gì hết. Tân chỉ cầm sổ đỏ làm bằng mà thôi.

Khi đáo hạn hoàn trả, nhân viên chi nhánh không tìm thấy hồ sơ vay nợ hay sổ đỏ của tôi. Hỏi ra mới biết, Tân giử sổ đỏ tại trụ sở chánh của Tân như một vật lưu niệm mà thôi.
Tình bạn khóa 25 là vậy đó......"

Viết theo lời kể của CSVSQ Nguyễn văn Bé (Bự)
ĐỖ NGỌC CHÂU
ThangNguyen K25



Năm 1981, khi tôi còn bị giam trong trại cải tạo Z30C Hàm Tân, Thuận- Hải, cứ vào buổi chiều, tôi cùng vài anh bạn tù lại ngồi quây quần bên nhau trên sạp xi măng, nhâm nhi từng ngụm cà phê chế bằng cơm cháy, ôn lại chuyện đời cho nhau nghe.
Hầu như bữa nào cũng vậy, dù trời tạnh ráo hay mưa bão dầm dề, thế nào chúng tôi cũng được nghe tiếng guitar thánh thót của một nhạc sĩ tay ngang Cựu Thiếu Tá Hồ Văn Hùng, gốc Cảnh-Sát Quốc-Gia và tiếng ca trầm buồn ảo não của chàng ca sĩ ngang xương Cựu Thiếu Úy Nguyễn Văn Vinh gốc Biệt Cách Nhảy Dù.

Chúng tôi mất nước đã gần chục năm, xa nhà cũng đã gần chục năm, nên những lời buồn thảm, bi ai: “Tìm đâu những ngày thơ ấu qua…”- “Những ngày xưa thân ái, xin trả lại cho ai…” vừa cất lên, thì người đàn, người hát, người nghe cùng chạnh lòng, nhớ mẹ, nhớ cha, nhớ vợ, nhớ con, nhớ bạn bè, nhớ xóm giềng, và nhớ quê hương.

Anh nhạc sĩ Hồ Văn Hùng, xưa kia là Cảnh- Sát tỉnh Hậu-Nghĩa; nay bị giam cùng buồng, cùng đội lao động với tôi. Anh thuộc nhiều bài hát lắm. Tôi xin anh chép lại cho tôi trọn bộ lời Pháp của bài “Chanson d’Orphée”

Anh ta chỉ cần dạo nhạc cho tôi đôi lần, là tôi đã thuộc nhập tâm bài hát này ngay. Trong bài ca ấy, tôi thích nhất câu “Le ciel a choisi mon pays. Pour faire un nouveau paradis” (Thượng Ðế đã chọn quê hương tôi để dựng lên một Tân Thiên Ðường)
Ngày xưa Thượng Ðế đã ban cho tôi một Thiên Ðường, mà tôi lại vô tình không nhận ra, đó là đất nước Việt-Nam Cộng-Hòa. Năm 1975 Thiên Ðường của tôi đã không còn nữa.

Một năm sau ngày được thả, đầu Thu 1989 tôi gặp lại Hồ Văn Hùng trước một sạp báo cạnh nhà thương Sùng Chính, Chợ- Lớn. Khu này quy tụ khá nhiều dân gốc “Ngụy”: Một sạp báo do anh cựu nhân viên Phủ Ðặc Ủy Trung Ương Tình Báo làm chủ, một thợ hớt tóc là cựu Hải quân Thiếu úy, kế đó là một ông già mài dao, mài kéo, xưa kia làm tới Phó Quận xuất thân từ trường Quốc-Gia Hành-Chánh.

Anh chủ sạp báo là bạn tù tôi quen trong thời gian bị giam giữ ở Z 30 D. Vì làm bạn với anh chủ sạp báo, nên dần dà tôi quen “lây” sang hai ông “Ngụy” kế bên. Lâu lâu tôi ghé chơi, thấy tóc tôi dài, ông Hải quân lại đè đầu tôi xuống hớt tóc giùm, không lấy đồng bạc nào.

Thấy yên sau xe đạp của Hùng chất đầy sách vở, tôi hỏi anh làm nghề quái quỷ gì mà nhiều sách thế thì anh vênh mặt lên,
– Tớ đi dạy.
– Dạy nhạc hả?
– Nhạc gì?
– Thì nhạc Việt, tân nhạc… hồi còn trong trại tù cậu và thằng Vinh Biệt Cách hay hát cho tớ nghe…
Hùng xua tay, lắc đầu quầy quậy,
– Tớ có biết nhạc với nhiếc con mẹ gì đâu? Guitar tớ học lóm, chẳng có thầy bà nào dạy cả! Nhạc lý, nhạc Pháp cũng làng nhàng. Hiện giờ tớ đi dạy Anh Văn!
Tôi nghi ngờ vặn lại,
– Anh Văn của cậu cỡ nào mà dám đi dạy?
Hùng cười hì hì,
– Ối trời ơi! Sao cậu ngây thơ thế? Bộ suốt đời lính không lúc nào cậu bị ở vào cái thế lang bang, không chức vụ hả? Cứ lang bang không chức vụ là được gởi đi học. Tớ biết khối thằng có đầy bằng cấp chuyên môn chỉ vì lý do không có chức vụ trong đơn vị nên cứ có lớp là bị tống đi học. Hồi xưa, lúc còn lang bang không chức vụ, tớ có dịp được đề cử theo học một khóa Anh Văn, rồi lại bị đưa đi học tu nghiệp ở Mã-Lai. Năm ngoái ra khỏi tù cải tạo, tớ kiếm hoài không ra việc, tưởng là phải chết đói. Ai ngờ gặp đúng lúc đổi đời, nhà nhà học Anh Văn, người người học Anh Văn. Tớ vội ôn lại văn phạm vài ngày là đi dạy kiếm cơm được rồi. Cả khu phố của tớ đều mù, tớ là thằng chột. Xứ mù, thằng chột làm vua! Tớ đếch cần làm vua, chỉ cần gạo thôi…

Tôi không phục cái ngai vàng trên nước mù và chột của người bạn thời đi tù cải tạo này, nhưng tôi thích tiếng đàn guitar của anh, thích giọng ca của Nguyễn Văn Vinh mà tôi đã được nghe trong những chiều buồn nơi lán trại của Z 30 C, Hàm-Tân năm nào.
Tôi kéo Hùng ngồi xuống bên bàn cờ tướng của ông thợ hớt tóc. Tôi giới thiệu Hùng với hai ông bạn “Ngụy” của tôi. Ông Hải quân mời Hùng uống trà; ông Ðốc Sự cũng xúm vào góp chuyện. Hùng là người Huế, ông Ðốc Sự cũng là dân Huế; chỉ vài phút sau hai ông đã ra chiều tương đắc.

Thấy trên tường có treo cây guitar của ông thợ hớt tóc, bên cạnh là cây đờn cò của ông mài dao kéo, giáo sư Hùng gật gù,
– Các cha ở đây có cả Tân, Cổ giao duyên vui quá há?
Nghe Hùng nói, tôi chợt nhớ chuyện xưa, nên cầm tay Hùng tôi khẩn khoản yêu cầu anh hát lại khúc “Những ngày thơ mộng” của Hoàng Thi Thơ cho tôi nghe.
Chiều ý tôi, ông giáo sư Anh Văn bỏ nón xuống bàn cờ tướng, ông uống cạn ly trà móc câu, ôm cây guitar kê lên đùi, so dây, lấy giọng, rồi bắt đầu: “Tìm đâu những ngày thơ ấu qua? Tìm đâu những ngày xanh như mộng?…

Khi Hùng vừa xuống giọng câu chót: “Tìm đâu? Biết tìm đâu? đâu giờ…” thì anh bắt ngay qua “Matin, fait lever le soleil…” (Buổi sáng, mặt trời lên…) của bài hát tiếng Tây “Chanson d’Orphée”

Hứng chí, ông thợ mài dao ôm cây đờn cò “í!a! í!a!…” phụ họa, còn ông thợ hớt tóc thì hai tay thủ hai cái giũa sắt múa “cạch! cạch! cành! cành!…” trên thành cái chậu nhôm chứa nước như một tay trống điêu luyện, lành nghề.

Người qua đường dừng lại mua báo, khách của bác thợ mài dao, khách của bác thợ hớt tóc đứng ngây nghe các bạn tôi đàn hát. Tiếng hát não nuột, tiếng guitar réo rắt, tiếng trống sắt rộn ràng, và tiếng đờn cò nức nở làm cho lá vàng rơi tới tấp trên đường Trần Hưng Ðạo một chiều Thu năm 1989. Mấy bé con tan trường từ một lớp tiểu học gần đó xì xào với nhau: “Nhạc vàng, nhạc ngoại, hay quá trời, lại nghe coi tụi bây ơi!”
Sau khi chấm dứt câu cuối, “Chante chante mon coeur. La chanson du matin. Dans la joie de la vie qui revient…”
(Hát lên, hát lên trái tim tôi. Bài hát của buổi mai. Trong niềm vui vừa trở lại…) thì Hùng chợt hốt hoảng la toáng lên,
– Ủa chi rứa? Bà con làm chi rứa?
Thì ra… bà con qua đường tưởng bốn thằng tôi là gánh hát dạo, họ bỏ tiền vào cái nón của giáo sư Hùng, cái nón nằm ngửa trên bàn!… cái nón đầy tiền loại 20 đồng màu tim tím…

Bốn anh cựu quân, cán, chính, Việt-Nam Cộng-Hòa nhìn nhau, miệng mếu xệch.

Mười bốn năm sau khi Miền Nam sụp đổ, hàng trăm ngàn cựu tù cải tạo đã lẫn vào và như đã biến mất trong cái xã hội hỗn mang, hạ cám thượng vàng. Họ chìm vào giòng đời dưới những bộ mã khác nhau: Ông Thiếu Úy Hải quân thành ông thợ hớt tóc; ông Thiếu Tá Cảnh Sát thành ông thầy dạy Anh Văn lưu động; ông Phó Quận Hành Chánh thành ông mài dao kéo; nhưng cái giá trị nhân bản tiềm ẩn trong con người họ vẫn còn đó. Trái tim họ vẫn không ngủ quên.

Cũng như trăm ngàn đồng ngũ Việt-Nam Cộng-Hòa khác, ngày về của tôi cũng là ngày đầu một cuộc sống mới, đầy ngỡ ngàng. Sau đó, tôi cũng từ từ lẫn vào, và biến mất trong dòng chảy của một xã hội hạ cám, thượng vàng. Tôi bắt đầu xây lại cuộc đời với một chiếc xe đạp thồ.

Cái xe đạp thồ của tôi quả là một con ngựa đa năng, đa dụng. Nó chẳng đòi ăn, đòi uống, nghỉ ngơi, giải trí, chuyện trò gì. Tôi chất bất cứ vật gì lên lưng nó, nó cũng im re, không than van nặng nhọc nửa lời. Nó giúp tôi buổi sớm tinh mơ chuyển hàng cho thân chủ từ Chợ-Lớn về Chợ Bến-Thành. Buổi tối, chở hàng từ Cầu Chữ Y sang đổ nơi bến xe Miền Ðông. Trời nắng chang chang, nó chở tôi và một giỏ cá khô từ Sài-Gòn lên Thủ-Ðức, len lỏi trong những con hẻm ngoằn ngoèo, để tôi rao bán lẻ từng ký cá khô, tôm khô.
Nó chở vợ chồng tôi từ Sài-Gòn đi Thủ -Ðức tới nhà anh bạn Ngô Văn Niếu của tôi để họp mặt anh em cùng khóa 20 Võ-Bị chào mừng mười cựu sĩ quan khóa 20 Võ-Bị mới được tha, trong đó có tôi. Dịp này nơi bãi cỏ đậu xe trước sân nhà anh Niếu, nó được đứng xếp hàng chung với những chiếc xe Dream, Honda, Vespa của các bạn tôi. Tôi thấy chiếc xe đạp thồ của mình có vẻ “oai phong” không kém gì chúng bạn, vì so chiều ngang, chiều dài, nó đâu có kém ai? Nhìn kỹ, tôi thấy nó còn có vẻ “phong trần bạt mạng” hơn mấy chiếc xe máy bóng loáng, kiêu sa, yểu điệu, của các ông bạn tôi nữa đó!

Tôi có anh bạn làm Trung Tá Cảnh Sát. Anh ấy và tôi được thả ra khỏi trại cải tạo cùng giờ, cùng ngày. Nhà anh bạn tôi ở gần Thảo Cầm Viên Sài-Gòn.
Mỗi lần tôi ghé thăm nhà anh, vừa thấy mặt tôi, bà mẹ anh đã đon đả gọi con,
– Bảo ơi! Có “Anh Long Xe Thồ” tới thăm con kia kìa!
Trung Tá Cảnh Sát Phan Trần Bảo, Trưởng Ty Cảnh Sát tỉnh Phan-Thiết là bạn tôi; mấy chục năm sau anh ấy còn nhớ cái tên “Anh Long Xe Thồ” mà mẹ anh ta đã đặt cho tôi.
Trước ngày lên đường đi Mỹ định cư, nếu tôi ra khỏi nhà thì thế nào con ngựa thồ của tôi cũng đi theo. Chỉ khi nào tôi lên rừng tìm vàng, đào thiếc, tôi mới chịu để nó ở nhà.

“Ngựa nào cũng là ngựa, xe nào cũng là xe!” vợ tôi thường an ủi tôi như thế, mỗi khi thấy tôi có vẻ áy náy mời nàng dời gót ngọc lên yên sau con ngựa thồ để tôi chở đi đây, đi đó. Nàng lúc nào cũng giản dị bình thường. Có tôi bên cạnh, vợ tôi hết lo âu, nhìn đời lúc nào cũng đẹp. Sau những chuyến đi dài ngày đào thiếc, tìm vàng trên Cao-Nguyên, tôi trở về Sài-Gòn; vợ chồng tôi lại chở nhau trên lưng con ngựa thồ, lang thang rong chơi quanh phố. Ðường phố Sài-Gòn thời 1988-1990 thênh thang. Khu Nguyễn Cảnh Chân có nhiều giáo sư của Trường Trung Học Hưng Ðạo, nơi đứa con gái thứ nhì của tôi đang theo học. Qua những buổi họp phụ huynh học sinh, cô giáo hướng dẫn lớp con tôi đã quen mặt vợ tôi. Bà cũng biết rõ tôi là sĩ quan Việt-Nam Cộng-Hòa đi tù cải tạo. 

Chắc chắn hình ảnh chiếc xe đạp thồ của tôi bay lượn trong khu Cao Thắng, Nguyễn Cảnh Chân đã lọt vào những đôi mắt tò mò. Một hôm, con tôi về nhà sau buổi học, nó cười: “Sáng nay cô giáo hướng dẫn lớp con vừa hỏi con rằng ba của em đã về chưa? Con nói bố em mới về. Lúc đó cô giáo con mới nói cô có thấy một người đàn ông lạ chở má bằng xe đạp đi qua nhà cô.”

Ðời sống riêng tư của những bà vợ trẻ của sĩ quan chế độ cũ luôn luôn là mục tiêu theo dõi dòm ngó của xóm giềng. Những câu hỏi dò la, tọc mạch, chận đầu, bắt nọn như thế không thiếu trong xã hội này. Tôi chạnh nghĩ, qua mười mấy năm dài, xã hội đảo điên dưới chế độ mới, giá trị của nếp xưa Khổng Mạnh cũng còn là chút gì đáng giá cho người ta lưu tâm. Rồi tôi thấy thương vợ vô cùng. Chuyện xe đạp nổ lốp giữa phố đối với cặp uyên ương này là thường xuyên. Lốp xe nổ, thì vợ chồng nắm tay nhau, dắt xe đi bộ, về nhà, vá lốp xe! Ngựa nào cũng là ngựa, xe nào cũng là xe. Ngày xưa mình đi xe Jeep, ngày nay mình đạp xe thồ; ngựa xe nào cũng dùng làm phương tiện di chuyển có gì mà phải kén chọn, quan tâm? Ðiều quan yếu là: Ngày xưa mình có nhau, ngày nay mình vẫn còn có nhau. Mười ba năm, vật đổi, sao dời, mình còn nguyên vẹn như thế này là quý lắm rồi!

Một hôm có người mang đến cho cặp vỏ xe mới, mừng ơi là mừng! Anh bạn quý của tôi lúc này đang làm “gác-dan” cổng sau khách sạn Continental. Hắn chắt bóp mãi mới được món tiền mua tặng tôi cặp lốp mới. Hắn tên là Lê Văn Chánh, người Huế. Chánh vốn là một cựu sinh viên Dược Khoa Sài Gòn thời 1960s. Hắn có máu đàn ca và đã có lúc viết nhạc bán cho một nhạc sĩ đã thành danh để có tiền đi phòng trà Anh Vũ mỗi buổi tối. Học hành chật vật mãi vẫn chưa thành Dược Sĩ, hắn bị gọi nhập ngũ khóa 15 Sĩ Quan Trừ- Bị Thủ- Ðức để cứu nước. Rồi hắn trở thành sĩ quan An- Ninh Quân- Ðội.

Tôi và Chánh gặp nhau và thân nhau ở Trại Nam-Hà A. Chúng tôi ăn chung mâm, ngủ cùng sạp một thời gian rồi cùng được thả ra cùng một ngày, sau mười ba năm bị giam giữ, tù đày.

Thời mới đi tù cải tạo về, tôi gặp hắn dễ lắm. Cứ đi ngang qua đường Lê Thánh Tôn, tới cổng sau Khách Sạn Continental là thấy chàng ta ngồi nơi góc.
Những lần về phố, tôi đều ghé thăm Chánh. Gặp nhau, bù khú một lúc, hai đứa lại rủ nhau ra tán dóc với anh thợ vá lốp, sửa xe bên đường Hai Bà Trưng. Anh vá lốp xe máy, sửa xe đạp này thời xưa làm Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng Trung -Tâm Huấn- Luyện Chi- Lăng của Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa. Anh ta tên là Hoàng Trai xuất thân khóa 19 Võ-Bị. Ba chàng ngồi bên nhau, chuyện nổ như pháo. Hai bạn tôi chỉ quanh quẩn ở Sài-Gòn, nên thích nghe tôi kể chuyện đường rừng, mạo hiểm, như chuyện đào vàng, đào thiếc, chuyện bẫy khỉ, giữ lô, chuyện khai thác gỗ quý, săn ngải, tìm trầm…

Chánh kể cho tôi nghe rằng, nó có đứa con gái lớn tên là Lê Lâm Quỳnh Như. Cháu Quỳnh Như lớn hơn đứa con gái đầu của tôi một tuổi. Một ngày từ rừng trở về thành phố, tôi nghe bạn Chánh khoe, con gái anh vừa đứng đầu cuộc thi tuyển lựa ca sĩ của Thành Phố Hồ Chí Minh. Phần thưởng mà con anh nhận được là cái dây chuyền 7 chỉ. Chánh nhìn tôi, cười, miệng xuýt xoa: “Thế là có tiền lo thủ tục hồ sơ đi H.O”
Sau đó khá lâu, gia đình Lê Văn Chánh đi Mỹ theo danh sách H.O 16. Qua tới Mỹ thì ca sĩ Quỳnh Như đổi tên là Như Quỳnh, danh tiếng nổi như cồn.

Thời gian đầu, khi Chánh còn cư ngụ ở Philadelphia thì tôi và Chánh vẫn thường xuyên liên lạc điện thoại thăm nhau. Bây giờ thì tình hình đã đổi thay nhiều. Chỉ có tôi và anh Trai là gặp nhau thường, vì hai đứa tôi cùng là cư dân Tiểu Bang Washington. Chúng tôi rất khó tiếp xúc với anh bạn cựu tù Lê Văn Chánh ngày xưa. Nghe đâu, cách đây vài năm, Như Quỳnh mua cho bố Chánh một căn nhà ở Cali, khu cư xá giống như một Fortress City, có rào cản, có cameras, hệ thống alarms cao cấp, security tuyệt hảo, phone của Chánh lại chuyển số luôn luôn, nên tôi và anh vá lốp xe đạp không chuyện trò với anh được. Lâu ngày không nói chuyện với nhau, chắc anh Chánh quên tôi rồi?

Riêng tôi, không bao giờ tôi quên “Chánh Phăng Si Ða”, anh bạn tù sốt rét kinh niên cùng buồng 16 ở trại Nam-Hà A Phủ- Lý của tôi. Sở dĩ Chánh có biệt hiệu “Chánh Phăng Si Ða” chỉ vì lúc nào trong túi anh cũng dự trữ sẵn một vỉ thuốc sốt rét cực mạnh mang nhãn hiệu Fansidar. Không rõ bạn tôi có hiểu rằng, trong mấy năm nay, anh chàng đào vàng trên rừng Nắp Bắc Ðà-Lạt và anh chàng sửa xe đạp trên đường Hai Bà Trưng Sài- Gòn nhớ nhung anh gác-dan Khách Sạn Continental không nguôi?

Những sự mất mát nhẹ nhàng như thế, những hình bóng mờ dần vì vô tình hay cố ý như thế, làm cho tôi thấy thương, thấy quý những giây phút bạn bè khăng khít bên nhau. Bây giờ, những sợi tơ thân thiết cột buộc chúng ta cứ mỏng dần, mỏng dần theo thời gian.
Ôi! Biết tìm đâu? Những ngày xưa thân ái! Biết tìm đâu xứ sở mà Thượng Ðế đã chọn làm một Thiên Ðường? Biết tìm đâu Việt-Nam Cộng-Hòa của tôi?
Vương Mộng Long - K20
Seattle tháng Tư năm 2018

Vài lời giới thiệu (bác sĩ Trần Xuân Ninh): Tác giả là một dược sĩ và chưa từng viết văn. Con nhà nền nếp đông con hiền lành, chạy Cộng sản di cư từ Bắc vào Nam. Nếu không trải qua cuộc bể dâu tháng 4/1975 thì chắc chắn không có bài viết kể chuyện đời thực này. Cuộc đổi đời của gia đình này không phải là sự thay đổi bi trầm nhất, nhưng nó chia xẻ cùng với những trường hợp tang thương hơn nữa một đặc tính là sự đến và đi vô lý tột cùng. Không giải thích được bằng lý nhân quả.
Lụa Vàng  (Dung Vũ)

Trích: " ...đời Chồng tôi lên Voi xuống Chó: 32 tuổi đã làm Y Sĩ Trưởng bệnh viện, 35 tuổi xuống thành tù cải tạo đi gánh phân, 38 tuổi lại về làm Trưởng phòng mổ, 41 tuổi lại thành tù vượt biên đi lao động khổ sai, 42 tuổi lại về làm Trưởng Khoa Ngoại, 47 tuổi đi bảo lãnh sang Mỹ phải bỏ nghề cũ… cũng chỉ vì cộng sản.
Sống đến tuổi bạc đầu tôi nhìn lại đường đời phiêu bạt của mình: Tôi mở mắt chào đời tại tỉnh Thái Bình, vùng ruộng lúa phì nhiêu của miền Bắc Việt Nam, khi trận đói kinh hoàng năm Ất Dậu 1945 vừa qua. Họ hàng nội ngoại nhà tôi đã sinh sống ở đây rất nhiều đời, không ai nghĩ đến đời chúng tôi lại phải rời bỏ quê Cha đất Tổ vào Nam rồi còn ly hương sang tận bên Mỹ…

Tôi vẫn nghe kể khi tôi ra đời, rất nhiều người dân tỉnh Thái Bình và dân miền Bắc đã chết đói thê thảm… Quân đội Nhật đã đảo chính quân Pháp, bắt dân trồng đay để phục vụ chiến tranh thay vì trồng lúa. Chiến tranh cũng cản trở giao thông khiến lúa gạo miền Nam dư thừa không đem ra miền Bắc cứu đói được.
Bao đoàn người nghèo đói lang thang khắp nơi tha phương cầu thực, người chết đói nằm đầy trên đường rất thảm thương. Mỗi sáng xe thổ mộ đi dọn xác chết: Đa số chỉ còn da bọc xương, bỏ lên xe cả những người đang hấp hối, rên rỉ… Bà Ngoại và Bà Nội tôi mỗi sáng cho nấu một nồi cháo rất lớn để phát chẩn, rất đông người đến xin ăn. 

Vào năm 1952 đúng lễ Đại Thọ 80 tuổi của Bà Ngoại tôi, Bà tôi dặn mời một Ông Thầy Bói nổi tiếng trên tỉnh đến nhà xem. Ông ta bảo luộc chín một con gà trống rồi sau khi ngắm nghía rất kỹ cặp chân gà Ông ta nói: Cụ Bà rất nhân đức nên khi Cụ sống tiền bạc ruộng vườn sung túc, tưởng như ba đời con cháu ăn không hết của nhưng khi Cụ mất đi, của cải sẽ theo Cụ đi hết !

Ai cũng bảo kỳ này Ông Thầy Bói chắc chắn đoán sai vì Bà tôi đã rất già mà ruộng vườn còn mấy trăm mẫu, căn nhà gạch lớn ba tầng thuê kiến trúc sư Tây mới xây vững chắc, mấy dẫy nhà ngang nhà dọc… sao mất hết ngay được ! Nhưng sau đó chỉ ít năm thì Bà tôi mất, rồi cộng sản tràn vào tận diệt địa chủ. Con Trai Bà bị đem ra đấu tố, bị gán tội bóc lột bần cố nông, tàn ác với tá điền, ức hiếp phụ nữ… tất cả Địa Chủ trong làng bị bắn chết dã man ngay đêm đó. Cả làng phải đi tham dự đã kinh hoàng, xót thương các nạn nhân. Không ai dám chống đối và sự hoảng sợ cộng sản đã lan rộng… 

Sau này cộng sản đã công nhận sai lầm trong cải cách ruộng đất, Hồ Chí Minh đã chính thức xin lỗi nhân dân, họ nói trong 27,000 địa chủ bị giết, họ đã giết lầm 20 ngàn trung nông !!! Hỏi gia đình những nạn nhân này có dễ dàng hòa giải với cộng sản ???

Rồi Chú tôi cũng bị Việt Minh bắt đi giữa đêm tối, họ lừa bảo là đi họp một chút rồi về nhưng bị đem đi giết ngay đêm đó, bị nghi là hoạt động chống đối cộng sản. Họ chỉ nghi ngờ một chút là giết, chủ trương thà giết nhầm còn hơn tha nhầm nên đã sát hại những người trong các đảng phái đối lập, giết tất cả những ai họ nghi ngờ chống đối họ.

Khi đó Cô tôi còn rất trẻ, Cô đã ở vậy nuôi ba con, sau hai con lại chết vì dịch tả khi chạy tản cư. Tôi rất thương Cô tôi luôn sầu khổ, vất vả nuôi con thờ Chồng, con Trai Cô lúc bé đau ốm luôn. Tuổi nhỏ được ngủ bên Cô, tôi thấy Cô hay khóc tức tưởi trong đêm, thật đau lòng… Sau này Cô tôi được con Trai đi du học bảo lãnh sang Pháp, Cô mất ở Paris thọ 94 tuổi. May mấy chục năm tuổi già Cô được sống hạnh phúc bên con và đàn cháu nội do một tay Cô nuôi dưỡng từ nhỏ.
Một người Bác tôi lén đi Hà Nội mua thuốc cho Vợ đang ốm nặng cũng bị nghi ngờ đi lại làm mật thám cho Pháp, Việt Minh đã bắn chết Bác ngay trên đường về ! Sau đó đại gia đình tôi quá sợ hãi lén lút bỏ hết nhà cửa ruông vườn di cư vào Nam ! Bao nhiêu của cải ruộng đất bao la cộng sản thâu tóm hết !!!
Lúc đó cộng sản cố tuyên truyền níu kéo dân ở lại đừng di cư, họ đến nhiều nhà vừa tuyên truyền vỗ về vừa đe dọa… nhưng dân Bắc đã hiểu rõ mặt thật của cộng sản:
Độc tài và dối trá, giết người tàn nhẫn nên hàng triệu người miền Bắc đã quyết tâm ra đi.

Vào Nam, họ hàng nhà tôi đa số không mang theo được của cải nên nhiều người gặp khó khăn, Bố Mẹ tôi hay đem gạo giúp đỡ anh em, nuôi các cháu kèm học Pháp Văn, Anh cả tôi dậy toán lý hóa nên đám trẻ đều học giỏi, được phần thưởng cuối năm, thi đậu cao và nhiều người được du học Âu Mỹ. Nhờ vậy từ năm 1975 con cháu du học đã bảo lãnh gia đình sang Mỹ, Âu châu, Canada…
Sau năm 1954, cuộc chiến tranh ác liệt Quốc – Cộng Nam Bắc đã làm thiệt mạng hàng triệu thanh niên ba miền. Họ đã chết tức tưởi lúc còn quá trẻ ngoài chiến trường, tuổi đời mới trên dưới 20 ! 

Anh họ tôi mới vào lính, chưa kịp về thăm gia đình đã tử trận, đó là người Anh đã dậy dỗ, thương yêu chúng tôi khi còn nhỏ. Đám trẻ chúng tôi vẫn mãi tiếc thương Anh ! Họ hàng nhà tôi cũng nhiều người ở trong quân đội miền Nam, vài người đã hy sinh trong những trận giao tranh ác liệt với cộng quân.
Sau năm 1975 rất nhiều người chết khi vượt biên bằng đường bộ hay đường biển… Gia đình Cô Em họ tôi và gia đình ông Chú mấy chục người đã chìm sâu dưới đáy biển…

Bố tôi bị đi tù cải tạo khi đã 63 tuổi, ở Long Thành. Vài tháng sau họ mới cho thăm nuôi: Khi đoàn tù xếp hàng đi ra, không ai nhìn thấy Bố tôi đâu cả ! Bỗng con gái tôi lúc đó mới 7 tuổi la lên “ Ông Ngoại ơi ” cháu chạy vọt ra ôm chặt một ông già gầy xơ xác, da nâu sạm ( trước đây Bố tôi cao lớn, mập mạp, da trắng ) không hiểu sao con bé nhận ra ? Mãi tới khi Bố tôi tới gần mọi người mới ngỡ ngàng nhìn ra vầng trán rộng nay đã đổi sang mầu nâu, vẫn còn nốt ruồi ở góc trái, da đã nhiều vết nhăn… Da Bố tôi xạm hẳn và gầy nhanh quá, chỉ có giọng nói là ít thay đổi ! Con gái tôi cứ tíu tít bên Ông, nó được Ông thương yêu nhất: Sáng nào cũng được Ông đưa đi học, Ông dậy đánh vần, Ông dậy cộng trừ, Ông kể chuyện cổ tích… Cháu rất yêu quý Ông.

Cả nhà gặp nhau được một lúc thì họ bắt các tù cải tạo xếp hàng về trại, Bố tôi xách lê gói đồ thăm nuôi, con gái tôi chạy theo ông năn nỉ: Ông ơi, cho cháu vào ở với Ông, cháu sẽ nấu cơm, giặt đồ cho Ông… Cháu chạy lăng xăng theo Ông một quãng đến khi họ đuổi mới trở về, mọi người nước mắt ràn rụa nhìn theo bóng dáng gầy ốm thảm tệ của Bố tôi… Bố tôi luôn sống nhân đức và liêm khiết, có giết hại ai đâu mà họ hành hạ khốn khổ vậy ! Tôi thấy lòng uất hận bỗng dâng tràn…

Sau vụ nổi dậy ở Vinh Sơn, họ đem cả những người già ra Bắc, với khí hậu miền núi lạnh khắc nghiệt, đói ăn triền miên và lao động khổ sai, Bố tôi cầm cự được thêm vài tháng rồi mãi mãi ra đi. Bố tôi mất mấy tháng sau họ mới báo tin. Khi chúng tôi đến nơi, người cha thân yêu chỉ còn là một nấm mộ hoang lạnh bên đườn ! Nỗi đau đớn này là vết thương lòng không bao giờ lành… Đừng bao giờ nói với chúng tôi hãy hòa giải với cộng sản !!!

Tôi nhớ khi Mẹ tôi lập bàn thờ ở nhà cầu siêu cho Bố tôi, con gái tôi lúc đó 8 tuổi, đi hoc về bỗng nhìn thấy ảnh Ông ngoại để trên bàn thờ, cháu hét lên một tiếng rất lớn rồi òa khóc nức nở, cháu đã hiểu người Ông thân yêu của cháu đã mất, không bao giờ còn trở về được nữa ! Sau này khi là Nha Sĩ đọc bài viết của Mẹ về Ông Ngoại cho đám giỗ Ông, cháu bỗng òa khóc tức tưởi mãi không cầm được nước mắt trước sự kinh ngạc của các nhân viên.

Chồng tôi có cuộc đời rất lạ: Lên Voi xuống Chó đúng như lời một Ông Thầy Tử Vi đã đoán khi Anh đến hỏi cưới tôi. Bố Mẹ tôi cũng e ngại nhưng ánh mắt thiết tha và giọng hát chan chứa tình cảm của Anh đã xúc động trái tim tôi ! Chúng tôi cưới nhau đã 55 năm, sống rất hạnh phúc dù trải qua nhiều sóng gió của cuộc đời.

Anh ra đời làm ngạc nhiên cả dòng họ. Họ bên nội nhà Anh bao đời nay đều độc đinh, sau khi Anh cả ra đời không ai nghĩ gia đình còn có thêm một người con trai nữa !

Hồi nhỏ Anh là một đứa bé bụ bẫm, xinh đẹp. Lớn lên Anh là một đứa trẻ hiếu động, nổi tiếng nghịch phá trong khu phố, thích đánh nhau hơn học hành ! Năm Anh 14 tuổi vào Nam, Bố Mẹ cho Anh vào học Trường Tabert , hy vọng các Thầy nhà Dòng với sự giáo dục nghiêm khắc sẽ dậy con nên người tử tế. Nhưng trái với Anh cả ngoan ngoãn và học giỏi, Anh cứng đầu và ham chơi, mới kỳ thi Trung Học đệ nhất cấp đã thi rớt ! Kỳ đó Bố Mẹ Anh đã gọi Anh ra và nghiêm giọng bảo :
– Bố Mẹ đã nuôi các con như nhau, Anh cả luôn đứng đầu lớp còn con thi rớt ! Bố Mẹ sẽ nuôi con thêm một năm nữa, nếu không đậu sẽ cho hộp đồ nghề ra góc đường sửa xe tự kiếm sống…

Anh nói lời cảnh cáo của Bố Mẹ không làm Anh sợ hãi nhưng Anh ý thức được đã làm Bố Mẹ rất buồn lòng và thất vọng nên Anh bỗng cảnh tỉnh và từ đó quyết tâm học hành, kỳ sau đỗ ngay, tới khi thi tốt nghiệp Anh đã đỗ cả Tú Tài Pháp lẫn Tú Tài Việt với hạng cao.
Anh quyết định học Y Khoa, khi thấy Bố bị bệnh tim đau ốm nhiều năm, Bố Anh phải nghỉ làm khi bị Stroke không đi lại được nữa. 

Gia đình Anh khi ở Hà Nội giầu có nhưng khi vào Nam đi vội vàng không bán được căn nhà nào trong dẫy phố cho thuê, tiệm ăn lớn ở trung tâm Hà Nội họ đang trả giá hơn một triệu năm 1954 bỗng ngừng mua khi có tin di cư vào Nam ! Mẹ Anh chỉ đem theo được ít vàng và nữ trang đủ mua một căn nhà nhỏ ở Saigon, đời sống vào Nam khó khăn, may Anh vào Quân Y có lương, ra trường được sang Mỹ học thêm về Giải Phẫu. Anh chăm sóc Bố được vài năm rồi Bố mất.

Anh đi hành quân vất vả nhiều năm, vào sinh ra tử rất nhiều phen. Sống bên Anh, tôi thấy rõ Anh là một Bác Sĩ rất yêu nghề, luôn tận tụy với bệnh nhân, dù không phải ngày Anh trực, Anh luôn vào bệnh viện thăm bệnh nhân Anh mới mổ, hướng dẫn y tá theo dõi sát… Nhiều bệnh nhân cứ đợi ngày Anh trực xin nhập viện, sẽ được Anh giải phẫu và được chăm sóc tới khi xuất viện. 

Anh chịu khó nghiên cứu đọc sách và mát tay chữa lành nhiều trường hợp nguy hiểm: Một Anh phóng xe Honda trời tối đâm vào càng dài của xe bò đậu bên đường, sau mấy lần chuyển từ bệnh xá huyện lên tỉnh rồi tới Saigon thì anh ta mất nhiều máu đã xanh lướt, sau khi được Anh mổ liên tục trong 8 giờ, hôm sau Anh ta đã tỉnh dậy như một phép lạ, năm sau còn lấy Vợ. Một Ông bị Vợ ghen cắt đứt của quý vứt ra bãi cỏ, cảnh sát đem tới cho Anh vá lại, Anh nối lại nhưng cũng không hy vọng nhiều, không ngờ hơn năm sau Anh ta bế đứa con mới sinh tới cám ơn ! Một Bà cũng ghen xẻo nguyên mũi Chồng vứt đi, khi vá lại Anh nói ít hy vọng nhưng phúc chủ lộc thầy mũi đã lành !

Nhiều lần Anh phải mổ mấy ca suốt đêm, mổ xong cả toán được Nhà nước XHCN bồi dưỡng một hộp sữa đặc, pha uống chung ! Nhiều khi gia đình bệnh nhân lo mua phở, hủ tíu… cho Bác Sĩ và các y tá ăn đêm để có sức còn mổ tiếp… 

Thời buổi xã hôi chủ nghĩa nghèo khó, bệnh nhân biếu Bác Sĩ vài ký gạo thơm, hộp cá kho nhừ, có bệnh nhân ở Phú Quốc mỗi khi về Saigon là đem tặng Anh món mực nhồi thịt làm lấy rất ngon, có khi là vài con mực khô, ít gạo nếp, gói tôm khô hay chai nước mắm nhĩ với cả tấm lòng yêu quý…

Nhưng rồi năm 1975 mất nước Chồng tôi phải đi tù cải tạo gần ba năm, họ bắt anh lao động cực khổ trong rừng, phải vác cây rất nặng, phải gánh phân người tưới cây mỗi sáng, làm cực nhọc mà không đủ ăn nên Anh gầy xơ xác. Mãi sau tù nhân bị bệnh nhiều quá họ mới cho Anh về trông nom bệnh xá. Anh chăm sóc cho cả Nhạc Sĩ Nguyễn văn Đông, nguyên là Đại Tá và Anh đã được dậy sáng tác, Anh chơi Guitar từ nhỏ nhưng chỉ ca hát giải trí, sau đó Anh đã sáng tác được nhiều bài hát về quê hương và tình yêu….
Sau " gần ba năm tù " đầy Anh được trở về làm việc ở phòng mổ bệnh viện tới khi đi Mỹ theo diện ODP do Anh cả bảo lãnh, phải đút lót mới đi được !

Trước đó chúng tôi cũng đi vượt biên mấy lần, trôi nổi trên ghe nhỏ giữa đêm gió rất lạnh, cũng hai lần vào tù vượt biên, lao động mệt nhoài giữa trời nắng gắt, ăn cơm tù không cho chén bát, phải dơ vạt áo ra hứng chút cơm và cá tanh òm, suốt ngày chỉ ước mơ có một ly đá bào rắc si rô đỏ và húp nước mắm, thèm một miếng giò lụa! Ở tù phải uống nước ao đục ngầu, mấy đứa con đau bụng suýt chết…

Khi giấy tờ bảo lãnh đã xong, Chồng tôi vào giờ chót thì muốn ở lại, Anh không muốn bỏ nghề, tôi hiểu Anh muốn hy sinh phần đời còn lại cho bệnh nhân nhưng tôi nói phận Anh đi tù cải tạo là thành phần có nợ máu, nay chỉ là cá nằm trên thớt, nghi ngờ gì cộng sản sẽ thanh toán Anh ngay !

Sang Mỹ tóc đã bạc, lại bị bệnh Tim và Cancer mới lành, Anh không thể học lại ngành mổ quá lâu, đành chấp nhận học một nghề ngắn hạn sống qua ngày nuôi con, thỉnh thoảng tôi thấy Anh thở dài rất buồn… lòng tôi cũng áy náy ! 

Ông Thầy Tử Vi nói đúng, đời Chồng tôi lên Voi xuống Chó: 32 tuổi đã làm Y Sĩ Trưởng Bệnh Viện, 35 tuổi xuống thành tù cải tạo đi gánh phân, 38 tuổi lại về làm Trưởng Phòng Mổ, 41 tuổi lại thành tù vượt biên đi lao động khổ sai, 42 tuổi lại về làm Trưởng Khoa Ngoại, 47 tuổi đi bảo lãnh sang Mỹ phải bỏ nghề cũ… cũng chỉ vì cộng sản mà cuộc đời lên thác xuống ghềnh khổ sở !

Phần tôi đã tưởng phải bỏ nghề cũ ở Việt Nam, nhưng sang Mỹ đúng lúc họ cho thi lại tương đương bằng Dược, tuy tóc đã hai mầu tiêu muối, đầu óc đã cằn cỗi vì thời cuộc… Tôi phải cố gắng học lại trong hai năm: Vừa ôn lại bài cũ vừa học thêm nhiều phần mới… Tôi không những phải học lại về thuốc men mà còn phải học thêm Anh Văn rất nhiều, trước kia tôi chọn Pháp Văn ! Tôi còn phải học tên các đường, tên các thành phố… để khi họ Order thuốc cùng địa chỉ giao thuốc mới nhanh tay viết kịp ! Bác Sĩ order qua phone rất nhanh…

Nghĩ lại thời gian mới nhận việc tôi thấy tội nghiệp mình: Lúc nào đầu óc cũng căng thẳng, lo âu, chịu nhiều nỗi nhục nhằn… Tôi nhớ lúc đầu tôi đã bị mất việc, lòng buồn phiền lo lắng cho tương lai… Tôi không dám nói thật với Chồng sợ Anh lo buồn đang học thi… Sáng sáng tôi vẫn lái xe đi, ra Parking ngồi âm thầm khóc cả buổi tủi buồn ! Rồi thời gian vất vả cũng qua. Rồi tôi cũng vững tay nghề… Dược Sĩ phải làm việc rất nhanh và chính xác…

May các con tôi rất chăm học và ngoan nên đã thành đạt, bõ công Bố Mẹ hy sinh cho đời con cháu khá hơn….

Nay ở tuổi gần đất xa trời, tôi nghĩ dù đời mình vinh nhục đủ điều mình nên kể lại để những thế hệ sau hiểu rõ cộng sản và những nhục nhằn, hy sinh của thế hệ Cha Mẹ, Ông Bà… Phải kể sự thật về cộng sản bằng những kinh nghiệm sống thực…. Tất cả những đau khổ, mất mát, mấy triệu người Việt chết oan ức, uổng phí… Tất cả là do cộng sản gây ra !!!

Nay hơn một triệu người Việt bỏ nước ra đi, sinh sống trên khắp thế giới, cố gắng hết sức, nay ổn định thành đạt, thế hệ sau thành công rực rỡ thì cộng sản lại trơ trẽn nhận công ! Phạm Minh Chính giở giọng vuốt ve hòa giải dân tộc, dụ dỗ thế hệ trẻ về xây dựng đất nước !!!

 Nếu họ đối xử tử tế khi cướp được miền Nam, cư xử bằng tình người, không trả thù hèn hạ trong tù cải tạo, không giết tàn nhẫn người chống đối, không tàn sát địa chủ, không cướp sạch của cải tư sản… không bắn chết và bỏ tù những người vượt biên, không độc tài, dối trá, không tàn ác với dân thì không cần kêu gọi hòa giải người ta cũng sẵn lòng hợp tác để xây dựng đất nước… 

Bài viết rất hay và thấm thía  của Ông Hiếu Chân trên báo Người Việt: “ Phạm Minh Chính xảo ngôn khi nói về người Việt ở Mỹ ” và bài viết rất xúc tích của Ông Đỗ Ngọc Uyển: “ Tám mươi năm tội ác của cộng sản và hòa giải dân tộc ”; Bài phỏng vấn rất hay của Giáo Sư Lê Xuân Khoa: “ Cuộc chiến Việt Nam và con đường hòa giải ”; cùng với bao bài viết, bài phát biểu… những kinh nghiệm sống thực với cộng sản của Đại Tá Việt cộng Bùi Tín rất thấm thía… và của hàng triệu nạn nhân cộng sản sẽ làm thành “ Sự thật về Lịch Sử Việt Nam ” cho dù cộng sản có dối trá, bóp méo sự thật ra sao.

Xưa hành hạ tàn sát, nay người ta thành đạt lại tính bề HÒA GIẢI lợi dụng !
Thật là quá trơ trẽn…
(Lụa Vảng )

Ở trại “tù cải tạo” nầy có nhiều điều thật buồn cười đến đau xót.

Cả chục gian nhà nằm trong vòng rào thứ nhất. "Nhà cầu, nhà xí hay cầu tiêu, hay nhà ỉa, như các nói của Bộ đội”, gọi thế nào cũng được lại nằm trong vòng rào lớn, nhưng lại ngoài vòng rào nhỏ.

Khi đi cầu, anh em ít khi dùng giấy lau đít vì kiếm không ra giấy. Có trường hợp như anh Bùi Thành Trai được quản giáo khen là người “chịu khó nghiên cứu triết học Mác – Lênin” vì anh đã nhờ quản giáo mua một lượt mấy cuốn sách bàn về chủ nghĩa Cộng Sản. Loại nầy giá rẻ lắm. Anh ta có nghiên cứu gì đâu!
Khi quản giáo khen Bùi Thành Trai chịu nghiên cứu chủ nghĩa Mác, cả đám đang đứng trong hàng cười rúc rích. Anh ta cả đời đọc chưa hết trang sách đã ngáy khì khò rồi, nghiên cứu cái gì được!

Bùi Thành Trai mua sách để lấy giấy làm cái việc vệ sinh ấy. Anh em khác không tiền hay tiếc tiền thì mỗi lần đi cầu, xách theo một cái lon sắt hay một cái chai bia lớn đựng nước.

Thấy người ta xách cái chai đi ngang qua, họa sĩ Nguyễn Uyên nói đùa với tôi: “Đi nhậu! Xách bia đi nhậu đấy!” Nói xong, Nguyễn Uyên cười nham nhở, hề hề!

Ra tới cổng hàng rào trong, người tù đứng lại, ở tư thế “nghiêm”, bỏ cái chai xuống đất, cất mũ, ngó lên cái chòi cao, có “chú bộ đội” chưa đầy 20 tuổi, ngồi canh, “vách đốc củ tỏi” trên đó, nói lớn:
– “Báo cáo anh! Tôi đi ngoài.”
Khi còn do “bộ đội quản lý trại giam”, “tù cải tạo” gọi bộ đội bằng anh, dù là sĩ quan cũng vậy. Ở trại do Công an quản lý, không được gọi bằng anh, phải gọi là cán bộ. Cấp chỉ huy thì gọi bằng ban, có nghĩa là ban tham mưu hay ban gì đó, không phải là ban cua hay ban sởi (bệnh sởi).

Gặp “chú bộ đội” dễ tính, chờ anh ta trả lời “đi đi” thì mới đi. Chưa có lệnh đi mà đã đi có thể bị khiển trách, bị mắng, bị đuổi vào hoặc bị dọa bắn… Chỉ dọa thôi chớ chưa bắn lần nào.

Gặp “chú bộ đội Bắc Kỳ” từng “đứng lên đánh đổ bọn cường hào ác bá” thì “chú bộ đội”, chỉ mới là “vệ binh”, chưa vào hẳn “giai cấp thống trị”, đã có thái độ không khác gì với giai cấp đã từng bị đánh đổ, chưa thành chuột đã “bắt chước chuột ỉa bếp”. “Chú bộ đội” bắt bẻ:
– “Đi đâu mà gọi “nà” đi ngoài. Muốn trốn trại hả? Đi ỉa thì báo cáo “nà” đi ỉa. Nhớ không?”
Anh “tù cải tạo” nói “báo cáo nhớ”, cho xong chuyện. Thế là được nghe hai tiếng “đi đi!”

Anh ta đội nón lên đầu, cái chai cầm tay đi ra nhà cầu. Khi đi cầu xong rồi, về gần cổng, cũng phải đứng lại, thế “nghiêm”, bỏ mũ và cái chai không xuống, quay mặt về hướng chòi, nói “báo cáo anh! Tôi vào”.
Chờ “chú bộ đội” bảo “vào đi!” mới được vào. Gặp khi “chú bộ đội đang ngủ gà ngủ gật, không nghe “báo cáo” thì người đi cầu đứng nghiêm chờ cũng… hơi lâu!
Gặp “chú bộ đội” nhiễu sự, nếu báo cáo là “đi ỉa” hoặc đi cầu, “chú” lại bắt bẻ:
– “Ăn nói gì mà bất “nịch” sự thế”. Không được “lói” “nà” đi ỉa. Phải gọi “nà” đi ngoài. Nghe không?”
Thế là trái nghịch với “chú bộ đội” trước, nhưng anh tù cải tạo cũng cứ “báo cáo anh! Tôi nghe!” không cần thắc mắc. Thế cho xong để được đi…ỉa.

Anh bạn Cường của tôi gặp trường hợp khá buồn cười. Tại anh ta đãng trí hay hôm đó bị tào tháo đuổi gấp quá nên khi “báo cáo anh”, anh bạn tôi quên… cất mũ. Vậy là “chú bộ đội” nổi sùng vì cái tội vô lễ không cất mũ. “Chú bộ đội” “giáo dục” sự “vô lễ không cất mũ” bằng cách:
– “Đứng đó, không đi đâu hết!”
Anh bạn tôi đành đứng đó, như trời trồng, mặt mày nhăn nhó, khó chịu, vặn vẹo thân mình. Anh ta chẳng dám đi ra mà cũng chẳng đi vào vì “chú bộ đội” bảo “đứng đó”. Hồi lâu, “bài học tập giáo dục” đứng nghiêm tại chỗ chấm dứt. “Chú bộ đội” nói:
– “Đi đi!”
Anh bạn tôi bèn nói:
– “Báo cáo anh, tôi xin vào đi… tắm.”

Nói xong, không cần “chú bộ đội” nói thêm gì nữa, anh ta ba chân bốn cẳng chạy nhanh ra giếng, mượn gầu của người ta đang múc nước ở đó mà dội ào ào lên người, không cần cởi quần áo.
Câu chuyện anh ta xin vào đi… tắm trở thành đề tài cho anh em vui cười, chọc quê. Có lần, Cường bực mình nói:
– “Đ. má nó. Tao hận cái thằng bộ đội nầy suốt đời.”
Không biết về sau, nếu khi Cộng Sản hô hào “Hòa hợp hòa giải”, anh ta có thể quên câu chuyện ỉa… trong quần để hòa hợp với họ được không!?

Nhà cầu nầy mới xây, theo kiểu Tây, nghĩa là chỗ ngồi thì trên cao, phân người rơi vào những cái thùng sắt đặt bên dưới. Hằng ngày, những cái thùng phân ấy được lôi ra, đổ xuống hố, vài ba tuần, có khi phân chưa kịp “hoai” thì đã được moi lên, đem bón rau muống để “làm giàu quê hương, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa”.
Nguồn:
Hoanglonghai

 
Năm 1981, khi tôi còn bị giam trong trại cải tạo Z30C Hàm Tân, Thuận- Hải, cứ vào buổi chiều, tôi cùng vài anh bạn tù lại ngồi quây quần bên nhau trên sạp xi măng, nhâm nhi từng ngụm cà phê chế bằng cơm cháy, ôn lại chuyện đời cho nhau nghe.

Hầu như bữa nào cũng vậy, dù trời tạnh ráo hay mưa bão dầm dề, thế nào chúng tôi cũng được nghe tiếng guitar thánh thót của một nhạc sĩ tay ngang Cựu Thiếu Tá Hồ Văn Hùng, gốc Cảnh-Sát Quốc-Gia và tiếng ca trầm buồn ảo não của chàng ca sĩ ngang xương Cựu Thiếu Úy Nguyễn Văn Vinh gốc Biệt Cách Nhảy Dù.

Chúng tôi mất nước đã gần chục năm, xa nhà cũng đã gần chục năm, nên những lời buồn thảm, bi ai: “Tìm đâu những ngày thơ ấu qua…”- “Những ngày xưa thân ái, xin trả lại cho ai…” vừa cất lên, thì người đàn, người hát, người nghe cùng chạnh lòng, nhớ mẹ, nhớ cha, nhớ vợ, nhớ con, nhớ bạn bè, nhớ xóm giềng, và nhớ quê hương.

Anh nhạc sĩ Hồ Văn Hùng, xưa kia là Cảnh- Sát tỉnh Hậu-Nghĩa; nay bị giam cùng buồng, cùng đội lao động với tôi. Anh thuộc nhiều bài hát lắm. Tôi xin anh chép lại cho tôi trọn bộ lời Pháp của bài “Chanson d’Orphée”

Anh ta chỉ cần dạo nhạc cho tôi đôi lần, là tôi đã thuộc nhập tâm bài hát này ngay. Trong bài ca ấy, tôi thích nhất câu “Le ciel a choisi mon pays. Pour faire un nouveau paradis” (Thượng Ðế đã chọn quê hương tôi để dựng lên một Tân Thiên Ðường)

Ngày xưa Thượng Ðế đã ban cho tôi một Thiên Ðường, mà tôi lại vô tình không nhận ra, đó là đất nước Việt-Nam Cộng-Hòa. Năm 1975 Thiên Ðường của tôi đã không còn nữa.

Một năm sau ngày được thả, đầu Thu 1989 tôi gặp lại Hồ Văn Hùng trước một sạp báo cạnh nhà thương Sùng Chính, Chợ- Lớn. Khu này quy tụ khá nhiều dân gốc “Ngụy”: Một sạp báo do anh cựu nhân viên Phủ Ðặc Ủy Trung Ương Tình Báo làm chủ, một thợ hớt tóc là cựu Hải quân Thiếu úy, kế đó là một ông già mài dao, mài kéo, xưa kia làm tới Phó Quận xuất thân từ trường Quốc-Gia Hành-Chánh.

Anh chủ sạp báo là bạn tù tôi quen trong thời gian bị giam giữ ở Z 30 D. Vì làm bạn với anh chủ sạp báo, nên dần dà tôi quen “lây” sang hai ông “Ngụy” kế bên. Lâu lâu tôi ghé chơi, thấy tóc tôi dài, ông Hải quân lại đè đầu tôi xuống hớt tóc giùm, không lấy đồng bạc nào.

Thấy yên sau xe đạp của Hùng chất đầy sách vở, tôi hỏi anh làm nghề quái quỷ gì mà nhiều sách thế thì anh vênh mặt lên,
– Tớ đi dạy.
– Dạy nhạc hả?
– Nhạc gì?
– Thì nhạc Việt, tân nhạc… hồi còn trong trại tù cậu và thằng Vinh Biệt Cách hay hát cho tớ nghe…
Hùng xua tay, lắc đầu quầy quậy,
– Tớ có biết nhạc với nhiếc con mẹ gì đâu? Guitar tớ học lóm, chẳng có thầy bà nào dạy cả! Nhạc lý, nhạc Pháp cũng làng nhàng. Hiện giờ tớ đi dạy Anh Văn!
Tôi nghi ngờ vặn lại,
– Anh Văn của cậu cỡ nào mà dám đi dạy?
Hùng cười hì hì,
– Ối trời ơi! Sao cậu ngây thơ thế? Bộ suốt đời lính không lúc nào cậu bị ở vào cái thế lang bang, không chức vụ hả? Cứ lang bang không chức vụ là được gởi đi học. Tớ biết khối thằng có đầy bằng cấp chuyên môn chỉ vì lý do không có chức vụ trong đơn vị nên cứ có lớp là bị tống đi học. Hồi xưa, lúc còn lang bang không chức vụ, tớ có dịp được đề cử theo học một khóa Anh Văn, rồi lại bị đưa đi học tu nghiệp ở Mã-Lai. Năm ngoái ra khỏi tù cải tạo, tớ kiếm hoài không ra việc, tưởng là phải chết đói. Ai ngờ gặp đúng lúc đổi đời, nhà nhà học Anh Văn, người người học Anh Văn. Tớ vội ôn lại văn phạm vài ngày là đi dạy kiếm cơm được rồi. Cả khu phố của tớ đều mù, tớ là thằng chột. Xứ mù, thằng chột làm vua! Tớ đếch cần làm vua, chỉ cần gạo thôi…

Tôi không phục cái ngai vàng trên nước mù và chột của người bạn thời đi tù cải tạo này, nhưng tôi thích tiếng đàn guitar của anh, thích giọng ca của Nguyễn Văn Vinh mà tôi đã được nghe trong những chiều buồn nơi lán trại của Z 30 C, Hàm-Tân năm nào.
Tôi kéo Hùng ngồi xuống bên bàn cờ tướng của ông thợ hớt tóc. Tôi giới thiệu Hùng với hai ông bạn “Ngụy” của tôi. Ông Hải quân mời Hùng uống trà; ông Ðốc Sự cũng xúm vào góp chuyện. Hùng là người Huế, ông Ðốc Sự cũng là dân Huế; chỉ vài phút sau hai ông đã ra chiều tương đắc.

Thấy trên tường có treo cây guitar của ông thợ hớt tóc, bên cạnh là cây đờn cò của ông mài dao kéo, giáo sư Hùng gật gù,
– Các cha ở đây có cả Tân, Cổ giao duyên vui quá há?
Nghe Hùng nói, tôi chợt nhớ chuyện xưa, nên cầm tay Hùng tôi khẩn khoản yêu cầu anh hát lại khúc “Những ngày thơ mộng” của Hoàng Thi Thơ cho tôi nghe.
Chiều ý tôi, ông giáo sư Anh Văn bỏ nón xuống bàn cờ tướng, ông uống cạn ly trà móc câu, ôm cây guitar kê lên đùi, so dây, lấy giọng, rồi bắt đầu: “Tìm đâu những ngày thơ ấu qua? Tìm đâu những ngày xanh như mộng?…

Khi Hùng vừa xuống giọng câu chót: “Tìm đâu? Biết tìm đâu? đâu giờ…” thì anh bắt ngay qua “Matin, fait lever le soleil…” (Buổi sáng, mặt trời lên…) của bài hát tiếng Tây “Chanson d’Orphée”

Hứng chí, ông thợ mài dao ôm cây đờn cò “í!a! í!a!…” phụ họa, còn ông thợ hớt tóc thì hai tay thủ hai cái giũa sắt múa “cạch! cạch! cành! cành!…” trên thành cái chậu nhôm chứa nước như một tay trống điêu luyện, lành nghề.

Người qua đường dừng lại mua báo, khách của bác thợ mài dao, khách của bác thợ hớt tóc đứng ngây nghe các bạn tôi đàn hát. Tiếng hát não nuột, tiếng guitar réo rắt, tiếng trống sắt rộn ràng, và tiếng đờn cò nức nở làm cho lá vàng rơi tới tấp trên đường Trần Hưng Ðạo một chiều Thu năm 1989. Mấy bé con tan trường từ một lớp tiểu học gần đó xì xào với nhau: “Nhạc vàng, nhạc ngoại, hay quá trời, lại nghe coi tụi bây ơi!”

Sau khi chấm dứt câu cuối, “Chante chante mon coeur. La chanson du matin. Dans la joie de la vie qui revient…”
(Hát lên, hát lên trái tim tôi. Bài hát của buổi mai. Trong niềm vui vừa trở lại…) thì Hùng chợt hốt hoảng la toáng lên,
– Ủa chi rứa? Bà con làm chi rứa?
Thì ra… bà con qua đường tưởng bốn thằng tôi là gánh hát dạo, họ bỏ tiền vào cái nón của giáo sư Hùng, cái nón nằm ngửa trên bàn!… cái nón đầy tiền loại 20 đồng màu tim tím…

Bốn anh cựu quân, cán, chính, Việt-Nam Cộng-Hòa nhìn nhau, miệng mếu xệch.

Mười bốn năm sau khi Miền Nam sụp đổ, hàng trăm ngàn cựu tù cải tạo đã lẫn vào và như đã biến mất trong cái xã hội hỗn mang, hạ cám thượng vàng. Họ chìm vào giòng đời dưới những bộ mã khác nhau: Ông Thiếu Úy Hải quân thành ông thợ hớt tóc; ông Thiếu Tá Cảnh Sát thành ông thầy dạy Anh Văn lưu động; ông Phó Quận Hành Chánh thành ông mài dao kéo; nhưng cái giá trị nhân bản tiềm ẩn trong con người họ vẫn còn đó. Trái tim họ vẫn không ngủ quên.
Cũng như trăm ngàn đồng ngũ Việt-Nam Cộng-Hòa khác, ngày về của tôi cũng là ngày đầu một cuộc sống mới, đầy ngỡ ngàng. Sau đó, tôi cũng từ từ lẫn vào, và biến mất trong dòng chảy của một xã hội hạ cám, thượng vàng. Tôi bắt đầu xây lại cuộc đời với một chiếc xe đạp thồ.

Cái xe đạp thồ của tôi quả là một con ngựa đa năng, đa dụng. Nó chẳng đòi ăn, đòi uống, nghỉ ngơi, giải trí, chuyện trò gì. Tôi chất bất cứ vật gì lên lưng nó, nó cũng im re, không than van nặng nhọc nửa lời. Nó giúp tôi buổi sớm tinh mơ chuyển hàng cho thân chủ từ Chợ-Lớn về Chợ Bến-Thành. Buổi tối, chở hàng từ Cầu Chữ Y sang đổ nơi bến xe Miền Ðông. Trời nắng chang chang, nó chở tôi và một giỏ cá khô từ Sài-Gòn lên Thủ-Ðức, len lỏi trong những con hẻm ngoằn ngoèo, để tôi rao bán lẻ từng ký cá khô, tôm khô.
Nó chở vợ chồng tôi từ Sài-Gòn đi Thủ -Ðức tới nhà anh bạn Ngô Văn Niếu của tôi để họp mặt anh em cùng khóa 20 Võ-Bị chào mừng mười cựu sĩ quan khóa 20 Võ-Bị mới được tha, trong đó có tôi. Dịp này nơi bãi cỏ đậu xe trước sân nhà anh Niếu, nó được đứng xếp hàng chung với những chiếc xe Dream, Honda, Vespa của các bạn tôi. Tôi thấy chiếc xe đạp thồ của mình có vẻ “oai phong” không kém gì chúng bạn, vì so chiều ngang, chiều dài, nó đâu có kém ai? Nhìn kỹ, tôi thấy nó còn có vẻ “phong trần bạt mạng” hơn mấy chiếc xe máy bóng loáng, kiêu sa, yểu điệu, của các ông bạn tôi nữa đó!

Tôi có anh bạn làm Trung Tá Cảnh Sát. Anh ấy và tôi được thả ra khỏi trại cải tạo cùng giờ, cùng ngày. Nhà anh bạn tôi ở gần Thảo Cầm Viên Sài-Gòn.
Mỗi lần tôi ghé thăm nhà anh, vừa thấy mặt tôi, bà mẹ anh đã đon đả gọi con,
– Bảo ơi! Có “Anh Long Xe Thồ” tới thăm con kia kìa!
Trung Tá Cảnh Sát Phan Trần Bảo, Trưởng Ty Cảnh Sát tỉnh Phan-Thiết là bạn tôi; mấy chục năm sau anh ấy còn nhớ cái tên “Anh Long Xe Thồ” mà mẹ anh ta đã đặt cho tôi.

Trước ngày lên đường đi Mỹ định cư, nếu tôi ra khỏi nhà thì thế nào con ngựa thồ của tôi cũng đi theo. Chỉ khi nào tôi lên rừng tìm vàng, đào thiếc, tôi mới chịu để nó ở nhà.

“Ngựa nào cũng là ngựa, xe nào cũng là xe!” vợ tôi thường an ủi tôi như thế, mỗi khi thấy tôi có vẻ áy náy mời nàng dời gót ngọc lên yên sau con ngựa thồ để tôi chở đi đây, đi đó. Nàng lúc nào cũng giản dị bình thường. Có tôi bên cạnh, vợ tôi hết lo âu, nhìn đời lúc nào cũng đẹp. Sau những chuyến đi dài ngày đào thiếc, tìm vàng trên Cao-Nguyên, tôi trở về Sài-Gòn; vợ chồng tôi lại chở nhau trên lưng con ngựa thồ, lang thang rong chơi quanh phố. Ðường phố Sài-Gòn thời 1988-1990 thênh thang. Khu Nguyễn Cảnh Chân có nhiều giáo sư của Trường Trung Học Hưng Ðạo, nơi đứa con gái thứ nhì của tôi đang theo học. Qua những buổi họp phụ huynh học sinh, cô giáo hướng dẫn lớp con tôi đã quen mặt vợ tôi. Bà cũng biết rõ tôi là sĩ quan Việt-Nam Cộng-Hòa đi tù cải tạo. 

Chắc chắn hình ảnh chiếc xe đạp thồ của tôi bay lượn trong khu Cao Thắng, Nguyễn Cảnh Chân đã lọt vào những đôi mắt tò mò. Một hôm, con tôi về nhà sau buổi học, nó cười: “Sáng nay cô giáo hướng dẫn lớp con vừa hỏi con rằng ba của em đã về chưa? Con nói bố em mới về. Lúc đó cô giáo con mới nói cô có thấy một người đàn ông lạ chở má bằng xe đạp đi qua nhà cô.”

Ðời sống riêng tư của những bà vợ trẻ của sĩ quan chế độ cũ luôn luôn là mục tiêu theo dõi dòm ngó của xóm giềng. Những câu hỏi dò la, tọc mạch, chận đầu, bắt nọn như thế không thiếu trong xã hội này. Tôi chạnh nghĩ, qua mười mấy năm dài, xã hội đảo điên dưới chế độ mới, giá trị của nếp xưa Khổng Mạnh cũng còn là chút gì đáng giá cho người ta lưu tâm. Rồi tôi thấy thương vợ vô cùng. Chuyện xe đạp nổ lốp giữa phố đối với cặp uyên ương này là thường xuyên. Lốp xe nổ, thì vợ chồng nắm tay nhau, dắt xe đi bộ, về nhà, vá lốp xe! Ngựa nào cũng là ngựa, xe nào cũng là xe. Ngày xưa mình đi xe Jeep, ngày nay mình đạp xe thồ; ngựa xe nào cũng dùng làm phương tiện di chuyển có gì mà phải kén chọn, quan tâm? Ðiều quan yếu là: Ngày xưa mình có nhau, ngày nay mình vẫn còn có nhau. Mười ba năm, vật đổi, sao dời, mình còn nguyên vẹn như thế này là quý lắm rồi!

Một hôm có người mang đến cho cặp vỏ xe mới, mừng ơi là mừng! Anh bạn quý của tôi lúc này đang làm “gác-dan” cổng sau khách sạn Continental. Hắn chắt bóp mãi mới được món tiền mua tặng tôi cặp lốp mới. Hắn tên là Lê Văn Chánh, người Huế. Chánh vốn là một cựu sinh viên Dược Khoa Sài Gòn thời 1960s. Hắn có máu đàn ca và đã có lúc viết nhạc bán cho một nhạc sĩ đã thành danh để có tiền đi phòng trà Anh Vũ mỗi buổi tối. Học hành chật vật mãi vẫn chưa thành Dược Sĩ, hắn bị gọi nhập ngũ khóa 15 Sĩ Quan Trừ- Bị Thủ- Ðức để cứu nước. Rồi hắn trở thành sĩ quan An- Ninh Quân- Ðội.

Tôi và Chánh gặp nhau và thân nhau ở Trại Nam-Hà A. Chúng tôi ăn chung mâm, ngủ cùng sạp một thời gian rồi cùng được thả ra cùng một ngày, sau mười ba năm bị giam giữ, tù đày.

Thời mới đi tù cải tạo về, tôi gặp hắn dễ lắm. Cứ đi ngang qua đường Lê Thánh Tôn, tới cổng sau Khách Sạn Continental là thấy chàng ta ngồi nơi góc.
Những lần về phố, tôi đều ghé thăm Chánh. Gặp nhau, bù khú một lúc, hai đứa lại rủ nhau ra tán dóc với anh thợ vá lốp, sửa xe bên đường Hai Bà Trưng. Anh vá lốp xe máy, sửa xe đạp này thời xưa làm Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng Trung -Tâm Huấn- Luyện Chi- Lăng của Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa. Anh ta tên là Hoàng Trai xuất thân khóa 19 Võ-Bị. Ba chàng ngồi bên nhau, chuyện nổ như pháo. Hai bạn tôi chỉ quanh quẩn ở Sài-Gòn, nên thích nghe tôi kể chuyện đường rừng, mạo hiểm, như chuyện đào vàng, đào thiếc, chuyện bẫy khỉ, giữ lô, chuyện khai thác gỗ quý, săn ngải, tìm trầm…

Chánh kể cho tôi nghe rằng, nó có đứa con gái lớn tên là Lê Lâm Quỳnh Như. Cháu Quỳnh Như lớn hơn đứa con gái đầu của tôi một tuổi. Một ngày từ rừng trở về thành phố, tôi nghe bạn Chánh khoe, con gái anh vừa đứng đầu cuộc thi tuyển lựa ca sĩ của Thành Phố Hồ Chí Minh. Phần thưởng mà con anh nhận được là cái dây chuyền 7 chỉ. Chánh nhìn tôi, cười, miệng xuýt xoa: “Thế là có tiền lo thủ tục hồ sơ đi H.O”
Sau đó khá lâu, gia đình Lê Văn Chánh đi Mỹ theo danh sách H.O 16. Qua tới Mỹ thì ca sĩ Quỳnh Như đổi tên là Như Quỳnh, danh tiếng nổi như cồn.

Thời gian đầu, khi Chánh còn cư ngụ ở Philadelphia thì tôi và Chánh vẫn thường xuyên liên lạc điện thoại thăm nhau. Bây giờ thì tình hình đã đổi thay nhiều. Chỉ có tôi và anh Trai là gặp nhau thường, vì hai đứa tôi cùng là cư dân Tiểu Bang Washington. Chúng tôi rất khó tiếp xúc với anh bạn cựu tù Lê Văn Chánh ngày xưa. Nghe đâu, cách đây vài năm, Như Quỳnh mua cho bố Chánh một căn nhà ở Cali, khu cư xá giống như một Fortress City, có rào cản, có cameras, hệ thống alarms cao cấp, security tuyệt hảo, phone của Chánh lại chuyển số luôn luôn, nên tôi và anh vá lốp xe đạp không chuyện trò với anh được. Lâu ngày không nói chuyện với nhau, chắc anh Chánh quên tôi rồi?

Riêng tôi, không bao giờ tôi quên “Chánh Phăng Si Ða”, anh bạn tù sốt rét kinh niên cùng buồng 16 ở trại Nam-Hà A Phủ- Lý của tôi. Sở dĩ Chánh có biệt hiệu “Chánh Phăng Si Ða” chỉ vì lúc nào trong túi anh cũng dự trữ sẵn một vỉ thuốc sốt rét cực mạnh mang nhãn hiệu Fansidar. Không rõ bạn tôi có hiểu rằng, trong mấy năm nay, anh chàng đào vàng trên rừng Nắp Bắc Ðà-Lạt và anh chàng sửa xe đạp trên đường Hai Bà Trưng Sài- Gòn nhớ nhung anh gác-dan Khách Sạn Continental không nguôi?

Những sự mất mát nhẹ nhàng như thế, những hình bóng mờ dần vì vô tình hay cố ý như thế, làm cho tôi thấy thương, thấy quý những giây phút bạn bè khăng khít bên nhau. Bây giờ, những sợi tơ thân thiết cột buộc chúng ta cứ mỏng dần, mỏng dần theo thời gian.
Ôi! Biết tìm đâu? Những ngày xưa thân ái! Biết tìm đâu xứ sở mà Thượng Ðế đã chọn làm một Thiên Ðường? Biết tìm đâu Việt-Nam Cộng-Hòa của tôi?
Vương Mộng Long - K20
Seattle tháng Tư năm 2018
 
 11. VIẾT CHO EM TRAI CHƯA VỀ
     Nguyễn Thái Việt        (30/4/1976)
Hòa bình rồi sao chưa về vậy em
Anh trố mắt nhin lên hàng cờ xanh đỏ
Phất phới bay giữa tiếng hoan hô
Hòa bình rồi, Việt Nam thống nhất
Dân Việt Nam dũng cảm muôn đời
Máy phóng thanh vang lời ca ngợi
Sự thành công vĩ đại hôm nay?
Sự thành công của người Việt Nam
Ba mươi năm trường kỳ kháng chiến
Ba mươi năm rồi, lăn xả gian nan
 
Giặc đã khoanh tay, hàng không điều kiện?
 Anh cũng khoanh tay như người thánh thiện
Tên tù binh giam lỏng quê nhà
Tên tù binh suốt đời kín miệng
Mỗi một lời cân nhắc, so đo
Mỗi một lời đem lên bàn mổ
Đã thành thương, thành tật trong lòng
Hòa bình rồi sao chưa về vậy em
Anh bất chợt nhìn lên
Trời mây đen nghịt
Lằn roi nào nỗi mận trong anh
Lằn roi nào nỗi mận trong em
Những lằn roi cho người bỏ cuộc
Được người đời xát muối trên thân
Ôi! Lịch sử đến bao giờ hiểu được
Những thằng con không chút hận thù
Những thằng một thời chung cuộc
Phơi những lằn oan nghiệt thiên thu
Nguyễn Thái Việt KBC 4906
 sđ 7 bb

10. NHỨT TỰ VI SƯ...

Trong một buổi học tập trong 3 ngày về đường lối chính sách của cách mạng tại địa phương dành cho binh sĩ, hạ sĩ quan “bên thua cuộc”.
Tên cán bộ Đảng ra sức giảng tuyên truyền về chính sách cách mạng...sau hết là phần tôn vinh về con người Hồ chủ tịch. Sau khi giảng xạo xong, tên cán bộ hỏi : “các anh có ý kiến hay thắc mắc gì không...?”
Một anh thuộc “bên thua cuộc” đưa tay xin hỏi “thưa cán bộ, nghe nói Bác Hồ biết 29 thứ tiếng, vậy chắc cán bộ cũng thừa hưởng phần nào di sản của Bác...nhờ cán bộ giải thích cho anh em chúng tôi hiểu 2 câu chử Hán được không ạ...?
Tên cán độ mỉm cười hiu hiu tự đắt trả lời :
-Mời anh nêu 2 câu hỏi.
Anh học viên hỏi câu thứ nhất :
-“Nhứt tự vì sư, bán tự vi sư” nghĩa gì ạ ?
Tên cán bộ trả lời liền không cần suy nghĩ ( biết đéo gì đâu mà suy nghĩ) :
-Này nhé “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” nghĩa là : một chùa cũng có sư, bán chùa cũng là sư. Anh hỏi tiếp câu thứ hai đi.
(Cả lớp học tập bụm miệng lại cười)
Anh kia hỏi tiếp :
-còn câu “Tam nhân đồng hành, tất hữu ngả vi sư” có nghĩa gì hở cán bộ ?
Tên cán bộ nói :
-Dễ vậy mà các anh không biết, này nhé...
“Tam nhân đồng hành tất hữu ngả vi sư” là “Ba người cùng đi chung, người nào té ngả chắc chắn nó là nhà sư..
Các anh còn hỏi gì nữa không ? Nếu không thì buổi học hôm nay đến đây là kết thúc. Cho các anh về, ngày mai học tiếp.
Các anh em “bên thua cuộc” có được một buổi học không thể nào quên.
Các anh em “bên thua cuộc” chửi thầm trong bụng “đéo mẹ... thế mà cũng giải phóng miền Nam...”
7-21-22

 
9. QUAN “CẢI TẠO” VỀ...
Quan “cải tạo” về đạp xích lô
Ngày đạp xích lô, ngày làm hồ
Đêm về...góc phố bán khoai bắp
Những ngày ế khách...đói thấy mồ
Nghẹn nuốt củ khoai...lòng đở đói
Nuốt hoài, lệ chảy...nuốt chẳng vô
Làm thêm vài nghề nuôi hơi thở
Khuân vác, đào mương...chạy xe thồ
7-17-22
 
8. “CẢI TẠO” VỀ...
“Cải tạo” về còng lưng đạp xích lô
Nhớ ngày “giải phóng”....hận lũ  giặc Hồ
Nhờ bây mà cuộc đời tao đổi mới
“Học tập” về...tao học chạy xích lô
Còng lưng...phố phường tao kiếm sống
Nuôi đời đói khát...khóc cơ đồ
Lang thang khắp phố...tao dong ruổi
Lúc mệt ngừng nghỉ...chửi Bác Hồ...
 
7. “HỌC TẬP TỐT” NGHÌN THU VỀ TIÊN CẢNH...
Tù “cải tạo” tháng năm dài kiệt sức
Bị đọa đày, tra tấn nơi rừng sâu
Đám cai tù, quản giáo đánh phủ đầu
Anh gục chết...ôm nỗi sầu uất hận
Xác anh nằm cô đơn nơi rừng rậm
Nơi quê nhà...mẹ nào biết tin anh
Mẹ đâu ngờ sau ngày tàn chiến tranh
Con của mẹ...lá rừng xanh phủ xác
Đi học tập...bẫy tinh vi độc ác
Một tháng về...ai ngỡ hoá ngàn năm
Mẹ chờ anh...suối lệ chảy lặng câm
Bao nhiêu đêm...mẹ âm thầm thức trắng
Tóc từng sợi đã đổi màu bạc trắng
Hơi thở tàn...mẹ yếu rán chờ con
Một ngày kia...niềm hy vọng mỏi mòn
Mẹ lìa đời...con cõi xa nào biết
Chiến tranh tàn...đi “học tập”...ai biết
Học một tháng là xiềng xích thiên thu
Ai có ngờ “học tập” là ở tù
“Học tập tốt” nghìn thu về tiên cảnh...!
7-15-22


 
Vào thời điềm 1984; lúc đó tôi đang ở trại B của A.20 Xuân Phước, những đặc tính thường xảy ra với các trại là: chuyển trại, chuyển nhà hay chuyển "Đội". Mục đích để hóa giải những âm mưu nổi loạn hay vượt ngục cùng những lý do khác....
Thời gian lạnh lùng trôi đi, "Lịch" cứ mỗi ngày mỗi chồng chất không biết khi nào ngừng. Lúc đó một đội Tù gồm 3 Tổ, điều hành đội gồm Đội Trưởng, Đội Phó,Thư ký và 3 Tổ Trưởng.

Sau một lần chuyển đội, hệ thống điều hành, sinh hoạt cũng thay đổi theo. Lúc đó ĐT là Lưu Kim Long, một cựu Đ/U Cảnh Sát, ĐP là Phạm Văn Thận là Th/U, rất thân với tôi, cả 2 tuy còn độc thân nhưng đùa với nhau: "Sau này tôi với Ông sẽ làm Sui Gia với nhau,O.K?". Thế là mỗi lần găp nhau cứ gọi nhau "Ông Sui, ông Sui..." òm cả tỏi làm mọi người phì cười,  "Sao tao mệt với 2 cái thằng SUI này quá..." Sau này qua Mỹ cả 2 đứa mới lập gia đình, khi bắt liên lạc với nhau, mỗi lần gọi phone tôi đều ân cần hỏi thăm: "Này ông Sui, con DÂU tôi nó đã bỏ TÃ chưa ????"

Sau khi chuyển đội, nhân số không thay đổi bao nhiêu nhưng tổ 3 của tôi lại thiếu Tổ trưởng, trong đó có NT của tôi là anh Năm Tấn K.14VB, Tr/Tá Pháo Binh, Trịnh Đình Lâm giáo chức, Hồ Hoàng Khánh Tr/sĩ Người nhái, con Võ sư Hồ Cẩm Ngạc, Nguyễn Thanh Tùng một tù nhân Chính trị bị bắt vì tội chống phá vẹm, ăn cơm chung với Ngọc Đen.

  Lúc đó ông Sui tới gặp và cầu cứu nhờ tôi làm Tổ trưởng Tổ 3, vừa nghe xong tôi dãy nảy liền "Ối giời! ông Sui tính làm tê liệt cuộc đời và sự nghiêp  của tôi sao? Sau này nếu có lỡ dại ra tranh cử Tổng Thống chả lẽ tôi lại khoe: Năm 37 tuổi Cụ đã từng làm Tổ trưởng Tổ 3 Đội 21 tại trại tù A.20 Xuân Phước... Nghĩ tới viễn ảnh đó là tôi hết Điên luôn"

 "Không phải, kêu mấy cha kia, ai cũng né hết, mà không né thì mình cũng không yên tâm, mình cần người biết duy trì được hòa khí và tinh thần của mọi người với nhau." Giằng co mãi cuối cùng cũng phải chiều lòng ông Sui (nếu không mất mẹ nó con Dâu...)

Thế là một trang sử thử thách mới bắt đầu lật qua, công việc điều hành thì không có gì nặng nhọc, chỉ có đầu óc luôn phải chuẩn bị để đối phó với những gì xảy đến.

 Thử thách đầu tiên: Vào dịp chuẩn bị đón Tết, trại chỉ thị thực hiện một tờ Bích báo với sự đóng góp bài vở của các "trại viên", thế là ban trật tự thi đua liền ra chỉ tiêu cho các nhà, các đội làm sao nộp cho đủ 100 bài thơ, văn gì cũng được, theo hệ thống quân giai phân phối từ trên xuống dưới thì mỗi tổ phải góp 2 bài, một tin sét đánh ngang tai, mình đã thuộc loại VÕ chứ không phải VĂN, nhất là viết bài "bốc thơm" thì lại càng không phải nghề của chàng, buổi tối ngồi sinh hoạt hàng tuần với tổ, tôi bắt đầu năn nỉ mấy ông tổ viên, nhất là thầy giáo Trịnh Đình Lâm đúng nghề của chàng, chỉ cần làm bài thơ con cóc, vô thưởng vô phạt nộp đủ chỉ tiêu thế là xong. Rốt cuộc điều phũ phàng đã xảy đến, tất cả đều "khẳng khái" từ chối...

Buồn quá hôm sau tôi khai bệnh xin nghỉ một ngày, tình hình lúc đó nghỉ ở trại chúng không cho đi lang thang mà gom mấy tên khai bệnh vào một nhà, khóa lại chờ các đội đi về mới mở cửa, hôm đó tôi mang theo mấy gói mì qua để "nấu nướng linh tinh" và tán gẫu với nhau, lần này gặp ngay Thầy Đạt, một tu sĩ Phật Giáo ở chung trại Hàm Tân và ngủ cạnh nhau,Thầy đặc biệt 2 bàn chân đều có 6 ngón, Thầy cũng thuộc loại ba gai có hạng, về khoản cãi cọ tay đôi với Vẹm thì khỏi chê, tôi còn nhớ Thầy nằm ngay cửa sổ, cứ 2,3 giờ sáng Thầy thức dậy lẳng lặng ngồi giữa mùng và cửa sổ hướng ra ngoài, ngồi theo kiểu thiền nhắm mắt và âm thầm tụng kinh, lúc đó một tên võ trang đi tuần xung quanh, ngang qua đó thấy Thày đang ngồi, đứng đối diện nó hỏi: "Này anh kia, anh đang làm gì đó?". Thầy vẫn nhắm mắt tiếp tục tụng kinh không trả lời. Nó hỏi đến hơn chục lần vẩn im lặng y chang, tức quá nó bèn xổ bựa: "Này thằng kia ! Mày đang làm gì đó ???". Lúc đó thầy mới từ từ mở mắt ra: "Tại sao cán bộ gọi tôi là mày?" "Ừ, tao gọi mày là mày, mày đang làm gì đó ???"
 "Nếu cán bộ gọi tôi là MÀY thì… TAO cũng gọi MÀY là MÀY !!!!!!!"
Thế là 21 ngày Biệt giam thoải mái.....

 Trở lại câu chuyện, gặp nhau Thầy cười: "Hê Điên, hôm nay bị "Liệt" hả ?"
 "May quá hôm nay có Thầy ở đây thật đỡ buồn, lát nữa mời Thầy ăn sáng với tôi."
Thầy nhận lời, sau khi ăn sáng xong ngồi tán gẫu, chợt nhớ đến vụ bích báo và Thầy cũng thuộc loại thơ văn cao cường. Tôi liền hỏi thầy có biết vụ bích báo không,Thầy nói biết chứ, mừng quá tôi liền cầu cứu :"Thầy có thể cứu tại hạ bằng 2 bài thơ con cóc, vô thưởng vô hại được không? Để nộp cho tụi nó cho xong nợ." Nghe xong Thày cười: "Chuyện nhỏ".

Tôi liền đi kiếm giấy bút đưa cho Thầy, quả thật chỉ trong thoáng chốc,"ngoáy" một cái đã xong 2 bài thơ, đọc thấy cũng hay mà chả liên quan gì đến bọn kia, thế là hí hửng "Giao hàng", thường thì 100 đâu có đăng hết, nó đã trừ hao rồi nên 100 chỉ lấy 50 thôi sau khi đã lọc lựa, thiên bất dung gian, sau khi lọc lựa xong rốt cuộc 2 bài của mình lại được chọn đăng lên đúng là cười "té ghế"......

Một lần khác vì thời tiết mưa gió thất thường trại không cho ra ngoài lao động,
bắt tập trung trên hội trường ngồi chờ cho đến hết giờ mới cho giải tán, trực trại
là một tay sĩ quan cán bộ tên Tiến cấp bậc Tr/úy thuyên chuyển từ Nam Hà vào, tay này thuộc loại Võ biền nên cung cách có phần "phổi bò" hơn mấy tên khác, đỡ nham hiểm. Một hôm muốn đổi không khi, hắn bắt tất cả ra tập họp và tập cơ bản thao diễn, muốn khoe cái tài chỉ huy, điều động của mình và chỉ cho các đội trưởng, tổ trưởng cách hướng dẫn về CBTD.

Khi nghe hắn đứng ban lệnh tôi thật ngạc nhiên vì ngược hẳn với cách thức của QL/VNCH, ban lệnh thường có 2 phần: Dự lệnh và Động Lệnh, phần ĐL được nhấn mạnh và hô to, thí dụ "Thao diễn....NGHỈ" còn bên kia thì "THAO DIỄN......nghỉ", giống như đang Gia Tốc thành Gia Giảm.
Sau đó hắn cho đội đi tới đi lui một hồi rồi bán cái lại cho mấy ông trưởng thay phiên nhau điều khiển còn hắn đứng quan sát, đến phiên mình ra điều khiển tôi nghĩ trong đầu: "Hôm nay mày gặp thứ thiệt rồi con ạ,
ông cho mày biết thế nào là CBTD." Thế là tôi điều khiển hoàn toàn theo
lối của mình, mà trong đội đa số cũng là Quân nhân nên không ai bỡ ngỡ hết,
thế là cả nhóm đi như trong quân trường, răm rắp như đang diễn hành vậy, quay phải, quay trái, đằng sau, đều cùng nhịp hết, tên Tiến lừ lừ nhìn tôi, hắn có vẻ hơi quê độ nên lặng lẽ bỏ đi.

Nỗi cực hình của các Tù nhân cs không phải lao động, mà là mỗi thứ 6 hàng tuần phải ngồi họp phê và tự phê, bình bầu cá nhân xuất sắc, đầu tiên là họp các tổ riêng sau đó mới họp đội, có nhiều tổ sản sinh ra nhiều ông "8" phát biểu lia chia có khi tới nửa đêm chưa xong. Tổ của tôi thì rất lý tưởng, được quy tụ toàn những "Đầu gối" sịn nên mỗi lần họp chỉ chừng 5 phút là xong: "Vâng báo cáo anh, quá trình lao động trong tuần qua tôi nhận thấy tổ chúng ta đều tích cực cải tạo lao động tốt, không có biểu hiện một tiêu cực nào cả, riêng về cá nhân xuất sắc, theo sự quan sát và nhận xét của cá nhân tôi thì anh C lao động rất xuất sắc nên đề nghị (kỳ này) chúng ta bầu cho anh C là CNXS, có ai có ý kiến gì không ? (im lặng) Như vậy chúng ta đã nhất trí và bây giờ giải tán chờ họp đội...."

Trong khi đó bên tổ 2 do anh Tân (T/U cảnh sát) thì đang bình bầu sôi nổi và căng thẳng để rồi xảy ra "biến cố", trong đám tù thường có 2 nhóm, một nhóm thì "an phận" còn nhóm kia thì "Quậy" phá bĩnh, tà tà,"trây lười lao động", khai bệnh liên miên. Bên nhóm an phận thì có anh Nguyễn Văn Bàng bị bắt trong nhóm Hòa Hảo ở Long Xuyên. Anh là một người nông dân thuần túy, mộc mạc, chất phát, có vợ con mà nghèo quá nên gia đình không có khả năng thăm nuôi anh chỉ có một ý nghĩ đơn sơ duy nhất là "Lao động tốt, cải tạo tốt" để được về sum họp với gia đình. Còn bên kia thì có "siêu quậy" Nguyễn Tú Cường chủ trương CNXS nên chia phiên nhau cho đồng đều và cùng chia xẻ với nhau, nhưng anh Bàng không chịu: "Trong tổ này tôi là người lao động và đạt năng suất nhiều nhất cho nên tôi bắt buộc phải là CNXS".

Lời qua tiếng lại đưa đến ẩu đả nhưng mọi người ngăn kịp, tuy vậy sự ầm ĩ này đã không "Ếm" được vì xung quanh còn có các đội khác và "Tai mắt" cũng khá nên sự việc phải đem lên bàn mổ.

Vào buổi họp, ĐT và ĐP chưa biết giải quyết ra sao bèn nghĩ ra kế sách bán cái cho các tổ trưởng lên tiếng trước nhờ đó mới chôm được ý tốt, nhìn hoàn cảnh này tôi hơi ngao ngán, quay qua ngó Tùng nói nhỏ "Lại đầu gối nữa thôi", nhờ tổ 3 nên tôi còn có thời gian soạn bài diễn văn, trong khi 2 tổ trưởng kia đang phát biểu (Cò Dung tổ 1, Cò Tân tổ 2) thì tôi nẩy ra một bài diễn văn "Huề vốn"...
"Anh tổ trưởng tổ 3 có ý kiến gì không ?" Tôi bèn đằng hắng lấy hơi rồi nói :
"Thưa các anh, qua sự kiện đáng tiếc vừa xảy ra giữa anh Bàng và anh Cường tôi xin có ý kiến như sau:
- Về anh Bàng, như chúng ta đều biết anh là một người có sức khỏe tốt và lao động xuất sắc đạt năng suất rất cao,vượt trội hơn ai hết, thì khi anh nhận mình là CNXS thì điều đó rất đúng, anh xứng đáng được như vậy....
- Còn về anh Cường, một người sức khỏe hơi yếu, thường phải khai bệnh để có thuốc uống, và anh cũng nhận mình xứng đáng là CNXS thì tôi thấy điều đó cũng không có gì là......SAI !!!!!
   Vì chủ trương của đảng và nhà nước không đánh giá việc cải tạo, lao động qua yếu tố sức khỏe mà đánh giá ở yếu tố "Nhiệt tình lao động", anh khỏe thì anh làm nhiều, tôi yếu thì tôi làm vừa với sức của tôi thôi, nhưng Nhiệt tình Lao động thì không ai thua ai cả.....
Nhưng có một điều ở đây, các anh và tôi đều có chung một ước mơ mà tôi nghĩ đó là ước mơ đẹp: Một ngày nào đó chúng ta cùng khoác vai nhau, bước ra cổng cùng một lúc, đó chính là dấu ấn không bao giờ phai nhạt trong cuộc đời còn lại của mỗi người trong chúng ta, xin hết"

 Vừa nói xong, nhìn lên thấy nét rạng rỡ của 2 ông ĐT và ĐP: "Tôi rất đồng ý với ý kiến của tổ trưởng tổ 3...". Trong khi đó quay qua bé Tùng tôi lắc đầu nói nhỏ: "Sao tao mệt quá....". Thằng Bé cứ tủm tỉm ......

 Qua đây chúng ta thấy rằng làm chức sắc trong tù không phải là cái tội, đó chỉ là bất đắc dĩ không có lựa chọn nào khác, một đội toàn cấp Tướng,Tá. Anh có tìm đâu ra một anh cấp Úy hay Hạ SQ để bán cái làm chuyện đó. Điều chúng ta muốn nói, làm chức sắc nếu vẫn giữ được Nhân Cách, Danh Dự, duy trì được Hòa Khí và Tinh Thần Đoàn Kết với nhau thì đó cũng là CHIẾN ĐẤU.

5. Ra Khỏi Tù - Thuc Thai Le
 
Một ngày đẹp trời đâu năm 1978, tôi được tha tù từ trại cải tạo Bù Gia Phúc tỉnh Phước Long. Hành trang gọn nhẹ gồm 2 bao cát, một bao đựng gạo ăn đi đường 7 ngày do trại cấp, mỗi ngày 6 lạng gạo (cộng tiền ăn, tiền đi xe về Huế), một bao đưng áo quần.
Ra khỏi cổng trai, có ngay xe đò về Phước Bình, chúng tôi 7 người, chiếm 1/3 hành khách trên xe, nhưng khi trả tiền thì chủ xe nhất định không lấy, nói là để mừng các anh về với gia đình, mặc dù chúng tôi đã nói rõ là nhà nước đã cấp cho chúng tôi đầy đủ tiền xe và tiền ăn đi đường.
 
Đến Saigon, tôi và anh bạn cùng làng đi bộ từ cầu Trương Minh Giảng vào hẽm bên hông ĐH Vạn Hạnh về nhà chị tôi thuê ở cuối hẽm, mỗi đứa gánh tòn ten hai đầu hai bao cát hành lý. Vào nhà, chị êm mới hỏi han đôi câu, chưa kịp uống ly nước, thì có hai bà xồn xồn đẫn theo một bé trai đến la lối: “các anh đi đường xô ngã con tôi té u đầu mà cứ bỏ đi”. Tôi cũng không biết anh em tôi có vô ý đụng cháu bé hay không, nhưng cũng “xin lỗi hai chị, chúng tôi đi học tập cải tạo mới được tha, nóng lòng về nhà nên đi vội, không biết đã va phải cháu”. Nghe thế hai bà lập tức dịu giọng “các anh mới cải tạo về, thôi, các anh nghỉ ngơi, tôi đem cháu về xoa dầu cũng đươc.” Chị tôi lấy chai dầu Nhị Thiên Đường đưa ra, nhưng hai bà không lấy và dẫn cháu bé ra về.
 
Trãi qua hơn bốn mươi năm, tôi vẫn thắc mắc: không biết chúng tôi có vô tình đụng phải cháu bé ngã không? Hay chỉ là một màn ăn vạ vì thấy chúng tôi đi dép lốp, áo quần loi thôi, lại gánh gồng tòn ten, tưởng lầm là dân ngoài Bắc vào thăm cán bộ, bộ đội. Nên khi biết chúng tôi là dân cải tạo thì vui vẻ ra về.
Dù sao thì chúng tôi vẫn tri ân sự chân tình của người miền Nam, người Saigon đối với người học tập cải tạo trở về.

"Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời...", hàng ngàn tù nhân, SQ QLVNCH, đã hát vang bài Thánh Ca trong Đêm Giáng Sinh 1978.
Tôi ở K3  B3 có hai người bị thương nhẹ,một là Anh Mùi ,Trưởng B3 và một người nữa.Anh Trần đình Ngọc thuộc Đại đội 82 từ KQ sang ,tôi đi Delo năm 72 tái chiếm QT,người chiếm căn cứ Barbara
(fb An Nguyen) 
==========
Có nhiều người vẫn cho rằng, thời gian và sự thay đổi hoàn cảnh cuộc sống sẽ là phương thuốc tiên tạo cho người ta quên đi quá khứ hoặc giả một biến cố nào đó đã đến với chính bản thân mình, nhưng đối với cá nhân tôi, thì đã 30 năm trôi qua, một chặng đường khá dài đối với đời người và nhất là hiện tại, đang sinh sống có thể gọi là tạm ổn định ở vùng đất Hứa, một đất nước được xem là xứ sở hàng đầu của tự do dân chủ nhất thế gới, thì cá nhân tôi, những gì xảy ra trong Đêm mừng Chúa Giáng sinh, cách đây tròn 30 năm vẫn là một dấu ấn không bao giờ phai nhạt.
Tháng 7 năm 1978, tôi bị chuyển về trại tù Suối máu, Biên Hòa, nơi đây trước 1975 từng là trại giam tù binh cộng sản, còn gọi là trại tù Tân-hiệp, trại có tất cả 5 phân trại, còn dược gọi là "K". Vào tháng 12 năm 1978, bộ đội gia cho Công-an quản lý trại giam, trong khi bên ngoài bộ đội CS đang chuẩn bị tấn công cướp đất ở Cam Bốt thì trong trại tù, những tin tức sốt dẻo từ bên ngoài chuyển vào trại khiến anh em lên tinh thần và cũng nhiều giao động. Để đáp ứng với những chuyện có thể xảy ra, anh em tù nhân đã âm thầm thành lập Ban hành động để chuẩn bị đối phó với mọi tình huống.

Lúc này tôi đang ở K.1, tôi còn nhớ ban hành động của K1 có anh Trần đình Ngọc, anh Nguyễn ngọc Tiên, anh Lê ngọc Diệp, và một số anh em nữa mà tôi không nhớ tên. Nhờ có tổ chức này mà một số thành phần phản bội, đã bị anh em lột mặt nạ, một số bị trừng phạt. Trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ muốn viết về biến cố Đêm Giáng Sinh, một biến cố mà cho đến nay, tôi chắc rằng tất cả các anh em có mặt đêm đó đều không thể quên và thật hãnh diện vì đã làm được.

Riêng tôi, vẫn cảm thấy hãnh diện vì đã góp được phần mình vào việc tổ chức đêm đó.

Để chuẩn bị tổ chức đêm Giáng Sinh, cá nhân tôi được ban hành động giao trách nhiệm chuẩn bị thực hiện Bàn thờ và hang đá Chúa Hài Đồng. Tôi xử dụng hai tấm đắp của trại phát, may lại để hình thành một tấm phông vuông vắn và cắt chữ " VINH DANH CHÚA CẢ TRÊN TRỜI" dán lên trên phông. Để làm tượng Chúa Hài Đồng tôi cùng hai bạn tù là Điệp và Giờ, lấy đất sét và bùn chung quanh trại, lọc ra để lấy dất dẻo làm tượng. chúng tôi đã làm việc mất một tuần lễ, vì ban ngày phải đi làm, đến tối về mới có thì giờ làm, trong khi làm vẫn phải nhờ anh em khác canh chừng bọn Công-an kiểm soát.

Thoạt đầu ban Hành động đặt ra với chúng tôi, những người thực hiện hang đá Giáng sinh là phải nghiên cứu để tạo dựng một bàn Thờ và hang đá thật dã chiến, nghĩa là có thể tháo gỡ thật nhanh trong trường hợp báo động có tụi Công-an vào. Tuy nhiên sau đó ban Hành-động đã thay đổi ý định và cho làm cố định, bất chấp sự có mặt của tụi Công-an sau đó. Lúc đó tôi không rõ lý do tại sao ban Hành-động lại thay đổi ý định như vậy, tôi đã nghĩ rằng chắc anh em muốn làm làm một hành động như một thách thức, hay ít ra cũng nhắn một thông điệp cho bọn cai tù rằng: chúng tôi sãn sàng đối đầu, chúng tôi không chịu khuất phục... và lúc đó chúng tôi đã thi hành, không thắc mắc. Mấy anh em phụ làm lúc đó đã hào hứng la lên: "Tới luôn, tới luôn bác tài.."

Vào buổi tối 24 tháng 12, khi chương trình Mừng Giáng -sinh bắt đầu lúc 9 giờ. Thánh lễ mặc dầu không có Linh-mục chủ tế như thường lệ, nhưng có Linh-mục Thông, nguyên là Cha phó sở nhà Thờ Đức Bà Sai gòn, cũng đang bị giam bên K.3, Ngài đứng bên kia hàng rào thông công với anh em K.1. buổi lễ thật sốt sắng, trang nghiêm, và cảm động vì đã lâu anh em không được tham dự thánh lễ và hát nhạc Giáng- sinh một cách thoải mái như vậy.

Khi thánh lễ gần xong, thì anh em bên ngoài chạy vào thông báo, có Công-an bên ngoài vô. Anh em vẫn bình tĩnh tiếp tục Thánh-Lễ. Ba bốn tên công-an vác súng đị vô, nhưng có lẽ chúng thấy anh em dự Thánh Lễ quá đông, nên chúng đã quay trở ra và không nói gì.
Khoảng 5 phút sau, chúng lại kéo vô, lần này chúng vô đông hơn khoảng 7 hay 8 tên, có cả tên thủ trưởng của chúng. Tên thủ trưởng đến tận bàn Thờ và hỏi: " Ai là người tổ chức?" nhưng tất cả anh em không ai lên tiếng. Sau nhiều lần hống hách quát hỏi, nhưng không ai trả lời, tên Thủ trưởng ra lệnh đám thủ hạ đi theo bắt 3 anh em đang ngồi ở hàng ghế trên cùng, sát với bàn Thờ. ba anh em đó là : anh Hoàng, anh Rĩnh và anh Bé.

Chúng đưa ba anh ra ngoài trại. Tất cả anh em lúc ấy không ai bảo ai, dồng loạt đi theo và ra dến tận cửa sân trước của K.1, tập họp ngay trước cổng ra vào của tại, đòi thả ba người vừa mới bị bắt dẫn đi, song song đó, qua các hàng rào, chúng tôi đã thông báo sự việc ở K.1 cho các bạn đồng tù K.2 và nhờ K.2 thông báo đi các K. khác, để yêu cầu các anh em ở K. khác đồng loạt ra khỏi phòng, tập trung ở sân chính của mỗi K. và đồng thanh hát liên tục bài hát Đêm-đông.
 
Tôi cũng muốn nói thêm về Tượng Chúa Hài-Đồng. Sau khi đám công an trước quay trở ra. có lẽ nhận ra sự nguy hiểm xảy ra nếu bọn Công-an quay trở lại, và xúc phạm đến tượng Chúa, khiến có thể phải đổ máu, nên anh Điệp đã mau mắn đem tượng Chúa cất đi.
Tôi không ngờ anh Điệp lại đem tượng Chúa đến chỗ tôi nằm, lấy chăn mùng của tôi quấn lại để đó rồi ra sân trước tập họp với anh em. khi tôi trở về chỗ mình, thấy vậy tôi vội ôm tượng chúa ra sau nhà, bẻ ra thành từng mảnh nhỏ và đào lỗ chôn xuống đất (tượng Chúa bằng đất còn ướt nên dễ dàng bẻ ra mảnh nhỏ). Sau đó tôi và Diệp dẹp và cất các vật liệu làm bàn thờ để phi tang các dấu vết.

Trong khi đó anh em toàn trại gồm 5 K đều đã tập họp ở sân chính của mỗi trại, tiếp tục ca hát, yêu cầu thả 3 người bị bắt.

Phía bên ngoài các trại đã bắt dầu thấy xuất hiện của một số M 113 có gắn súng đại liên và đông đảo Bộ đội cộng-sản xuất hiện, súng trực diện vào trong các phân trại, như đang chuẩn bị "công đồn đả viện".
Sau này chúng tôi được biết, khi thấy toàn thể trại giam, anh em tù nhân tập họp ngoài sân chính để ca hát, đòi thả tự do cho những người bị bắt, ban Giám thị trại dã kêu cầu cứu Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Biên-Hòa tăng phái các đơn vị Bộ -đội và lực lượng cơ giới đến để tiếp sức dập tắt cuộc nổi dậy.

Riêng phân trại K.1 không có việc nổ súng, nhưng ở những phân trại có tiếng súng nổ là để thị uy.
Khoảng 1 giờ sau, tên thủ trưởng K1 đứng bên ngoài vòng rào, ngay cửa chính yêu cầu anh em cử đại diện ra để thương thảo. Phía bên trong, các thành viên ban hành động, đứng trong bóng tối nói vọng ra là "anh em chỉ giải tán khi trại thả ba người mới bị bắt giữ (một số anh em đã lớn tiếng la lên" Không ngu, không ngu"), đôi bên đôi co qua lại khá lâu, một đằng Cán bộ trại đòi anh em giải tán họ mới thả người mới bị bắt. Trong khi đó ngược lại, ban Hành động ở trong bóng tối thì đòi trại thả người trước, anh em giải tán sau, chứ không chịu giải tán với lời hứa khơi khơi, không có hạn định bao giờ sẽ thả các người bị bắt giữ.
Việc giằng co kéo dài cả tiếng, cuối cùng trại đề nghị là anh em vô nhà lán hết, ba phút sau trại sẽ thả 3 người bị bắt giữ. Kết quả cán bộ trại chịu thua, sau khi tất cả anh em người nào ở nhà nào về nhà đó, đúng 3 phút sau thì 3 anh Hoàng, Ring và Bé dược thả vào trại.

Nguyên cả tuần lễ sau, kéo dài qua tết Dương lịch, tình hình toàn bộ các trại yên tĩnh, tuy Bộ đội và cơ giới tăng cường vẫn còn duy trì. sự yên tịnh kéo dài cả hai tuần lễ sau, và Cộng- sản bắt đầu việc thanh trừng, cán bộ đọc danh sách một số anh em gọi là " Cải tạo tốt" được cho về với gia đình, rồi dụ dỗ những người này khai báo. Chiến dịch gọi tên cho về để dụ dỗ kéo dài cho đến hết năm sau. Nhưng thực tế, lúc bấy giờ cũng không ai biết được những người được gọi tên "có thực sự được thả tự do hay không" hay là được chuyển sang một trại khác, sau khi bị Cán- bộ dụ dỗ khai báo về việc tổ chức nổi dậy đêm Giáng-Sinh.
Sau mỗi đợt gọi là "Sổ xố" này, là có một số anh em bị biệt giam kỷ luật, rồi sau đó những người được gọi này, kẻ thì được chuyển về khám Chí-hòa, người bị đưa đi trại Hàm-Tân, hoặc Xuân-Phước ở Phú Yên.
Về sau, khi tên Đào-Lượng, trưởng trại Suối-Máu và khu E Chí -Hòa, được anh em đặt tên cho là "Bò Rô-ti" bị kết tội hủ hóa, lột lon giam chung với một số anh em ở Tống Lê Chân cho biết, dù ban giám thị trại giấu nhẹm việc nổi dậy ở trại Suối Máu, tuy nhiên Trung ương và Bộ Chính-trị ĐảngCSVN cũng biết được. Bộ nội vụ đã tổ chức cuộc thanh tra tại Suối máu. tất cả diễn biến liên quan dến việc nổi dậy được thu thập soạn thành tài liệu để cho các cán bộ trại thuộc cục quản lý Trại-giam của Bộ Nội-vụ học tập" rút tỉa kinh-nghiệm".

Cũng xuất phát từ cuộc nổi dậy của anh em tù nhân trại Suối-Máu , CSVN đề ra những biện pháp mới để bảo đảm an ninh vào những ngày lễ quan trọng củaVNCH qui định trước đây, đặc biệt là ngày Lễ Giáng Sinh.

Hồi tưởng lại cuộc nổi dậy ở trại Suối Máu 30 năm trước đây, của anh em tù nhân, vốn hầu hết là những sĩ-Quan trong QLVNCH. đã thực sự làm rúng động bộ chính trị và những cơ quan đầu não của của những người cai trị, trong lịch sử hình thành chế độ Cộng-Sản, từ trước chưa hề có một nhà tù nào do Cộng sản quản lý mà lại xảy ra một cuộc nổi dậy, như đã xảy ra tại trại Suối Máu, chỉ trong vòng một vài tiếng, đồng loạt hơn 5 ngàn tù nhân của 5 phân trại cùng nhau bày tỏ thái độ, khiến không những ban Giám thị hoảng sợ, mà ngay cả Tỉnh ủy Biên-Hòa cũng hoảng hốt, phải tăng cường cả M.113 và cả Sư đoàn súng ống để phong tỏa" nội bất xuất ngoại bất nhập" toàn bộ trại tù Suối Máu.

Giờ đây sau 30 tháng tư 1975, bên cạnh những thương đau tủi nhục của hàng triệu Quân, Dân, Cán chính VNCH trong chốn lao tù khổ sai của CSVN thì cuộc nổi dậy của tù nhân Suối-Máu vào Giáng-Sinh 1978 là một Trang Vàng, một vòng Nguyệt- quế đã thể hiện và nêu cao sự hào hùng, bất khuất của người chiến sĩ VNCH vẫn hiên ngang không hề khiếp sợ.
30 Năm hay nhiều hơn nữa thì mỗi năm, vào mùa Lễ Giáng Sinh, dù ở bất cứ phương trời nào thì người Cựu tù Suối-Máu vẫn không sao phai mờ được ấn tượng của mùa Giáng Sinh 1978./.
==========
Trong hình: cựu tù Suối Máu họp mặt.

 
3. NGÀY MỌI RỪNG “GIẢI PHÓNG”...
 
Đi tù về...còng lưng nuôi cuộc sống
Chút hơi tàn gắng gượng nuôi vợ con
Giọt mồ hôi đẫm ướt thân thể mòn
Bao năm tù héo hon “bên thua cuộc”
Những cuốc xe nơi thành phố quen thuộc
Mà giờ đây xa lạ quá hoang man
Dân lầm than trong đất nước thiên đàng
Kể từ ngày giang san bị phỏng giái
Nhớ chuyện xưa...ôi lòng đau tê tái
Quân lệnh nào...để giặc cướp quê hương
Tàn cuộc chiến...không máu đổ chiến trường
Nhưng cả quê hương...giờ giặc nhuộm đỏ
Lòng sao quên chuyện đau thương ngày đó
Lũ giặc vào “giải phóng” nát giang Sơn
Mắt miền Nam rực ánh lửa căm hờn
Mang hận lòng ngày mọi rừng “giải phóng”
3-26-22
 
Ảnh: Võ sư Lê Sáng và võ sư Sáng tổ Nguyễn Lộc (phải)
Sau 1975, võ sư chưởng môn đi tù mất 13 năm(1975-1988) và các võ đường Vovinam(Việt võ đạo) năm 1990 mới được phép hoạt động trở lại
Cho đến nay, tôi vẫn không biết lý do ông vào tù nhưng với số năm tù của ông thì có thể đoán ông có một chức vụ cao trong chính quyền Việt Nam Cộng Hoà
Chuyện đi tù cải tạo của võ sư Lê Sáng, chưởng môn Vovinam
Tác giả: Vũ Ánh
Tôi biết Võ sư Lê Sáng Chưởng môn phái Việt Võ Đạo tức Vovinam từ lúc còn mới chập chững bước vào nghiệp báo bổ qua lời giới thiệu của một môn sinh của ông lúc đó mới mang chuẩn Hồng đai Nguyễn Đức Quỳnh Kỳ. Sau đó có một vài lần đến võ đường của Vovinam gần nơi tôi làm việc để xem Quỳnh Kỳ dạy võ cho các môn đệ của anh và đến tổ đường Vovinam ở 31 đường Sư Vạn Hạnh để xem Quỳnh Kỳ học võ với võ sư Chưởng môn Lê Sáng.

Rồi sau đó, miệt mài với nghề nghiệp, với chiến trường nên tôi không còn hình ảnh nào với môn phái này nữa suốt trong thời gian chiến tranh.
Cho mãi đến năm 1976, khi tôi từ biệt giam ở nhà tù Chí Hòa ra ngồi tù ở phòng tập thể số 14 khu ED thì gặp lại võ sư Lê Sáng.

Khoảng thời gian này, buồng giam 14 khu ED là một buồng giam có nhiều điểm đặc biệt về tù nhân. Chẳng hạn như trong số hơn 60 tù nhân, có cựu Thủ Tướng VNCH Phan Huy Quát và con trai là Phan Huy Anh, Phó Đại sứ Nam Hàn tại VNCH (rất tiếc tôi đã quên mất tên vị này), linh mục Trần Hữu Thanh (người cầm đầu phong trào tố cáo tham nhũng), Võ sư Suzuki một người Nhật nhưng quốc tịch Việt Nam chuyên dạy môn karate cho cảnh sát quốc gia và quân đội VNCH, Chủ tịch Dân Xã Đảng Phan Bá Cầm, cụ Nguyễn Phan tổng giám đốc công ty bột giặt NET, Lưu Nhật Thăng, một chủ báo Hoa ngữ ở Chợ Lớn từng là thư ký của Kim Dung, nhà văn chuyên viết tiểu thuyết kiếm hiệp nổi tiếng ở Hong Kong, ông Tám Mộng người được nói là cầm đầu một trong những lực lượng vũ trang của Phật Giáo Hòa Hảo, ông Nguyễn Thế Thông giáo sư Anh văn rất nổi tiếng của Saigon vào thời đó.

Năm 1976, ghẻ bắt đầu hoành hành tại khắp các khu ở nhà tù Chí Hòa và riêng buồng 14 khu ED. Ghẻ kềnh ghẻ càng, ghẻ khủng khiếp. Ghẻ làm da hư hại nặng có thể gây tử vong, và một trong những nạn nhân đầu tiên của dịch ghẻ là cựu Thủ tướng Căm Bốt Sơn Ngọc Thành.

Trong buồng giam chỉ có võ sư Lê Sáng là coi như bị nhẹ nhất chỉ ở kẽ ngón chân và ngón tay. Có lẽ thấy ông còn mạnh và quắc thước nên ghẻ có vẻ kiêng nể ? Vì phòng chật và nóng như lò than nên ban đêm Lưu Nhật Thăng thường dựa vào tường ngủ đứng, còn võ sư Lê Sáng thì ngồi tập và điều tức rất kín đáo tại chiếu nằm của mình. Ông tránh để giám thị canh gác phòng giam nhìn thấy ông tập, bởi vì vào thời đó, nếu bọn coi trại giam biết ai có võ chúng sẽ gây phiền hà vô cùng.
Ông ít nói chuyện, hay ngồi trầm ngâm với chiếc điều cầy. Nhưng với đám tù chính trị còn thanh niên như chúng tôi thì ông không ngại gì khi giảng giải về phái võ mà ông là Chưởng môn.

Võ sư Lê Sáng không bao giờ đề cập đến quyền cước của môn phái mà ông chỉ nhấn mạnh đến tinh thần của nó. Ông nói nhiều đến điều gọi là “cách mạng tâm thân” để giữ vững tinh thần anh em chúng tôi và để hướng về tương lai. Võ sư thường nhấn mạnh : “Ở trong tù, đói khát như thế này thì làm sao gia đình thỏa mãn nhu cầu cho chúng ta được. Phải biết sống về tinh thần. Thực phẩm chỉ là phụ đệm”.

Dĩ nhiên, chúng tôi hiểu rằng nói thì dễ nhưng làm rất khó. Nhưng nhìn dáng dấp ông lúc nào cũng vững chãi, đường bệ, với hàm râu dài, nụ cười rất tươi, đôi mắt sáng quắc, ăn nói không thừa, không thiếu, giọng nói mạnh, sang sảng nhưng ôn tồn, lịch sự ngay cả khi trả lời những câu hỏi rất thiếu giáo dục của bọn cán bộ trại giam, chúng tôi vững tin ở cách rèn luyện tinh thần mà ông thường chỉ dạy cho anh em trẻ chúng tôi.

Võ sư Lê Sáng là người rất uyên bác về thơ đường. Có nhiều buổi tối ông ngâm thơ Đường cho chúng tôi nghe, nhưng anh em thích nhất là khi ông ngâm bài “Hồ Trường”. Nhiều anh em đã không tránh được ngậm ngùi mỗi lần nghe ông ngâm bài thơ này. Ông cũng ít kể chuyện, nhưng khi nghe ông kể chuyện kiếm hiệp của Kim Dung hay kể về bộ Tam Quốc Chí, anh em trong buồng giam theo dõi một cách hào hứng, có thể quên đói và quên hẳn cảnh tù đầy.

Sống trong môi trường bị giam hãm như vậy, mỗi hành động của những tù nhân nổi tiếng trong buồng giam 14 khu ED đều bị chú ý. Chẳng hạn như cứ vào mỗi buổi sáng, vị phó đại sứ Nam Hàn sửa lại bộ quần áo tù cho chỉnh tề rồi ông bước lại chiếu nằm của ông Phan Huy Quát bắt tay vị cựu thủ tướng này, cúi gập đầu xuống để chào và sau đó hai người mới thăm hỏi sức khỏe của nhau. Võ sư Lê Sáng nói với chúng tôi : “May ra mà trong cảnh nhiễu nhương hỗn tạp, giậu đổ bìm leo này, trong buồng giam còn có được những hình ảnh đẹp đẽ của nền văn minh”.

Khi chúng tôi bị chuyển lên trại Hàm Tân Z-30C vào những tháng đầu của năm 1977, đám lính giải giao thường dùng dây xích cứ 5 người một rồi khóa vào chân ghế ngồi trên những chiếc xe đò.

“Xâu” đầu tiên được đưa lên xe gồm những người mà tôi còn nhớ rõ, đó là Võ sư Lê Sáng, ông Phan Bá Cầm, nhà báo Lâm Tường Dũ, Đoàn Bá Phụ (cựu trung úy Nhảy Dù) và tôi. Lên đến trại Hàm Tân, chúng tôi và Võ sư Lê Sáng vẫn được phân phối vào một trại lao động. Sau khi ở Hàm Tân Z-30C được vài tháng thì võ sư Lê Sáng bị dẫn vào nhà kỷ luật và bị cùm lần thứ nhất trong đời tù chỉ vì ông có bộ râu dài.

Viên cán bộ an ninh trại cho gọi thợ hớt tóc (cũng là mấy anh em tù cải tạo) đến. Võ sư Lê Sáng ôn tồn : “Cán bộ muốn cạo thì xin cứ thi hành, nhưng tôi không vi phạm nội qui của trại, cán bộ nên nhớ như thế nhé”. Ông đứng im lặng như một gốc cây, mắt sáng quắc nhìn thẳng vào mặt Tý. Nhưng khi thợ hớt tóc vừa đến gần ông thì Tý gọi giật lại : “Thôi. Cứ để cho anh ấy để râu nhưng đem cùm xem có chịu cạo râu không”. Võ sư Lê Sáng bị cùm hai tuần lễ nhưng kể từ sau đó không ai trong trại giam còn để ý gì đến râu tóc của võ sư Lê Sáng nữa.

Khó khăn thứ hai của Chưởng môn Việt võ đạo là do chính tiếng tăm của ông. Không hiểu nhóm công an vũ trang chuyên canh gác tù ở các bãi lao động bàn tán với nhau như thế nào mà không một tên nào dám đi gần ông. Tại bãi lao động, một tù cải tạo phải đứng cách xa lính canh 5 thước, khi phải báo cáo xin đi tiểu tiện, nhưng riêng võ sư Lê Sáng phải đứng cách vệ binh 10 thước. Biết được điều đó nên võ sư Lê Sáng rất thận trọng trong đi đứng tại bãi lao động để tránh hiểu lầm. Một lần buổi sáng tập họp trước cộng trại giam để xuất trại đi lao động, võ sư Lê Sáng bị kêu ở lại trại để “làm việc”. Buổi trưa khi lao động về, chúng tôi túm lại hỏi ông xem có chuyện gì, nhưng ông chỉ cười và nói : “Chẳng có chuyện gì cả. Vài học trò cũ của tôi từ Bắc vào thăm”.

Sau này, trong những lúc ngồi nói chuyện riêng tư vào những ngày nghỉ lao động, võ sư Lê Sáng cho biết là Hà Nội nghe tiếng ông, muốn vào thăm ông và cho người thử thách, nhưng ông từ chối vì, theo lời ông, “tôi học võ để rèn luyện tinh thần, không phải là để thi đấu, tôi là chưởng môn mà còn đi dương danh là một lỗi lầm với môn phái, tôi không làm điều ấy”.
 
 Chúng tôi ở với nhau ở Hàm Tân Z-30C đến năm 1979 thì bị chuyển trại theo phương án 4 tức được lọc lựa ra và đưa vào danh sách “chết” tức là danh sách không thể cải tạo được, và không bao giờ được xét tha theo quan điểm của trại giam. Thế là đang đêm chúng tôi lại bị gọi tên, bị xiềng đưa lên xe đò và đưa lên A-20 Xuân Phước, tức trại trừng giới.

Tôi đã viết khá nhiều điều về trại này, nên ở đây tôi chỉ nói đến hoàn cảnh của Chưởng môn Việt võ đạo khi bị đưa đến cái trại nổi tiếng khủng khiếp này trong suốt giai đoạn I, từ 1980 cho đến cuối 1988. Đến A-20 được 3 tháng thì Chưởng môn Vovinam Lê Sáng vào cùm ngay. Lần vào cùm này không do bất cứ một lỗi lầm về nội qui của võ sư Lê Sáng mà chỉ vì ông được sự kính nể và quí mến của anh em trong trại từ tập trung cải tạo, tù chính trị có án hay tù hình sự, ở cách ông cư xử và chia sẻ đói khổ với anh em, ở tinh thần vững chãi để đối phó với mọi hoàn cảnh khó khăn cùng quẫn trong tù, ông cũng không hé ra một lời nào có thể xâm hại đến người khác.

Trong bối cảnh này, bọn trại giam nhắm vào việc triệt hạ những thần tượng của tù cải tạo. Cũng chỉ vì thế mà Chưởng môn Việt võ đạo Lê Sáng vào cùm hết một năm. Khi ra khỏi nhà kỷ luật, sức khỏe của cụ có sa sút, nhưng giọng nói vẫn sang sảng và đôi mắt vẫn sáng quắc. Ra khỏi nhà kỷ luật hôm trước thì hôm sau ông đi lao động ngay. Võ sư Lê Sáng nói : “Ra ngoài cho khỏe”. Quả thật sức khỏe của võ sư Chưởng môn Vovinam phục hồi rất nhanh. Ông nói : “Vì khí trời”. Khi võ sư Lê Sáng về tiếp tục sinh hoạt ở đội lao động được vài tuần lễ thì tôi cùng một số bạn khác vào nằm cùm mãi cho đến năm 1985 mới gặp lại võ sư Lê Sáng tại phân trại B của A-20 để chuẩn bị chuyển trại.

Trước Noel 1985, chúng tôi chuyển trại về Z-30A nằm trong phương án đặc biệt mà Hà Nội đã thỏa thuận với Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, đó là thỏa thuận về chương trình HO. Võ sư chưởng môn Việt Võ Đạo Lê Sáng được thả tại Z-30A, trước thời gian tôi cũng như một số anh em khác từng làm tờ Hợp Đoàn, tờ báo chui ở A-20 bị “điệu” về trại Phan Đăng Lưu để chờ ngày ra tòa. Nhưng cuối cùng, vụ án được hủy bỏ và chúng tôi được đưa trở lại Z-30A tiếp tục nằm trong nhà kỷ luật.
Năm 1988, tôi được thả về và ít lâu sau có đến tổ đường của Vovinam trên đường Sư Vạn Hạnh để thăm võ sư Chưởng môn. Lúc này tổ đường Vovinam đã được củng cố. Các môn sinh người ngoại quốc từ Âu châu và các môn sinh Vovinam từ khắp Việt Nam đã lục tục kéo về để ra bái lậy Chưởng môn. Trong câu chuyện thăm hỏi tôi, ông cứ nhắc mãi đến “cách mạng tâm thân” và tính nhân bản của Việt võ đạo.

Bây giờ, cụ Lê Sáng đã ra người thiên cổ. Cụ thọ 91 tuổi. Trong bức hình chụp Võ sư Lê Sáng mà các bạn ở Việt Nam gởi cho, tôi thấy đôi mắt võ sư Chưởng môn Việt võ đạo vẫn sáng quắc như ngày nào.

Tôi viết những kỷ niệm trên với Võ sư Chưởng môn Việt võ đạo trong thời tù để gọi là đại diện cho một số anh em cựu tù của trại Hàm Tân Z-30C, A-20 và Z-30A bái vọng cố quốc để tiễn đưa cố võ sư Chưởng môn. Bởi trong những đêm tối ấy, ông vẫn như ngọn đèn sáng dẫn dắt tinh thần anh em chúng tôi. Cố võ sư Chưởng môn là một người cả đời hy sinh cho Việt võ đạo và đây cũng là lý do ông cụ không bao giờ lập gia đình.

Tuy nhiên, cụ có rất nhiều đứa con tinh thần vì trong tù chúng tôi đều gọi Võ sư Chưởng môn Vovinam là bố, “Bố Lê Sáng”. Vả lại ngày nay, trên khắp thế giới, hàng chục ngàn môn sinh Vovinam cũng đang thổn thức vì những mất mát không có gì bù đắp được cho môn phái vì sự khuất bóng của Võ sư Chưởng môn.
Ảnh: Võ sư Lê Sáng và võ sư Sáng tổ Nguyễn Lộc (phải). Ảnh tư liệu
 
Chúng tôi cưới nhau vừa được hơn 3 năm thì Ngày 30 tháng Tư đến...

Lúc đó tôi vừa 28 tuổi và có hai con: Cháu gái vừa lên hai và cháu trai chừng 5 tháng. Cũng như hàng ngàn, hàng vạn người khác trước đây, đã từng đi lính hoặc làm việc với chính quyền cũ, chồng tôi cũng được gọi đi học tập về chế độ mới.  “Chừng 10 ngày thôi…”, họ trấn an chúng tôi như vậy...!”

Chồng tôi đi học tập 9 năm. Tôi đi thăm nuôi được khoảng mươi lần. Mỗi lần đi là tốn khoảng 10 đồng tiền xe, chưa kể tiền mua và chuẩn bị thức ăn cho anh, trong khi lương giáo viên của tôi chỉ có 30 đồng một tháng. Thường là tôi mượn tìền của bà con và đồng nghiệp để đi thăm chồng, sau đó lãnh lương trả lại và xoay tua với nhau vì cũng có nhiều người khác đồng cảnh ngộ như tôi...

Có lần, chồng tôi bị chuyển vào khu vùng sâu vùng xa, mấy ngày mới có chuyến xe. Đi về mất cả tuần lễ mà chỉ được gặp nói chuyện có 15 phút, rồi tôi lủi thủi đi về, có khi phải chờ cả năm mới được gặp lại...!
Đồng lương giáo viên ít ỏi của tôi trở thành nguồn thu nhập chính để nuôi bản thân, hai con nhỏ, bà ngoại già 90 tuổi và nuôi chồng trong trại cải tạo. Tối tối, tôi dắt hai con ra bến xe đò bán vé số kiếm thêm tiền, hơn 10 giờ đêm mới dọn hàng về nhà...

Có lần, tôi đang lui cui dọn hàng thì nghe tiếng: “Thưa Cô...!”. Nhìn lên mới thấy đó là Huy, đứa học trò trong lớp thường hay bị tôi rầy vì lỗi ngủ gật trong lớp và thường xuyên nộp bài trễ. Em cũng đến bến xe hàng đêm để bán vé số kiếm sống phụ gia đình cho nên không có thời gian ngủ và học bài. Ban đầu tôi còn thấy xấu hổ, nhưng sau đó hiểu nhau hơn và hai cô trò cùng ngồi tâm sự và khóc với nhau cả tối...!

Có một lần, tối hôm trước khi đi thăm nuôi chồng, tôi cố gắng chạy ra bến xe bán thêm vài tấm vé số để có thêm tiền lo cho anh. Gần đến lúc dọn hàng đi về thì có một người đến mua vé số. Họ mua đâu khoảng 2 đồng và đưa tờ 10 đồng. Tôi vét hết tiền lẻ trong túi mới đủ tiền thối.  Về đến nhà tôi mới thấy ra là tờ giấy 10 đồng đó là tiền giả...!
Chẳng những người ta đã không trả tiền vé số mà còn gạt lấy hết số tiền thối của tôi, số tiền mồ hôi nước mắt mà tôi đã dành dụm lâu nay để dự định tháng sau đi thăm nuôi chồng!

Tôi đã khóc suốt đêm... Sao cái khổ cực, cái nghèo khó, tôi đã quen... nhưng cái giành giựt, gian trá, lừa đảo lại làm tôi rất đau...! Tại sao họ có thể nhẫn tâm gạt tiền của những người nghèo như tôi...? Rồi ngày mai đây, làm sao tôi có tìền xe đi thăm nuôi chồng...? Nếu không gặp anh lần này, lỡ họ chuyển anh đến chỗ khác thì sao...? Tôi chỉ còn biết khóc và cầu nguyện, cầu xin Ơn Trên cho con tìm ra giải pháp...

Ba giờ sáng, trời vẫn còn tối mịt, tôi đã vội ra bến xe. Khi xe nổ máy sắp lăn bánh thì chạy mua 2 ổ bánh mì không đem theo... Tay tôi run run, ngập ngừng do dự khi đưa em tờ giấy bạc 10 đồng giả mà tôi vừa bị gạt hôm qua. Vì gấp gáp và trời chưa sáng, nên em đã không phát hiện ra tiền giả. Em đã vét hết tiền trong túi để thối lại cho tôi, và vui vẻ đưa tôi hai ổ bánh mì, còn chúc tôi đi đường bình an...!

Lúc đó tôi thấy quá xấu hổ, không dám nhìn thẳng mắt em, mà chỉ lí nhí cảm ơn, trong lòng chỉ biết nói thầm: “Cô xin lỗi em, Cô xin lỗi em..., sau này cô sẽ đền bù lại cho em…!”

Trên suốt quãng đường đi, tôi đã không ngừng cầu nguyện cho em cùng gia đình em được mạnh khỏe, lòng luôn sám hối chuyện xấu mà tôi đã làm... Không những tôi đã không trả tiền bánh mì cho em, mà còn gạt lấy thêm cả số tiền thối của em. Tôi có tiền để được đi thăm, gặp chồng, nhưng em đó phải trả một giá như thế nào đây...? Trong lòng tôi cứ mãi xin lỗi em và cầu xin cho em được bình yên...! Tôi cảm thấy có lỗi với lương tâm của mình vì đã không làm tròn thiên chức và đạo đức của một nhà giáo, một người được xã hội xem là mẫu mực, là thước đo của đạo đức...! Tôi cũng xin lỗi cha mẹ và ngoại tôi vì đã không giữ đúng lời dạy của ông bà: Không được gian tham trộm cắp của ai dù chỉ là một xu, một đồng...!
Sau lần đó, tôi trở lại bến xe tìm em bán bánh mì đó, nhưng giòng đời đã đưa chúng tôi đi hai hướng khác nhau...

Hơn 40 năm đã qua, nhưng tôi vẫn không quên được hành động lừa gạt đó của mình. Nó trở thành bài học thâm thúy, sâu sắc nhất trong cuộc đời tôi, cho tôi thấy rõ một người tốt đôi khi vẫn có thể có hành động xấu vì hoàn cảnh bắt buộc. “Túng thế phải tùng quyền...!” Tôi vẫn nhủ thầm trong lòng khi lúc nào..., chợt nhớ đến ở phương trời xa. Có thể là tôi tự ngụy biện cho chính mình...! Điều này, đã giúp tôi rất nhiều trong việc nuôi dạy con và giáo dục học trò, giúp tôi thông cảm hơn khi học trò ngủ gật trong lớp hoặc không làm bài tập đúng hạn, và cũng giúp tôi tha thứ cho người, cho mình nhiều hơn...!

Sau này về lại Việt Nam thăm gia đình, mỗi lần ra bến xe, tôi đều mua bánh mì hoặc đậu phọng hay một món gì nho nhỏ từ các em, trả thêm tiền dư cho đủ ăn tô phở hay hủ tíu... có thể tạm xem như là đền trả món nợ ân tình năm xưa mà tôi đã làm không đúng khi đi thăm nuôi chồng...!
(Bài: thinh nguyen-Đinh Trực sưu tầm).

Số Thứ Tự:
27. THẰNG BÉ ĐÁNH GIÀY NGƯỜI NGHĨA LỘ - Phạm Tín An Ninh
26. MÙA XUÂN NÀO EM CÒN NHỚ ? Trần Công Đài K16/TVBQGVN 
25. NGƯỜI ĐÀN BÀ BÊN BỜ SUỐI - Trích từ tuyển tập Trên Đỉnh Tà Mô (fb Cao H Sơn)
24. NGƯỜI TÙ GIÀ VÀ CHIẾC CỐI XAY LÚA - Trích từ tuyển tập Trên Đỉnh Tà Mô - (fb Cao H Sơn - Cao Hoài Sơn)
23. TRẢ QUYỀN CÔNG DÂN - Trích từ tuyển tập Trên Đinh Tà Mô - fb Cao H Sơn (Xuân An – Cao Hoài Sơn)
22. SUY TƯ - B.PAS
21. THÊ THẢM CUỘC SỐNG Của Nữ Thiếu Úy Cảnh Sát Lê Thị Xuân - Peter Nguyen (fb Benjamin Nguyen)
20. GIẤY LY HÔN - Cao H Sơn (fb Benjamin Nguyen)
Trích từ tuyển tập Trên Đỉnh Tà Mô

19. Người Tù “Cải Tạo” Về Từ Yên Bái - Nguyễn Minh Châu (TÐ3 Soibien) fb Son Le
18. NHỚ CẬU KHUÊ - fb Phieu Le
17. TÌNH QUÂN VÀ DÂN MIỀN NAM NHƯ CÁ VỚI NƯỚC! fb Phieu Le
16. Võ Bị trong Tù Cộng Sản (Tango Bui chuyển)
14. ĐỜI GHỀNH THÁC - Lụa Vàng  (Dung Vũ) (fb Bưởi Nguyễn)
13. CHUYỆN TÙ CẢI TẠO: "TÔI XIN VÀO... TẮM" - Hoanglonghai (fb Van Nang Nguyen)
12. Ngày về - Vương Mộng Long BĐQ/K20/TVBQGVN
11. VIẾT CHO EM TRAI CHƯA VỀ - Nguyễn Thái Việt 
10. NHỨT TỰ VI SƯ...
9. QUAN “CẢI TẠO” VỀ...
8. “CẢI TẠO” VỀ...
7. “HỌC TẬP TỐT” NGHÌN THU VỀ TIÊN CẢNH...
6. "CHỨC SẮC" trong TÙ - A20 Bùi Đạt Trung
5. Ra Khỏi Tù - Thuc Thai Le
4. Nhớ về cuộc nổi dậy Đêm Giáng- sinh năm ấy - (fb An Nguyen) 
3. NGÀY MỌI RỪNG “GIẢI PHÓNG”... Hoàng Nhật Thơ
2. Chưởng môn phái Việt Võ Đạo (Vovinam) - Tù Cải Tạo - Tác giả: Vũ Ánh - fb Duc Bui - fb Binh Nguyen
1. NỖI RAY RỨC TRONG LÒNG TÔI...! (Bài: thinh nguyen-Đinh Trực sưu tầm) - fb Duc Bui


No comments: