Tuesday, August 9, 2022

Người Lính Nhảy Dù VNCH - Y Sĩ Trưởng/TĐ15/ND - Vĩnh Chánh

UNDERCONSTRUCTION
4. Tháng Ngày Tao Loạn (Ngày 30/4/1975) - baovecovang2012.wordpress.com
3. Viết cho 81 chiến sĩ ĐĐ72, TĐ7, SĐND đã đồng tử nạn cùng ngày cùng tháng cùng năm - Vĩnh Chánh 
2. Không Bỏ Anh Em, Không Bỏ Bạn Bè - Vĩnh Chánh (fb Cao Chanh)
1. Đằngh Sau Mặt Trăng - Vĩnh Chánh
    -------------------------------------------
 -------------------------------------------

 

 

 

 



Không một ai ở Miền Nam Việt Nam có thể quên được những cay đắng, uất hận nghẹn ngào, nhục lụy, chết chóc tang thương khi quân dân VNCH bị đồng minh bỏ rơi, đẩy vào cảnh sụp đổ.

Sau cuộc di tản chiến thuật Tây Nguyên trong tháng B, 1975, thảm họa lan rộng khắp Miền Trung thuộc các quân khu 1, 2 rồi đến quân khu 3. Trong cương vị nhỏ nhoi của một quân y sĩ Nhảy Dù theo sát bên cạnh đơn vị Dù tác chiến, cá nhân tôi đã sống trọn vẹn với đồng đội cho đến giờ phút cuối cùng của cuộc chiến. Ngày 30 Tháng 4,1975.


Trong một ngày vào tháng Hai 1975 khi Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù (viết tắt TĐ1/ND) với Thiếu Tá Ngô Tùng Châu làm TĐ Trưởng đang dưỡng quân tại đèo Phước Tượng nằm trên Quốc Lộ 1 giữa Huế và Đà Nẳng, sau chiến trận ở Thường Đức/ Đại Lộc, Y Sĩ Thiếu Tá Nhẩy Dù Trinh đích thân đưa BS Bùi Cao Đẳng, người bạn thân đồng môn đồng khóa của tôi, đến Bộ Chỉ Huy tiểu đoàn thay tôi làm Y Sĩ Trưởng TĐ 1 ND.

Ngay sau khi bàn giao, tôi được chở thẳng đến phi trường Đà Nẳng để trong cùng ngày, trước Tết 1975, vào Saigon lãnh một nhiệm vụ mới, Y Sĩ trưởng Tiểu Đoàn 15 ND. Các Tiểu Đoàn tân lập 12, 14, 15 ND cùng với Đại Đội 4 ND Trinh Sát và Tiểu Đoàn 4 Pháo Binh ND là thành phần chủ lực cho Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Lê Minh Ngọc, vừa được thành lập vào đầu năm 1975.

Trên chuyến bay về Saigon, lòng tôi có nhiều xúc động mâu thuẫn. Dù tôi chỉ phục vụ TĐ1 ND trong 6 tháng kể từ ngày trình diện làm Y Sĩ trưởng TĐ 1 vào cuối tháng 7, 1974, đúng vào lúc TĐ1 ND nhảy vào trận chiến ở Đại Lộc/ Thường Đức, tôi đã có quá nhiều kỷ niệm với đơn vị tác chiến lừng danh hàng đầu của Sư Đoàn ND.

Trong ngày đầu tiên ở mặt trận, tôi được đích thân người con trai của Cô ruột tôi là Đại Úy Trần Văn Thể, đại đội trưởng xuất sắc của ĐĐ 11, chỉ bày những căn bản thực tế ở trận địa như định hướng của ta và địch, phân biệt pháo ta hay pháo địch, đào hố cá nhân nơi bất cứ dừng quân nào, đi trên dấu giày của người đi trước để tránh đạp phải mìn, luôn đội nón sắt  và mang áo giáp, ngay cả khi sử dụng hố tiêu… Làm sao kể cho xiết những ngày dài lội bộ trong rừng sâu, trên những sườn đồi trơn trợt, lầm lũi quanh co theo chân các binh sĩ, chia nhau từng điếu thuốc, từng ngụm cà phê pha chung với đế, chuyền nhau từng ca cơm dưới những cơn mưa tưởng không bao giờ dứt.

Làm sao quên được những tiếng la hét, ra lệnh trong điện đài giữa cấp chỉ huy Tiểu Đoàn, Đại Đội và Trung Đội trong bước tiến xung phong đánh chiếm mục tiêu, giữ vững vị trí hay buộc rời bỏ vị trí dước áp lực của địch để rồi lại phản công, cận chiến và tái chiếm lại mục tiêu tại từng ngọn đồi, trước nhỏ nhưng về sau càng lớn càng cao. Tại từng ven rừng hay trong rừng rậm, tại từng con suối, bờ dốc. Trong đêm khuya, hay giữa trưa. Vào sáng sớm hay cuối ngày. Trong mưa, trong nắng hoặc trong sương mù. Vì làm gì có giới hạn thời gian trong trận chiến. Vì làm gì có thời tiết thuận lợi khi xung phong. Và làm gì có được sự công bằng khi địch nằm sẵn trong các công sự trên đồi chờ ta đánh vào. Nhưng ta phải đánh để dành lại từng tất đất, từng ngọn đồi, để đánh đuổi kẻ xâm lược và bảo vệ miền đất tự do.

Qua nhiều ngày với TĐ1 ND, tôi có dần kinh nghiệm để phân biệt được tiếng pháo của ta hay địch, khi nằm dưới hố cá nhân hoặc trong hầm với bộ chỉ huy, ngày ngày 3 cữ sáng trưa chiều, nhìn lên thấy từng làn chớp sáng của đạn địch chụp trên các ngọn cây lớn kèm theo tiếng nổ đinh tai với ngàn mảnh đạn và cành lá văng tứ phía . Đã bao lần tôi cảm thấy bất lực trước những vết thương quá nặng của thương binh đang chết dần khi chờ đợi tản thương, bèn đành đốt điếu thuốc lá đưa vào môi cho từng người để rồi đoán chừng cái chết đến khi khói điếu thuốc thôi bay. Và cũng bao lần tôi đã cúi đầu khóc thầm khi thấy những xác chết, cả quan lẫn quân, được gói chặt trong poncho nằm từng hàng dài hai bên bãi đáp chờ được bốc đi.

Nhớ và nhớ hình ảnh uy nghiêm đầy khí phách của các sĩ quan và bao khuôn mặt non trẻ nhưng dạn dày phong sương của các binh sĩ tuy đầy kinh nghiệm chiến trường, nhưng họ vẫn giữ một tâm hồn đơn sơ thật hồn nhiên mà tôi biết được qua những lần trò chuyện, những tâm sự trong đêm dài hay qua những dừng quân ngắn trong khi cùng nhau vui đùa. Với họ, tôi đã yêu những bản nhạc lính mà trước đây tôi từng chê là sến. Với họ, tôi đã tìm thấy tình đồng đội qua thử thách trong máu lửa. Với họ, bổn phận và trách nhiệm luôn được gắn liền với 4 chữ “Nhảy Dù Cố Gắng”. Và với họ, tôi quên hẳn cái chết đằng sau và nguy hiểm chờ đợi phía trước.

Sau chiến thắng ở Đồi 1062 tại Thường Đức, Thiếu tá Nguyễn Văn Phú, Tiểu Đoàn Phó của TĐ1/ND, được đề cử làm Tiểu Đoàn Trưởng TĐ15/ND tân lập và trước khi rời vùng, TTá Phú đặc biệt xin cho tôi được đi theo với Tiểu Đoàn tân lập của ông. Th/Tá Phú và tôi đã có những giao hữu tốt đẹp trong thời gian ông trực tiếp chỉ huy cánh phó với 2 ĐĐ đánh thẳng vào trận chiến. Tôi có gởi rượu và thuốc lá đến cho Th/Tá Phú ở mặt trận, đúng lúc phe ta cần chút chất nóng để đánh đấm cũng như để ăn mừng chiến thắng. Thêm vào đó, tôi còn có cơ duyên giúp cho Th/Tá Phú về thăm vợ ở Saigon đúng lúc, vì nhờ lần thăm này mà vợ ông mới có thai lần đầu kể từ khi lấy chồng vào cuối năm 1968.

Nếu được thuyên chuyển về Saigon, tôi chắc mọi quân nhân của binh chủng ND đều vui mừng vì không những đây là hậu cứ của Sư Đoàn ND, xa hẳn nguy hiểm của chiến trường, mà còn là thủ đô, là nơi phồn hoa đô hội với nhiều chốn ăn chơi. Riêng với tôi, không những tôi được về gần nhà mình ở trong Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa với Măng của tôi, mà đây còn là một cơ hội quý báu để tôi có dịp gặp lại người tôi yêu và theo đuổi qua suốt 9 năm, kể từ thời Dự Bị Y Khoa, sau nhiều năm cách trở. Cuộc thử thách riêng tư này coi vậy cũng không ít gay go, so với cuộc chiến tôi vừa trải qua ở mặt trận.

Tôi đến trình diện Th/Tá Phú tại bộ chỉ huy TĐ15/ND ở Trại Cây Mai trong Chợ Lớn và bắt tay ngay vào nhiệm vụ của mình trong khi TĐ đang chỉnh đốn quân số, quân trang, huấn luyện…Tôi làm quen với các sĩ quan tác chiến của bộ chỉ huy TĐ như vị TĐ Phó, sĩ quan trưởng Ban 3 cùng các sĩ quan ĐĐ Trưởng, cũng như làm quen với các y tá thuộc cấp trong Trung Đội Quân Y của tôi và thiết lập danh sách tiếp liệu y dược.
Vì Lữ Đoàn 4 ND có nhiệm vụ bảo vệ Thủ Đô, nên vấn đề tiếp liệu quân trang, quân nhu cho TĐ tác chiến nói chung và tiếp liệu y dược của tôi nói riêng, có phần nào được ưu tiên. Trong trại quân, tôi đã có những buổi dạy về cấp cứu căn bản ở chiến trường như cầm máu, băng bó…, về y khoa phòng ngừa cho bệnh sốt rét, bệnh tiêu chảy, bệnh hoa liễu cho riêng các y tá của tôi và cho toàn thể binh sỉ của tiểu đoàn.

Tuy TĐ được lệnh cắm trại và ứng chiến 100%, Th/Tá Phú thường làm ngơ cho tôi vài ba giờ những khi tôi ghé về nhà thăm Măng của tôi, cũng như thông cảm cho tôi khi tôi rời trại vào buổi chiều, nhảy lên xe ôm đến thẳng nhà người con gái tôi yêu, nhất là sau khi nghe tôi kể về cuộc tình 9 năm trời lận đận dang dở và ước muốn hàn gắn nối lại mối tình đầu đời của tôi. Người tôi yêu đang học năm cuối của khoa Chính Trị Kinh Doanh tại Viện Đại Học Đà Lạt.

Với các bạn cùng khóa 16 Trưng Tập Quân Y tình nguyện vào Nhảy Dù. Hình We Were Once Soldiers QYND1974, từ trái qua phải: Các Y Sĩ Trung Uý Nguyễn Đức Vượng, Nguyễn Văn Thắng, Bùi Cao Đẳng, Vĩnh Chánh, Nguyễn Thành Liêm, Y Sĩ Thiếu Tá Trần Quý Nhiếp, TĐ Phó TĐ Quân Y Nhảy Dù, Lê Quang Tiến, Nguyễn Tấn Cương, Dược Sĩ Khánh.

Vào chiều Mồng Một Tết, hiên ngang trong bộ đồ hoa dù và chững chạc trong phong cách, hạnh phúc dồn dập đến với tôi khi tôi gặp lại nàng tại nhà, sau hơn 3 năm xa cách. Sau đó tôi tiếp tục ráo riết chinh phục nàng qua những lá thư đậm đà tình thương nhớ viết từ trại quân hay trong khi đi hành quân, hoặc qua những dịp thăm viếng nhà nàng, trổ tài miệng lưỡi chiếm được cảm tình của gia đình họ hàng. Mối tình của tôi từ từ chuyển hướng thuận lợi. Trong bối cảnh chao đảo của chiến sự, càng ngày chúng tôi càng cảm thấy gần gũi sâu đậm hơn.
 
 
 
Đó cũng là thời gian TĐ15/ND bắt đầu trực tiếp tham dự những cuộc hành quân ở vòng đai Biệt Khu Thủ Đô, truy lùng các toán du kích Việt Cộng nổi lên đây đó hậu thuẫn cho cuộc tiến công của quân CS. Bấy giờ toàn bộ Miền Trung đã mất vào tay Cộng Quân. Cùng chung một số phận với các đại đơn vị khác của những quân khu và của Lực Lượng Tổng Trừ Bị như các Lữ Đoàn của Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, các Liên Đoàn Biệt Động Quân, Lữ Đoàn 3 ND, rồi LĐ2/ND lần lượt chịu những thiệt hại lớn tại Khánh Dương, rồi Phan Rang. Những chiến thắng thường có của bao năm trước nay dần được thay thế bởi những tin thất trận, những rã ngủ không chờ đợi, những triệt thoái vô nguyên lý, những thành phố bỏ ngỏ, hay những trận đánh bất cân xứng, những vùng vẫy tuyệt vọng kéo theo bao hy sinh đau thương trong giờ thứ 25 bất chấp lệnh trên, những mất mát sinh mạng quá lớn của cả quân và dân.

Ở Saigon, tình hình chính trị lẫn quân sự càng lúc càng  đen tối dần. Saigon với giới nghiêm sau 12 giơ đêm. Saigon với hàng trăm ngàn quân dân cán chính từ bao tỉnh đàng ngoài, trắng tay chạy lấy mạng liên tục đổ về thành phố để lánh nạn, mang theo bao câu chuyện thương tâm trên các con đường di tản. Dòng đời chao đảo, đầy gian khó.  Người đời hoang mang vì mất lòng tin ở chính quyền. Có tin nhiều nhân vật tên tuổi bắt đầu rời nước trong khi một số khác bàn đến chuyện phải ra đi dù chưa biết đi đâu. Đâu đâu cũng lo tích trử thức ăn chuẩn bị cho một cuộc tử thủ với viễn ảnh thành phố sẽ tắm trong máu lửa. Ngoài đường người đông hẵn, ai nấy bước đi vội vả, ánh mắt âu buồn trầm tư. Trong nhà các gia đình ngồi triền miên trước đài truyền hình hay lắng nghe tin tức từ BBC và VOA, bàn chuyện to nhỏ.

Sau trận đánh vào đơn vị du kích lớn ở giữa Tây Ninh và Saigon, TĐ15 được lệnh về đóng quân tạm ở vùng Hóc Môn Bà Điểm. Khi Th/Tá Phú và tôi đi tìm gặp nói chuyện với vị Giám Đốc của hãng dệt Công Thành để ngỏ lời cho TĐ15/ND đóng bộ chỉ huy tại hảng dệt, một ngạc nhiên đầy thú vị xẩy ra khi ông Giám Đốc buột miệng hỏi tôi “có phải đây là anh Chánh, con rể ông Thạch không?” Tôi ngất ngây trả lời “dạ đúng” cùng lúc nhận ra Chú Ngưng, chồng của Dì ruột nàng ở Thủ Đức mà tôi có dịp gặp trước đây.

Ngày hôm sau, trong sự bất ngờ vui sướng của tôi, Chú Ngưng chở nàng với người em gái đến thăm tôi ngay tại bộ chỉ huy TĐ. Khi ngồi ăn trưa với bữa cơm dã chiến, nàng có vẻ “thấm” cái đời sống phong trần lính chiến của tôi, và đã e thẹn cười khi TTá Phú nói chọc “Bác Sĩ nhỏ con, người yêu BS còn nhỏ con hơn, chắc hai người sẽ đẻ ra những thằn lằn con nhỏ chút xíu!”

Khoảng gần một tuần sau, trong đêm 23 tháng 4, TĐ15/ND được điều động đến bố trí ở cầu Bình Triệu, trên trục xa lộ Đại Hàn. Đó cũng là thời gian thị xã Xuân Lộc vừa mất. Một trận chiến kinh hồn đã diễn ra suốt 13 ngày đêm tại đây. Quân đoàn 4 của CS Bắc Việt gồm các sư đoàn 5, 6, 7 và 34 với hàng trăm chiến xa đại bác dồn toàn lực tấn công. Sư Đoàn 18 Bộ Binh của Tướng Lê Minh Đảo, với sự hỗ trợ của LĐ1/ND, Liên Đoàn 82 Biệt Kích Dù và Không quân lần đầu sử dụng những quả bom lớn 5 tấn Daisy Cutter, đã chận đứng bước tiến của chúng, gây thiệt hại rất nặng nề cho quân địch (*). Dù trễ, trận đánh đã gây một tiếng vang lớn xa gần và khiến những chiến sĩ quanh tôi và chính tôi lên tinh thần và tìm lại được khí thế hào hùng.

Như những quân nhân bảo vệ Xuân Lộc bị dồn vào chân tường nên đã quyết tâm anh dũng chiến đấu, chúng tôi vẫn đang còn đây, cho đến giờ phút này, sẵn sàng chờ đến lượt mình vào trận cuối cùng. Và cứ thế, TĐ15/ND bám chốt với lệnh cố thủ bảo vệ cây cầu cho đến phút cuối, hay người lính cuối cùng.

 

TĐ15/ND bung quân làm nhiều nút chặn ở cả phía bên này và bên kia cây cầu. Tôi nhận thấy TĐ có bố trí 2 xe jeeps có mang đại bác 106 ly chống chiến xa và 2 xe jeeps khác với trang bị hỏa tiễn Tow. Đa số binh sĩ đều có mang trên lưng loại rocket M72 chống tăng, trong vị trí sẵn sàng chống trả cản bước tiến của quân thù. Trong tư thế Y Sĩ Trưởng Tiểu Đoàn, tôi cố chuẩn bị trong khả năng của mình để cấp cứu và tản thương theo hàng dọc.

Đêm 28 tháng 4, địch pháo kích dữ dội vào trại Hoàng Hoa Thám và căn cứ không quân Tân Sơn Nhất. Tiếng nổ và những cột lửa bùng cháy trong đêm làm tôi thao thức tới gần sáng. Lệnh trên vẫn muốn TĐ án binh bất động trong tư thế sẵn sàng tác chiến. Bộ chỉ huy TĐ cấp tốc dời qua phía bên này cầu.

Sáng ngày 29, tôi nhìn thấy nhiều trực thăng của Mỹ bay trên trời, kể luôn cả cặp phi cơ phản lực bay vòng vòng như thể hộ tống. Xung quanh tôi ai cũng mường tượng có một chuyện gì đang xẩy ra ở Saigon, nhưng chẳng một ai biết đích thực. Không lẽ Thủy Quân Lục Chiến Mỹ nhảy vào lại cuộc chiến? Nếu được như vậy, ít ra ta cũng còn cơ hội củng cố lại, tình hình rồi sẽ tốt đẹp hơn…Tôi ngây thơ mơ tưởng hay tự dối lòng?!
Gần trưa, tôi bước đến nhà thờ Đức Mẹ Fatima ở bên kia cầu Bình Triệu. Nhà thờ mở cửa nhưng không một bóng người. Một mình, tôi quỳ đọc kinh và kính cẩn cầu nguyện, xin Chúa ban ơn phước cho đơn vị Nhảy Dù của tôi, cho gia đình Măng tôi và gia đình nàng được bình an và nàng đừng rời nước để chúng tôi còn gặp lại nhau. Khi định rời nhà thờ, tôi bỗng nhìn thấy chiếc máy điện thoại nằm trong góc và nẩy ra ý liên lạc với nàng dù biết nhà nàng không có điện thoại. May mắn thay, từ cuốn niên giám cũ bên cạnh điện thoại, tôi tìm ra số điện thoại của Cụ Mai Văn An, một Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện ở cùng cao ốc với nhà nàng. Sau khi Cụ An cho biết là gia đình nàng còn nguyên vẹn đây, tôi cám ơn Cụ và nhờ Cụ nhắn lại với ba của nàng là tôi, tự nhận là con rể, bình yên và đang đóng quân ở cầu Bình Triệu. Rời khuôn viên nhà thờ, lòng tôi cảm thấy thanh thản, phó mặc mọi sự trong tay Chúa an bài.

Đêm 29 Cộng Quân lại pháo kích dữ dội vào Tân Sơn Nhất và trại Hoàng Hoa Thám của Sư Đoàn Nhẩy Dù. Tín hiệu vô tuyến của Trung Tá Lê Minh Ngọc, Lữ Đoàn Trưởng LĐ4/ND hoàn toàn im lặng. Sau đó liên lạc vô tuyến giữa TD15/ND với bộ Tư Lệnh SĐ/ND cũng bị gián đoạn. Tuy nhiên 3 Tiểu Đoàn 12, 14 và 15/ND và Lữ Đoàn Phó vẫn còn giữ liên lạc với nhau.

Trong cùng đêm, TĐ15/ND có đụng nhẹ với các toán đặc công VC ở phía bên cầu. Lại một đêm chập chờn, không ngủ, bên cạnh những ly cà phê đậm đặc và thuốc lá đốt không ngừng! Mọi người ngồi bất động, tư lự xung quanh các máy vô tuyến kêu rè rè, thỉnh thoảng mới có một vài báo cáo từ các đại đội. Không một ai muốn lên tiếng. Người nào trong đầu cũng đầy những câu hỏi mà chẳng ai có thể trả lời.

Qua sáng ngày Thứ Tư, 30 tháng Tư, 1975, tại bộ chỉ huy TĐ15/ND, tôi đón nhận 4 người thương binh của TĐ. Trong số đó có một thương binh nặng cần phải tản thương gấp vì trúng đạn vào bụng. Sau khi tôi chuyền nước biển và viết tờ tản thương, Ban3/TĐ cho biết không thể tản thương vì không liên lạc được với bất cứ đơn vị quân y nào như BV Đỗ Vinh, Tổng Y Viện Cộng Hòa. Tôi suy nghĩ đôi chút và trình bày với Th/Tá Phú ý định tôi sẽ chuyễn thương binh này đến BV dân sự Nguyễn Văn Học.
 

Trong khi chúng tôi đứng cách xa người thương binh để bàn tính chuyện tản thương, anh ta bỗng kêu lên “Xin đừng chuyển tôi đi đâu cả. Để cho tôi chết ở đây…” và trong tích tắc, anh lấy ngay khẩu súng M16 nằm dọc cạnh anh trên chiếc băng ca, lên cò cái rẹt, quay mũi súng vào ngay dưới cằm. Nhiều tiếng la cản lên nhưng không kịp. Một tiếng nổ chát tai khiến mọi người bất động, rồi tất cả đổ xô chạy chạy lại vây quanh băng ca, nhưng chỉ còn kịp để thấy anh đang ngáp cá, người run nhẹ, vết thương mở rộng ở mặt và đầu, máu văng tung tóe. Tôi cầm chặt bàn tay anh, người y tá lấy tay vuốt mắt anh. Cơ thể anh từ từ dãn ra, đi vào cõi chết.

Những người có mặt giữ im lặng trong bầu không khí đau thương. Chỉ trong một khoảnh khắc, chúng tôi chứng kiến người lính trẻ đã làm một quyết định nhanh chóng và dứt khoát, cho thấy khí thế anh hùng bất khuất của một chiến sĩ. Một cái chết hiên ngang khi cuộc chiến đang dần tàn. Anh đạt ước nguyện chết trong danh dự với sự hiện diện của đồng đội chung quanh. Toàn thể bộ chỉ huy cùng đứng nghiêm, cố ngăn dòng lệ rơi, đồng đưa tay chào vĩnh biệt người lính.

Trong khi sự tự vận bất ngờ của người thương binh đang gây xốn xang đau lòng cho bộ chỉ huy tiểu đoàn, từ radio chúng tôi nghe bản tuyên bố đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh được lập lại nhiều lần. Sau một thời gian dài trên vô tuyến, Th/Tá Phú quay về phía tôi và không một lời giải thích, bảo tôi đi theo với ông. Tôi ngồi sau lưng Th/Tá Phú trên cùng một chiếc xe jeep, bên cạnh người lính truyền tin và 2 cận vệ. Người sĩ quan Ban 3 đi xe thứ hai với một toán lính khác. TĐ Phó ở lại bộ chỉ huy TĐ.

Tôi chẳng biết đoàn xe đang chạy về đâu, cho đến khi xe ngừng trong sân toà Tỉnh Trưởng Gia Định. Nhìn xung quanh, tôi thấy cả trăm người dân chạy hỗn độn trong sân, tranh dành vác những bao gạo từ trong toà tỉnh đi ra. Th/Tá Phú đến bên tôi nói nhẹ “Bác sĩ đi đi!, rồi ông quay lưng lại tiến vào phía bên trong tòa tỉnh với toán binh sĩ của ông. Đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy Th/Tá Phú tại Việt Nam. Và đó cũng là lần cuối tôi rời vĩnh viễn Tiểu đoàn 15 Nhẩy Dù. Tôi cúi đầu, trong nghẹn ngào. Sững sờ, trong đê hèn. Bàng hoàng, trong đau đớn. Muốn gào thét nhưng miệng khô đắng. Muốn khóc nhưng mắt khô vì tủi nhục. Còn cái chết?! Tôi chưa một lần nghỉ đến.

Đang đứng ngơ ngác không biết phải làm gì thì một người đàn ông bước ngang bên cạnh tôi nói liền “ông cổi bỏ súng xuống và thay đồ nhanh lên”. Như cái máy, tôi vội chạy đến gần gốc cây lớn, định cổi bỏ tất cả. Nhưng sực nhớ lại, tôi chẳng có bộ áo quần dân sự nào trong ba lô. Vừa lúc ấy, có một thanh niên chạy ngang tôi với bao gạo trên vai. Tôi chận anh ta lại và xin bộ áo quân đang mặc trên người, cùng lúc tôi lục ví đưa tờ 500 đồng cho anh. Không một chút do dự anh ta thả bao gạo xuống đất, rồi vừa nhìn tôi như thông cảm anh ta cởi áo quần đưa cho tôi, cho luôn cả đôi dép nhật nữa…

Tôi cổi áo giáp, dây ba chạc có súng, bi đông nước, nón sắt, rồi nhanh chóng cổi đôi giày lính và bộ quân phục, gom lại để vào dưới gốc cây. Rồi tôi mặc cái áo màu xanh da trời nhớp nhúa và xỏ cái quần đậm màu, đi nhanh ra phía đường lớn đón chiếc xe ôm, bảo chở về đường Cao Thắng ở Saigon. Nhà nàng.

Xe ôm chở tôi đi qua nhiều đoạn đường vắng, mọi nhà đóng cửa. Đây đó là những đống áo quần trận, nón sắt, áo giáp và súng đạn rải rác bên vệ đường. Có những đoạn đường người đi lại khá đông hay tụ tập hai bên đường, và có những chiếc xe chở đầy người với mặt mày sắt máu, hô to khẩu hiệu và phất cờ MTGPMN… Cũng những con đường ấy tôi thường chạy qua lại, mà sao bây giờ bỗng trở thành xa lạ, mờ ảo như trong một cõi âm. Những âm thanh la hét, còi xe, lùng bùng trong tai tôi. Mắt tôi thấy mọi hình ảnh bên ngoài, nhưng chẳng thấu hiểu; lòng tôi như tê dại, chẳng thể suy nghĩ gì. Nhớ đến người thương binh tự vận chết sáng hôm nay, tôi ngước nhìn lên trời. Một màu tang tóc đang chụp xuống thành phố thân yêu.
Xe vào đường Cao Thắng. Nàng là người đầu tiên từ trên balcon nhìn thấy tôi bước xuống xe ôm. Nàng và các em chạy nhanh xuống mở cổng đón tôi vào. Khi đến thang lầu, tôi phải vịn vào vai nàng để bước lên từng bước. Thể tôi rã rời và tinh thần khủng hoảng, tôi thật chẳng hiểu vì sao mình lại về được đến nhà an toàn.

Hầu như mọi người đều thông cảm và tôn trọng sự yên lặng của ba nàng và của tôi. Chiều đến, tôi đạp xe về nhà Măng tôi ở cư xá Sĩ Quan Chí Hòa cho bà cụ yên tâm, rồi tôi chở Măng tôi đến nhà nàng xin ba mẹ nàng cho phép tôi ở tạm nơi đây, vì cư xá Sỹ Quan Chí Hoà quá nguy hiểm.

Tối ngày 30 tháng 4, chúng tôi ngồi ở balcon nói chuyện với nhau thật khuya. Trước đây, trong một lá thư gởi cho nàng, tôi có viết “anh xin làm bóng mát trên con đường em đi”. Giờ đây, với sự đổi đời, tương lai tôi mù mịt, viễn ảnh những năm tháng sắp tới là chuổi ngày đen tối, đọa đày và tôi e ngại tôi chẳng còn khả năng làm bóng mát cho em. Nàng ngồi nghe tôi nói nhiều hơn trả lời. Vì có lẽ câu trả lời đã được quyết định tự lúc nào.

Em yêu dấu, tôi viết bài này mến tặng Em, người đã can cường cứu vớt đời tôi khi quyết định thành vợ thành chồng với tôi trong một đám cưới quá đơn giản tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế ở đường Kỳ Đồng. Chỉ 3 ngày sau khi mất nước, lễ cưới được Cha  Laroche của Dồng Chúa Cứu Thế chủ hôn. Với chúng tôi, đây là “đám cươi chạy tang khi mất nước”, diễn ra trong đạm bạc, cô dâu không áo cưới. Hình ảnh kỷ niệm chỉ có hai tấm hình đen trắng. Sau đó với tôi là mấy năm đi tù cải tạo, rồi đi tù vượt biên, em đã cùng tôi vượt qua bao thử thách, cho  đến khi chúng ta đến bến bờ tự do.

 
Tôi cũng viết bài này để tưởng nhớ đến người bạn thân, BS Bùi Cao Đẳng, Y Sĩ Trưởng Tiểu Đoàn 1 ND, bạn đồng môn đồng khóa và đồng binh chủng Quân Y ND với tôi, người được sinh ra vào ngày 30 tháng 4, năm 1946, cùng tan hàng rã ngũ như tôi vào ngày 30 tháng 4, năm 1975 và đã vĩnh viển ra đi cũng vào ngày 30 tháng 4 năm 2012 tại MD, USA.

Thân tặng các chiến hữu của Tiểu Đoàn 1 ND và của Tiểu Đoàn 15 ND, đã chết trong bão tố khói lửa hay còn sống thầm lặng, hiện đang tự do ở hải ngoại hay ê chề ở trong nhà tù lớn tại Việt Nam, với những kỷ niệm chinh chiến không thể quên.

Viết trong tháng Tư, 2013, tại California.
Vĩnh Chánh
 ---------------------------------------------
 
3. Viết cho 81 chiến sĩ ĐĐ72, TĐ7, SĐND đã đồng tử nạn cùng ngày cùng tháng cùng năm.
Vĩnh Chánh,

Các Anh thân mến,
Tất cả chúng ta đã trải qua cuộc chiến cho Tổ Quốc. Đa số anh em chúng ta đã mang những thương tật trên thân thể và những vết sẹo trong tâm hồn. Một số không nhỏ anh em chúng ta đã bỏ mình cho Tổ Quốc. Hầu như tất cả chúng ta còn lại cùng gia đình và bao người thân quen đều phải gánh chịu nhiều hư hao mất mát, những gãy đổ phi lý, những điêu tàn cơ cực. Trong khói lửa binh đao. Sau ngày buông súng. Trong trại tù tủi nhục. Khi lênh đênh trên biển. Lúc làm lại cuộc đời trên xứ người. Hay đành tiếp tục cuộc sống trong nhà tù lớn tại quê hương …
 
Có cuộc chiến nào mà không có đau thương tàn phá. Có cuộc chiến nào mà không có chết chóc chia phôi, không có nước mắt và máu. Và chen vào giữa đời lính luôn có sự hiện diện của tình yêu. Vì chỉ duy nhất tình yêu mới có thể giúp đỡ, cưu mang và nuôi dưỡng người cầm súng quên đi bao gian khổ, bất chấp bao nguy hiểm thường trực, để sống sót vươn lên trong thử thách bão lửa. Cho dù đó là tình yêu quê hương đất nước, tình đồng đội sống chết bên nhau, tình nghĩa vợ chồng của đôi chinh phu chinh phụ. Là cuộc tình thơ mộng hay tình sầu giữa chàng lính chiến và em gái hậu phương, hoặc một chuyện tình đắm đuối trong lần về phép rồi dở dang oan trái vì hai phương trời cách biệt.
 
Tình yêu đó như thể một cánh hoa mọc giữa sườn đá. Một hơi ấm giữa cơn mưa rừng. Một cứu cánh bên bờ vực chết. Một vị ngọt giữa cái đắng, thần dược của nỗi đau trong đời chiến chinh. Một cái dù bao la che chở khi ta bị thương tật. Và một ánh sáng chớp vào tim trước khi nhắm mắt trút hơi thở cuối cùng sau một tiếng nổ lớn.
 
Ôi! Người lính, tình yêu và nỗi chết. Thử hỏi người trai nào sống trong thời chiến mà chưa một lần biết đến những danh từ trên! Có người lính nào mà không một lần nghĩ đến thân phận khi dấn thân vào sương gió?! Và còn gì tuyệt đẹp hơn khi tình yêu đến trong địa ngục biển lửa, nơi mà sự nguy hiểm, thử thách kề cận bên cái chết càng thôi thúc lòng tin yêu, nỗi nhung nhớ đến tuyệt hảo. Vì trong tiếng thì thầm của tình yêu thời chiến đã có sẵn chữ hy sinh. Vì khi tình yêu vừa len nhẹ vào đời người lính nó đã mang theo mầm mống của lo sợ tan vỡ, của mất mát chia ly và chết chóc. 
 
Những tình cảm dạt dào thắm thiết của chàng nơi sương gió thương nhớ em ở làng xa, “chiều chiều ngoài biên cương, nhìn ra khơi ngàn sóng biếc mơ đến em bên bến sông buồn trông chờ” Là những thơ tình trang trải nỗi nhớ nhung của nhau. Những hẹn hò quý báu trong những ngày nghỉ phép ngắn ngủi. Những tâm sự thầm kín, những dự tính thơ mộng, những nụ hôn gắn bó, những hiến dâng tự nguyện. Để nhiều khi, những cuộc tình ấy đơm hoa kết nụ theo tháng ngày chinh chiến, cho dù về sau “…anh trở về bại tướng cụt chân”; hay cuộc tình vỡ tan khi tin em sang ngang đến giữa tiếng bom đạn. Và đôi khi cuộc tình bị chém ngang tim với tin dữ chàng vừa gục ngã nơi một tiền đồn không tên, rơi nhẹ vào chốn miên viễn không hận thù, bỏ lại cuộc đời trai trẻ và “người tình còn đó anh nhớ không anh”.
 
Trong thử thách, gần với nỗi chết, tình yêu nơi người lính càng sáng ngời hoa mộng, mang đầy từ tâm. Là nơi bám víu giữa những lằn chớp của bom đạn. Là nhung nhớ lơ lững giữa nguy hiểm. Là bao nhiêu lần mơ đến em. Là bấy nhiêu lần nguyện cầu khi không biết phải làm gì hơn. Là cảm nhận hạnh phúc tuyệt vời dù chỉ với lá thư tình mang trong ba lô hay một tin nhắn của người yêu từ phương xa. Hoặc đơn giản hơn là những bộc lộ thiết thực khi cảm nhận thiếu vắng em, những ao ước được dạo phố bên em, những cơn mê thèm ôm em. Ngay giữa những tiếng nổ. Giữa những đêm khuya trắng mắt. Trong những cơn say chưa đủ say. Khi không biết ngày mai sẽ ra sao:
“Mấy tháng rồi tao chưa thấy Sài Gòn
Mấy tháng rồi tao không được ôm em
Tao thèm làm tình như tao thèm sống
Tao thèm hôn em, hôn liên miên…” 
 
*Mưa và Nỗi Chết ở An Lộc/ Tác giả Nguyễn Tiến Cung
Trong truyện “Một Thời Để Yêu, Một Thời Để Chết” mà tôi tình cờ đọc lại trong thời gian chờ ra đơn vị, tại bệnh viện Đỗ Vinh, một câu truyện về người lính, tình yêu và sự chết xẩy ra như bao câu chuyện tương tự trong cuộc chiến hiện tại, nhưng không hiểu vì lý do gì cuốn truyện bấy giờ đã để trong tôi một ấn tượng sâu đậm. Có thể vì đó là thời gian tôi đang chơi vơi đeo đuổi mối tình đầu đời ở tuổi hai mươi sáu. Giữa những giường bệnh, giữa những tiếng rên đau, chửi thề, nghiến răng của thương binh, trong mùi ẩm ướt của sàn nhà, mùi bông băng thấm máu và của thuốc men, tôi chứng kiến bao nụ cười hạnh phúc của các đồng đội thương binh kề cận, do những người mẹ, người chị hay em, hoặc người tình đem đến. Là những thức ăn quen thuộc do nhà nấu, trái cây tươi mát đưa tận miệng. Là những e ấp nắm tay, những an ủi trìu mến. Là những ánh mắt thương cảm, ưu buồn lo lắng khi nhìn thấy vết thương nặng của người thân. Là những thăm hỏi, hay đôi khi chỉ là những câu nói bâng quơ, dù ngồi hằng giờ bên cạnh giường. Là những gói thuốc lá, ly cà phê đá, những chiếc khăn tay, những cuốn truyện từ các em gái hậu phương đem đến…
 
Trong “Một Thời Để yêu, Một Thời Để Chết”, chàng lính Đức Erust Graeber về thăm nhà lần đầu tiên sau 2 năm ở chiến trường miền Đông. Dưới khung cảnh đổ nát của thị trấn mình liên tục bị Đồng Minh oanh kích, anh tìm thấy được tình yêu với nàng Elizabeth Kruse, một người quen xưa của gia đình. Một tình yêu mãnh liệt giữa 2 con người không còn gì để phải sợ mất mát đã nẩy mầm giữa tiếng bom đạn và chết chóc rồi vươn lên thắm thiết giữa nồng nàn ân ái, khắc khoải, âu lo trong nỗi buồn mênh mang vô định của có nhau hôm nay, mất nhau ngày mai. Thay vì đào ngũ, Erust quyết định trở lại đơn vị để rồi gục ngã bởi viên đạn do chính những tên du kích Nga anh vừa thả ra, khi tay anh đang cầm lá thư của vợ báo tin có thai con mình. Truyện được kết thúc bằng một câu ngắn gọn “Đôi mắt chàng khép lại”. Khép kín luôn cả một khung trời, một giấc mơ hiền hòa bình dị vụt biến đi khi cái chết đến quá nhanh và phi lý. Dửng dưng. Không một dấu than. Không một dấu hỏi. Như một giọng hát soprano đang ngân lên thật mạnh và cao vút, bỗng đột nhiên ngưng…
 
Các Anh thân mến,
Thương tật hay chết chóc là chuyện không một ai mong muốn nhưng vẫn phải chấp nhận khi trời gọi ai nấy dạ. Cái chết đôi khi đơn độc trong tiểu đội khinh binh, đôi lúc vài ba mống cùng một lúc khi trung đội tiến chiếm mục tiêu. Có khi đi đoong luôn gần cả nửa đại đội vì bom bạn thả lầm, hay nhiều hơn nữa khi tiểu đoàn bị tràn ngập…Có cái chết đến nhanh sau một tiếng nổ lớn, có cái đến từ từ, quằn quại trong đau đớn. Có cái chết thật tức tưởi oan nghiệt, có cái vì can đảm đỡ đạn cho đồng đội bên cạnh. Người lính chết trong từng hố cá nhân, hay chung với nhau trong các đợt xung phong với xác quan và quân sát bên nhau, rải rác đây đó trên các nẻo đường đất nước. Chết toàn thây hay thân xác nổ tung? Chết mất tích trong bụi bờ, trên đường di tản, hay được chở về tận nhà trong hòm nhôm? Tuy nhiên chết trận quả thật ít khi được êm ả như cái chết của chàng Erust.
 
Để có thể hình dung gần cả trăm binh sĩ cùng chết một lần với nhau, xin hãy hồi tưởng đến câu chuyện một đại đội binh sĩ Nhảy Dù chết một lúc. Không phải trong khi chiến đấu chống quân thù như họ từng mong ước, cũng không phải trong một lần xung phong thẳng vào tuyến địch. Ngược lại, là cái chết tức tưởi trong một cuộc không vận từ chiến trường này đến một mặt trận khác. Phi cơ đang bình phi bỗng đầm sầm vào bờ núi phủ kín sương mù. Không một đèn đỏ nhá lên như khi người lính Nhảy Dù chuẩn bị bung mình ra khỏi phi cơ, không một dấu hiệu trục trặc động cơ hay khói tỏa trong thân máy bay. 
 
Và đây chẳng phải là một cái chết như mơ. Ngược lại một cái chết kinh hoàng đổ ập cùng một lúc lên mọi người. Sau một tiếng nổ lớn, phi cơ tan vụn thành nhiều mảnh giữa những tiếng la hét trong phút chốc. Rồi lửa và lửa. Cháy và cháy. Những tiếng nổ phụ. Có những thân hình tung bay tứ phía, va chạm, gục ngã trong thân máy bay. Có nhiều người chết liền, thân thể cắt nát bởi các mảnh kim loại. Có những người chết hai lần, thân hình nát bấy do đạn và lựu đạn mang trên người nổ thêm. Có những kẻ oằn oại dăm ba phút trước khi lìa đời. Hay đau đớn hấp hối cả tiếng đồng hồ bên ngoài phi cơ, khi thân xác văng xa trên triền núi, máu ướt đẫm cỏ rừng trước khi vĩnh viễn nhắm mắt. Một cái chết bình đẳng dưới mọi hình thức cho cả quan lẫn quân. Cho cả 4 phi hành đoàn người Mỹ lẫn 81 quân nhân người Việt của Đại Đội 72 thuộc TĐ.7 Nhảy Dù.
 
Các chiến sĩ trong Đại Đội 72 là những ai? Họ là những chàng trai trẻ đi theo tiếng gọi non sông, tình nguyện nhập ngũ, động viên, kẻ trước người sau rời xa mái trường, quê nhà và người thân lên đường tòng quân bảo vệ đất nước. Họ thuộc mọi thành phần của xã hội tự do miền Nam, đến từ mọi nẻo đường, từ những chốn xa xôi hẻo lánh hay đô thị đông người, suốt từ Đông Hà Quảng Trị khô cằn tuyến đầu, ngang qua Cố Đô Huế rồi đến duyên hải nắng đẹp miền Trung, lên tận cao nguyên rừng xanh âm u, quanh quẩn thủ đô Sàigòn-Gia Định mến yêu, xuyên qua những mảnh đất phì nhiêu mầu mỡ của đồng bằng Cửu Long đến tận Cà Mau… Bao gồm mọi tôn giáo, với đầy đủ giọng nói ba miền Nam Bắc Trung, đồng một lòng sát cánh chiến đấu bên nhau. Họ xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân hay các Trung Tâm Huấn Luyện quốc gia Thủ Đức, Quang Trung, TT Huấn Luyện Nhảy Dù…
 
Những người lính ấy đồng thời cũng là anh em trong cùng một gia đình, là con chú con dì trong dòng họ, cùng làng xóm phố phường, là bạn học cùng trường, từng quen biết nhau hay xa lạ nhưng cùng một lý tưởng, là những người con ưu tú tình nguyện gia nhập quân đội VNCH để chống trả kẻ thù xâm lăng. Vì là lính Dù, họ đều có chung một tầng số: thích mạo hiểm, thích xông pha, thích thử thách. Thương yêu Tổ Quốc. Trọn vẹn với nước nhà. Chí tình với đồng đội. Thích lối sống hào hùng, nay đây mai đó, là người của mây bốn phương trời, hoặc xanh cỏ hay đỏ ngực. Đi đông về ít. Đi có về không. Đồng mang nặng một tinh thần trách nhiệm cao độ, một tinh thần thượng võ hào hùng và một kỷ luật thép vô cùng nghiêm minh. Có sức chịu đựng bền bỉ, có khí phách của một nam nhân bất khuất, dũng cảm và gan dạ, sẵn sàng bảo vệ danh dự màu cờ sắc áo.
 
Đó là Trung Úy Phan Ngọc Bích, người Đại Đội Trưởng, nước da ngăm đen của miền cát trắng Nha Trang, xuất thân từ trường TH Võ Tánh và tốt nghiệp khóa 15 Thủ Đức. Anh vào quân ngũ đơn giản vì nặng lời thề “làm trai thời loạn khi đất nước lâm nguy”, đang chống trả với quân thù được nuôi dưỡng bởi lòng hận thù của chủ nghĩa CS xâm lăng sắc máu. Ngày mãn khóa, anh tình nguyện vào Nhảy Dù vì yêu thích tác phong oai hùng của các Thiên Thần Mũ Đỏ. Qua mấy năm tôi luyện ở TĐ3ND, anh được thuyên chuyển về TĐ7ND sau trận Đồng Xoài và nắm ĐĐ 72 trong cuộc hành quân tháng 12, 1965
 
Đó là Hạ Sĩ Nhất Nguyễn Thanh Xuân, người anh cả trong một gia đình gồm có một em gái và một em trai, từ làng Kế Môn, Thừa Thiên, đầu quân vào Nhảy Dù sau lần đi xem Nhảy Dù biểu diễn trên sông Hương. Trong chiến dịch Mùa Mưa tại Cao Nguyên, HS. Xuân có được cơ hội về thăm em gái mình “Anh ghé thăm tôi ở Pleiku, tặng tôi chiếc nhẫn vàng tây 2 phân ngay trước ngày anh bay đi Tuy Hòa…” bà Nguyễn Thị Hạnh nhớ lại (Báo NV/ Houston, ngày 27 tháng 9, 2019)
 
Đó là Thiếu Úy Dương Văn Chánh, sinh ngày 8 tháng Giêng, 1940 tại Thanh Hóa. Th. Úy Chánh là em út trong gia đình 5 anh chị em vốn có liên hệ với Quân Đội nói chung và Nhảy Dù nói riêng, với chị cả là Chuẩn Úy Nhảy Dù Dương Thị Kim Thanh, tức phu nhân của Cố Thiếu Tướng Trương Quang Ân, cựu chiến đoàn trưởng Chiến Đoàn 2 Nhảy Dù, và sau này là cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Thời trung học, Dương Văn Chánh theo học trường Chasseloup-Laubat, rồi Tabert Saigon và là một Tráng Sinh của Hướng Đạo VN. 
 
Chánh có vóc người tầm thước, da ngâm đen, rắn rỏi, giọng khàn khàn, tánh tình vui nhộn ưa đùa giỡn và nghịch ngợm với gia đình, tuy nhiên kín đáo khi ra bên ngoài. Anh rời trường Luật sau một năm học, lên đường tòng quân, vào Thủ Đức, tốt nghiệp khóa 18 vào tháng 3, 1965 và chọn Nhảy Dù. Được điều động về làm trung đội trưởng của TĐ7ND, anh may mắn chỉ bị thương khá nặng ngay trận đầu đời lính của mình tại Đồng Xoài vào tháng 6, 1965, khi Anh vừa bò ra khỏi hầm thì một trái pháo súng cối địch rơi vào hầm giết chết 2 bình sĩ trong đó, mọi người chung quanh đều tưởng cả 3 người đã tan xác nên báo cáo Chánh tử trận. Th. Úy Chánh và một số chiến sĩ Nhảy Dù đã lẫn trốn trong rừng, 3 ngày sau họ mới có thể trở về trình diện với đơn vị. Trong thời gian dưỡng thương, anh về ở với gia đình cha mẹ, gần Bệnh Viện Chợ Rẫy. Đó là lần cuối cùng gia đình nhìn thấy anh trước khi anh lên đường tham chiến tại Cao Nguyên.
 
Và đó là các quân nhân Trần Hồng, cùng quê hương xứ sở với Hạ Sĩ Nhật Nguyễn Thanh Xuân, Lê Văn Bình, Trần Quý, Nuôn Châu, Trần G.O, Trần Văn Thân, Lê Văn Hòa, Nguyễn Tuyết Thi, Lê Nguyên Thu, Nguyễn Văn Tài, Lâm Sỹ Đan, Lê Văn Suyên, Đỗ Văn Diên, Trần Văn Thân, Nguyễn Tài Văn, Nguyễn Tường Văn, Đỗ Văn Linh, Thy… mà tên và số quân được tìm thấy trên các thẻ bài trong 17 bao thu hồi hài cốt tháng 6, 1974. (tác giả Nguyễn Quân / 81 chiến sĩ ĐĐ 72, TĐ7ND tử nạn trên chuyến bay C-123 của Không Lực Hoa Kỳ - Dòng Sông Cũ/ May 6, 2019)
 
Và còn lại là các chiến sĩ vô danh mà hài cốt, hoặc nằm chung với nhau trong 17 bao chứa, hoặc tan tác thành tro bụi theo thời gian, rải rác trên sườn núi, hay vẫn còn trong thân máy bay, quá nguy hiểm cho lục soát tìm kiếm vì nhiều lựu đạn và đầu đạn M 79 chưa nổ. 
 
Vậy những người yêu của lính hoặc những cô gái mà người lính đeo đuổi si tình là ai? Phải chăng họ là em gái của thằng bạn nối khố, là người con gái lớn lên trong cùng xóm, cùng một thị trấn, ở làng bên cạnh, trong một quận lỵ, một trường tiểu trung học, trên thềm đại học, cùng chung nhóm bạn. Là người quen biết trong gia đình. Là em thím Tư, là cháu mợ Ba, là bạn thân của nhỏ em, con gái ông Thượng Sĩ trong trại gia binh. Là những o thôn nữ mộc mạc đơn sơ trong chiếc áo bà ba trắng xanh đỏ tím vàng gặp trên đường chinh chiến khi dừng chân uống nước ở ven đường Anh nhìn thấy…
 
Em là người con gái Anh chưa quen biết nhưng chợt thấy giữa nhóm bạn cùng trang lứa trong quán chè, quán kem… đang ăn vặt bò bía, phá lấu nước mía ở góc đường, hoặc là những thiếu nữ dung dăng dạo phố Nguyễn Huệ, Thương Xá Tax mà Anh muốn tìm quen theo về tận nhà. Em cũng là người em hậu phương đến choàng vòng hoa chiến thắng “trong ánh vinh quang rộn ràng, anh bước hiên ngang về làng”, là người mà Anh tình cờ bắt gặp có một đôi mắt long lanh thơ ngây, đôi má hây hây và một nụ cười hồn nhiên khiến Anh bỗng vương vấn trong một chiều rực nắng. Đó là một mái tóc mây hồng nghiêng nghiêng sau vành nón trên cầu Trường Tiền khiến Anh mê mẩn dù lời nói khó hiểu” mô tê răng rứa - anh đừng đi gần tui mà tui ốt dột. Mạ tui thấy la tui đó!” Hay là một cô bé tóc ngắn có dáng nghịch ngợm chạy xe honda với câu nói thật ngộ “Tui hổng chịu đâu - Dzậy sao?!” Là một tà áo tím nên thơ với giọng nói nhẹ như gió thoảng của “cô em Bắc Kỳ nho nhỏ”…Là người cho Anh bao nổi nhớ, bao vấn vương. Bao mộng ảo, diệu kỳ.
Rồi chuyện tình của họ như thế nào? Cũng ngập ngừng, cũng lo sợ, lãng mạng và say đắm. Cũng liều lĩnh, bất chấp, nhanh chóng và thương đau. Đột ngột và lâng lâng tự nhiên đến như thể “nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt, bằng mây nhè nhẹ gió hìu hiu!” Như một cơn “gió thoảng xa xôi, gió nào rung động tim tôi, hay là dư âm suốt đời!” Hay nhẹ nhàng buông thả trữ tình của “chưa nắm tay em mà lòng đã yêu, chưa uống môi em mà tình đã say!” Tình lính thường long đong ray rứt. Yêu trong vô vọng. Yêu trong cuồng si. Yêu trong chớp nhoáng. Tình lính “tính liền” với đám cưới trong ba ngày phép trước khi ra lại đơn vị. 
 
Anh biết chăng Anh, em yêu Anh vì yêu dáng phong trần hiên ngang của Anh, yêu luôn cả mũ đỏ thiên thần và bộ đồ hoa dù? Có thấy chăng Anh, em yêu cái nhìn nồng nàn, đôi mắt rực lửa, nụ cười rạng rỡ với giọng cười sảng khoái của Anh? Như một Ngọc Lan, cô bé Bắc Kỳ của mùa Thu tóc ngắn, yêu sự chìu chuộng săn đón của Thiếu Úy Dương Văn Chánh, yêu luôn cả con đường từng chung lối, yêu vòng tay siết chặt, nụ hôn nóng bỏng mang theo mây trời và giông bão vào đời mình. Phải chăng Ngọc Lan đã từng mong đợi những lá thư tình đơn sơ gởi từ KBC xa lạ?! Đã thích nghe Anh kể chuyện đời quân ngũ, xông pha ngoài trận tuyến. Yêu Anh, em đành thương luôn cả đầu tóc húi cao caré, làn da đen thui khét nắng và luôn cả mùi ẩm mốc của bộ đồ trận. Và từ khi em là người yêu của lính, em biết yêu nhạc lính, yêu màu tím hoa sim, biết lo sợ thấp thỏm đợi chờ tin Anh. Là biết cầu nguyện Ơn Trên gìn giữ Anh và theo dõi bước chân Anh qua những đêm trằn trọc khó ngủ. Anh biết chăng Anh khi yêu Anh là em chấp nhận những ngày cô đơn xa Anh, những chiều dạo phố một mình? Là ráng làm quen với tên xa lạ của những nơi Anh bước qua, là đến thăm Anh ở hậu cứ hay trong quân y viện.
 
Phải chăng Nha Trang từng đã ghi dấu mối tình học trò trong trắng của một Phan Ngọc Bích và bạn gái cùng trường Võ Tánh của mình? Phải chăng chị Phạm Thị Ngọc Thủy khi nhận làm vợ của Phan Ngọc Bích là chấp nhận thương đau thua thiệt? Là chắt chiu với tiền lính là “tính liền”. Có biết chăng rồi đây chị sẽ đếm những ngày xa chồng, sẽ sống tại hậu cứ ở Biên Hòa trong căn phòng nhỏ lợp tôn với hai quả tim đồng, và đành phó mặc tương lai cho số phận? Biết chăng chị khi lấy chồng lính là có ngày chị lỡ làng đời mình? Là có ngày chị phủ phục với 2 con còn thơ dại ở lứa tuổi 4 và 2 tuổi trước linh vị của chồng nhưng chẳng có lấy xác chồng để tiễn đưa? Mà đành tê tái, tủi thân với những dòng lệ tuôn rơi và những lời thì thầm yêu đương!!
 
Các Anh thân mến
Trong giây phút phi cơ lâm nạn, người lính trận trẻ tuổi có kịp chăng Anh kêu lên Mẹ ơi, như Anh đã từng làm lúc còn ở với Mẹ những khi anh bị đau ốm hay khi vấp ngã? Nhớ chăng Anh những bước bình an bên cạnh Mẹ trên con đường làng? Có nhớ chăng Anh lời nói yêu đương tỏ tình của Anh với người thôn nữ trên đường hành quân lần trước? Có đủ chăng Anh thì giờ nghĩ đến người vợ bé bỏng cùng hai con thơ luôn trông ngóng chờ đợi Anh nơi hậu cứ? Hay có kịp thấy chăng Anh nụ cười ánh mắt của người em nhỏ Anh đang yêu mà anh đành bỏ lại tại Gia Định khi bước vào chinh chiến?! Và có đủ chăng Anh, người Hạ Sĩ Nhất Nguyễn Thanh Xuân, vài giây để mỉm cười khi biết mình đang nhẹ nhàng bay đến gần người vợ mới cưới bị trúng mìn chết trong lần về thăm gia đình vừa xẩy ra 2 tháng trước chuyến hành quân này?
Người chết trận chính thức giã từ vũ khí. Họ thật sự là những anh hùng đã đi vào huyết sử của dân tộc, là hồn thiêng của sông núi, là huyền thoại của đất nước. Không có gì cao quý hơn khi chết trận. Chết trận là chết không một than vãn. Không một ai oán. Không có lấy một lời trăn trối cho người yêu, không kịp một lời xin lỗi với vợ dại con thơ ở nhà. Nhưng khi người lính nhắm mắt buông xuôi, tình yêu vẫn luôn hiện hữu trong ánh sáng vĩnh cửu của tin yêu, trong tình thương nhớ vô vàn của đồng đội và gia đình. Họ vĩnh viễn là cánh gió tung bay trên vạn nẻo đường đất nước.
 
“Mày nghĩ, tụi mình như cánh gió
Ai đi nhốt gió được bao giờ?”
** Lá Thư Pleime / Thiếu úy Dù Lê Anh Thái
Khi một người buông tay. Một người ngã. Một thoáng yêu nhau, Một thoáng ngậm ngùi, thì các bạn thân ơi, là những người sống sót qua cuộc chiến nay tạm dừng bước giang hồ, chúng ta cần phải ngồi lại bên nhau, xích sát vào nhau hơn nữa. Cho tình đồng đội vẫn trung tín. Cho khí thế vẫn dũng mạnh. Để tiếp tục đồng hành với nhau và chung sức giữ đời cho nhau. Trong tinh thần anh em đoàn kết một nhà. Trong tinh thần Cố Gắng Nhảy Dù muôn thuở:
Xin cùng nhau đốt nén nhang, nghiêng mình cầu nguyện cho anh linh 81 tử sĩ Nhảy Dù được an nghỉ ngàn thu.
 
Một lời tạ lỗi trong chua xót đến các Anh khi đất nước các Anh chết cho chính nghĩa nay không còn nữa. Dù lòng người tại Hải Ngoại, dù đồng đội các Anh luôn tiếp tục sát cánh dưới cờ Vàng Ba Sọc Đỏ.
 
Một lời xin lỗi các Anh phải chờ đến cả 54 năm mới thật sự nghỉ ngơi trong ngôi nhà mới. Một ngôi nhà ấm cúng, ngay trong lòng thành phố luôn tràn ngập cờ VNCH. Bên cạnh những người thân yêu, những đồng đội xưa cũ và những đồng hương. Như thể tại một nước Việt Nam thứ hai bên ngoài lãnh thổ của xứ VN CS
 
Một lời tạ lỗi đến các cô nhi quả phụ bị quên lãng trong bao năm, những người đã chịu những nỗi đau, những mất mát và những chấn thương không chảy máu ròng rã trên cả nữa thế kỷ.
 
Một lời tạ lỗi khi thân nhân các Anh không hiện diện đầy đủ trong ngày tiễn đưa các Anh – vì phương tiện thông tin không thể hoàn hảo với danh sách tử sĩ đa số vô danh.
 
Một lời cám ơn chân thành và sâu đậm cho đất nước Hoa Kỳ đã cưu mang chúng ta, những người Việt tỵ nạn CS, và đặc biệt Thượng Nghị Sĩ Jim Webb, mệnh danh là bạn của người Việt, đã cho phép Gia Đình Mũ Đỏ dự vào phần truy điệu, vinh danh và chôn cất các anh em của mình, 81 tử sĩ Nhảy Dù của Việt Nam Cộng Hòa, qua quỹ “The Lost Soldiers Foundation” mà trước đây chưa bao giờ có sự kiện tử sĩ không phải là công dân Mỹ được chôn trên đất Mỹ.
 
Nếu nước mắt chúng ta có rơi trong ngày đưa tiễn các Anh, xin hãy tự nhiên - Vì đây là những giọt lệ đồng cảm trân quý của đồng đội từng sát cánh hay nối gót các Anh trong lý tưởng chung - Vì đây là giòng lệ từ các thân nhân các Anh tuôn trào vì cảm thương người thân yêu của mình biền biệt ra đi nay bình an yên nghỉ sau một thời gian dài lạnh lẽo không bờ bến.
Nếu ánh nến có lung linh trong đêm nguyện cầu, hãy xem như những tiếng đập con tim tưởng nhớ và tri ơn các Anh. Như những lời thì thầm cầu kinh thương xót các Anh.
 
Hồn anh linh đã về nơi tiên cảnh
Trong quan tài ôm kín xác chiến binh
Anh ra đi vì nước quên thân mình
Nơi đất khách em ngậm ngùi tiễn biệt
Dẫu tha hương bao nhiêu người dân Việt
Đón anh về giọt nước mắt tiếc thương
Hỡi anh linh người chiến sĩ can trường
Mầu mũ đỏ, áo hoa dù bất diệt
Thân xác anh đã về nơi miên viễn
Hãy bình yên trong giấc ngủ ngàn thu
Tạ ơn anh, những chiến sỹ Nhẩy Dù
Đã dâng hiến một đời cho Tổ Quốc
(Lời Tri Ân Người Lính / Thái Thị Liên)
 
Xin hãy hiệp thông cầu nguyện Ơn Trên phù hộ và gìn giữ gia đình các tử sĩ.
Xin Ơn Trên cho quê hương Việt Nam sớm thoát gông cùm CS.
 
Xin Ơn Trên gìn giữ bạn và gia đình bạn
Cám ơn đời cho chúng ta vẫn còn có nhau.
Để, nếu có ngày về thăm nơi các Anh đã nằm xuống trong chốn hoang sơn, chúng ta sẽ thắp nhang mời hương linh các Anh dự tiệc, cùng nhau tâm sự chuyện đời, giữa tiếng rì rào của núi rừng và hương dại của những chùm hoa thạch thảo.
 
Xin hãy cho tôi một lần đứng chào
Những người bạn đã nằm xuống nơi xưa
Xin hãy cho tôi một lần trở lại
Bung cánh Dù ngạo nghễ năm xưa…
Vĩnh Chánh,

 
Tác giả là Bác sĩ Vĩnh Chánh, thuộc Hội Y Khoa Huế Hải Ngoại. Thời chiến tranh, ông là Y Sĩ Quân Y Nhảy Dù. Bài viết sau đây được tác giả viết cho Mùa Giáng Sinh năm 2012. 

Chuyện là thật, nhưng họ và tên các nhân vật không hoàn toàn đúng sự thật. Kèm theo bài viết là hình ảnh trực thăng hành quân sưu tập từ internet.

Bất cứ một chiến tranh nào cũng có những hoạt động quân sự được che dấu bảo mật. Với những phi cơ màu đen không số không tên không cờ, Phi Đoàn 219 Thần Phong của Không Quân VNCH, trực thuộc Phòng 7 Nha Kỹ Thuật, Bộ Tổng Tham Mưu, có nhiệm vụ thả người ra phía Bắc vĩ tuyến, đưa đón và yểm trợ những toán tiền thám Lôi Hổ, Biệt Kích đi sâu vào lòng địch…
Bài phóng tác dưới đây được dựa trên câu chuyên của Trần Khánh, một người con của Huế và là một “Thượng Sĩ Già” của Biệt Đoàn 83 gồm những chiếc trực thăng H34 của phi đoàn 219, với nét mặt vẫn mang đầy vẻ khí khái hiên ngang của một chàng trai thời chiến của ngày nào dù tóc nay đã nhuộm màu thời gian. Ước mong bài viết diễn tả được phần nào công việc hiểm nghèo các phi hành đoàn của Không Lực VNCH thi hành hàng ngày mà cá nhân tôi, một y sĩ QYND, đã chứng kiến qua những phi vụ đánh phá mục tiêu, yểm trợ, tiếp tế, tản thương…trong trận đánh năm 1974 ở Đồi 1062 tại vùng Thường Đức/ Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.

Từ xa về thăm bạn bè trong vùng Nam Cali nhân Mùa Giáng Sinh năm 1981, Khánh cố tình quên cái đau răng đã hành hạ anh từ mấy ngày qua. Qua một đêm mất ngủ vì nhức răng quá độ dù tối hôm trước anh uống rượu khá nhiều với các bạn cùng phi đoàn, Khánh quyết định tìm đến văn phòng nha sĩ cầu cứu.
Vì không quen biết ở vùng này, Khánh bước đại vào một văn phòng nha khoa nằm ở góc đường, gần căn nhà người bạn mà mình vừa tá túc. Trong khi đang đứng kể rõ bệnh tình với cô nhân viên để xin cho được gặp nha sĩ dù không có hẹn trước, Khánh thấy người nha sĩ bước vào phòng và ra dấu cho người nhân viên chấp nhận, có lẽông ta nghe được câu chuyện vì đứng sát cửa phòng chờ khách.

Nằm chờ trên ghế khám không mấy lâu, Khánh thấy người Nha Sĩ vừa bước vào phòng vừa đọc hồ sơ cá nhân của Khánh. Qua vài câu thăm hỏi về bệnh tình, ông hỏi Khánh có ở trong quân đội trước khi mất nước. Khánh trả lời có và cho biết mình phục vụ trong Không Quân VN. Người Nha Sĩ ngần ngừ một thoáng rồi nói nhỏ “tôi có người em trai cũng ở trong Không Quân, nhưng nó chết rồi”. Rồi như muốn trút đi một tâm sự buồn, ông vội nói tiếp “Nó tên là Hòa, Nguyễn Đại Hòa, người rất hiền hòa như tên của nó vậy đó. Nó là trung úy phi công trực thăng đóng ở Đà Nẳng, và chết trong một phi vụ vào tháng 2 năm 1971”.
Khánh thảng thốt bật thẳng dậy, hỏi ngay “có phải xác của Trung Úy Hòa được đưa về Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương ở Huế bằng trực thăng không?” Người Nha Sĩ bước lui mấy bước và trả lời không ngập ngừng “Đúng rồi. Sao anh biết?”

Như một tia chớp, bao nhiêu hình ảnh trong phút chốc bỗng trở về trong đầu Khánh một cách mạch lạc dù câu chuyện đã xẩy ra cả mươi năm qua.
“Thưa Nha Sĩ, nếu đúng với tên người chết là Trung Úy Hoà, chính phi hành đoàn chúng tôi đưa xác anh ấy về Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương!”

Người Nha Sĩ đứng yên lặng trong giây lát, như để tự trấn tĩnh lấy mình, rồi bỗng vái lạy Khánh, vừa nói nhanh.

“Mấy lâu nay gia đình chúng tôi muốn biết về cái chết của nó vì nghe phong phanh phi đoàn nó nói là trực thăng của nó bị bắn rơi, chỉ riêng một mình nó chết thôi và phi hành đoàn 3 người còn lại đều bị bắt làm tù binh”

Trong cùng lúc đó, Khánh cũng bật dậy, nhảy vội ra khỏi chiếc ghế khám, chạy đến bên cạnh người Nha Sĩ, làm hành động ngăn không cho ông ta vái nữa; và trong sự cảm thông, hai người xúc động ôm chặt lấy nhau trong im lặng. Rồi người Nha Sĩ mời Khánh bước qua phòng làm việc. Bấy giờ Khánh mới lấy lại bình tĩnh và tuần tự kể từng chi tiết về chuyến rescue mission đặc biệt năm đó.

Trong Chiến Dịch Lam Sơn 719 đánh vào các căn cứ của CS Bắc Việt ở Hạ Lào vào tháng 2, 1971, Biệt Đoàn 83 của Khánh được biệt phái từ Phủ Bài ra Ái Tử. Sau khi thi hành thả những toán Lôi Hổ vào vùng đất địch, trực thăng H34 của Khánh đang trên đường trở về căn cứ Phủ Bài. Trước khi đến cây số 17 gần An Lỗ, liên lạc viễn tuyến trên tần số phi cơ cho biết có một chiếc trực thăng UH1H của phi đoàn bạn từ Đà Nẵng bị bắn rớt ở phía Tây Động Ông Đô. Phi hành đoàn của Khánh lập tức chuyển hướng, quay về hướng Tây, lần theo toạ độ tìm đến nơi chiếc trực thăng bị rơi.

Trời lúc đó đã về chiều dù chưa tới 5 giờ và càng vào trong núi càng nhiều sương mù. Từ trên cao, Khánh thấy xác chiếc trực thăng nằm nghiêng ở kế bên dòng suối nhỏ. Sau khi đảo quanh một vòng để quan sát tình hình chung quanh trực thăng bị rơi, chiếc H34 từ từ bay dừng một chỗ trên không và sử dụng hệ thống Hoist thả Khánh xuống ở cách xa trực thăng kia khoảng 80 thước.

Khi đến được mặt đất và tháo gỡ dây Hoist ra khỏi người, Khánh mới biết cỏ tranh xanh cao hơn đầu người anh và triền đồi rất dốc, khiến anh đã bị lăn từ trên triền đồi xuống đến dưới lòng suối.

Vừa ê ẩm trong người, vừa hồi hộp, Khánh chạy lần theo men bờ suối và đến cạnh chiếc trực thăng ngộ nạn. Khánh nhìn ở bên ngoài và chung quanh trực thăng, nhưng không thấy bóng dáng ai cả. Nhìn vào phòng lái, Khánh thấy thân thể một người nằm gục không nhúc nhích ở ghế phi công trưởng, đầu nghẹo sang một bên và kính phía trước bị bắn lủng một lỗ to tướng.

Khánh lách người qua cửa hông bên trái, lần đến gần người nằm bất tỉnh ở ghế trước bên phải. Bấy giờ Khánh mới nghe hơi thở phì phò của người phi công bị thương cùng một lúc nhận thấy khuôn mặt anh bên phải là một khối bầy nhầy đầy cả máu.

Sau khi cố gắng lôi được hai bàn chân của người bị thương còn bị kẹt ở pedales phía dưới thân máy bay, Khánh bắt đầu ôm lấy thân hình anh ta, từ từ kéo ra khỏi xác máy bay. Khánh nghe được một tiếng thở mạnh từ người phi công vừa trút hơi thở cuối cùng trong tay mình.

Trong khi vác xác đồng đội trên vai chạy dần về nơi an toàn, máu người chết tiếp tục chảy xuống ướt cả áo bên trong của Khánh, cộng thêm với mồ hôi của mình khiến Khánh choáng váng và mệt đến lả cả người. Sau hai lần phải dừng lại nghỉ mệt, Khánh đã đến được điểm hẹn, bấm đèn pin lên hướng trực thăng của mình làm dấu thả dây Hoist xuống cho Khánh móc xác người chết lên trước, rồi đến mình lên sau.

Chiếc H34 bay quành một vòng nhỏ như để chào vĩnh biệt lần cuối người bạn mới hy sinh, rồi lấy hướng về phía Đông Nam. Ít phút sau, Khánh lấy lại bình tĩnh, nhìn đọc bảng tên HÒA trên áo bay của người phi công xấu số.

Phi hành đoàn H34 báo cáo sự việc và nhận chỉ thị đưa xác Trung Uý Phi Công Hòa về Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương. Khánh vẫn còn run sợ, thầm nghĩ anh có may mắn không bị VC phục kích và chiếc trực thăng H34 đang bay chờ anh trên trời cũng không bị nhắm bắn trong khi thi hành nhiệm vụ một cách đơn độc vào giờ chót trong một thời tiết rất xấu.

Dù đau buồn vì 3 người phi hành đoàn còn lại đã bị bắt làm tù binh trước khi trực thăng của anh đến vùng, và phi công trưởng tử thương, nhưng Khánh và phi hành đoàn H34 của anh có niềm hãnh diện riêng vì ước nguyện của các chiến hữu Không Quân đã thêm một lần được thực hiện qua châm ngôn “Không Bỏ Anh Em, Không Bỏ Bạn bè”

Cả tuần sau, Khánh vẫn bồn chồn đứng ngồi không yên, người cứ mệt mỏi bần thần.Bộ đồ bay màu đen của anh vẫn còn thoảng mùi máu của đồng đội dù đã được giặt đi giặt lại khá nhiều lần. Cái chết của người Trung Úy Phi Công Hòa với gương mặt bị bắn nát một nữa bên của anh,cùng với hình ảnh của bao người lính Lôi Hổ, Biệt Kích mà Biệt Đoàn 83 của anh đã từng đưa đi, đón về phía sau lưng địch, có khi đầy đủ có khi thiếu một vài người, đã để lại những vết thương âm ỷ khó quên trong tâm hồn của con người vốn coi nhẹ tính mạng nơi anh.

Nghe xong câu chuyện và với nước mắt lưng tròng, người Nha Sĩ lên tiếng:
“Chắc vong linh em tôi xui khiến và dẫn đường cho anh đến văn phòng gặp tôi sáng nay. Câu chuyện anh kể hôm nay về cái chết của Hòa là một món quà vô giá trong mùa Giáng Sinh năm nay cho gia đình Cha Mẹ và anh em chúng tôi. Nguyện ước biết rõ về cái chết đau thương của Hòa trong vòng tay của một đồng đội sẽ mang đến một kết thúc nhẹ nhàng cho gia đình chúng tôi. Thay mặt cho toàn gia đình, tôi xin được nói lời cảm tạ với ân nhân đã đem xác em tôi về…”.

Trong mùa Giáng Sinh năm 1981, sau khi rời văn phòng nha sĩ, Khánh cảm thấy nhẹ hẳn người, như vừa trút bỏ được một gánh nặng đã cất giữ trong lòng từ lâu. Và anh bỗng thấy tâm hồn mình thư thái, nhẹ nhàng như muốn vụt lên với trời cao trong xanh.
Vĩnh Chánh
 
Đôi dòng giới thiệu:
Tác giả là một bác sĩ, tốt nghiệp Y Khoa Huế năm 1973. Do nhu cầu thời chiến tranh, được lệnh trưng tập vào Quân Y, ông đã tình nguyện vào Binh chủng Nhảy Dù, và trở thành Trung Úy Y Sĩ Trưởng của Tiểu Đoàn 1, sau đó là Tiểu Đoàn 15 Nhảy Dù , cùng gắn bó với đơn vị chiến đấu cho tới giờ phút cuối tại vành đai Sài Gòn đến ngày 30 tháng Tư 75. Sau khi ra tù, ông vượt biên cùng gia đình, đến định cự tại Hoa Kỳ năm 1980, vừa đi làm vừa học lại chuyên môn, và năm 1982 được hành nghề bác sĩ tổng quát tại một bệnh viện ở Louisiana. Hiện đã về hưu và là cư dân Mission Viejo, California.

Với bài “Không Bỏ anh em, không bỏ bạn bè” viết vào Tháng Tư 2013, Bác sĩ Vĩnh Chánh đã nhận giải danh dự Viết về nước Mỹ cùng năm do Việt Báo tổ chức
Đây là câu chuyện thật cuộc đời của tác giả. Giống như những bí ẩn “đằng sau mặt trăng,” bài viết kể về ba thế hệ thuộc một gia tộc hoàng phái quyền chức, với những mảnh vỡ trôi dạt từ trong ra ngoài nước.
Phần Một, là chuyện người cha bị cộng sản thủ tiêu, với nhiều tình tiết bị lịch sử khuất lấp trong vụ án ‘Tân Việt Cách Mệnh Đảng’ tại Huế đầu thế kỷ 20, khi người Pháp kết án tù ba nhà giáo Đào Duy Anh, Đặng Thái Mai, Bửu Tiếp và một số học trò Đồng Khánh, Quốc Học: Huỳnh Thị Liễu, Nguyễn thị Quang Thái, Võ (Nguyên) Giáp.

Phần Hai, là chuyện trên đất Mỹ: Từ một tại nạn do sai sót y khoa, tới “tai họa cộng sản” tại Việt Nam.
*********************

Thế giới tuổi thơ ấu của tôi ở cố đô Huế là xóm Đường Đá, bên hông Toà Khâm Mạng Phủ Cam. Đây là khu điền trang của Ông Nội tôi, trải dài từ phía dưới Đồn Girard / Lăng Mả Tây cho đến gần bờ sông Bến Ngự. Dinh cơ chính là một tòa lầu ba tầng trắng toát bề thế, kế bên có tòa nhà thư viện hai tầng, chứa đầy sách cổ Hán Nôm, nơi làm việc của ông nội. Xa xa, khu nhà đất dành cho ba măng tôi, vườn trước vườn sau đều thông sang vườn lớn.

Từ tuổi học vỡ lòng, biết trèo cây hái trái, khi chạy chơi trong khu vườn lớn của ông bà nội, tôi đều đi ngang qua khu mộ đại gia đình, trong đó có mộ phần của Ba tôi, nằm riêng một mình giữa tầng đất thứ hai. Tôi thường ngồi trên cột đá bên mộ, cố đọc những hàng chữ khắc trên tấm bia, nhưng hình như càng đọc càng không hiểu tại sao mình không bao giờ được thấy mặt ba. Cũng không hiểu tại sao Ông Bà Nội được các chú bác kêu là “Thầy, Mạ” mà anh chị em tôi lại kêu thầy mạ mình là “Ba, Măng”. Nhiều thắc mắc vẩn vơ đôi khi theo tôi vào giấc ngủ.

Trong nhà thời ấy có bộ ván kê sát bên cửa sổ, tôi được nằm giữa Măng và Chị Băng Tâm. Vào những đêm trăng, tôi nằm nghiêng hướng ra phía vườn, theo dõi mặt trăng khi sáng trong, khi lu mờ vì mây. Bóng cây bên ngoài song cửa có lúc bỗng thình lình xoay chuyển. Nhiều hình ảnh kỳ dị nhảy múa, chập chờn. Có chuyện gì vậy, đằng sau mặt trăng nằm nghiêng kia? Giống như đằng sau những bia mộ trong vườn, đó là những bí ẩn mà tôi không thể hiểu.

Từ ngày khôn lớn, vừa nghe chuyện nhà vừa học hỏi thêm, tôi dần dần biết thêm về thân thế gia tộc mình, hoàn cảnh đất nước loạn ly, và chuyện Ba tôi bị đột tử khi tôi còn nằm trong bụng mẹ.

Chỉ mới là biết thêm. Không phải là thấu hiểu.
Nhiều bí ẩn đằng sau mặt trăng vẫn còn bị khuất lấp.

I. Theo phả tộc triều Nguyễn, tập gia phả phòng 15, Ông Sơ tôi là Hoàng tử Nguyễn Phúc Miên Thanh, tự Gián Trạng, hiệu Quân Đình, tước Trấn Biên Quận Công, là con thứ 51 của Đức Thánh Tổ Minh Mạng và quí nhân Lê Thị Lộc. Ông Cố Nội tôi là công tử Nguyễn Phúc Hường Điệp (tức Vĩnh), từng là Tri Phủ huyện Phú Vang năm 1877, sau đó là Đại Sứ Chánh Tế, thay Vua cúng lạy lăng tẩm các tiên vương.

Ông Nội tôi là Hoàng thân Nguyễn Phúc Ưng Đằng, làm quan coi Ký Lục, cơ quan phiên dịch Hán – Nôm và Pháp ngữ của triều đình. Bà Nội tôi là em ruột của bà cố Ngô Đình Khả, mẹ của anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Khu đất của dòng họ Ngô Đình – nơi có phần mộ ông Ngô Đình Khả và người con lớn là ông Ngô Đình Khôi – nằm kế khu đất của Ông Nội tôi, chỉ cách một con đường nhỏ, cũng phía bên dưới Đồn Girard, và cách chùa Linh Quang khoảng 400 thước. Anh em nhà Ngô Đình kêu Bà Nội tôi bằng Dì, thường cho người đem sang quà biếu trong các dịp lễ tết.
 
“Bằng tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm /Diplome D’Études Supérieures. Hanoi 23 Mai, 1926, ghi tên: Bửu Tiếp
 
Sang đời Ba tôi, Ông Nguyễn Phúc Bửu Tiếp, sinh năm 1904, được Ông Nội cho theo Tây học. Đầu thập niên hai mươi, khi ra Hà Nội học trường Cao Đẳng Sư Phạm Đông Dương (École Supérieure de Pédagogie), ông Tiếp có người bạn thân cùng lớp là Ông Đặng Thái Mai, sinh năm 1902, lớn hơn ông hai tuổi. Cả hai cùng tham gia các hoạt động sinh viên.

Tuy là trường Tây nhưng hội sinh viên tại đây tự xưng là “Hưng Nam Phục Việt,” hàm ý chống lại ách lệ thuộc người Pháp. Năm học cuối, ông Đặng Thái Mai chọn chuyên khoa văn chương. Ông Bửu Tiếp chọn ngành khoa học. Cả hai cùng tốt nghiệp năm 1926, sau đó cùng nhau về Huế làm giáo sư Quốc Học, giao tình ngày càng thân thiết hơn.

Huế đầu thế kỷ 20, và vụ án “Tân Việt Cách Mệnh Đảng”

Đầu thế kỷ 20, dù triều đình bất lực trước giặc Pháp xâm lược, nhưng tại kinh đô Huế cũng như khắp nơi, tinh thần quốc gia dân tộc vẫn mạnh mẽ chống lại ách lệ thuộc, phong trào Đông Du phục quốc do các bậc sĩ phu phát động được hưởng ứng rộng rãi. Sau vụ Phan Bội Châu bị Pháp bắt cóc từ Thượng Hải mang về nước kết án chung thân, tình hình càng sôi sục.

Năm 1927, Huỳnh Thúc Kháng từ chức Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ để phản đối Pháp, cùng Đào Duy Anh về Huế mở báo Tiếng Dân, nhà xuất bản Quan Hải Tùng Thư, rồi thành lập Tân Việt Cách Mệnh Đảng, do Đào Duy Anh là Tổng Thư Ký Sáng Lập. Sẵn tinh thần “Hưng Nam Phục Việt” và là bạn nhà giáo đồng trang lứa, hai ông Đặng Thái Mai và Bửu Tiếp thường lui tới sinh hoạt với ông Đào Duy Anh.

Cùng năm 1927, trong số học trò Quốc Học tham gia bãi khóa có Võ Giáp, 16 tuổi, bị viên giám thị người Pháp đuổi học. Giáp được các ông thầy thu xếp đưa vào tập việc tại báo Tiếng Dân và Quan Hải Tùng Thư. Ngoài trụ sở tòa báo trên đường Đông Ba, căn nhà của ông bà Đặng Thái Mai tại Huế trở thành nơi tụ hội.
Sau khi đảng Tân Việt được thành lập, số người tụ hội lui tới ngày càng đông hơn, gồm cả các thầy giáo và học trò. Tổ chức “Học Sinh Đoàn” của Tân Việt Cách Mệnh Đảng, ngoài Võ Giáp, còn có thêm hai cô nữ sinh Đồng Khánh tham gia rải truyền đơn, là Huỳnh Thị Liễu, 14 tuổi, và Nguyễn Thị Quang Thái, 13 tuổi. Kiểu tụ họp “cách mệnh” tài tử này tất nhiên không thể qua mắt mật thám Pháp.

Tháng Bẩy 1929, Đào Duy Anh bị bắt, đảng Tân Việt tan hàng. Các thầy trò Quốc Học Đồng Khánh liên hệ lần lượt vào nhà lao Thừa Phủ. Mấy ông thầy giáo Lê Viết Lượng, Đặng Thái Mai, Bửu Tiếp lãnh án tù ba năm, nhưng đám học trò vị thành niên được thả ra sớm. Huỳnh Thị Liễu về quê Đồng Hới ở với mẹ. Nguyễn thị Quang Thái và Võ Giáp cùng nhau ra Hà Nội.

Theo sử sách cộng sản được phổ biến trong bách khoa toàn thư Wickipedia, Võ Giáp chính là tên khai sinh của Võ Nguyên Giáp, sinh năm 1911. Người vợ đầu tiên của Giáp là Nguyễn thị Quang Thái, sinh năm 2015. Đảng Tân Việt được thành lập tại Huế ngày 14 tháng 7 năm 1928. Vẫn theo Wickipedia, đảng Cộng Sản Đông Dương thì mãi tới tháng 3 năm 1930 mới được thành lập ở… Hồng Kông. Thêm mười năm sau, Võ Nguyên Giáp mới gia nhập đảng này. Đây cũng là lúc Nguyễn Ái Quốc đang là hội viên của “Việt Nam Đồng Minh Hội” ở Quảng Châu, do Nguyễn Hải Thần là chủ tịch sáng lập (Nguyễn Tường Tam và Vũ Hồng Khanh làm phó, được Quốc Dân Đảng Trung Hoa hỗ trợ). Năm 1941, chính hội này đề cử Nguyễn Ái Quốc về nước hoạt động.

Chỉ cần đối chiếu niên biểu các nhân vật – sự kiện trên đây, sẽ thấy mọi phong trào yêu nước như Duy Tân, Phục Quốc hoặc các đảng phái, từ Quốc Dân Đảng, Đại Việt, tới Tân Việt đều hoàn toàn xuất phát từ tinh thần quốc gia dân tộc. Ngay danh xưng “Tân Việt Cách Mệnh Đảng” (kị húy tên vua Minh Mạng) cũng cho thấy chất bảo hoàng phong kiến. Sau khi rã đám, các thành viên còn lại của Đảng Tân Việt đã thành lập “Liên Đoàn Quốc Gia”. Thời ấy chưa hề có đảng Cộng sản, mọi liên hệ kể công sau này chỉ là ăn có hoặc ăn cướp. Như họ đã cướp danh nghĩa Việt Minh (tên gọn của Việt Nam Đồng Minh Hội) và cướp công cuộc kháng chiến chống Pháp của cả dân tộc.

Bà Bửu Tiếp/Huỳnh thị Liễu:
“Măng tôi trở thành góa phụ ở tuổi 32, với 5 đứa con thơ, tuổi từ 10 đến 3 và một bào thai 4 tháng trong bụng. Là tôi…”
Sau khi ra tù, năm 1934, ông Đặng Thái Mai mang gia đình ra Bắc. Riêng ông Bửu Tiếp vào Nam, có thêm cô học trò Huỳnh thị Liễu trốn mẹ đi theo. Chàng là hoàng phái con quan mà đi tù, rồi tự ý thành hôn. Nàng – sinh tại Đồng Hới năm 1914, kém chàng 10 tuổi – bỏ học rồi bỏ nhà bỏ quê theo chàng. Đó là sơ lược thân thế về Ba và Măng tôi. Chuyện phiêu lưu ái tình cách mạng của họ, nhìn lại có vẻ giống tiểu thuyết tiền chiến như chàng Dũng trong Đôi Bạn của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam hay cô Loan trong trong Đoạn Tuyệt của Khái Hưng.

Tại Saigon, Ba tôi dạy Vật Lý và Hóa Học cho các trường tư thục. Năm anh chị của tôi đều ra đời ở Saigon. Mãi tới khi người Pháp hết quyền hành tại Huế, Ba tôi mới có thể công khai trở về. Ông nội tôi, tuy từng phải nói là không nhìn nhận đứa con ngỗ ngược tù tội, nhưng trong điền trang ở Phủ Cam, vẫn có phần đất dành riêng cho Ba tôi làm nhà, và Măng tôi vẫn được Ông Bà Nội nhìn nhận là con dâu chính thức.

Ông Nguyễn Phúc Bửu Tiếp:
“Ngày 24 tháng 7, 1946, sau khi người y tá vừa rút mũi kim chích thuốc khỏe ra khỏi mạch máu ở tay là Ba tôi đứng tim chết.”

Sau Cách Mạng tháng Tám 1945, vua Bảo Đại từ chức, trong Chính phủ Liên Hiệp tại Hà Nội, có Nguyễn Hải Thần làm Phó Chủ Tịch, Nguyễn Tường Tam làm Bộ Trưởng Ngoại Giao, Cụ Huỳnh Thúc Kháng làm Bộ Trưởng Nội Vụ, Giáo sư Đặng Thái Mai làm Bộ Trưởng Văn Hóa. Ông Bửu Tiếp được mời giữ chức vụ Giám Đốc Bình Dân Học Vụ ba tỉnh Bình Trị Thiên. Tuy chức Giám Đốc Học Vụ được chen thêm hai tiếng “bình dân” cho ra vẻ cách mạng, nhưng dân trong vùng Phủ Cam thời ấy vẫn gọi ba tôi là “Quan Đốc Tiếp.”

Ngày 24 tháng 7, 1946, sau khi người y tá vừa rút mũi kim chích thuốc khỏe ra khỏi mạch máu ở tay là Ba tôi đứng tim chết, khi Măng tôi vừa bước chân vào nhà.

Măng tôi kể là ngay khi ôm xác Ba trong tay, bà đã cảm thấy có điều gì bất thường. Ba tôi lúc đó đang khỏe mạnh, việc chích thuốc bổ chỉ là để gìn giữ sức lực. Người chích thuốc là một y tá bà con xa, và thường chích thuốc khỏe Huile de Camphre vào thịt mông Ba tôi. Tại sao lần này ông ta lại chích vào mạch máu? Vì đó chính là mũi thuốc được thi hành theo một “lệnh xử lý” – theo từ ngữ cộng sản, có nghĩa là “giải quyết hoặc thủ tiêu.” Chi tiết việc này được kể ở phần sau.

Vậy là Ba tôi bị đột tử khi mới 42 tuổi. Măng tôi trở thành góa phụ ở tuổi 32, với 5 đứa con thơ, tuổi từ 10 đến 3 và một bào thai 4 tháng trong bụng. Là tôi, đứa con út không biết mặt cha.

Tang lễ ba tôi nghe nói được tổ chức rất lớn. Lễ di quan có đội quân danh dự của “vệ quốc quân” dàn chào, hộ tống. Số người đưa linh cữu từ nhà thờ Chánh Tòa Phủ Cam về nghĩa trang đại gia đình dài cả cây số. Câu chuyện về đám tang sau này còn được thầy tôi ở trường Y Khoa Huế là Bác sĩ Nguyễn Văn Vĩnh nhắc đến mỗi khi tôi có dịp gặp ông. Ông nói đám tang Ông Bửu Tiếp là một biến cố lớn ở Huế năm 1946.

Thời cầm quyền của Việt Minh ở Huế không đầy năm. Quân Pháp trở lại. Lệnh toàn quốc kháng chiến được công bố ngày 19 tháng 12, 1946. Măng tôi mang lũ con về vùng quê lánh nạn.

Ngày 30 tháng 12 năm 1946, tôi được sinh ra trong lúc đang chạy loạn tại Mỹ Chánh nên tên tôi là Chánh. Măng tôi kể là ngay sau khi sinh, Măng đang còn nằm nghỉ thì thấy bóng Ba hiện về và từ từ bước đến nơi tôi đang nằm, đưa tay vuốt vuốt đầu tôi rồi xoay lưng bước ra . .

II. Cơ hội Huế – Saigon: Chiến tranh và nhà tù
Trong những năm chiến tranh Pháp-Việt, măng tôi một mình tần tảo lo liệu nuôi đàn con 6 đứa.
Dù hoàn cảnh khó khăn, Măng tôi kể là bà vẫn hằng cầu nguyện đọc kinh, nương dựa vào đức tin công giáo, và rất may mắn nhận được sự giúp đỡ tinh thần từ các cha Dòng Thiên An và Dòng Chúa Cứu Thế tại Huế.

Năm 1954, đất nước bị chia đôi. Người Pháp ra đi. Chế độ Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu một vận hội mới tại miền Nam. Măng tôi chính thức được nhận vào làm cô giáo trong trường nữ trung học Đồng Khánh. Bà dạy môn Nữ Công Gia Chánh, cùng với cô Hoàng Kim Cúc. Sau đó, măng tôi được phép đem cả gia đình vào cư trú trong khu gia cư giáo chức ngay trong khuôn viên trường. Tất cả các anh chỉ em tôi đều được các cha dòng Thiên An lưu tâm trợ giúp cho cơ hội học hành.
Mấy năm sau, anh đầu của tôi là Vĩnh Toàn tốt nghiệp bác sĩ và bị động viên, chị thứ hai là Băng Tâm, tốt nghiệp dược sĩ và lấy chồng là bạn cùng lớp, ở luôn trong Saigon. Anh thứ ba là Vĩnh Anh được học bổng Plan Columbo du học tại Canada. Hai người chị sinh đôi, Liên Tâm và Mai Tâm thì một chị vào Saigon làm việc, một chị lên Đà Lạt học rồi lấy chồng là một Tiểu Đoàn Trưởng Biệt Động Quân.

Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đổ năm 1963. Miền Bắc cộng sản công khai xâm chiếm miền Nam, chiến tranh lan rộng, người Mỹ. Tết Mậu Thân, trong khi học Y Khoa Huế năm thứ nhất, tôi tiếp tục ở với Măng tôi trong trong khu lầu ba trường Đồng Khánh. Chính từ đây tôi đã chứng kiến cảnh quân cộng sản nổ súng mở màn cuộc tàn sát tại Huế. Trong số hàng ngàn nạn nhân của cộng sản, có các vị Giáo Sư người Đức của trường Y Khoa Huế.

Sau Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972, Măng tôi di chuyển vào Saigon và được anh đầu tôi mua cho căn nhà trong Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa. Qua năm 1973, tôi tốt nghiệp y khoa Huế và chọn về Quân Y Nhảy Dù.
 
Năm 1975, chị Băng Tâm và chị Mai Tâm, một trong hai chị sinh đôi của tôi, cùng gia đình của họ may mắn rời nước trong mấy ngày cuối cuộc chiến. Ngày 30 tháng Tư 1975, là y sĩ trưởng của một tiểu đoàn dù lãnh phần bảo vệ cầu Bình Triệu, tôi ở lại với đơn vị tới giờ chót. Sau lệnh buông súng rồi tan hàng, như trong cơn mê sảng, tôi tìm về được tới nhà vị hôn thê.

Ba ngày sau, một đám cưới đơn giản được cử hành tại nhà nguyện Dòng Chúa Cứu Thế. Sau đó, tôi đi “trình diện học tập”, để lại người vợ mới cưới sau khi mất nước, ở chung với Măng tôi và bà chị sinh đôi còn lại.
Năm 1977, anh Vĩnh Anh, ông anh thứ ba, từ Canada về nước thăm gia đình, có vào thăm tôi trong trại tù cải tạo ở Trảng Táo. Trước đây, sau khi tốt nghiệp tiến sĩ Canh Nông, vì chống chiến tranh Việt Nam, anh phải trốn và sống bất hợp pháp tại Canada một thời gian khá dài. Sau chuyến thăm này, Măng tôi mừng hết lớn khi được thư anh báo nay đã là “công dân Canada,” có nghĩa là không còn mơ về Việt Nam phục vụ đất nước.

Về anh Vĩnh Toàn, ông anh đầu của tôi, tuy hai anh em cùng ở trong nước nhưng vì hoàn cảnh, chúng tôi ít có dịp gặp nhau. Tôi chỉ được biết, sau khi tốt nghiệp Bác sĩ, thời VNCH, anh từng là Trưởng Ty Y Tế Quảng Nam. Mùa xuân 1975, khi miền Trung thất thủ, anh đang là Giám Đốc Bệnh Viện Hội An. Sau đó, được chế độ mới thuyển chuyển về làm việc tại bệnh viện toàn khoa tại Đà Nẵng. Mãi sau ngày đi tù cải tạo về, hai anh em mới gặp lại lần đầu, khi anh vào Saigon thăm măng tôi. Nghe anh nói đã quyết định tiếp tục sống trong nước, không đi đâu cả, tôi hiểu là anh em chúng tôi sẽ đường ai nấy đi.

Cũng sau khi từ nhà tù về nhà, tôi mới biết là trong thời gian tôi đi tù, có người quen xưa là “dì” Bích Hà, con gái đầu của “bác” Đặng Thái Mai, đồng thời là người vợ sau của ông Võ Nguyên Giáp, đến tận nhà thăm Măng tôi hai lần, do hỏi thăm địa chỉ từ ngoài trường Đồng Khánh.

Măng tôi cũng nói thêm, thời Ba và măng tôi lui tới với gia đình ông Đặng Thái Mai tại Huế trước ngày bị Pháp bắt, Bích Hà chỉ mới một hai tuổi, chưa kịp có thân tình riêng. Việc “Bà Đại Tướng” cất công tìm địa chỉ, tới tận nhà thăm hẳn là do hai ông Đặng Thái Mai và Võ Nguyên Giáp quyết định. Ngay trong lần gặp đầu, Măng tôi kể là bà có nói việc con mình là bác sĩ mà cũng bị bắt ở tù. Miền Nam ngày càng đói khổ, mà ngoài Bắc vô đây cái gì cũng tha ra ngoài đó. Khi chia tay, tưởng sẽ đi luôn. Không ngờ Bích Hà còn trở lại thăm lần thứ hai, và khi ra về, còn vui vẻ mang theo tất cả những sách quý bằng tiếng Pháp do Măng tôi tặng lại.

Có thể nhờ hai cuộc viếng thăm đặc biệt này mà các anh công an khu vực có phần nương tay với ngôi nhà của măng tôi trong cư xá Bắc Hải, khi đi tù về, tôi cũng không bị làm khó dễ.

Măng tôi còn nhắc tới câu chuyện một cặp vợ chồng mà gia đình hai bên từng quen biết trước đây ở Huế, là anh chị Phục và Vịnh Thủy, từng hoạt động với anh Vĩnh Anh tôi trong tổ chức “Trí thức Việt Kiều Yêu Nước” tại Montreal. Sau khi nghe tuyên truyền đất nước đã hòa bình độc lập, anh chị đã hăng hái tiên phong về nước phục vụ sớm sủa, để rồi chỉ vài năm sau, phải âm thầm mang hai con nhỏ vượt biển trở lại Canada. Câu chuyện anh chị Phục – Vịnh Thủy liều chết để tìm lại tự do khiến tôi không còn chút do dự.
Khi vợ chồng tôi quyết định tìm đường ra đi, Măng tôi đã lặng lẽ góp phần.

Lần vượt biển đầu tiên thất bại. Tháng 6 năm 1978, vợ chồng tôi cùng cả nhóm vượt biển bị bắt tại Vũng Tàu đưa về trại giam Cần Giờ. Tôi bị chuyển trại về khám Chí Hòa, nhưng vợ tôi nhờ mang bầu sắp sinh nên được thả ra sớm.
 
 
Saigon 1978, Mẹ con Bồ Câu. Khi cháu vào đời, ba còn trong tù.
Chính măng tôi đã lo liệu chăm sóc khi con gái chúng tôi được sinh ra. Tên khai sinh của cháu là Hoài Anh, tên ở nhà là Bồ Câu do bà Nội đặt. Lần đầu thăm nuôi, vợ tôi đứng cách tôi khoảng 20 thước và đưa Bồ Câu lên cao cho tôi nhìn thấy con. Chỉ nhìn từ xa thôi. Phải gần một năm sau, tôi mới có thể ôm con khi được thả ra khỏi khám Chí Hòa.

Măng tôi rất thương yêu cháu Bồ Câu, vì như lời bà nói, ngay khi còn là thai nhi, cháu đã cùng mẹ đi tù vượt biên. Khi cháu vào đời, bố còn tiếp tục nằm trong khám Chí Hòa. Bà thường cầm tay, vuốt tay cháu và khen Bồ Câu có bàn tay rất đẹp, giống như bàn tay của người “chirurgien”. Bà còn nói, chắc con bé sau này sẽ thành một y sĩ giải phẫu như “thằng bố của nó.”

 Ngọn lửa nến bé bỏng lung linh trên bánh sinh nhật. Cháu Bồ Câu đầy tuổi, tươi cười trong tay mẹ, như muốn nhoài cả người về phía ngọn lửa.

Ngay sau khi thổi nến, Bà nội và cả nhà bắt đầu phút cầu nguyện trang trọng. Tất cả đều căng thẳng trước những ngày sắp tới: Bà nội đã quyết định ở lại nhà chờ tin, nhưng Bồ Câu sẽ cùng cha mẹ và các dì và cậu bên mẹ đi vượt biển.

Tháng 9 năm 1979, ra đi lần thứ hai, suốt ba ngày ba đêm trên biển, Bồ Câu thật ngoan, ngồi yên trong vòng tay của mẹ, không la khóc hay trở chướng. Sau chuyến vượt thoát đầy hung hiểm, tránh được tàu hải tặc rượt bắt nhờ đêm tối, rồi thuyền bị chìm gần bờ biển Thái Lan, chúng tôi may mắn được cứu vớt. Trong 10 tháng tại trại tị nạn Liem Ngot, Thái Lan và trại Bataan, Phi Luật Tân, cháu Bồ Câu được thương yêu, vui vẻ ca hát mừng sinh nhật hai tuổi.

Nhờ sự bảo lãnh của chị tôi và anh rể, chúng tôi được chấp thuận cho định cư tại Hoa Kỳ. Chuyến bay tới Nam Cali đúng vào ngày kỵ giỗ của Ba tôi: 24 tháng 7, 1980.

Bắt đầu lại cuộc sống từ hai bàn tay trắng, nhưng với lòng hăng hái quyết chí và tự tin. Tin Ơn Trên phù hộ. Tin vào khả năng tự lập của mình. Tin Bồ Câu rồi đây sẽ đi học và hấp thụ một nền giáo dục tốt đẹp. Cả nhà đều cật lực làm việc. Hai chị lớn nhận hàng may tại nhà. Các cậu em, sau giờ đến trường, cùng xúm xít phụ xỏ chỉ, đơm khuy.

Phần tôi thì vừa lãnh phần việc đi nhận và giao hàng may, vừa đến lớp học về chuyên môn y khoa. Với vốn liếng chuyên môn hạn hẹp và lỗi thời, để có thể bắt kịp những tiến bộ y khoa tối tân của nước Mỹ, tôi hiểu mình phải thức khuya dậy sớm và tận lực học hỏi.
 
Cali 1981, Bồ Câu bên Ba Mẹ, mới 3 tuổi đã hát múa đúng điệu.

Đó là thời gian căn nhà thuê bé nhỏ tràn ngập hạnh phúc, bé Bồ Câu lăng xăng vui đùa trong nhà và ngoài sân, được cha mẹ, dì câu cưng chìu thương yêu. Rồi những thùng quà đầu tiên được gửi về bên nhà ở Saigon. Tiếng máy may điện chạy hầu như liên tục, hòa với tiếng cười đùa giữa cậu cháu, tiếng ê a tập đọc tập hát của Bồ Câu. Cháu mới 3 tuổi đã hát múa đúng điệu, theo chương trình giáo dục con nít Big Bird trên truyền hình.

Sau khi may mắn đậu liền cả hai chứng chỉ y khoa quan trọng gồm bằng FLEX và ECFMG, tôi tập trung lo gởi đơn xin học thêm đến các trung tâm Giáo Dục Y Khoa, chờ cơ hội trở lại nghề y sĩ. Đúng lúc ấy cả nhà còn có thêm tin vui, mẹ có bầu và Bồ Câu sẽ sớm có em bé.

III. Tai họa và phép lạ
Một buổi sáng cuối tháng 10, 1981, cha mẹ đem Bồ Câu đến bệnh viện South Coast Medical Center ở thành phố Laguna Beach cho Bác sĩ Nha Khoa bọc bảy cái răng bị siết trong cùng một lần. Bé vui vẻ nói bye bye bố mẹ khi theo y tá vào phòng mổ.

Trước khi nha sĩ bọc răng, phải gây mê toàn diện, thủ thuật sẽ mất khoảng một giờ rưỡi, chúng tôi được cho biết. Chờ quá hai giờ. Rồi ba giờ. Bốn giờ. Nôn nóng hỏi thăm, chỉ được bảo phải tiếp tục chờ.

Mãi xế chiều, một y tá đưa chúng tôi vào phòng hồi sinh cấp cứu. Bồ Câu nằm bất động trên giường, phủ chăn trắng. Không mở mắt, không hay biết. Bố mẹ sững sờ. Mới hồi sáng, bé tươi tỉnh, không một lo sợ, vẩy tay bye bye cha mẹ trước khi y tá đẩy xe vào phòng mổ, mà giờ đây như một xác không hồn. Y tá giải chỉ giải thích ngắn gọn là em bé bị phản ứng thuốc nên tạm thời hôn mê.

Sự thật không như lời người y tá giải thích. Qua thủ tục pháp lý, chúng tôi nhận được phó bản của toàn bộ hồ sơ chữa trị. Riêng hồ sơ liên hệ đến giải phẫu và gây mê cho thấy chính bác sĩ gây mê đã gây ra tai họa. Thay vì phải đặt ống bơm dưỡng khí vào phổi, ông ta đưa ống đó vào bao tử, khiến bé hoàn toàn không nhận được dưỡng khí để thở trong 10 phút, gần như bị chết ngộp.

Hồi tưởng lại buổi sáng định mệnh ấy, khi ngồi trong phòng chờ, tôi nghe tiếng loa loan báo “code blue” nhiều lần, cứ ngỡ là cho ai, sau này mới biết lệnh cấp cứu đó chính là cho con mình. Đau đớn thay. Nhờ hô hấp nhân tạo, Bồ Câu sống lại, được nuôi qua ống chuyền sữa ensure từ mũi xuống bao tử, nhưng não bộ bị tổn thương trầm trọng.

Sau gần 2 tháng chữa trị tại Children Hospital of Orange County với cha mẹ túc trực cạnh giường ngày đêm, bác sĩ cho biết Bồ Câu bị chứng Cerebral Palsy – Liệt Não – nên dù sống sót nhưng cả hai phương diện thể xác và tâm lý đều sẽ phát triển chậm (both severe physical and mental retardation).

Vì đòi hỏi săn sóc đặc biệt, đành phải chấp nhận chuyển bé qua một trung tâm phục hồi chức năng. trong một thời gian vô hạn định, nhưng không có ngày nào mà chúng tôi không ghé thăm Bồ Câu, cho dù bụng thai của vợ càng ngày càng nặng nề.
 
 Năm 1981, Bồ Câu 3 tuổi trở thành nạn nhân
Một ngày trời mưa sau Tết năm 1982, khi đến thăm, vừa vào bên trong tòa nhà của trung tâm phục hồi, chúng tôi bắt gặp trên chiếc giường đẩy, ngay giữa hành lang, một thân hình bé nhỏ đang quằn quại trong cơn co giật. Đến gần, hình hài ấy chính là con mình, miệng nghiến chặt trong cơn động kinh liên tục, mình mẩy ướt mèm. Ôm con mà xót xa đắng cay. Còn cảnh cùng cực nào nào lớn hơn thử thách này, Chúa ơi! Tất cả chỉ còn một nguyện cầu duy nhất là xin cho con mình được sống và sống chung với cha mẹ và gia đình, chứ không trong một trung tâm chăm sóc xa lạ.

Từ đó, không ngày nào chúng tôi không tới thăm Bồ Câu. Điều nguyện cầu cho con được sống và sống bên cha mẹ trở thành một quyết tâm thôi thúc hai vợ chồng sát cánh, tiến hành mọi thể thức với trợ giúp từ các cơ quan xã hội để chuẩn bị đem con về nhà.
Đứa con thứ hai ra đời ngày 10 tháng Tư, 1982. Dù phải chịu đựng quá sức khi mang thai, nhưng cháu Bea vào đời bình an, xinh xắn, khỏe mạnh. Ngay ngày thứ hai sau khi rời bệnh viện sản khoa, chúng tôi đến thẳng trung tâm phục hồi, ký giấy đón Bồ Câu về nhà.
Sau tai họa, ơn trên cho chúng tôi được hưởng nhiều phép lạ, trên cả mức chờ đợi.

Đầu tiên, là từ ngày về lại nhà, Bồ Câu vĩnh viễn thoát khỏi chứng động kinh co giật. Con mắt bắt đầu có thần hơn dù vẫn chưa di chuyển lên xuống qua về.
Nhờ từng được hướng dẫn và thực tập, vợ tôi đã có thể một mình đặt ống naso–gastric tube thông từ mũi xuống bao tử cho con trong suốt cả năm, sau đó còn tập cho Bồ Câu uống qua đường miệng, từ 1 giọt, tăng lên 2 giọt, 3 giọt rồi kiên nhẫn tập cho bé nuốt từng chút nhỏ đồ ăn nghiền đến 1 hột cơm, 2 hột cơm.
Tiếp theo, là chỉ vài tuần sau khi có Bồ Câu về nhà, cuối tháng Tư 1982, tôi được nhận vào làm bác sĩ tổng quát cho bệnh viện tư Leesville General Hospital, thuộc tiểu bang Louisiana.

Leesville là một thị xã nhỏ của vùng Southern, nơi dân bản xứ có tiếng là kỳ thị. Với tôi, thay vì tiếp tục học lên, cơ hội trở lại hành nghề bác sĩ tại đây phù hợp hơn với hòan cảnh thực tế. Tuy nhiên, cơ hội này cũng là một thử thách sinh tử, đòi hỏi sự bén nhậy khi định bệnh, tận tụy khi trị liệu. Khi giao thiệp bằng tiếng Mỹ, dù chưa thể thuần thục, vẫn cần sự chính xác, tinh tế trong ngôn từ. Đó là thời kỳ phải vừa làm vừa học, vừa gìn giữ nhân cách của một bác sĩ người Việt duy nhất trong vùng.

Rất may mắn, chỉ một thời gian sau, tôi chính thức được bệnh viện chấp nhận như một bác sĩ chính ngạch, tăng lương thêm 50% cộng bonus cuối năm. Nhờ vậy, cuộc sống gia đình mau chóng được ổn định. Số lượng bệnh nhân đến khám với tôi nhiều hơn. Trong những lần gia đình ra bên ngoài, nhiều cư dân bản xứ dừng lại bắt tay tôi, chào hỏi vợ con tôi.

Sau trên một năm được kiên trì tập luyện, Bồ Câu tạm thời đã có thể uống sữa, ăn cháo, ăn cơm với luôn cả rau cải thịt cá cắt nhỏ, khi được mẹ đút vào miệng. Phản xạ nuốt tốt dần. Phép lạ lại xẩy khi đến chúng tôi quyết định rút ống chuyền mũi – bao tử, Bồ Câu giữ khả năng ăn, nuốt bằng miệng, thân thể dần mạnh hơn, tay chân cứng cáp dần, miệng bắt đầu biết cười và bập bẹ ư ê như em Bea, khi hai chị em ở cạnh nhau.

Nhờ thu nhập khá dần, căn nhà mới có phòng tập lớn với đầy đủ tiện nghi, ngày ngày luôn có người thay phiên đến nhà làm việc, luyện tập cho Bồ Câu, nào là physical therapist, occupational therapist, speech therapist, sức khỏe của bé hồi phục dần.

Từ tuổi Mẫu Giáo, Bồ Câu được học chương trình giáo dục đặc biệt (Special Education), có xe đón rước tận nhà. Các thầy cô giáo làm việc rất công tâm và tận tụy, nhiều bà giáo trong ngành Giáo Dục Đặt Biệt thường lui tới nhà chỉ bảo, giúp đỡ. Chúng tôi luôn biết ơn họ. Không có họ, chúng tôi không thể nào có đủ hiểu biết, trong tiến trình từng bước giúp Bồ Câu khôi phục và phát triển chức năng. Khi nhà có hồ tắm với nước ấm quanh năm, Bồ Câu cũng biết tỏ ra rất thích và thoải mái nằm ngửa trong phao hoặc trên tay cha mẹ.
Gia đình đông dần với sự ra đời thêm của 2 đứa con sinh sau. Dù bận rộn tất bật hơn, chúng tôi luôn cố gắng sinh hoạt chung với các con, từ trong nhà cho đến ra bên ngoài, ở đâu có cha mẹ là có đầy đủ 4 đứa con. Nếu cha không đẩy kịp xe lăn cho Bồ Câu thì Bea đẩy chị. Nếu mẹ chưa đút kịp cho chị ăn, thì Betty lo giùm.

Dù ở nơi xa lạ, không thân thích, không một bóng đồng hương, nhưng đúng là lời chúng tôi cầu xin cho con được sống và sống với cha mẹ đã được bề trên lắng nghe. Các linh mục trong nhà thờ giáo xứ đặc biệt cho phép Bồ Câu chịu phép rước lễ vỡ lòng ở tuổi 16 (first holy communion) dù Bồ Câu không qua lớp giáo lý căn bản.

IV. Chuyện chưa từng nói về thủ đoạn tàn ác của cộng sản
Khi tin cháu Bồ Câu gặp nạn được báo về Saigon, măng tôi bị tai biến mạch máu não khá nặng, nhưng bà cố tập luyện giữ gìn sức khỏe, nói muốn sang Mỹ chăm sóc cháu.

Sau khi được anh chị tôi bảo lãnh sang Cali, vào đầu thập niên 90, Măng tôi dời qua Louisiana ở với gia đình “thằng con út” và cháu Bồ Câu.

Trong khoảng 3-4 năm, các anh chị bên Cali thay phiên nhau qua thăm Măng, có khi rủ nhau đi chung cho vui thêm. Anh Vĩnh Anh cũng từ Montreal cũng qua thăm mẹ được 2 lần. Vậy là trừ ông anh lớn Vĩnh Toàn còn ở lại Việt Nam, anh chị em tôi có nhiều dịp sum họp. Nhờ vậy, nhiều chuyện được thổ lộ giúp tôi hiểu thêm về sự thức tỉnh của mọi người trước sự tráo trở, tàn tệ của Cộng sản.

Đầu tiên là do anh Vĩnh Anh kể lại chuyện chính anh vừa trải qua. Năm 1990, các thành viên chủ chốt của nhóm Việt Kiều Yêu Nước (VKYN) tại Montreal, trong đó có ông anh tôi, được Ban Việt Kiều của chính phủ CSVN mời về nước với mục đích, góp ý cho Đảng CSVN làm cách nào tránh được hiện tượng Thiên An Môn /Tiamen Square xẩy ra tại Trung Quốc năm 1989, sẽ không thể xẩy ra tại Việt Nam.

Theo kế hoạch của nhóm Montreal, anh Vĩnh Anh nằm chờ tại Saigon, 4 người kia bay ra Hà Nội; Một anh ở chờ trong khách sạn, 3 anh còn lại vào họp, mang theo văn bản góp ý của nhóm Việt Kiều Yêu Nước ở Montreal: bãi bỏ chế độ độc đảng, cho thành lập chế độ đa đảng càng sớm càng tốt.

Sau hai ngày không thấy các bạn mình trở lại khách sạn, và cũng chẳng nhận tin nhắn miệng nào, người chờ bên ngoài khách sạn Hà Nội điện thoại báo tin cho anh tôi. Đoán chuyện không hay xẩy ra, anh tôi tức tốc bay ra Hà Nội, đến tư gia “bác Võ Nguyên Giáp,” xin vào gặp với tư cách là “con trai của ông Bửu Tiếp”, người thầy giáo Quốc Học Huế thời xưa. “Bác” Võ Nguyên Giáp lắng nghe, lắc lắc đầu, rồi bảo anh tôi về chờ tại khách sạn.

Thêm 2 ngày căng thẳng chờ đợi trong lo âu. Bỗng trong đêm thứ hai, cả anh tôi và người bạn kia được chở vào bên trong một cơ quan, nhìn thấy ba người bạn mình đang có mặt tại chỗ, mặt mày người nào cũng xám xịt, căng thẳng, một người lại có băng trắng ở cổ tay. Không dài dòng giải thích, cả 5 người được lệnh ký tên vào một tờ giấy cam kết đủ thứ, kể cả việc không bao giờ được về lại Việt Nam.

Sau khi đồng loạt ký tên, cả 5 người được chở thẳng ra phi trường lên chuyến bay sớm nhất về Canada. Trên máy bay, anh tôi được các bạn cho biết, sau khi phát biểu ý kiến chủ trương đa đảng của nhóm Việt kiều yêu nước ở Montreal, cả 3 người bị bắt, đưa ngay vào nhốt trong một bệnh xá tâm thần. Anh bạn tổng thư ký của nhóm quá tức giận nên quyết tự sát bằng cách rạch cứa cổ tay mình, nhưng được cứu thoát. Chính vì vậy mà chúng mới thả cho về vì e ngại sẽ có khó khăn với bộ ngoại giao Canada.

Vậy là nhóm Việt Kiều Yêu Nước Montreal, trước đây đã từng bị rúng động bởi hiện tượng vợ chồng Phục & Vịnh Thủy vượt biên trở về lại Canada, nay lặng lẽ tan rã, mỗi thành viên mỗi mang một nỗi niềm riêng.
Câu chuyện anh Vĩnh Anh và nhóm bạn Montreal làm Măng tôi trầm ngâm rất lâu, sau đó bà mới kể lại một bí ẩn mà bà dấu kín trong lòng từ nhiều năm.

Sau khi Ba tôi mất, suốt thời kháng chiến chống Pháp, chi hội phụ nữ nằm vùng tại Huế cố lôi kéo Măng vào tổ chức của họ, nhưng Măng đã nhiều lần thoái thác với lý do góa phụ bận rộn nuôi bầy con, mươi lần bị kêu đi họp thì chỉ đến một lần cho có lệ.

Vào thời gian chia đôi đất nước của hiệp định Geneve 1954, Măng tôi thình lình đến nơi họp, và đến trễ. Đang đứng bên ngoài cửa căn nhà họp trong chiều tối, tình cờ Măng nghe tiếng các người bên trong phòng đang bàn tán về mình “Thằng Tiếp không chịu ra ngoài Bắc làm việc theo chỉ thị cấp trên, nên chúng ta đã xử lý nó rồi. Cái thứ công giáo đó chỉ làm hư danh cách mạng thôi. Nay còn con Liễu (tên của Măng tôi), ráng chờ coi nó có chịu tập kết hay không, rồi sẽ quyết định”. Nghe vậy, Măng tôi lạnh cả xương sống, từ từ rời căn nhà họp không một tiếng động. Từ đó, bà dứt khoát cắt đứt mọi liên lạc.

Khi nghe kể chuyện này, tôi hỏi Măng phải chăng Ba chết do cộng sản ra lệnh thủ tiêu, rồi sau đó lại dàn dựng một lễ an táng long trọng kiểu nhà nước để mà mắt thiên hạ, Măng tôi trả lời đúng như vậy. Bà cũng xác nhận ông bà chỉ là những người quốc gia chống Pháp vì yêu nước, chưa bao giờ là đảng viên cộng sản. Bà cói thêm, càng về sau Măng càng nghiệm ra những giả dối của Cộng Sản và từng lo ngại khi thấy hai con trai lớn không có kinh nghiệm này.

Nhân dịp này, tôi hỏi Măng thương đứa con nào nhất trong nhà, Măng bảo trước đây, chính tôi là đứa Măng thương nhất, vì tôi mồ côi cha ngay khi còn nằm trong bụng mẹ, lớn lên lại khốn đốn vì chiến tranh, tù tội. Nhưng giờ đây, người được Măng thương nhất lại là anh Vĩnh Toàn. Anh sinh trước tôi cả chục năm, lớn lên bên cạnh ba măng và các bạn toàn là những người chống lại sự xâm lược của người Pháp, do đó anh dễ có cảm tình với cuộc kháng chiến của Việt Minh. Măng tôi nói anh Vĩnh Anh và tôi, dù sao cũng đang sống trên một đất nước tự do. Còn anh Vĩnh Toàn đã lỡ ở lại với cộng sản, lại không hề có kinh nghiệm về họ, chắc anh sẽ là người có cuộc đời bị thua lỗ nhất, nay lui cui sống đạm bạc một mình.

Đúng là tình mẹ bao giờ cũng đổ xuống cho đứa con yếm thế nhất, ít hạnh phúc nhất. Tôi biết gia cảnh anh chị Vĩnh Toàn đã ly thân từ lâu. Anh chị chỉ có một con gái duy nhất. Cháu ở với mẹ, không có người dẫn dắt và một tai họa khủng khiếp đã xẩy ra. Năm 1987, khi đang theo học Nha Khoa Saigon năm thứ Hai, không hiểu vì chuyện gì, cháu nhảy cầu quyên sinh ban đêm trên sông Saigon.

Thật đau lòng khi nghe tin cháu, một cô sinh viên trẻ đẹp, học giỏi bị đẩy tới mức tuyệt vọng đến nỗi phải tự kết liễu cuộc sống! Cho tới nay, chính Măng tôi và anh chị em chúng tôi, vẫn không thể hiểu được nguyên nhân đã đưa tới cái chết bi thảm của cháu.
Từ khi cả nhà đã ra hải ngoại sống, anh Vĩnh Toàn cũng rất ít liên lạc. Bất ngờ, chúng tôi nhận được tin về anh nhờ một lá thư khác thường do chú Bửu Phát, em của Ba tôi, gởi từ trong nước ra. Thư cho biết có người từng là học trò của Ba tôi trước đây ở trường Quốc Học, nay làm lớn tại Hà Nội, có ý muốn thu xếp chuyện mua bán khu nhà đất của ông Nội tôi ở Phủ Cam. Anh Vĩnh Toàn, con trưởng của ba tôi hiện vẫn ở Đà Nẵng, được yêu cầu đứng tên đại diện cho toàn gia đình phía các anh chị em chúng tôi, nhưng anh thẳng thừng bác bỏ, không chịu ký tên. Vì vậy, chú Bửu Phát kêu gọi bà con bên Mỹ ký tên ủng hộ ý kiến bán khu nhà đất của Ông Nội.

Lời kêu gọi của chú Bửu Phát dĩ nhiên không được ai hưởng ứng. Ngay chú Bửu Bình, con trai út cưng của Ông Bà Nội, định cư tại Dallas qua chương trình HO, cũng không màng, thì còn ai lên tiếng. Sau năm 95, có người trong nước báo tin chú Bửu Phát đại diện gia đình đã nhận tấm bằng tổ quốc ghi ơn cho “Liệt Sĩ Bửu Tiếp” và chưng tại nhà của Chú. Hư thật ra sao cũng chẳng ai bận tâm.

Sau tin anh Vĩnh Toàn không chịu ký tên bán đất tổ tiên cho quan lớn cộng sản, có thêm tin công việc y sĩ của anh cũng không còn suông sẻ. Không hiểu vì bất mãn với chế độ hay với chính mình, anh phải tìm quên trong rượu chè, cuộc sống càng ngày càng cô quạnh. Sau một tai nạn lưu thông, anh suy yếu dần. Chị Mai Tâm cùng chồng về thăm anh tại Đà Nẵng, cho biết là tuy sức khỏe suy yếu nhưng sau cùng anh đã trở lại một tín đồ công giáo, đi lễ nhà thờ hằng tuần với vợ chồng Linh và Oanh. Oanh là bà con xa bên Nội, đã tới ở luôn trong nhà để săn sóc anh tôi trong những năm cuối đời.

Mấy tháng trước khi hoàn toàn mất trí nhớ và từ trần vào năm 2010, anh tôi nhận được tất cả các phép bí tích của người công giáo từ cha chánh sở giáo xứ. Đám tang anh được làm tại nhà thờ. Rất đơn chiếc. Không vợ con, anh chị em. Chị dâu tôi cũng qua đời chỉ một năm sau đó.

Sau vài năm ở Louisiana với chúng tôi, Măng tôi trở về California sống với các con gái. Thị xã Leesville là nơi hẻo lánh, Măng tôi không có dịp gặp được người đồng hương để nói chuyện tiếng Việt. Năm 1997, Măng bị tai biến mạch máu não trầm trọng, sau gần 7 năm được săn sóc chu đáo tại nhà của chị tôi và chồng, măng tôi qua đời năm 2004.

V. 40 Năm, nhìn lại thấm thía nỗi đau của những người quốc gia bị cộng sản sát hại
Dù thế nào, vẫn phải có một lần về đứng trước mộ phần Ông Bà Nội và Ba tôi, một lần nhìn lại mảnh đất tổ tiên, thăm lại khu vườn kỷ niệm thời thơ ấu. Đây là điều tôi hằng tự nhủ ngay khi vừa qua tuổi hưu trí, nhưng mãi tới tháng 12 năm 2013, bốn mươi năm sau khi rời Huế và 34 năm rời bỏ quê hương, vợ chồng chúng tôi mới có dịp về nước lần đầu.

Trên đường về Huế, chúng tôi ghé Đà Nẵng và hẹn trước với vợ chồng Linh Oanh để nhờ đem chúng tôi đến viếng mộ của anh Vĩnh Toàn tôi trong một nghĩa trang rộng lớn tại Hòa Vang.

Cháu gái con anh chị cũng đã được bốc mộ rồi hỏa thiêu tại Hội An trước khi đem vào Saigon từ mươi năm trước. Chúng tôi có đến thăm nơi cất giữ di cốt của cháu trong một ngôi chùa nhỏ nghèo nàn tại Thủ Đức. Rất khó tìm thấy hũ tro của cháu vì nằm lẫn lộn với hàng trăm hũ, trong một ngăn phòng chật hẹp tăm tối. Chúng tôi thắp nén hương, cầu ơn trên cho cháu được siêu sanh tịnh độ. Trong một ngôi chùa khác tại Gia Định rộng lớn và tân kỳ, chị dâu tôi được chôn cất riêng trong một khuôn viên đẹp đẽ sáng sủa sang trọng. Anh, chị và cháu, cho tới phút cuối đời, vẫn ở xa cách nhau. Chúng tôi chỉ còn biết cầu mong cho vong linh cả ba người, vợ, chồng, con được gần gụi thương yêu nhau dù giờ đây thân xác thì ngàn trùng xa cách.

Trước ngày trở lại Huế, tôi còn gặp thêm một điều mai mỉa: Dù đã đổi chủ từ lâu, khu đất của ông nội tôi cho tới nay vẫn còn được mấy ông lớn cộng sản theo đuổi.
Chú Bửu Phát cũng đã mất từ lâu, nhưng vẫn có người giao tận tay tôi tờ giấy “Tổ Quốc Ghi Công” mang tên Ba tôi mà chú Bửu Phát từng nhận, kèm theo mảnh giấy ghi địa chỉ một ông lớn cộng sản tại Hà Nội, nói đang chờ đợi liên lạc với tôi về chuyện giúp mua bán vườn và nhà cửa của Ông Nội. Tôi liên tưởng ngay đến câu chuyện chú Bửu Phát từng đề cập mấy chục năm trước, nhưng bị bỏ giở nữa chừng. Nay biết tôi về, nên phải chăng người đó lại muốn liên lạc về chuyện cũ này. Chẳng hiểu chuyện muốn giúp mua bán vườn đất Ông Nội tôi và chuyện cấp tấm bằng tổ quốc ghi công có liên hệ đến nhau không?

Tôi từ chối nhận tờ giấy ghi số điện thoại cùng tên tuổi ông ta từ tay người liên lạc.

Sau cùng, một ngày Huế mùa đông, chúng tôi đã tới được mảnh đất tổ tiên. Khu điền trang cũ của Ông Nội tôi đã bị chiếm đoạt, đổi chủ từ lâu. Tòa nhà ba tầng xưa trắng toát, bề thế, nay nhếch nhác, thảm hại. Cây cối vườn xưa tươi tốt nay xơ xác điêu tàn. Khu nghĩa trang gia đình xưa trang nghiêm, thứ tự, nay cỏ tranh rậm rạp.

Đứng trước phần mộ của Ba tôi, nay bị chính quyền mới bắt dời đến núi Thiên Thai cùng chung với các mộ phần của đại gia đình, ôn lại lời Măng tôi kể việc ông bị chi bộ đảng của cộng sản ra lệnh “xử lý”, tôi thấm thía nỗi đau của những người quốc gia bị cộng sản sát hại.

Thời Việt Minh vừa nắm quyền tại Huế năm 1946, nhiều vị nhân sĩ trí thức quốc gia một lòng vì nước cũng đã bị thủ tiêu. Học giả Phạm Quỳnh có người con lớn là Phạm Tuyên thoát ly gia đình theo Việt Minh. Ông Phạm Quỳnh bị Việt Minh bắt mang vào rừng xử tử.

Phạm Tuyên sau thành nhạc sĩ nổi tiếng, từng kể lại là “Bác Hồ” có lần nói với ông rằng Phạm Quỳnh là một học giả yêu nước, một nhân vật lịch sử đáng được tôn trọng. Sau 30 tháng Tư 1975, Phạm Tuyên chính là tác giả bài ca “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng!” Trong khi ấy thì tại miền Nam, có tin người ta đã tìm được hài cốt của hai ông Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi bị vùi chung một hố trong xó rừng gần Huế. Các dấu hiệu từ hài cốt cho thấy hai ông bị chôn sống.
Như thời còn thơ ấu, tôi cũng đã cúi xuống cố đọc tấm bia mộ ba tôi. Ông sinh năm 1904, bị “xử lý” năm 1946, lúc khởi đầu những tháng ngày tao loạn. Đó cũng là năm sinh của tôi, đứa con được ông hiện hồn về trong mơ vuốt vuốt cái đầu nó. Từ đó, biết bao nhiêu tang thương dâu bể. Măng tôi, cô nữ sinh Đồng Khánh 14 tuổi mê ông thầy giáo độc thân, ôm truyền đơn của Tân Việt Cách Mệnh Đảng vô trường học năm 1927, nay cũng không còn nữa. Sau gần 60 năm ở góa nuôi con, Bà đã mãn phần tại California đúng năm 90 tuổi.

Trong khi ấy thì cả nước Việt Nam, số phận không khác vườn nhà ông nội tôi là bao. Mảnh đất tổ tiên bị cướp đoạt, mồ mả ông cha bị đào bới.

Hơn một thế hệ cùng thời với cha tôi đã trở thành dĩ vãng. Những người từng kề cận ông thời tuổi trẻ như Giáo sư Đặng Thái Mai hay cậu học trò Quốc học Võ (Nguyên) Giáp cũng đã không còn nữa, nhưng đất nước thì vẫn tiếp tục bị hủy hoại bởi cái chế độ phi nhân mà họ từng phục vụ.

Ngày tôi trở lại Huế, cuối tháng 12 năm 2013, cũng là lúc nhà nước cộng sản vừa rềnh rang quốc táng Võ Nguyên Giáp, chết trước đó vài tháng. Còn nhớ, trang nhà của đài BBC Luân Đôn thời ấy có bài viết về ông, nói là từ lâu Đại tướng Giáp đã bị phe cánh trong Đảng loại bỏ, tước hết mọi chức vụ, tư dinh bị đặt trong tình trạng quản chế, mọi việc đi lại, gặp gỡ, ăn nói, đều phải theo lệnh. Vậy mà khi ông mất hồi tháng Mười, 2013, hai tháng trước khi chúng tôi đi Việt Nam, vẫn rềnh rang đánh bóng tuyên truyền.

Sự tráo trở, tàn bạo của cộng sản đã đẩy nhiều thế hệ vào cảnh tương tàn chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Ba tôi bị thủ tiêu, như bao người quốc gia khác, như những bà con Huế bị tàn sát thời Tết Mậu Thân, đều là nạn nhân của cộng sản.

Nhiều thế hệ đã và sẽ còn tiếp tục đi qua, kể cả thế hệ chúng tôi. Nhiều tội ác đã bị khuất lấp hoặc sẽ được quên đi. Nhưng quên không có nghĩa là tha thứ, vì tha thứ là quyền của những người đã chết, những nạn nhân cộng sản.

VI. Bằng cái biết hạn hẹp của mình, tôi đã cố sơ lược truyện “truyện trăm năm” của gia tộc từ những năm 20 của thế kỷ trước. Nhưng lịch sử cũng như chuyện “Đằng Sau Mặt Trăng” hẳn nhiên còn nhiều tầng bí ẩn, khuất lấp.
Xin được trở lại với phần đời bé nhỏ của gia đình chúng tôi.

Theo dòng thời gian, khi gia đình di chuyển về Nam Cali, Bồ Câu vừa bước qua tuổi teen. Biết chào hello, biết nói vài chữ bằng song ngữ, biết đòi hỏi, biết hỷ nộ ái ố, biết đi chập chững với walker, biết ăn bốc và tự xúc ăn bằng muỗng, uống với ống hút…Tuy nhiên vẫn hoàn toàn không tự lập được trong vấn đề vệ sinh cá nhân, đánh răng rửa mặt, tắm rửa, thay áo quần, vào giường, ra khỏi giường… Tất cả đều cần sự trợ giúp.

Sau khi được “cho” tốt nghiệp trung học ở tuổi 22, Bồ Câu được gởi đến Vocational Visions, là một trung tâm giáo dục giúp đỡ người khuyết tật lớn tuổi, dưới sự quản trị của Orange County Regional Center (OCRC). Có xe bus sáng chở đi chiều chở về. Tại trung tâm, có ngày Bồ Câu ở chơi tại chỗ, có ngày được xe chở đi ra bên ngoài, gọi là community trips, đôi khi hai ba lần mỗi tuần. Cứ mỗi năm, có cuộc họp giữa cha mẹ với cán sự xã hội đại diện OCRC và đại diện Vocational Visions để đánh giá tiến triển của Bồ Câu trong năm qua và chọn phương án cho năm tới. Qua đó, chúng tôi được biết chỉ riêng OCRC đã chi tiêu khoảng 38 ngàn đô cho sinh hoạt và di chuyển của Bồ Câu mỗi năm. Ngoài ra, còn nhiều phúc lợi xã hội khác, khi Bồ Câu được ưu tiên cấp thẻ Medicare, nhưng chỉ sau khi mẹ Bồ Câu chính thức nhận an sinh xã hội khi về hưu.
Nhìn lại, dù là nơi tối tân như Hoa Kỳ, tai nạn do sự lầm lẫn, sai sót trong ngành y, đặc biệt trong khoa gây mê mà nạn nhân thường là các em bé 3, 4 tuổi như Bồ Câu, là chuyện cho tới nay vẫn không thể tránh khỏi. Nhưng bù lại, hệ thống phúc lợi xã hội của nước Mỹ trong việc chăm sóc luôn vận hành hữu hiệu. Nhờ vậy, trên 56 triệu người bị khuyết tật, gồm đủ loại, chiếm 19 phần trăm dân số nước Mỹ, không ngừng được trợ giúp.

Chúng tôi luôn biết ơn và vinh dự được chu toàn bổn phận của một công dân Mỹ.

Life is a miracle by itself.
(Sự sống tự nó là phép lạ).
 
 
Mission Viejo, O.C. 2019:
‘Cô học trò Bồ Câu 41 tuổi nay là niềm vui cho cha mẹ trong tuổi già… Tạ ơn trên cho con được sống và sống bên cha mẹ.’

 
Sau tai nạn năm 1982, các bác sĩ chuyên môn cho biết trường hợp của Bồ Câu sẽ sống không quá 25 tuổi. Bây giờ cháu đã gần 41 tuổi.
Các em Bồ Câu nay đã lần lượt xa nhà, Bồ Câu tiếp tục làm nhân, nhụy trong gia đình còn lại ba mống với nhau. Cô học trò Bồ Câu 41 tuổi nay là niềm vui cho cha mẹ trong tuổi già, khi vẫn còn có một đứa con trong nhà để coi ngó, săn sóc, vui chơi, đi đâu cũng có nhau.

Đêm đêm, chúng tôi vẫn cùng nhau cầu nguyện, tạ ơn trên cho con được sống và sống bên cha mẹ, như điều từng nguyện ước. Xin được kết bằng lời hát tạ ơn:

“Người đưa tay nâng con dậy
cho con đứng lại trên đỉnh núi
Người đưa con ra đại dương,
giúp con vượt giông bão trùng khơi
Con mạnh lại khi tựa vào vai Người,
để từ đó vượt lên hơn cả chính mình…”


(Josh Groban – You Raise Me Up,)
https://youtu.be/uyEokxi2hWY
06 tháng 4, 2019
Vĩnh Chánh
 
Số Thứ Tự:
4. THÁNG NGÀY TAO LOẠN - Ngày 30/4/1975 (Vĩnh Chánh) - baovecovang2012.wordpress.com
3. Viết cho 81 chiến sĩ ĐĐ72, TĐ7, SĐND đã đồng tử nạn cùng ngày cùng tháng cùng năm - Vĩnh Chánh  
2. KHÔNG BỎ ANH EM, KHÔNG BỎ BẠN BÈ - Vĩnh Chánh (fb Cao Chanh)
1. ĐẰNG SAU MẶT TRĂNG - Vĩnh Chánh 





 

 

No comments: