Sunday, October 30, 2022

30/4/1975 và Người Lính TĐ15 Nhảy Dù VNCH (11) - Nguyễn Rạng Ban 5/TĐ15/ND

Một đời Mẹ khổ vì con
Mẹ ơi con Mẹ lơ là đạo con
Không tròn chử hiếu với Me
Mẹ ơi xin Mẹ hiểu dùm cho con
Nhân mùa xám hối Vu Lan
Con cài lên áo đóa Hồng nhớ Mẹ

 
----------------------------
 
 
Tháng 2, 1975, tôi được tạm thời thuyên chuyển về Tiểu Đoàn 15, Lữ Đoàn 4 (Tân Lập) Nhảy Dù, giữ chức vụ Sĩ Quan Chiến Tranh Chính Trị Tiểu Đoàn (Trưởng Ban 5), trong khi chờ đợi các Sinh Viên Sĩ Quan Khoá 4 Sĩ Quan Chiến Tranh Chính Trị ra trường về trám chổ, để tôi trở về lại Bộ Tư Lịnh trong vai trò Sĩ Quan Báo Chí Sư Đoàn (VNAF Airborne Divisional Reporter).

Lữ Đoàn 4
Nhảy Dù chúng tôi gồm các Tiểu Đoàn 12, 14 và 15 lần lược xuống tàu Hải Quân xuôi nam vào một sáng cuối tháng 2, 1975, giả từ thành phố khói lửa Đà Nẳng,

Mấy ngày vội vã ở hậu cứ, trường Cây Mai, Chợ Lớn để trang bị đầy đủ quân trang quân dụng, qua mau, Tiểu Đoàn 15
Nhảy Dù chúng tôi lên đường hành quân vùng Đức Hoà, Đức Huệ và những vùng phụ cận quanh Sàigòn.

Những ngày này tôi biết thêm một ít, nhìn tận mắt cảnh đẹp thiên nhiên vùng quê quanh Sài gòn, được nửa đêm lò mò thức giấc dọn chổ ngủ trên những giồng thơm bạt ngàn khi nước thủy triều lên, được lội bì bỏm trên những cánh đồng ruộng cò bay thẳng cánh.

Những ngày này chúng tôi đụng độ nhẹ vài lần với du kích vùng, và đau buồn chào vĩnh biệt Thiếu Uý Viễn, khi chiếc trực thăng chở anh bay chấm điểm hoả lực ban đêm bị vướng dây điện lật nhào. Tôi kiêm luôn Trưởng ban 2 từ đó, mà lính Tiểu Đoàn âu yếm gọi tôi là “bàn tay thép bọc nhung”.

Ba giờ chiều 30 tháng 4 năm 1975 tôi mò về tới nhà, ở đường Nguyễn Huỳnh Đức, Phú Nhuận, gần cổng xe lửa số 6, trong bộ civin không giống ai, được bà bác gần bịnh viện Nguyễn văn Học cho mặc tạm, chắc của con bả, nơi tôi cởi bỏ quân trang, súng đạn, từ giả cuộc đời quân ngủ.

Hai ngày trước đó, Tiểu Đoàn 15 Nhảy Dù của chúng tôi từ Hốc Môn, được điều động về án ngữ cầu Bình Lợi, Bình Triệu,  chặn đường tiến quân của địch từ hướng Thủ Đức Biên Hoà từ hướng Bắc, và Bình Long Bình Dương từ hướng Tây.

Đêm 28 tháng Tư năm 1975, từ cầu Bình Lợi, chúng tôi thấy rỏ những cụm lửa của pháo binh, hoả tiển địch thi nhau rót vào phi trường Tân Sơn Nhất, duới ánh sáng chập chờn của những trái hỏa châu trãi đều trong đêm.

Chiến tranh thật sự đã đến với Thủ Đô Sài gòn!!!

Cùng với
Tiểu Đoàn 15, hai Tiểu Đoàn còn lại 14 và 12 của Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù, Lữ Đoàn còn nguyên vẹn nhất của Sư Đoàn Nhảy Dù, được trao nhiệm vụ cao quý, bảo vệ Thủ Đô Sài Gòn, trách nhiệm giữ vững cầu Xa Lộ và Phi Trường Tân Sơn Nhất (hình dưới), chận đường tiến quân của địch từ hướng Long Thành theo Quốc Lộ 1 và từ Củ Chi kéo về do Tiểu Đoàn 12 trấn giữ.


Sau một đêm mất ngủ vì tiếng “đại bác đêm đêm dội về thành phố”, qua ngày hôm sau, 29/4/1975, chúng tôi phải vất vả giải quyết cánh tàn quân, đủ mọi quân binh chủng, từ hướng Bình Dương và Biên Hoà kéo về.

Tuyến phòng thủ chúng tôi phải mở rông thêm hơn trăm thước, sợ đặc công Việt Cộng trà trộn bất ngờ chiếm cầu.

Lịnh Biệt Khu Thủ Đô rất nghiêm, nội bất xuất ngoại bất nhập, và chúng tôi đã làm tròn nhiệm vụ, xua đuổi cánh tàn quân trở ngược lại, bằng những tràng Đại Liên M60 bắn trên đầu, mà trước đó họ liều lĩnh muốn trản ngập tuyến phòng thủ của
Tiểu Đoàn 15 chúng tôi (số 2 hình dưới) 
 

Chỉ có Đoàn xe cuả Tuớng Nguyễn Bảo Trị (?) và một nhóm Nhảy Dù duy nhất được chúng tôi phá lệ cho qua, khi nhận ra Đại Uý Mai Hữu Thiết, Chỉ huy Trưởng hậu cứ Tiểu Đoàn 2/Pháo Binh/Dù, cùng một số đàn em tuỳ tùng. Ông anh cùng quê cám ơn tôi rối rít, không quên nhét cho tôi một it tiền tiêu vặt.

Một ngày trôi qua trong hổn loạn, cả bạn lẫn thù.

Qua ngày định mệnh, trời mang mang buồn chi lạ, như khóc cho nhân dân miền Nam với bất hạnh đang sắp ập xuống đầu.

Khoảng 10:30 sáng, chúng tôi nghe đi nghe lại lời kêu gọi buông súng đầu hàng của Tổng Thống hai ngày, hèn tuớng Dương Văn Minh, được thu sẳn nhai đi nhai lại trên hệ thống đài phát thanh Sài Gòn, xen lẫn bài hát Nối Vòng Tay Lớn của thành phần thứ 3 Việt Cộng trá hình Trịnh Công Sơn.


Chúng tôi không bỏ tuyến, vẫn ghìm vững tay súng, liên lạc hàng dọc hàng ngang để có một lịnh chính xác ở giờ thứ 25, để rồi sau đó, Thiếu Tá Khoan Tiểu Đoàn Phó thất vọng điều động đoàn quân chưa đánh mà thua, về đến bịnh viện Nguyễn Văn Học và ra lịnh tan hàng ai về nhà nấy.

Từ đó, mỗi người mỗi nẻo, để rồi vài tháng sau, gặp lại nhau trong tù với thân phận của Kẻ Bại Trận, Không Đánh Mà Thua!!!

Vừa vào đến nhà, Dì tôi mừng rở ôm lấy tôi khóc nức nở, vì đêm trước, bà chiêm bao thấy tôi máu me đầm đìa như về báo mộng.

Ngày hôm sau, 1 tháng 5 năm 1975, tôi xách xe dạo một vòng tìm các bạn thân củ, nhưng không gặp ai cả, nhà nhà cửa đóng then cài kín mít.

Vài ngày sau, tôi mới biết thằng Hùng, thằng Tuấn, thằng Thảnh đều theo gia đình xuống tàu Hải Quân di tản ra khơi.

Tôi ngụp lặn theo vận nước qua từng trại tù, đổi mồ hôi nước mắt cho từng lát khoai, chén bắp, và cuối cùng may mắn vượt thoát, khỏi bọn quỷ đỏ vào một ngày tháng 7, 1981.

Những tháng ngày này, nếu không nhờ tình yêu thương bao la của Mẹ, nếu không phải sự hy sinh cao cả của Mẹ, gói gấm cho con những gánh quà tình nghĩa, không ngại mọi trở ngại, đường xá xa xôi tận Tây ninh, tận Biên Hoà, tận vùng xôi đậu Xuân Phuớc Tuy Hoà để bỏ gói cho con, không ngại bón xén những đồng bạc cuối cùng để lo lót cho con ra khỏi tù, khi bị bắt lại trong chuyến vượt biển trước đó, rồi lo cho chuyến vượt biển sau này, thì chắc con không có ngày hôm nay, còn sống sót và định cư nơi nước Úc Đại Lợi này.

Dù ai xa vắng trên đường sớm chiều về đâu.
Dù khi mưa gió tháng ngày trong đời bể dâu.
Dù cho phai nắng nhưng lòng thương chẳng lạt mầu.
Vẫn mong quay về vui vầy dưới bóng mẹ yêu.


Rạng Nguyễn
Mùa Vu Lan 2020
------------------------------------------
 
NGƯỜI LÍNH CỘNG HÒA NĂM XƯA - NỢ NƯỚC - NỢ TÌNH
Là trai thời loạn, chúng tôi đành phải vươn vai gánh vác việc Sơn Hà. Món Nợ này có nhẹ chi đâu. Xương máu, sự sống của chúng tôi nhẹ tợ lông hồng. Trong chúng tôi, có người đã oanh liệt nằm xuống, có người kéo lê thân tàn cho hết kiếp. Thế nhưng, chúng tôi, những người còn sống sót; dù lây lất, dật dờ khắp Năm Châu Bốn Bể; vẫn còn phải Canh Cánh bên lòng một món nợ khác không hề nhẹ. Đó là Nợ Tình (Món Nợ Ân Tình). Còn Cha Mẹ, anh em, và thân nhân thì sao? Sao người đời ít ai nhắc đến? Có còn món Nợ nào nữa không? Xin nhắc luôn một lần để chúng tôi tính toán trước khi thân xác này trở về với Cát Buị. Cảm ơn.  
Nguyễn Văn Thành TĐ15/ND
--------------------------------------

 

 ----------------------------
More:
* Giờ cuối BCH/TĐ đóng bên bờ Nam cầu Bình Lợi.
4 ĐĐ tác chiến bên kia cầu Bình Lợi (số 2) và Bình Triệu (số 1) với nhiệm vụ giữ 2 cây cầu này chận đường tiến quân của VC vào Sàigòn.
 

Giờ thứ 25 TĐ không liên lạc được với BCH/LĐ. Thiếu Tá Phú lấy xe Jeep chạy một vòng thị sát nhưng rồi không thấy trở lại. Cuối cùng Thiếu Tá Khoan (K22/VB) điều động rút về đến Bịnh Viện Nguyễn Văn Học và TĐ mình chính thức tan hàng ở đó🥲.
Lúc đó khoảng 1 giờ chiều 30/4

* Lúc Thành về Trại Cây Mai (22/4/1975). TĐ đang hành quân ven đô, BCH/TĐ đóng ở hảng dệt Vinateco (số 1) nên Thành không gặp ai. Có thể lúc đó Thiếu Tá Phú lái xe về hậu cứ để làm gì đó, do đó Thành không gặp được ai hết. Ngoài Thiếu Tá Phú
 

- Sáng sớm 30/4/75, tôi được lệnh của NT Minh tiến về phía Nam cầu Bình Triệu (hình số 1) và chận đoàn người nhìn đến tận chân trời. Tôi cứ tưởng sẽ bỏ xác tại đây. May mắn thay, vì LIỀU MẠNG mà được PHƯỚC. Tôi ra lệnh cho binh sĩ BẮN CẢ TÔI, nếu ai Dám vượt qua rào Cấm của tôi. Trời Phật thương tình, Không ai phải Bỏ mạng vào giờ phút cuối này. Nếu chẳng may. Nếu cần 1 người, hay 1 binh sĩ vượt rào cấm,...., có lẽ tôi Không có dịp trò chuyện cùng anh vào lúc này. Tôi Tháo rào CẤM vào lúc 11:30am ngày 30/4/1975 (thời gian này chỉ là ước đoán), và sau đó theo lệnh của NT Minh mà LUI BINH. Binh sĩ của tôi KHÔNG CAM. Tôi cũng KHÔNG CAM. Nhưng lệnh cấp trên. Làm sao?

* Lúc đó Sáng sớm ngày 30/4/75. Thiếu Tá Phú chỉ định tôi giữ rào cản ở cầu Bình Lợi (số 2). 
-----------------------
1972 - 2022
Nửa thế kỷ người lính già nhìn lại
Tuổi trẻ thiệt thòi
Nhưng hãnh diện đời trai
Cư An Tư Nguy xin hẹn một ngày
Còn hơi thở ta vẫn còn hy vọng
NHẢY DÙ CỐ GẮNG
---------------------------
 
Tham Khảo:
1. Tiểu Đoàn 15 Nhảy Dù giờ Thứ 25 - Y Sĩ TĐ15/ND Vĩnh Chánh - 4/2013 CA
* Trong đêm 23 tháng 4, TĐ15 ND được điều động đến bố trí ở cầu Bình Triệu (số 1), trên trục xa lộ Đại Hàn (số 2). Đó cũng là thời gian thị xã Xuân Lộc vừa mất.
Và cứ thế, TĐ15 ND bám chốt với lệnh cố thủ bảo vệ cây cầu cho đến phút cuối, hay người lính cuối cùng.
TĐ15 ND bung quân làm nhiều nút chặn ở cả phía bên này và bên kia cây cầu.
 
 
* Đêm 28 tháng 4,
Lệnh trên vẫn muốn TĐ án binh bất động trong tư thế sẵn sàng tác chiến. Bộ chỉ huy TĐ cấp tốc dời qua phía bên này cầu (số 3).
* Sáng ngày 29...
 
2. Lữ Đoàn 4 Nhẩy Dù và Khúc Quanh Oan Nghiệt 30/4/1975 - Mũ Đỏ Lê Minh Ngọc K16/LĐ4/ND
 
Update:
* Lê Minh Ngọc K16/LĐTr/LĐ4/ND
* Th/Tá Nguyễn Văn Phú: TĐTr/TĐ15
* Th/Tá Khoan: K22/TĐPhó/TĐ15
* Vĩnh Chánh: Y Sĩ Trưởng/TĐ15/ND
* Đ/Uý Đặng Hy Sinh (Simon Dang) TB3/TĐ15/ND
* Nguyễn Văn Rạng: Ban 5 & 2/TĐ15
* Tr/Úy N. Minh: ĐĐTr/ĐĐ1/TĐ15

 

No comments: