Nguyễn Rạng SQ/Ban 5/TĐ15/LĐ4/ND
Vu Lan kính dâng Mẹ, part 4,
mùa Covid19 Vũ Hán 2020.
dâng cả đời trai với sa trường.
Nam nhi cổ lai chinh chiến hề,
nào ai ngại gì vì gió sương.
Từ Khối Bổ Sung, Bộ Tư Lịnh SĐND tại Trại Hoàng Hoa Thám, chúng tôi được đưa qua phi trường Tân Sơn Nhất, cách nhau cái hàng rào lưới chống hoả tiển B40, và đã hạ cánh ở phi trường Phú Bài, Huế sau hơn một giờ bay trên chiếc C130, nơi xác các đàn anh Khoá 4/71 An Lộc đã đuợc cuốn trọn trong những tấm poncho, vì pháo địch trong mùa hè đỏ lửa 1972, khi chưa một lần chạm địch, chưa một lần lơ lững với cánh Dù trên không để được mơ cùng mây, đùa cùng gió cho thỏa chí tang bồng!!!
Hai chiếc GMC đưa chúng tôi ngang qua cầu Trường Tiền bắt ngang dòng sông Hương thơ mộng, với vài cánh thuyền rẻ nước trên sông, rồi đi qua Thành Nội bên tay phải với lá Cờ Vàng ngạo nghễ tung bay, trên đỉnh Phú Vân Lâu, nơi mà đoàn quân Mũ Đỏ, Mũ Xanh và TQLC Mỹ đã dành nhau từng tất đất, từng khu phố để đuổi giặc thù ra khỏi đất Thần Kinh, cấm lại ngọn cờ, trong trận Tết Mậu Thân.
Xa xa bên trái, chùa Thiên Mụ sừng sửng theo dòng lịch sử, nơi một số Việt Cộng nằm vùng đội lớp Sư Thầy làm hoen ố cửa Thiền, qua những cuộc xuống đường chống lại chính quyền, tạo hổn loạn cho một nền chính trị vốn chưa hoàn chỉnh, sau khi lật đổ TT Ngô Đình Diệm.
Đoàn xe tiếp tục chạy về hứớng Quãng Trị , rồi quẹo trái vào căn cứ Hoà Khánh ở cây số 17, nơi đặt BTL Tiền Phuơng SĐND.
Chúng tôi đã đặt chân đến Huế, nơi mà trước đó chỉ biết qua những bài học Địa Lý, qua môn Lịch Sử khi Chúa Nguyễn xuôi Nam, qua các Triều Đại họ Nguyễn , qua những bài hát, những vần thơ, qua tuyệt phẩm Mùa Hè Đỏ Lửa, và đặc biệt qua Giãi Khăn Sô Cho Huế của Nhã Ca.
Sau ba tuần chọn đơn vị (mà tôi may mắn bắt thăm được về Đại Đội 2 Trinh Sát, sau khi số nguời tình nguyện nhiều hơn 3 chổ cho 3 ĐĐ Trinh Sát) và được “hấp” lại, bởi Đại Tá Tham Mưu Trưởng và các Sĩ Quan Tham Mưu Sư Đoàn, tôi được chính đích thân Đại Uý ĐĐT Trương Văn Út (Út Bạch Lan) đón về, khi đưa ba ông thần Trưởng Toán Viễn Thám Đoàn Kiện Em, Lê Nguyên Bình khoá 3/72 và Trần Minh Truyện, khoá 4/72, cùng khoá với tôi, đi trình diện Chuẩn Tướng Tư Lịnh sau một “mission” nhảy vào lòng địch.
Chuẩn Uý Truyện cùng khoá ra trước, vì khi đang học khoá nhảy dù 305, tôi xin phép 10 ngày để dự thi, và đậu, năm thứ Hai, ban Báo Chí, Đại Học Vạn Hạnh.
Tôi được sắp xếp tạm ở chung với Trung Uý Lê Hữu Mỹ, Trung Đội Trưởng Viễn Thám, sát cạnh sông Bồ, dưới chân núi Hiền Sĩ của rặng Trường Sơn trùng trùng điệp điệp, chỉ toàn cây chen lá, đá chen cây, và chính thức đuợc bồ nhiệm giữ chức Trưởng Toán 4 Viễn Thám với 6 tay súng dưới quyền, danh hiệu truyền tin Rango.
Đời lính tác chiến thực sự cuả tôi bắt đầu từ ngày đó, tháng 6/1973.
Không nói, nhưng tôi biết chắc, ở phương trời xa xôi vùng biển, Mẹ tôi dõi mắt ngóng trông, và cầu nguyện cho thằng con ngổ nghịch ngang bướng, mỗi đêm😭😭😭
--------------------------------------
Vu Lan kính dâng Mẹ, part 5, mùa Covid19, Vũ Hán 2020
Tôi đứng bên này sông, bên kia vùng lửa khói.
Làng tôi đây, bao năm dài chinh chiến,
từng lũy tre muộn phiền.
Tiếng nước kêu tũm tũm cách khoảng đều đều khiến cả Toán Viễn Thám 7 người chúng tôi tỉnh giấc.
Trung Sĩ Nhất Khôi, toán Phó, xuất thân từ lò luyện thép, trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế, mò đến chổ tôi cảnh giác, coi chừng chúng dở trò dò dẫm rồi xử dụng đặc công lặn qua sông đánh úp mình đó Chuẩn Uý.
Tôi lum khum mò ra mép sông quan sát, tiếng tũm tũm vẫn trãi đều, lúc đó tầm khoảng nửa đêm trời tối như mực, chỉ nghe tiếng róc rách của dòng nước, hoà lẫn tiếng côn trủng, và dĩ nhiên tiếng tũm tũm cách khoảng 2, 3 phút như trêu chọc, như thách thức.
Tôi gọi máy cho Trung Uý Mỹ, Trung Đội Truởng, báo cáo tình hình và xin lịnh bắn vài trái M79 trả lể.
Dàn hàng ngang theo mé sông, tôi nói Hạ Sĩ Nhân đưa cây M79 cho tôi khai hoả.
Phát súng đầu tiên trong đời binh nghiệp (ngoài quân trường) đi quá xa, dù đã được Hạ Sĩ Nhân chỉnh giúp. Việt Cộng trả đủa bằng những tràng AK47 từ bên kia sông, và cháy chúa với mấy băng đại liên 12.8 ly yểm trợ từ cái chốt phiá sau, bên trái.
Sau 5, 7 phút trao đổi, tiếng súng hai bên ngừng hẳn. Bộ đội chính quy của già Hồ thuộc Sư 324 miền Bắc như muốn nhắn gởi với ngụy Dù chúng tôi họ cũng không vừa.
Từ đó, tui quen mùi thuốc súng.
Khoảng tháng Chín, tháng Mười năm đó, 1973, chúng tôi hứng chịu cơn lụt đầu đời.
Giòng sông Bồ nước sâu tới đầu gối hiền hoà mùa khô, đã trở mình sau những cơn mưa phùn dai dẳng ngày này qua ngày khác, mưa thúi đất, mưa không chịu dứt, có khi cả tháng trời.
Nước từ đâu trên thượng nguồn sâu thẳm dãy Trường Sơn đổ về không ngớt, càng lúc càng nhiều, mang theo những thân cây khô cuồn cuộn, phẩn nộ đổ ra biển Đông.
Chúng tôi phải leo cây trốn lụt, như bầy khỉ Trường Sơn (mà thằng Đạo đen vẫn gọi tôi) vì nước dâng rất nhanh, cuốn theo lều chỏng và thực phẩm mà mới hôm qua chúng tôi được tiếp tế cho 5 ngày lương khô!!!
Chiếc cầu gổ An Lổ vững chắc sừng sững chịu không biết bao trận lụt, đã bị xập trong trận lụt này, làm gián đoạn lưu thông, mà sau đó, toán Công Binh Nhảy Dù đã cực khổ chuyển cả Đại Đội Trinh Sát chúng tôi qua bên kia sông, chuẩn bị “bứng chốt”, đánh chiếm lại những vị trí bị mất, mà đám Hồ con đã chiếm giữ từ phần đất Tiểu Đoàn 3, rút ra ngoài cao hướng Quốc Lộ 1 tránh lụt, vì bên đó toản cỏ tranh, không có cây cao để bám trụ, như chúng tôi bên này sông.
Tự dưng tôi bổng nhớ Mẹ, nhớ những lần Bà âu yếm kể cho nghe trận lụt năm Nhâm Thìn ở Phan Thiết, khi gia đình trốn lụt bên trong Đồn Trinh Tường, nơi Ba tôi đang trú đóng, khi tôi chưa tròn một năm tuổi..
* 30/4/1975 và Người Lính TĐ15 Nhảy Dù Năm Xưa (4, 5) - Nguyễn Rạng Ban 5/TĐ15/ND
* 30/4/1975 và Người Lính TĐ15 Nhảy Dù Năm Xưa (6, 7) - Nguyễn Rạng Ban 5/TĐ15/ND
* 30/4/1975 và Người Lính TĐ15 Nhảy Dù Năm Xưa (8, 9, 10) - Nguyễn Rạng Ban 5/TĐ15/ND
* 30/4/1975 và Người Lính TĐ15 Nhảy Dù Năm Xưa (11) - Nguyễn Rạng Ban 5/TĐ15/ND
* ĐÊM NOEL VÙNG DẬY tại SUỐI MÁU - Võ Văn Sáu (Nguyễn Rạng)
* BẢY TAY SÚNG OAI HÙNG - A20 XUÂN-PHƯỚC - Võ Văn Sáu (Nguyễn Rạng chuyển)
No comments:
Post a Comment