Wednesday, April 13, 2022

Việt Cộng Giải Phóng Miền Nam Việt Nam Ngày 30/4/1975

Việt Cộng Giải Phóng Miền Nam Việt Nam Ngày 30/4/1975

Trinh Hao Tam - Nguyen Duong
 
 
--------------------------------
 

• Việt Gian Nguyễn Hộ (30 tháng 4 năm 1975): 
"Nhà ngụy, ta ở. Vợ ngụy, ta xài. Con ngụy, ta đày làm NÔ LỆ. Còn ngụy, ta NHỐT cho đến CHẾT. Những thằng chết, ta ĐÀO LÊN; ĐẬP PHÁ nó đi."
VGCS Hôm Nay:
"Nhà dân, ta ở. Vợ dân, ta xài. Con dân, ta đày làm NÔ LỆ. Còn dân, ta ĐÀY cho đến CHẾT. Những đứa chết, ta ĐÀO LÊN; ĐẬP PHÁ nó đi."
--------------------------------  
 
  
 
 
------------------------------------
 

.*....Gieo ''nhân'' nào - sẽ gặt về quả đó.
*....Người đàn ông miền Nam đã ''luống tuổi'' trong tấm hình phía trên, trong kháng chiến ''chống Mỹ cứu nước'' có thân nhân đã ''bỏ xác'' ngoài chiến trường.
*.....Hình như ông ta chưa hề biết đến câu này của những người đã đẩy ông ta vào ''thảm cảnh'' phía trên =......''tụi tao không bao giờ tin tưởng 1 đứa miền nam nào cả''.
*..... Cái gương của đám ''mặt trận dân tộc giải phóng miền nam vn'' được phía bắc việt ''nặn ra'' để có chân trong cuộc HOÀ ĐÀM PARIS năm 1972.....vậy mà, đến cuối năm 1976 =.....đám ''mặt trận ma-trơi'' này bị KHAI TỬ ''không kèn - không trống'', gia nhập đám này toàn là ''bác sĩ - kỹ sư - kiến trúc sư - giáo sư'' mà còn bị LỪA, thì cỡ ông chả là.....''cái đinh'' gì cả. Biết mình NGU thì đã quá muộn. Cám ơn Chị Đặng Minh Tâm và Bạn đã đọc......Kim Tran...
***.....Kho ảnh Lịch Sử VNCH & CSBV.
Đặng Minh Tâm
Quản trị viên.
......Hình bữa hổm chia sẻ bị xoá đi, may quá, gặp lại nữa!
Học nữa, học mãi, học đến chết bên … vỉa hè!

Yến Ngọc Hải Âu
Búa liềm loang lỗ máu dân
Xây trên nền tảng xác xương đồng bào
" Cách mạng" ta nổi phong trào
Đánh cho Mỹ đế chạy nhào ghi công
Nào ngờ chiến tích đã xong
Giờ đây mới thấy chổng mông mà gào
Xưa kia chiến tích anh hào
Nào ngờ đổi gạo chẳng còn đủ ăn
Trời xanh ngán cảnh những thằng
Máu tanh gội rửa những ngày hung hăng
Gian thần trả quả vì dân
Nợ đền - oán trả phận người gian truân
-------------------------
 
Đi qua sông nghe sóng vổ trong lòng,
Trong trái tim âm vang lời Tổ Quốc,
Nổi nhục nhằn hằng sâu trong ký ức,
Bỏ lại đời những ngày tháng phiêu du.
Thời gian trôi hết Hạ lại sang Thu,
Lại nhớ đến những đám mây bàng bạc,
Làm sao quên đôi mắt buồn ngơ ngác,
Anh đi rồi để lại nổi cô đơn.
Có những chiều nắng tắt buổi hoàng hôn,
Anh ngồi đấy lặng nhìn ra mặt biển,
Nơi xa xôi một khung trời lưu luyến,
 
Đồng bào mình còn sống cảnh lầm than.
Đội lên đầu những áp bức bạo tàn,
Toàn dân sống chen mình trong hoả ngục,
Chúng cai trị con người bằng tàn độc,
Người đói nghèo đầy rẩy cã quê hương.
Đứng thẳng lên! Thét lớn nổi căm hờn,
Phá xiềng xích! Nêu cao lời chính nghĩa,
Không để mãi bọn Cộng Nô đè đầu cởi cổ,
Hãy vùng lên! Xây dựng một tương lai.
B.PAS - Nhóm Sóng Nước Trùng Dương
Gocong 1962 - Sept 10, 2022
 
Đây là đề tài tôi chọn viết để kỷ niệm một thời điểm "rất đặc thù", vì nó để lại 1 âm hưởng, 1 dư hưởng "đặc quánh" không dễ loảng tan, hay biến thành hơi, khí mà bay mất.

  Tôi đã khởi viết vào ngày hôm qua. Vội xóa ngay. Vì lẽ hôm qua, theo thói quen người đời, được gọi "cá tháng tư". Một điều khôi hài như thế không thể xen lẫn vào "những chuyện của 47 năm trước" - liên quan 1 biến động lớn, tác động hết sức mạnh trên chính trị, xã hội, đạo đức, tập quán, văn hóa miền Nam VN kể từ sau tháng 4 năm 1975.

  Vậy, hôm nay viết.
Ngày 2 tháng 4, năm 1975, tôi vẫn từ Sài Gòn đi Biên Hòa.  Cứ sáng đi, chiều về như vậy đã gần 1 tháng nay.  Rời chức vụ tại Quảng Ngãi hôm 1/1/1975, tôi được cấp 15 ngày phép. Xong, đi Sài Gòn.

Về Sài gòn bằng máy bay thì mau. Hành lý không nhiều, hơn nữa tại căn hộ mua từ năm trước (1974), thuộc quận Phú Nhuận, đường Nguyễn Huỳnh Đức, đã có sẳn mọi vật dụng. Nhạc phụ, nhạc mẫu và 4 con trai của tôi đã ở đây. Vợ tôi còn đi dạy và đứa gái út mới sinh + căn nhà chưa bán được, nên còn ở lại Quảng Ngãi.

Phương tiện đi lại tại Sài Gòn rất dễ dàng. Đủ loại xe. Tuy vậy, con đường từ nhà đến Bộ Nội vụ, rồi từ nhà đến Bộ Quốc phòng, rồi từ nhà đến Bộ Tổng Tham Mưu, cả 3 hành trình này lại quá xa, mất gần 3 tháng.
Sau cùng, trung tuần tháng 4 về Tiểu khu Bình Tuy nhận nhiệm vụ, đã thấy ở đây quá vắng vẻ. Chiếc Chinook thả tôi và 1 vài quân nhân xuống sân Tiểu khu rồi vội vã bay đi. Đến Phòng Tổng Quản Trị, chỉ thấy 1 Hạ sĩ-quan ngơ-ngáo. Hỏi Trưởng Phòng đâu? Không biết. Cũng không gặp được Tỉnh + Tiểu khu trưởng. Thì tin tức nhận được, Phan Thiết mất. Bấy giờ khoảng hạ tuần tháng 4 (21-4-1975).

Thế là tản hàng. May mà gia đình xum họp. Vợ tôi + đứa con gái út được cháu Tài, người dạy kèm các con tôi suốt 4 năm nay, giúp đỡ,  đã an toàn rời Quảng Ngãi theo ghe biển về Vũng Tàu. Bỏ việc, bỏ nhà. Tuần sau thì Quảng Ngãi bị địch chiếm (khoảng 25/3/1975).

Kể từ lúc về Sài Gòn hạ tuần tháng 1/1975, tôi thường gặp bạn "nối khố" Lê Hữu Cương. Rồi từ Bình Tuy về lại đây vào những ngày cuối tháng 4/1975, tôi cùng Cương ngược xuôi tìm hiểu tình hình cho rõ hơn. VNCH dứt khoát cáo chung.

Cương cũng mới xin thôi làm việc với LM ? Viện trưởng Đại học Minh Đức. Gặp bất kỳ người thân quen nào, họ đều khuyên "tìm cách ra nước ngoài".
Bề ngoài, lý do đơn giản cho nền chính trị của VNCH (1954-1975) cáo chung, và QLVNCH tan rã, là việc mất Ban-mê-thuột khoảng 10/3/1975. Nhưng đó chỉ là "khói". Bề trong mới chính là "lửa", đã từ âm ỉ, rồi bộc phát lúc to lúc nhỏ, từ những năm trước. Đúng sai, thật giả thì đã có câu trả lời ngay chính từ "đồng minh thân thiết" của VNCH. Rất đơn giản, họ ngay từ đầu đã nặn từ đất nước VN (vốn đã là miếng bột của các siêu cường quốc tế) thành một nửa theo ý họ (miền Nam). Chừ, họ bán miếng bột đó với tiền lời lớn, thì tội gì họ không phủi tay? Hai mươi năm chỉ mất vài trăm tỉ đô-la, và hơn 5 vạn nhân mạng công dân của họ, thì "thấm béo" chi?

Chính trị ngoắt-ngoéo, ai muốn làm, ai muốn hiểu sao cũng được. Nhưng hệ quả từ nó thì xiết bao kinh-hoàng, khốn khỗ. Xã hội miền Nam VN sau 30 tháng 4 năm 1975 không biết làm sao mà diễn tả.

Cũng không cần nói đến "Bên Thắng Cuộc". Chắc chắn là vui quá, quá vui. Đến nỗi ăn quá no mà chết như Mười Vân (Đại Tá Công An Tỉnh Đồng Nai). Có người cười vui quá mà "đứt mạch máu" chết như ... (rất nhiều, tôi quên tên).

Nhiều hình ảnh của đời người, rút còn 3 sắc thái : - kẻ vui quá như đã nói ở trên, - kẻ buồn quá, là đa số gia đình "ngụy quân ngụy quyền" mất nhà, mất tiền của, mà thân nhân (cha, chồng, con ...) thì bị tù đày "không hẹn ngày về", - tất cả số còn lại.

Chuyện của hai tháng 3 và 4 năm 1975 thì bây giờ ai cũng biết. Rất nhiều, rất "Tang thương ngẫu lục" - chút khác-biệt, là "không tình cờ". Mà là có chủ ý : ý trời, ý người. Ai cũng có thể tìm kiếm trên online. Thế thì khi bài tôi viết "Mùa Xuân Nào Em Còn Nhớ", không chỉ ý nói về 1 nền chính trị cáo chung, cũng là muốn đề cập đến 1 tình người, 1 sinh hoạt xã hội phức tạp, 1 đối xử thô bạo, tàn ác của  những người, hở 1 tí là "đồng bào ruột thịt", 1 chút là "miền Nam trong trái tim tôi". Tim bẳng đồng bằng sắt, thì cũng như không!

47 năm trước. Người đã định đi tù thì đi tù. Hằng ngàn, vạn "kho" khổng lồ dân sự, quân sự đang được "tháo khoán", sẽ được vét sạch không lâu. Chuyện 16 tấn vàng được qui cho Cựu Tổng Thống Thiệu. Tiền tài, của cải ê hề. Thế là 1 ủy ban "đánh phá tư bản mại sản" từ Bắc vào Nam làm việc. Phải là từ miền Bắc mới "hiệu quả", mới "đáng tin". Ôm trọn gói!
Tất cả hiệu sách đều bị phong tỏa. Mọi sách của VNCH đều "đồi trụy". Chính sách "Tần Thủy Hoàng" được áp dụng! Vài tháng sau đó, sách cũ nửa kín nửa hở được bán trên mọi vĩa hè đường phố. 

  Rồi nhạc vàng, nhạc xanh.
Rồi đi kinh tế mới. Rồi chương trình văn hóa, giáo dục. Triết học là "xa xí phẩm". Ưu tiên là "luận lý Đảng". Văn hào, thi hào nay cũng được phân cấp, đứng đầu là Hồ Chí Minh. Leo trên cây đu đủ mà đái xuống cũng thành thơ, văn dạy trong trường. 47 năm trước!

  May mà Karl Marx & Engels không chết yểu, người trên 60, người trên 70 mới chết. Nếu sống vào thời kỳ 47 năm trước, nếu còn trẻ, chắc "cười vui" vì lý thuyết Mác-xít của mình thật giá trị, được áp dụng "thành công" mà cười vui quá khiến không đứt mạch máu chết, cũng trẹo quai hàm! Họ hãnh diện vì hiện nay chỉ còn VN, Trung quốc, và Bắc Hàn vẫn còn ôm "Tư bản luận", với đi sâu vào Mác-xít-thuyết. Họ cười mĩa Hegel, Kant, Socrate, v.v... Họ hỏi JC là ai, Phật Thích Ca rất xa lạ! Có lẽ họ thích "Hồi giáo" với Mô-ha-mét hơn. Chính trị, văn hóa 47 năm trước! Các phần khác chỉ 1 chút.

Chúng ta đau đớn thật nên chừ còn đau đớn. Dù đã 47 năm qua. Người ta quen miệng rồi, thì "con vẹt" lúc nào cũng chừng đó chữ. Nhà Tần "đốt sách, chôn học trò" chỉ có mấy đời tồn tại.

  Niềm ao ước của tôi là, văn hóa và nền giáo dục của thời kỳ trước 5/1975 có ngày trở lại. Tự nhiên, đạo đức xã hội cũng theo đó mà giống lại như xưa!
(Stone Mountain GA - April 2, 2022)
 
Lúc mà các bác chưa có vô đây
Cháu chưa có mặt trên đất nước này
Má cháu còn đi đến trường mỗi sáng
Đúng tuổi trăng tròn, đôi má hây hây.
Kể từ sau ngày các bác vô đây
Ông Ngoại bỗng nhiên bị bắt, tù đày
Bà Ngoại nhớ chồng rưng rưng mỗi tối
Má cháu ưu sầu đánh mất thơ ngây.
Hai năm sau ngày các bác vô đây
Một sáng mùa Đông sương trắng giăng đầy
Các bác đến nhà, lưng đeo súng đạn
Bắt Má đi làm thủy lợi miền Tây.
Một tháng đi làm thủy lợi miền Tây
Má về ốm o, thân xác hao gầy
Má ôm Ngoại khóc, thì thầm kể lể:
—Cán bộ hiếp con, có lúc cả bầy!
Rồi cháu ra đời không Ba, có Má
Ngoại vừa nằm xuống nên Má trắng tay
Bán buôn tảo tần Má nuôi cháu lớn
Dù không biết rằng Ba cháu là ai!
Mười tám năm sau ngày bác vô đây
Tài sản, cửa nhà không cánh mà bay
Má cháu qua đời sau cơn bạo bệnh
Còn gì bán nữa?—Ngoài thân cháu đây?
Gần hai mươi năm sau ngày bác vô
Cháu mười sáu tuổi thân xác héo khô
Vậy mà phải bán, lấy tiền mua gạo
Tính ra sáng chiều—chỉ khoảng một tô!
Nguyễn Thành Bửu
 
41. TRỜI HÀNH CƠN LỤT
Xứ dân nghèo sống trên vùng sỏi đá,
Trời lại hành cho cơn lụt mỗi năm,
Đời tối tăm trong kiếp sống âm thầm,
Không bỏ được nơi chôn nhau cắt rún.
Đất miền Trung bảo giông mùa biển động,
Mang nước về chảy lênh láng thành sông,
Đời đói nghèo giữa kiếp sống long đong,
Chén cơm hẩm tưới lên dòng nước mắt.
Mùa nước nổi ở nơi vùng Đồng Tháp,
Nước dâng lên mang theo lớp phù sa,
Gây tang thương cho bao kẽ không nhà,
Chiếc xuồng chống trên ruộng đồng trắng xoá.
Bóng tre gầy gió lay làm nghiêng ngã,
Mái lá nghèo đổ sập bởi nước tuông,
Những ngày dài theo con nước thảm thương,
Lòng chai đá theo cái nghèo quá đổi.
Lần nầy đây nước lủ về Hà Nội,
Xuồng cao su trên đường phố Hà Thành,
Đường giao thông tắc nghẽn nước trôi nhanh,
Cũng chẵng biết nơi nào là cống rảnh.
Thiên tai đổ trên đầu dân phải gánh,
Còn chính quyền có đó cũng như không,
Đừng dại khờ mang ý nghĩ trông mong,
Còn bị trách: Chỉ ỷ lại vào chính phủ!
 B.PAS
Nhóm Sóng Nước Trùng Dương
Gocong 1962 - Sept 02, 2022

 
40. CƠN ĐÓI U MINH
Đi xuôi về vùng đất mủi Cà Mau,
Mùa nước nổi ngập tràn vùng ruộng úng,
Rừng cây đước chập chùng đang dợn sóng,
Đám dân nghèo người đói lã ở nơi đây.
Vùng U minh từng nổi tiếng chốn nầy,
Trên ruộng lúa dưới sông ngòi đầy cá,
Mà tại sao bây giờ thê thảm quá,
Ngàn gia đình phải ăn cháo độn rau ?
Chưa bao giờ thấy hoàn cảnh thảm sầu,
Con nheo nhóc trong nhà còn lon gạo,
Rơi nước mắt mẹ đem ra nấu cháo,
Nồi cháo to lênh láng nước đại dương.
Múc cho con dòng nước mắt thảm thương,
Sau nồi cháo sẽ không còn gì nữa,
Nhiều gia đình không có cơm chĩ còn có đũa,
Chẵng gì ăn phải nằm xỉu trong nhà.
Đám trẻ thơ bụng đói lại khóc la,
Lòng cha mẹ đau buồn tim như cắt,
Kiếp đói nghèo trào tuông dòng nước mắt,
Vì ai đây nên thân phận thế này?
B.PAS
Nhóm Sóng Nước Trùng Dương
Gocong 1962
Aug 31, 2022
 

39. THÀNH QUẢ CỘNG NÔ
Hơn 47 năm sau ngày "Giải Phóng"
Bọn Cộng Nô đã làm được những gì ?
Chỉ tạo thành những hình ảnh phân ly,
Khi chúng đã hoàn thành mộng cuồng chinh " Thống Nhất"
Bọn thống trị với tập đoàn thối nát,
Chỉ một lòng tham nhũng cướp của dân,
Cai trị con người bằng pháp luật bất nhân,
Đưa tuổi trẻ đi vào đường băng hoại.
Hàng triệu người không biết còn sợ hải,
Tìm vượt biên theo rừng núi đại dương,
Cố tránh xa bọn Cộng Sãn nhiểu nhương,
Để tái lập đời Tự Do Hạnh Phúc.
Người con gái Việt Nam âm thầm nén nhục,
Đem xác thân gởi gấm ở xứ người,
Bao đau thương trùm phủ cã cuộc đời,
Đành gánh chịu nổi uất hờn chua xót.
Trên vỉa hè bao trẻ thơ lê gót,
Tìm chén cơm giữa khung cảnh phồn hoa,
Dân đói nghèo than khóc quá xót xa,
Bọn Cộng Sãn vẫn tươi cười hỉ hả.
"Công Lý" Việt Nam cã thế giới đã chẵng còn thấy lạ,
Đám dân oan nheo nhóc giữa thị thành,
Cướp của dân chúng tạo lập riêng mình,
Một cuộc sống chẵng khác gì vua chúa.
Một ngày mai đất nước không còn nữa,
Vì cúi dâng cho Tàu Cộng mất rồi,
Cả toàn dân uất hận nát vành môi,
Ôi chua xót khoé mắt đầy ngấn lệ.
B.PAS
Nhóm Sóng Nước Trùng Dương
Gocong 1962
Aug 29, 2022
 
Chút hình hài cắt ra khỏi thịt xương,
Nghe như trái tim mình đang rướm máu,
Từ đất liền cho đến vùng hải đảo,
Xót đau thay công gầy dựng của Tiền nhân.
Ngày hôm nay bọn Cộng Sản bạo tàn,
Quỳ sát đất cúi dâng cho Tàu Cộng,
Miền biên giới một đêm mưa gió lộng,
Nổi căm hờn Thác Bản Giốc, Ải Nam Quan.
Đất quê hương rồi ngày mai sẽ tiêu tan,
Nổi hận ấy biết bao giờ mới rữa?
Đến bây giờ lại nghe thêm tin nữa,
Hồ Chí Minh cũng cắt biển dâng Tàu.
Phạm văn Đồng đã ký kết từ lâu,
Thêm cái nhục của bọn người Cộng Sản,
Miệng hô hào :"Quê hương tình mang nặng"
Rằng : "Miền Nam ỡ trong trái tim tôi"
Thật rỏ ràng chỉ chót lưởi đầu môi,
Còn sự thật hiện nguyên hình tên bán nước,
Trò mỵ dân Hồ Chí Minh làm được,
Để lại đời đất nước nặng nổi đau.
Chúng làm ngơ mặc kệ xác đồng bào,
Lại tàn bạo dùng thẳng tay đàn áp,
Ngày hôm nay cuồng phong thành bảo táp,
Quét tiêu tan lủ Cộng Sản đớn hèn.
B.PAS - Nhóm Sóng Nước Trùng Dương
Gocong 1962 - Aug 23, 2022

 
Bên căn gác nhỏ nhìn phố đêm
Một cơn gió lạnh lướt qua thềm
Ồn ào xe cộ người qua lại
Đèn đường hắt bóng lòng buồn thêm
Oằn mình giữa dòng chảy đen ngòm
Tiếng xe bì bõm trời tối om
Cha đẩy xe đi, con ngủ gục
Bước thấp, bước cao thân gầy còm
Tiếng ai lạc lõng giữa phố phường
Giọng rao khàn đặc thấy mà thương
Ngày qua ngày sức cùng lực kiệt
Nào quản chi khó nhọc đêm trường
Bon chen cuộc sống mặc dòng rời
Phố đêm vùi lấp bao kiếp đời
Hắt hiu thân phận cây chùm gửi
Tiếng lòng đau đớn mãi đầy vơi
 
Lâu lắm rồi kể từ ngày vượt biên trên biển rộng,
Sao không thấy anh về để thăm lại Việt Nam ?
Bao triệu người dân đang ôm nổi căm hờn,
Mong chờ đợi trận cuồng phong bảo nổi.
Chắc anh nghe Việt Nam đang đổi mới?
Vâng thưa anh đang đổi mới từng ngày,
Chế độ bạo tàn quyết đàn áp thẳng tay,
Cả thế giới chẳng nước nào theo kịp.
Chắc anh nghe đang mọc lên thật nhiều biệt thự?
Chủ nhân Ông anh có biết là ai?
Nếu không là Cộng Sản thì cũng là bọn tay sai,
Theo sống bám Đảng tham lam tàn bạo.
Chắc anh nghe những công trình tuyệt hảo?
Nhiều danh lam thắng cảnh được dựng xây?
Là những nơi có những đứa bé sống đoạ đày,
Đang kiếm sống theo bước chân người du khách.
Chắc anh nghe hàng quán mọc lên từ hang cùng ngỏ ngách?
Là bình phong đầy sa đoạ u mê,
Tuổi trẻ Việt Nam không tìm thấy nẻo đường đi,
Cã ý chí sắp trở thành băng hoại.
Chắc anh nghe chúng nắm cán cân công lý?
Nên nhà tù đầy rẩy khắp nước Việt Nam,
Nếu không là "Phản Động" thì cũng lại "Việt Gian”,
Trong tù ngục không có ngày xét xử.
Hơn 47 năm hơn triệu người viển xứ,
Đã ra đi có ước hẹn ngày về?
Hay cố quên một quá khứ quá nảo nề?
Cứ bỏ mặc trong nước đành tự xử?
B.PAS
Nhóm Sóng Nước Trùng Dương
Gocong 1962
Aug 21, 2022

 
"Vua Hùng có công dựng nước, Bác Cháu ta có công giữ nước".
Thật nực cười lời láo toét ba hoa,
Hồ Chí Minh đã bán đất Ông Cha,
Dấu kín mãi đến bây giờ đành công bố.
Thật đau đớn ôi vô cùng xấu hổ,
Một lủ nguời vổ ngực yêu Quê Hương,
Lùa tuổi Thanh xuân giết chết ở chiến trường,
Giờ rỏ mặt là một phường bán nước.

Phạm Văn Đồng ký Công Hàm còn in dấu mực,
Bao mươi năm tủi nhục nặng trên đầu,
Chỉ cam tâm luồn cúi Cộng Sản Tàu,
Hầu ra mặt vênh vang cùng thế giới.
Cộng Sản Việt Nam nguyện suốt đời làm tôi mọi,
Đẩy người dân xuống cùng cực của cuộc đời,
Cuộc sống mất Tự Do người chẳng ra người,
Riêng bọn chúng ngồi trên đầu như Bạo Chúa.
Thác Bản Giốc, Ải Nam Quan cắt dâng từ dạo đó,
Bọn Bắc Phương vẫn chưa thoả dạ trong lòng,
Chúng rắp tâm thèm muốn dảy non sông,
Vì đả có Bọn Cộng Sản Việt Nam nguyền dâng hiến.
Ôi xót xa từ đất liền ra cửa biển,
Công Tiến Nhân gầy dựng mấy ngàn năm,
Nay lọt vào tay bọn Quỷ dử Vô thần,
Tội ác ấy ngàn năm ghi sử sách.
B.PAS
 
Hong Le (B.PAS Nhóm Sóng Nước Trùng Dương)
Nhìn thấy em là nhìn thấy Quê Hương,
Việt Nam ơi, nuôi con với bầu sữa Mẹ,
Trót sinh ra giửa cỏi đời dâu bể,
Bọn Cộng Sản buôn người nên em phải lầm than.
Em chơ vơ đứng ở những góc đường,
Miệng hớn hở đưa ra lời mời gọi,
Tuổi 14, 15 chưa hẳn là con gái,
Đã biến thành một kẽ để mua vui.
Đèn hoa đăng rực rở ở phố người,
Em đứng đấy mà nghe lòng cay đắng,
Ôi oán hận cuộc đời, buồn thương số phận,
Thân lưu đày trôi nổi ở phương xa.
Sống âm thầm với một kiếp bán hoa,
Thân vùi vập bởi bọn người háo sắc,
Trong đêm vắng em rơi dòng nước mắt,
Khóc thương mình hay khóc cho Quê Hương?
Những địa danh nghe sao quá chán chường,
Singapore, Mả Lai, Thái Lan, Cam Pốt,
Đại Hàn, Đài Loan... không làm sao kể hết,
Tại vì ai em đành phải bán thân?
B.PAS - Nhóm Sóng Nước Trùng Dương
Gocong 1962 - Aug 02, 2022

 
 
33. Món hàng “Đàn Bà Việt Nam” bán ra nước ngoài
Một bài phóng sự được đặc phái viên của Pháp đưa lên “Mổ xẻ” trên đài truyền hình France Television/France 2 đã làm phẩn nộ đồng bào Việt trong nước lẫn hải ngoại. Trước hết, người xem có cùng cảm xúc trái tim bị co thắt lại vì xót xa cho phận đàn bà Việt Nam sống dưới chết độ của người Việt cộng.

Chúng ta hãy nhìn lại, ngoài Chế Độ Cộng Sản thì chưa có một triều đại nào từ thời lập quốc Việt Nam của Vua Hùng Vương đến ngày nay mà Phụ Nữ Việt Nam bị khinh rẻ tàn mạt đến như vậy.. 1000 năm bị giặc Tàu đô hộ, dân tộc ta, người Phụ Nữ cũng không bị bán thân, đẩy ra hải ngoại làm tôi tớ như món hàng. Và gần đây nhất trên 100 năm bị giặc Pháp đô hộ, phụ nữ vẫn bình yên sống, những năm phát xít Nhật xâm chiếm, phụ nữ Việt Nam cũng không bần cùng, 21 năm chiến tranh Nam Bắc, phụ nữ Việt Nam cũng chưa bao giờ bị khinh miệt như vậy. Thế thì… tại sao Việt Nam sau 42 năm không còn tiếng súng, hòa bình trên khắp quê hương, mà người Phụ Nữ bị rao bán một cách nghiệt ngã tang thương? Như vậy, chúng ta khẳng định Việt Cộng là thủ phạm bán nước, hại dân, đẩy đồng bào ra nước ngoài làm lao công để trừ nợ, và đẩy phụ nữ, rao bán phụ nữ cho ngoại bang một cách tinh vi để thủ lợi riêng…

Sau đây là bài phóng sự được chiếu trên đài truyền hình quốc gia Pháp, nói về chuyện tổ chức bán đàn bà VN cho người Tầu. Thú thực, tôi không dám coi hết, như không có đủ can đảm nhìn vết thương nhầy nhụa trên thân thể mình.

Phóng sự chiếu trên TV cùng ngày với đám tang ông Stéphane Hessel (Tổng thống Pháp chủ tọa ), tác giả cuốn ‘Indignez-vous’ ! (Hãy Nổi Giận ).. Nếu cùng với việc bán nước, chuyện bán đàn bà cho người Tầu không làm chúng ta nổi giận, chắc chúng ta sẽ chấp nhận bất cứ sự sỉ nhục nào.

Không ưng được đổi lại (bài viết này đề cập đến đề tài đường dây buôn bán phụ nữ V.N sẽ được chiếu trên TV Pháp). Khán giả ti vi ở Pháp sẽ được coi một chương trình đặc biệt, một phóng sự hình ảnh về đề tài, nạn mua bán đàn bà Việt Nam đưa sang Trung Quốc (Les Branches esseulées: Trafic de femmes vietnamiennes en Chine). Nhà bình luận Ngô Dân Dụng, nhận định một cách khá chi tiết về sự kiện “mua đàn bà Việt Nam” qua tựa đề “Les Branches esseulées” dịch nguyên văn hai chữ Hán mà người Tầu phiên âm là “Guang-gun,” đọc lối Hán Việt là “Quang Côn..” Quang là sáng, cũng nghĩa là trống trải, như khi ta nói “phong quang, quang đãng.” Côn là cây gậy, có thể dùng để đánh nhau, “Côn quyền ra sức lược thao gồm tài” (Truyện Kiều). Quang côn là cây gậy trơ trụi, là cành cây không lá không hoa. Trong từ điển Hán Việt ghi nghĩa thông dụng nhất của từ này: Quang côn là đàn ông con trai chưa có vợ, độc thân, thường gọi là ế vợ.

Hai nhà báo công ty truyền thông CAPA, Patricia Wong và Gaël Caron, đã bỏ mấy tháng trời theo dõi một chàng trai người Trung Hoa đi mua vợ ở tận vùng gần Sài Gòn, Việt Nam, cách xa làng anh ta 3,500 cây số. Tên anh ta là Xiao Lu, 30 tuổi, chưa có vợ bao giờ. Anh làm công nhân đồn điền trà, ở một làng tên là Ting Xia. Tìm trong các mạng ở Trung Quốc thấy có làng trồng trà có tiếng tên là Thôn Ðình Hạ.. Chương trình Quang Côn này sẽ được chiếu trên đài France 2. Hai nhà báo đi theo anh Xiao Lu trên con đường thiên lý tầm thê đó. Nhưng bài phóng sự cũng mô tả chung nạn mua bán đàn bà con gái từ các nước Việt Nam, Lào, Miến Ðiện và Indonesia, để đưa sang Tàu.

Trước đây đã nhiều nhà báo viết về nạn buôn phụ nữ Việt Nam bán sang Tàu, như trên tờ Wall Street Journal đã kể câu chuyện một cô quê ở Nam Ðịnh bị bán sang Quảng Ðông. Cô phải sống ở một làng miền núi, bị gia đình chồng và cả hàng xóm của họ canh giữ nghiêm ngặt không cho trốn đi. Sau cố lén gửi được thư cho gia đình tại Việt Nam, rồi một người anh trai lặn lội đi tìm được làng cô ở và bày mưu cứu cô về. Năm 2004 hai tác giả Valerie Hudson và Andrea den Boer viết cuốn sách tiếng Anh mang tựa đề “Bare Branches,” Cành Trụi, dịch sát hai chữ Quang Côn, trình bày tình trạng nhiều đàn ông ở nước Tầu ế vợ, do nhà xuất bản Ðại Học MIT in.

Bản tin loan báo chương trình Quang Côn, Les Branches esseulées, cho biết những “cô dâu” được “nhập khẩu” qua Tàu, trên nguyên tắc để làm vợ cho các quang côn, những cành cây trụi lá; nhưng họ được đem bán như bán nô lệ. Sớm muộn họ sẽ chạm mặt với thực tế phũ phàng, khác hẳn những gì được ông chồng tương lai hứa hẹn. Họ sẽ lao động cực nhọc ở các làng quê hẻo lánh, ngoài việc lo sinh đẻ. Nhiều cô dâu đã tìm đường trốn đi, nhiều cô đành chịu đựng số phận.

Hai nhà báo Patricia Wong và Gaël Caron bắt đầu chương trình với cảnh mua vợ của Xiao Lu tại vùng phụ cận Sài Gòn. Các quang côn được tập trung tại một khách sạn; họ bị ngăn cản không cho đi đâu, vì bọn lái buôn đã tịch thâu giấy thông hành, hộ chiếu của họ. Rồi họ được đi xem mặt hàng, là các cô gái Việt Nam tuổi ở 20. Một chuyến đi mua vợ như vậy tốn khoảng 5,000 đồng Euro, vào khoảng 8,000 đô-la Mỹ; những cô còn trinh được trả giá cao hơn. Giống như các siêu thị và cửa hàng bách hóa lớn ở Mỹ, khách tiêu thụ không hài lòng với các “món hàng” này có thể đem đổi lấy món hàng khác tương đương, “échangeable” trong nguyên văn. Bọn buôn người gồm cả người Tàu và người Việt.

Trong gian phòng khách sạn, nhà báo quay cảnh Xiao Lu gặp cô dâu tên là Thu Yến, một cô gái quê sợ sệt, nhút nhát. Hai người không thể nói chuyện gì với nhau cả vì ngôn ngữ bất đồng. Tất nhiên không ai mở miệng nói đến chữ “yêu.” Mấy ngày sau, họ về làng của cô gái ở vùng đồng bằng sông Cửu Long làm lễ cưới, một nghi lễ không có giá trị pháp lý. Sau đám cưới, bà mối người Tàu tên là bà Vương (Wang) đưa cho Thu Yến hộ chiếu với visa nhập cảnh Trung Quốc. Mấy ngày sau, Thu Yến về đến nhà chồng, ở một làng trong một thung lũng hẻo lánh; mọi người chung quanh nói thứ tiếng cô không hiểu được.

Trung Quốc có rất nhiều đàn ông ế vợ, một phần vì chính sách của Mao Trạch Ðông chỉ cho phép mỗi cặp vợ chồng có một đứa con, áp dụng cho phần lớn nhưng không phải tất cả dân Trung Hoa. Vì mong có con trai nối dõi, nhiều người đã giết chết các trẻ sơ sinh con gái, nhiều nhất là ở miền quê; gây ra cảnh trai thừa gái thiếu hiện nay.

Theo báo Nhà Kinh tế (The Economist, March 6, 2010), đầu năm 2010 Viện Khoa Học Xã Hội Trung Quốc (CASS) đã tiên đoán trong mười năm nữa ở nước Tầu cứ năm (5) thanh niên đến tuổi cưới vợ sẽ có một chàng không thể tìm được cô nào để “rước về.” Con số này tính ra dựa trên tỷ lệ số trẻ em trai và gái sinh ra trong khoảng từ 5, 10 năm trước. Vào năm 2020 trong lớp tuổi 19 trở xuống, sẽ có từ 30 đến 40 triệu thanh niên “thặng dư” so với số phụ nữ độc thân cùng tuổi, nghĩa là họ không thể nào có vợ – trừ khi nhập cảng phụ nữ hoặc xuất khẩu đàn ông !

Ðể độc giả thấy rõ con số đó lớn hay nhỏ ra sao, báo Economist đã so sánh: Con số 40 triệu này lớn bằng tất cả số thanh niên cùng tuổi ở nước Mỹ vào năm 2020, có vợ hoặc chưa có vợ.. Trong lịch sử loài người, trong thời gian không có chiến tranh, chưa bao giờ một nước nào trên thế giới lại “chứa” một lực lượng đàn ông độc thân và ế vợ cao đến thế. Nếu so sánh với Việt Nam thì con số 40 triệu đó cũng xấp xỉ một nửa dân số nước ta, tức là gần bằng tổng số người đàn ông, con trai người Việt, kể từ trẻ sơ sinh tới các cụ già.

Trong các xã hội bình thường, cứ 100 trẻ em gái sinh ra thì có từ 103 đến 106 trẻ sơ sinh con trai. Vì trẻ em con trai dễ bị chết yểu hơn con gái, cho nên khi chúng lớn lên đến tuổi lập gia đình thì số trai gái cao xấp xỉ bằng nhau. Nhưng tại nhiều nước hiện nay tỷ lệ 100 gái/105 trai không còn nữa. Trong những năm từ 1985 đến 1989, tỷ lệ nam nữ ở Trung Hoa đã chênh lệch thành 100/108, tức là 100 bé gái thì có 108 bé trai. Trong những năm từ 2000 đến 2004, tỷ lệ càng nghiêng lệch thêm, 100 bé gái sinh ra thì sinh 124 bé trai. Tại nhiều tỉnh ở miền Nam và Trung nước Tầu, tỷ lệ này lên tới 100/130 hay 140.

Tỉnh Quảng Ðông, ở sát nước ta, là nơi cứ 100 em gái ra đời thì có 120 em trai. Ðến năm 2025, 2030, cứ 100 cô gái sẽ có 120 cậu trai muốn cưới làm vợ.. Nếu trong mươi năm tới ở tỉnh trù phú nhất Trung Quốc này, mà có độ dăm, mười triệu thanh niên ế vợ, thì có ảnh hưởng gì tới xã hội Việt Nam hay không?

Chương trình ti vi trên đài France 2 chắc sẽ làm các khán giả người Pháp kinh ngạc. Nhưng đối với khán giả người Việt Nam thì chắc đó cũng là một mối sỉ nhục. Trong lịch sử nước ta chưa bao giờ có cảnh phụ nữ được đem bày hàng để bán, với điều kiện “không hài lòng thì đổi” để tận tình phục vụ người tiêu thụ. Chỉ dưới chế độ “ưu việt” kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay mới biến các cô gái thành hàng hóa xuất khẩu như vậy. Nhưng sau khi cảm thấy tủi nhục, người Việt Nam còn lo ngại nữa.
Có một quy luật dân số học, trong quá khứ, nhận thấy rằng các nước nhiều thanh niên ế vợ thường hay gây chiến với lân bang. Khi dân số nước đó tăng lên nhanh hơn khả năng sản xuất, số thanh niên trai tráng nhiều hơn, đa số trong tuổi lao động bị thất nghiệp, quá nhiều người không thể nào kiếm được vợ vì thừa trai thiếu gái, thì chiến tranh có thể giúp giải quyết cả ba vấn đề một lúc: thất nghiệp, dân số đông, và đàn ông ế vợ. Chính quyền một quốc gia quá đông “quang côn” thấy đó là một cách giải quyết số đàn ông thặng dư.. Nếu không, đám thanh niên “bức xúc” và bất mãn đó sẽ dùng thời giờ không làm việc để gây tội ác, hoặc quay ra làm cách mạng, nổi loạn chống chính quyền. Không phải cuộc chiến tranh nào cũng xẩy ra vì quá nhiều thanh niên ế vợ; nhưng trong một xã hội mà số đàn ông thặng dư đông quá thì, khi kinh tế suy yếu, người cầm quyền thường gây chiến.

Ở Trung Quốc, ông Tập Cận Bình mới nhậm chức đã gia tăng ngân sách quân sự, tỷ số gia tăng lớn quá đến nỗi Bắc Kinh phải lên tiếng giải thích, khi nhiều quốc gia tỏ ý lo ngại. Ông Tập Cận Bình tăng ngân sách quốc phòng chỉ để mua chuộc các tướng lãnh Trung Quốc? Hay ông đang lo trước vấn đề do 35 triệu quang côn sẽ gây ra trong mười năm sắp tới?

Kiếp đàn bà của dân tộc Việt chúng ta đang sống trong nước coi như đã là “món hàng trao đổi, mua bán” cho ngoại bang nay đã trở thành bình thường. Phụ nữ Việt Nam chưa bao giờ bị khinh bỉ, rẻ rúng như ngày nay.. Việt cộng đã làm cho tổ quốc mục ruỗng, chế độ cộng sản đã đưa phụ nữ nói riêng và đồng bào Lạc Việt nói chung đi vào con đường bế tắc, và dân tộc trở thành nô lệ chỉ còn là thời gian… Nếu vẫn còn thơ ơ với sự tồn vong đất nước!
Không lẽ dân tộc Lạc Việt đã chuẩn bị cho… dấu chấm hết ?!!
PHAN NGUYÊN LUÂN
 
Chúng tôi cưới nhau vừa được hơn 3 năm thì Ngày 30 tháng Tư đến...

Lúc đó tôi vừa 28 tuổi và có hai con: Cháu gái vừa lên hai và cháu trai chừng 5 tháng. Cũng như hàng ngàn, hàng vạn người khác trước đây, đã từng đi lính hoặc làm việc với chính quyền cũ, chồng tôi cũng được gọi đi học tập về chế độ mới.  “Chừng 10 ngày thôi…”, họ trấn an chúng tôi như vậy...!”

Chồng tôi đi học tập 9 năm. Tôi đi thăm nuôi được khoảng mươi lần. Mỗi lần đi là tốn khoảng 10 đồng tiền xe, chưa kể tiền mua và chuẩn bị thức ăn cho anh, trong khi lương giáo viên của tôi chỉ có 30 đồng một tháng. Thường là tôi mượn tìền của bà con và đồng nghiệp để đi thăm chồng, sau đó lãnh lương trả lại và xoay tua với nhau vì cũng có nhiều người khác đồng cảnh ngộ như tôi...

Có lần, chồng tôi bị chuyển vào khu vùng sâu vùng xa, mấy ngày mới có chuyến xe. Đi về mất cả tuần lễ mà chỉ được gặp nói chuyện có 15 phút, rồi tôi lủi thủi đi về, có khi phải chờ cả năm mới được gặp lại...!
Đồng lương giáo viên ít ỏi của tôi trở thành nguồn thu nhập chính để nuôi bản thân, hai con nhỏ, bà ngoại già 90 tuổi và nuôi chồng trong trại cải tạo. Tối tối, tôi dắt hai con ra bến xe đò bán vé số kiếm thêm tiền, hơn 10 giờ đêm mới dọn hàng về nhà...

Có lần, tôi đang lui cui dọn hàng thì nghe tiếng: “Thưa Cô...!”. Nhìn lên mới thấy đó là Huy, đứa học trò trong lớp thường hay bị tôi rầy vì lỗi ngủ gật trong lớp và thường xuyên nộp bài trễ. Em cũng đến bến xe hàng đêm để bán vé số kiếm sống phụ gia đình cho nên không có thời gian ngủ và học bài. Ban đầu tôi còn thấy xấu hổ, nhưng sau đó hiểu nhau hơn và hai cô trò cùng ngồi tâm sự và khóc với nhau cả tối...!

Có một lần, tối hôm trước khi đi thăm nuôi chồng, tôi cố gắng chạy ra bến xe bán thêm vài tấm vé số để có thêm tiền lo cho anh. Gần đến lúc dọn hàng đi về thì có một người đến mua vé số. Họ mua đâu khoảng 2 đồng và đưa tờ 10 đồng. Tôi vét hết tiền lẻ trong túi mới đủ tiền thối.  Về đến nhà tôi mới thấy ra là tờ giấy 10 đồng đó là tiền giả...!
Chẳng những người ta đã không trả tiền vé số mà còn gạt lấy hết số tiền thối của tôi, số tiền mồ hôi nước mắt mà tôi đã dành dụm lâu nay để dự định tháng sau đi thăm nuôi chồng!

Tôi đã khóc suốt đêm... Sao cái khổ cực, cái nghèo khó, tôi đã quen... nhưng cái giành giựt, gian trá, lừa đảo lại làm tôi rất đau...! Tại sao họ có thể nhẫn tâm gạt tiền của những người nghèo như tôi...? Rồi ngày mai đây, làm sao tôi có tìền xe đi thăm nuôi chồng...? Nếu không gặp anh lần này, lỡ họ chuyển anh đến chỗ khác thì sao...? Tôi chỉ còn biết khóc và cầu nguyện, cầu xin Ơn Trên cho con tìm ra giải pháp...

Ba giờ sáng, trời vẫn còn tối mịt, tôi đã vội ra bến xe. Khi xe nổ máy sắp lăn bánh thì chạy mua 2 ổ bánh mì không đem theo... Tay tôi run run, ngập ngừng do dự khi đưa em tờ giấy bạc 10 đồng giả mà tôi vừa bị gạt hôm qua. Vì gấp gáp và trời chưa sáng, nên em đã không phát hiện ra tiền giả. Em đã vét hết tiền trong túi để thối lại cho tôi, và vui vẻ đưa tôi hai ổ bánh mì, còn chúc tôi đi đường bình an...!

Lúc đó tôi thấy quá xấu hổ, không dám nhìn thẳng mắt em, mà chỉ lí nhí cảm ơn, trong lòng chỉ biết nói thầm: “Cô xin lỗi em, Cô xin lỗi em..., sau này cô sẽ đền bù lại cho em…!”

Trên suốt quãng đường đi, tôi đã không ngừng cầu nguyện cho em cùng gia đình em được mạnh khỏe, lòng luôn sám hối chuyện xấu mà tôi đã làm... Không những tôi đã không trả tiền bánh mì cho em, mà còn gạt lấy thêm cả số tiền thối của em. Tôi có tiền để được đi thăm, gặp chồng, nhưng em đó phải trả một giá như thế nào đây...? Trong lòng tôi cứ mãi xin lỗi em và cầu xin cho em được bình yên...! Tôi cảm thấy có lỗi với lương tâm của mình vì đã không làm tròn thiên chức và đạo đức của một nhà giáo, một người được xã hội xem là mẫu mực, là thước đo của đạo đức...! Tôi cũng xin lỗi cha mẹ và ngoại tôi vì đã không giữ đúng lời dạy của ông bà: Không được gian tham trộm cắp của ai dù chỉ là một xu, một đồng...!
Sau lần đó, tôi trở lại bến xe tìm em bán bánh mì đó, nhưng giòng đời đã đưa chúng tôi đi hai hướng khác nhau...

Hơn 40 năm đã qua, nhưng tôi vẫn không quên được hành động lừa gạt đó của mình. Nó trở thành bài học thâm thúy, sâu sắc nhất trong cuộc đời tôi, cho tôi thấy rõ một người tốt đôi khi vẫn có thể có hành động xấu vì hoàn cảnh bắt buộc. “Túng thế phải tùng quyền...!” Tôi vẫn nhủ thầm trong lòng khi lúc nào..., chợt nhớ đến ở phương trời xa. Có thể là tôi tự ngụy biện cho chính mình...! Điều này, đã giúp tôi rất nhiều trong việc nuôi dạy con và giáo dục học trò, giúp tôi thông cảm hơn khi học trò ngủ gật trong lớp hoặc không làm bài tập đúng hạn, và cũng giúp tôi tha thứ cho người, cho mình nhiều hơn...!

Sau này về lại Việt Nam thăm gia đình, mỗi lần ra bến xe, tôi đều mua bánh mì hoặc đậu phọng hay một món gì nho nhỏ từ các em, trả thêm tiền dư cho đủ ăn tô phở hay hủ tíu... có thể tạm xem như là đền trả món nợ ân tình năm xưa mà tôi đã làm không đúng khi đi thăm nuôi chồng...!
(Bài: thinh nguyen-Đinh Trực sưu tầm).
 
 
Mình là dân Bắc sống ở Hà nội, nhiều lần vào Sài gòn và mỗi lần lại thấy có một Sài gòn khác.
Năm 1982, mình đi chơi trọn ngày không gặp một "đồng hương" phía Bắc.

Năm 2012 ra phố mua đồ đã gặp chủ hiệu áo quần là người Nghệ an, chủ quán ăn là người Hà nội.
Năm 2016 đi dọc đường Lê Thánh Tôn thấy san sát khách sạn mà chủ là người Hà nam, Hà tĩnh. Các shop thời trang áo quần kính mát là người Thanh hoá, Hải Dương.

Năm 2017 đi Taxi 6 cuốc thì 4 là người Nam định, 1 là người Vĩnh Phúc, chỉ có duy nhất 1 người là Sài gòn - Bình Thạnh.

Người Sài gòn thấy rõ điều đó. Họ đâm ra ghét dân Băc nói chung, bất kể anh là ai, làm gì, tốt hay xấu. (àm sao họ biết anh thế nào bởi để hiểu cần thời gian tiếp xúc lâu dài).

Hôm rồi anh bạn sống lâu năm ở Lý Chính Thắng mời lên tầng 51 toà nhà Bitexco ăn tối, bất chợt cách một bàn có 5-6 khách, nghe họ nói giọng Bắc quá to tiếng, cười rổn rảng, ngồi gác chân gác tay  đầy tự tin cứ như ở một quán bia hơi!  Một nơi như chỗ này rất cần sự nhẹ nhàng để không làm phiền các thực khách khác, nhất là khách nước ngoài.

Thật sự mình thấy xấu hổ với mấy người bạn Sài gòn. Mình phải nói với bạn: Cho tôi xin lỗi.
Cuộc xâm lăng vẫn tiếp tục đẩy người Sài gòn không qua đại dương nhưng đánh bật họ dạt ra các tỉnh vùng ven. 

Mình không trách người Bắc. Đất nước mình cả, đâu ấm no họ đến. Nhưng mình vẫn thấy buồn rầu vì thứ văn hoá phương Bắc mà họ du nhập ấy đang làm Sài gòn trở thành một thành phố mất bản sắc, mất nụ cười, mất sự nhẹ nhàng trong giao tiếp và mất niềm tin giữa người với người.

(Đọc status này, lại có kẻ lên giọng kết tội mình "Chia rẽ vùng miền". Nhưng mình tin số đông có tri thức sẽ hiểu đúng).
 
 
Ảnh: Võ sư Lê Sáng và võ sư Sáng tổ Nguyễn Lộc (phải)
Sau 1975, võ sư chưởng môn đi tù mất 13 năm(1975-1988) và các võ đường Vovinam(Việt võ đạo) năm 1990 mới được phép hoạt động trở lại
Cho đến nay, tôi vẫn không biết lý do ông vào tù nhưng với số năm tù của ông thì có thể đoán ông có một chức vụ cao trong chính quyền Việt Nam Cộng Hoà
Chuyện đi tù cải tạo của võ sư Lê Sáng, chưởng môn Vovinam
Tác giả: Vũ Ánh
Tôi biết Võ sư Lê Sáng Chưởng môn phái Việt Võ Đạo tức Vovinam từ lúc còn mới chập chững bước vào nghiệp báo bổ qua lời giới thiệu của một môn sinh của ông lúc đó mới mang chuẩn Hồng đai Nguyễn Đức Quỳnh Kỳ. Sau đó có một vài lần đến võ đường của Vovinam gần nơi tôi làm việc để xem Quỳnh Kỳ dạy võ cho các môn đệ của anh và đến tổ đường Vovinam ở 31 đường Sư Vạn Hạnh để xem Quỳnh Kỳ học võ với võ sư Chưởng môn Lê Sáng.

Rồi sau đó, miệt mài với nghề nghiệp, với chiến trường nên tôi không còn hình ảnh nào với môn phái này nữa suốt trong thời gian chiến tranh.
Cho mãi đến năm 1976, khi tôi từ biệt giam ở nhà tù Chí Hòa ra ngồi tù ở phòng tập thể số 14 khu ED thì gặp lại võ sư Lê Sáng.

Khoảng thời gian này, buồng giam 14 khu ED là một buồng giam có nhiều điểm đặc biệt về tù nhân. Chẳng hạn như trong số hơn 60 tù nhân, có cựu Thủ Tướng VNCH Phan Huy Quát và con trai là Phan Huy Anh, Phó Đại sứ Nam Hàn tại VNCH (rất tiếc tôi đã quên mất tên vị này), linh mục Trần Hữu Thanh (người cầm đầu phong trào tố cáo tham nhũng), Võ sư Suzuki một người Nhật nhưng quốc tịch Việt Nam chuyên dạy môn karate cho cảnh sát quốc gia và quân đội VNCH, Chủ tịch Dân Xã Đảng Phan Bá Cầm, cụ Nguyễn Phan tổng giám đốc công ty bột giặt NET, Lưu Nhật Thăng, một chủ báo Hoa ngữ ở Chợ Lớn từng là thư ký của Kim Dung, nhà văn chuyên viết tiểu thuyết kiếm hiệp nổi tiếng ở Hong Kong, ông Tám Mộng người được nói là cầm đầu một trong những lực lượng vũ trang của Phật Giáo Hòa Hảo, ông Nguyễn Thế Thông giáo sư Anh văn rất nổi tiếng của Saigon vào thời đó.

Năm 1976, ghẻ bắt đầu hoành hành tại khắp các khu ở nhà tù Chí Hòa và riêng buồng 14 khu ED. Ghẻ kềnh ghẻ càng, ghẻ khủng khiếp. Ghẻ làm da hư hại nặng có thể gây tử vong, và một trong những nạn nhân đầu tiên của dịch ghẻ là cựu Thủ tướng Căm Bốt Sơn Ngọc Thành.

Trong buồng giam chỉ có võ sư Lê Sáng là coi như bị nhẹ nhất chỉ ở kẽ ngón chân và ngón tay. Có lẽ thấy ông còn mạnh và quắc thước nên ghẻ có vẻ kiêng nể ? Vì phòng chật và nóng như lò than nên ban đêm Lưu Nhật Thăng thường dựa vào tường ngủ đứng, còn võ sư Lê Sáng thì ngồi tập và điều tức rất kín đáo tại chiếu nằm của mình. Ông tránh để giám thị canh gác phòng giam nhìn thấy ông tập, bởi vì vào thời đó, nếu bọn coi trại giam biết ai có võ chúng sẽ gây phiền hà vô cùng.
Ông ít nói chuyện, hay ngồi trầm ngâm với chiếc điều cầy. Nhưng với đám tù chính trị còn thanh niên như chúng tôi thì ông không ngại gì khi giảng giải về phái võ mà ông là Chưởng môn.

Võ sư Lê Sáng không bao giờ đề cập đến quyền cước của môn phái mà ông chỉ nhấn mạnh đến tinh thần của nó. Ông nói nhiều đến điều gọi là “cách mạng tâm thân” để giữ vững tinh thần anh em chúng tôi và để hướng về tương lai. Võ sư thường nhấn mạnh : “Ở trong tù, đói khát như thế này thì làm sao gia đình thỏa mãn nhu cầu cho chúng ta được. Phải biết sống về tinh thần. Thực phẩm chỉ là phụ đệm”.

Dĩ nhiên, chúng tôi hiểu rằng nói thì dễ nhưng làm rất khó. Nhưng nhìn dáng dấp ông lúc nào cũng vững chãi, đường bệ, với hàm râu dài, nụ cười rất tươi, đôi mắt sáng quắc, ăn nói không thừa, không thiếu, giọng nói mạnh, sang sảng nhưng ôn tồn, lịch sự ngay cả khi trả lời những câu hỏi rất thiếu giáo dục của bọn cán bộ trại giam, chúng tôi vững tin ở cách rèn luyện tinh thần mà ông thường chỉ dạy cho anh em trẻ chúng tôi.

Võ sư Lê Sáng là người rất uyên bác về thơ đường. Có nhiều buổi tối ông ngâm thơ Đường cho chúng tôi nghe, nhưng anh em thích nhất là khi ông ngâm bài “Hồ Trường”. Nhiều anh em đã không tránh được ngậm ngùi mỗi lần nghe ông ngâm bài thơ này. Ông cũng ít kể chuyện, nhưng khi nghe ông kể chuyện kiếm hiệp của Kim Dung hay kể về bộ Tam Quốc Chí, anh em trong buồng giam theo dõi một cách hào hứng, có thể quên đói và quên hẳn cảnh tù đầy.

Sống trong môi trường bị giam hãm như vậy, mỗi hành động của những tù nhân nổi tiếng trong buồng giam 14 khu ED đều bị chú ý. Chẳng hạn như cứ vào mỗi buổi sáng, vị phó đại sứ Nam Hàn sửa lại bộ quần áo tù cho chỉnh tề rồi ông bước lại chiếu nằm của ông Phan Huy Quát bắt tay vị cựu thủ tướng này, cúi gập đầu xuống để chào và sau đó hai người mới thăm hỏi sức khỏe của nhau. Võ sư Lê Sáng nói với chúng tôi : “May ra mà trong cảnh nhiễu nhương hỗn tạp, giậu đổ bìm leo này, trong buồng giam còn có được những hình ảnh đẹp đẽ của nền văn minh”.

Khi chúng tôi bị chuyển lên trại Hàm Tân Z-30C vào những tháng đầu của năm 1977, đám lính giải giao thường dùng dây xích cứ 5 người một rồi khóa vào chân ghế ngồi trên những chiếc xe đò.

“Xâu” đầu tiên được đưa lên xe gồm những người mà tôi còn nhớ rõ, đó là Võ sư Lê Sáng, ông Phan Bá Cầm, nhà báo Lâm Tường Dũ, Đoàn Bá Phụ (cựu trung úy Nhảy Dù) và tôi. Lên đến trại Hàm Tân, chúng tôi và Võ sư Lê Sáng vẫn được phân phối vào một trại lao động. Sau khi ở Hàm Tân Z-30C được vài tháng thì võ sư Lê Sáng bị dẫn vào nhà kỷ luật và bị cùm lần thứ nhất trong đời tù chỉ vì ông có bộ râu dài.

Viên cán bộ an ninh trại cho gọi thợ hớt tóc (cũng là mấy anh em tù cải tạo) đến. Võ sư Lê Sáng ôn tồn : “Cán bộ muốn cạo thì xin cứ thi hành, nhưng tôi không vi phạm nội qui của trại, cán bộ nên nhớ như thế nhé”. Ông đứng im lặng như một gốc cây, mắt sáng quắc nhìn thẳng vào mặt Tý. Nhưng khi thợ hớt tóc vừa đến gần ông thì Tý gọi giật lại : “Thôi. Cứ để cho anh ấy để râu nhưng đem cùm xem có chịu cạo râu không”. Võ sư Lê Sáng bị cùm hai tuần lễ nhưng kể từ sau đó không ai trong trại giam còn để ý gì đến râu tóc của võ sư Lê Sáng nữa.

Khó khăn thứ hai của Chưởng môn Việt võ đạo là do chính tiếng tăm của ông. Không hiểu nhóm công an vũ trang chuyên canh gác tù ở các bãi lao động bàn tán với nhau như thế nào mà không một tên nào dám đi gần ông. Tại bãi lao động, một tù cải tạo phải đứng cách xa lính canh 5 thước, khi phải báo cáo xin đi tiểu tiện, nhưng riêng võ sư Lê Sáng phải đứng cách vệ binh 10 thước. Biết được điều đó nên võ sư Lê Sáng rất thận trọng trong đi đứng tại bãi lao động để tránh hiểu lầm. Một lần buổi sáng tập họp trước cộng trại giam để xuất trại đi lao động, võ sư Lê Sáng bị kêu ở lại trại để “làm việc”. Buổi trưa khi lao động về, chúng tôi túm lại hỏi ông xem có chuyện gì, nhưng ông chỉ cười và nói : “Chẳng có chuyện gì cả. Vài học trò cũ của tôi từ Bắc vào thăm”.

Sau này, trong những lúc ngồi nói chuyện riêng tư vào những ngày nghỉ lao động, võ sư Lê Sáng cho biết là Hà Nội nghe tiếng ông, muốn vào thăm ông và cho người thử thách, nhưng ông từ chối vì, theo lời ông, “tôi học võ để rèn luyện tinh thần, không phải là để thi đấu, tôi là chưởng môn mà còn đi dương danh là một lỗi lầm với môn phái, tôi không làm điều ấy”.
 
 Chúng tôi ở với nhau ở Hàm Tân Z-30C đến năm 1979 thì bị chuyển trại theo phương án 4 tức được lọc lựa ra và đưa vào danh sách “chết” tức là danh sách không thể cải tạo được, và không bao giờ được xét tha theo quan điểm của trại giam. Thế là đang đêm chúng tôi lại bị gọi tên, bị xiềng đưa lên xe đò và đưa lên A-20 Xuân Phước, tức trại trừng giới.

Tôi đã viết khá nhiều điều về trại này, nên ở đây tôi chỉ nói đến hoàn cảnh của Chưởng môn Việt võ đạo khi bị đưa đến cái trại nổi tiếng khủng khiếp này trong suốt giai đoạn I, từ 1980 cho đến cuối 1988. Đến A-20 được 3 tháng thì Chưởng môn Vovinam Lê Sáng vào cùm ngay. Lần vào cùm này không do bất cứ một lỗi lầm về nội qui của võ sư Lê Sáng mà chỉ vì ông được sự kính nể và quí mến của anh em trong trại từ tập trung cải tạo, tù chính trị có án hay tù hình sự, ở cách ông cư xử và chia sẻ đói khổ với anh em, ở tinh thần vững chãi để đối phó với mọi hoàn cảnh khó khăn cùng quẫn trong tù, ông cũng không hé ra một lời nào có thể xâm hại đến người khác.

Trong bối cảnh này, bọn trại giam nhắm vào việc triệt hạ những thần tượng của tù cải tạo. Cũng chỉ vì thế mà Chưởng môn Việt võ đạo Lê Sáng vào cùm hết một năm. Khi ra khỏi nhà kỷ luật, sức khỏe của cụ có sa sút, nhưng giọng nói vẫn sang sảng và đôi mắt vẫn sáng quắc. Ra khỏi nhà kỷ luật hôm trước thì hôm sau ông đi lao động ngay. Võ sư Lê Sáng nói : “Ra ngoài cho khỏe”. Quả thật sức khỏe của võ sư Chưởng môn Vovinam phục hồi rất nhanh. Ông nói : “Vì khí trời”. Khi võ sư Lê Sáng về tiếp tục sinh hoạt ở đội lao động được vài tuần lễ thì tôi cùng một số bạn khác vào nằm cùm mãi cho đến năm 1985 mới gặp lại võ sư Lê Sáng tại phân trại B của A-20 để chuẩn bị chuyển trại.

Trước Noel 1985, chúng tôi chuyển trại về Z-30A nằm trong phương án đặc biệt mà Hà Nội đã thỏa thuận với Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, đó là thỏa thuận về chương trình HO. Võ sư chưởng môn Việt Võ Đạo Lê Sáng được thả tại Z-30A, trước thời gian tôi cũng như một số anh em khác từng làm tờ Hợp Đoàn, tờ báo chui ở A-20 bị “điệu” về trại Phan Đăng Lưu để chờ ngày ra tòa. Nhưng cuối cùng, vụ án được hủy bỏ và chúng tôi được đưa trở lại Z-30A tiếp tục nằm trong nhà kỷ luật.
Năm 1988, tôi được thả về và ít lâu sau có đến tổ đường của Vovinam trên đường Sư Vạn Hạnh để thăm võ sư Chưởng môn. Lúc này tổ đường Vovinam đã được củng cố. Các môn sinh người ngoại quốc từ Âu châu và các môn sinh Vovinam từ khắp Việt Nam đã lục tục kéo về để ra bái lậy Chưởng môn. Trong câu chuyện thăm hỏi tôi, ông cứ nhắc mãi đến “cách mạng tâm thân” và tính nhân bản của Việt võ đạo.

Bây giờ, cụ Lê Sáng đã ra người thiên cổ. Cụ thọ 91 tuổi. Trong bức hình chụp Võ sư Lê Sáng mà các bạn ở Việt Nam gởi cho, tôi thấy đôi mắt võ sư Chưởng môn Việt võ đạo vẫn sáng quắc như ngày nào.

Tôi viết những kỷ niệm trên với Võ sư Chưởng môn Việt võ đạo trong thời tù để gọi là đại diện cho một số anh em cựu tù của trại Hàm Tân Z-30C, A-20 và Z-30A bái vọng cố quốc để tiễn đưa cố võ sư Chưởng môn. Bởi trong những đêm tối ấy, ông vẫn như ngọn đèn sáng dẫn dắt tinh thần anh em chúng tôi. Cố võ sư Chưởng môn là một người cả đời hy sinh cho Việt võ đạo và đây cũng là lý do ông cụ không bao giờ lập gia đình.

Tuy nhiên, cụ có rất nhiều đứa con tinh thần vì trong tù chúng tôi đều gọi Võ sư Chưởng môn Vovinam là bố, “Bố Lê Sáng”. Vả lại ngày nay, trên khắp thế giới, hàng chục ngàn môn sinh Vovinam cũng đang thổn thức vì những mất mát không có gì bù đắp được cho môn phái vì sự khuất bóng của Võ sư Chưởng môn.
Ảnh: Võ sư Lê Sáng và võ sư Sáng tổ Nguyễn Lộc (phải). Ảnh tư liệu
 
 
29. CHÚ XE ÔM:
Chú xe ôm dừng xe trước cổng cho cô sinh viên xuống. Bất ngờ cô đưa chú gói quà và nói:
- Chú về nhà rồi mở ra xem nhé.

Bắt đầu ngày mai cháu không đi học nữa, hôm nay cháu đã tốt nghiệp rồi. Cám ơn chú nhiều.
Chú xe ôm về nhà, cất xe, vào phòng mở gói quà ra, ngoài bộ quần áo còn có cả số tiền rất lớn, và một bức thư như sau:
''Thưa thầy, em là Hà Thúc Thu Trà học toán với thầy năm lớp sáu ở trường Ngô Quyền.

Lên lớp chín thì em nghe tin thầy bị buộc nghĩ dạy vì nghe đâu Thầy là giáo viên lưu dụng có thời gian là lính ngụy. Thầy biệt phái về dạy ở trường từ năm 1974.

Từ đó thầy đi lái xe ôm kiếm sống, lúc nào cũng đeo khẩu trang kín mít để đừng có học trò nào nhận ra. Nhưng em đã nhận ra thầy khi thầy ngồi đón khách ở ngã tư Vườn Mít.

Từ đó, em không tự đạp xe đi học nữa mà đặt mối thầy chở em đi học suốt hết lớp chín, hết phổ thông, và lên đại học.

Sáng nào đi học em cũng lấy theo 3 phần ăn, một cho em đến lớp ngồi ăn, hai biếu thầy một phần, và ba là biếu bà bán vé số nghèo ở góc đường Nguyễn Tri Phương. Ngày nào em cũng mua cho bà mấy tờ vé số, rất mong trúng số, nhưng chẳng hy vọng lắm.
Bố mẹ em hay thắc mắc về hành vi của em, nhưng vì cưng em nên bố mẹ cũng chìu ý em (em là con một đó Thầy)

Em phát hiện thầy rất yêu nghề dạy học. Dù không đến lớp nữa, nhưng thầy đã lập một trang web dạy kèm cho tất cả ai bị yếu toán.

Thầy đã dạy dỗ tận tình, giúp nhiều bạn lấy lại căn bản toán bị mất, để các bạn có nền tảng học tiếp. Thầy cứ tập trung hướng dẫn biết bao học sinh trung học cơ sở trở nên vững về toán.

Thì ra ban ngày thầy chạy xe ôm, ban đêm thầy lên internet để dạy học miễn phí. Em nhận ra thầy vì cái cách nói quen thuộc của thầy vào cuối các buổi học là “các em gắng học để sau này phụng sự cho đời”.
Bây giờ lên mạng thầy vẫn nói câu đó. Trong cuộc đời thực, thầy là chú xe ôm đen đúa vất vả, nhưng trên mạng thầy vẫn còn uy phong của một thầy giáo tận tụy hiền lành và nhân hậu.

Hình như trời không phụ lòng người, thầy không biết là em mua mãi rồi cũng trúng số độc đắc, lúc đó em đang học năm thứ ba. Em lĩnh tiền rồi đưa hết vào gửi tiết kiệm ở ngân hàng. Em kiên nhẫn chờ đến hôm nay.

Hôm nay em đã tốt nghiệp nên sẽ không còn đi xe ôm nữa mà sẽ tự lái xe máy đi làm. Em kính biếu thầy một phần số tiền trúng số độc đắc của em như chút lòng tri ân của người học trò ngày xưa, mà sự thành công của em hôm nay đã có không ít ơn thầy trong đó.''
“Nhất tự vi sư – Bán tự vi sư.”

Mai này dù có đi xa, không còn hằng ngày ngồi trên xe của thầy nhưng em vẫn luôn nhớ về “chú xe ôm” thân thể gầy gò có trái tim tình người quý báu, và dưới mái tóc đã bạc ấy là một tâm hồn cao cả."
Kính chúc Thầy luôn mạnh khỏe và mãi mãi là người Thầy nhân hậu của những học sinh khốn khó.
AK.

 
28. NGƯỜI VỀ TỪ CUỘC CHIẾN
Nguyễn Thái Việt
Bốn mươi sáu năm nhìn lại một chặng đường
Sau cuộc chiến chúng tôi người ở lại
Trên quê hương tay, cuốc lẫn tay cày
Mùa THU về ngày tháng lạnh lùng xoay
Cuộc sống đó theo lá vàng tơi tả
Áo vẫn rách chất chồng thêm miếng vá
Quần vẫn bươm kim chỉ mỏi tay người
Quanh bốn mùa Ngô, Sắn bụng đầy vơi
Thoi thóp đứng ôm linh hồn Tổ quốc
Dòng đời đó cuốn chúng tôi xuôi ngược
Hết năm năm rồi trở lại năm năm
Mảnh Tự do vá víu chỗ ai nằm
Khoảng hạnh phúc chắt chiu đời chẳng đủ
 
Sau cuộc chiến chúng tôi như thác lũ
Bỏ Miền xuôi về Núi định cư đời
Thế hệ cuồng quá khứ lỏng tay rơi
Ba nhát cuốc chôn đi thời hiển đạt
Vai gồng gánh những giáo điều to tác
Người ra đi còn giữ chút màu son
Từng bạn đường chưa đến đỉnh Vinh quang
Lần lượt Chết mắt trừng theo No Ấm
Thiên đường đến ngút ngàn xa xa thẳm
Cạn Áo Cơm ai đứng ngẩn ngơ buồn
Bóng ngã Chiều vạch lối rẽ qua truông
Rừng Chật quá đời ơi! Chim tắt tiếng
Đêm giục giã Hồn rung theo tiếng kiểng
Ngày chát tai quanh tiếng gọi Anh hùng
Đánh dấu một thời con cháu LẠC LONG QUÂN
Đi tìm Mẹ giữa rừng CHÂN LÝ ĐÓ
NGUYỄN THÁI VIỆT KBC4906
Bình Long,An Lộc 1986

"Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời...", hàng ngàn tù nhân, SQ QLVNCH, đã hát vang bài Thánh Ca trong Đêm Giáng Sinh 1978.
Tôi ở K3  B3 có hai người bị thương nhẹ,một là Anh Mùi ,Trưởng B3 và một người nữa.Anh Trần đình Ngọc thuộc Đại đội 82 từ KQ sang ,tôi đi Delo năm 72 tái chiếm QT,người chiếm căn cứ Barbara
(fb An Nguyen) 
==========
Có nhiều người vẫn cho rằng, thời gian và sự thay đổi hoàn cảnh cuộc sống sẽ là phương thuốc tiên tạo cho người ta quên đi quá khứ hoặc giả một biến cố nào đó đã đến với chính bản thân mình, nhưng đối với cá nhân tôi, thì đã 30 năm trôi qua, một chặng đường khá dài đối với đời người và nhất là hiện tại, đang sinh sống có thể gọi là tạm ổn định ở vùng đất Hứa, một đất nước được xem là xứ sở hàng đầu của tự do dân chủ nhất thế gới, thì cá nhân tôi, những gì xảy ra trong Đêm mừng Chúa Giáng sinh, cách đây tròn 30 năm vẫn là một dấu ấn không bao giờ phai nhạt.

Tháng 7 năm 1978, tôi bị chuyển về trại tù Suối máu, Biên Hòa, nơi đây trước 1975 từng là trại giam tù binh cộng sản, còn gọi là trại tù Tân-hiệp, trại có tất cả 5 phân trại, còn dược gọi là "K". Vào tháng 12 năm 1978, bộ đội gia cho Công-an quản lý trại giam, trong khi bên ngoài bộ đội CS đang chuẩn bị tấn công cướp đất ở Cam Bốt thì trong trại tù, những tin tức sốt dẻo từ bên ngoài chuyển vào trại khiến anh em lên tinh thần và cũng nhiều giao động. Để đáp ứng với những chuyện có thể xảy ra, anh em tù nhân đã âm thầm thành lập Ban hành động để chuẩn bị đối phó với mọi tình huống.

Lúc này tôi đang ở K.1, tôi còn nhớ ban hành động của K1 có anh Trần đình Ngọc, anh Nguyễn ngọc Tiên, anh Lê ngọc Diệp, và một số anh em nữa mà tôi không nhớ tên. Nhờ có tổ chức này mà một số thành phần phản bội, đã bị anh em lột mặt nạ, một số bị trừng phạt. Trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ muốn viết về biến cố Đêm Giáng Sinh, một biến cố mà cho đến nay, tôi chắc rằng tất cả các anh em có mặt đêm đó đều không thể quên và thật hãnh diện vì đã làm được.

Riêng tôi, vẫn cảm thấy hãnh diện vì đã góp được phần mình vào việc tổ chức đêm đó.

Để chuẩn bị tổ chức đêm Giáng Sinh, cá nhân tôi được ban hành động giao trách nhiệm chuẩn bị thực hiện Bàn thờ và hang đá Chúa Hài Đồng. Tôi xử dụng hai tấm đắp của trại phát, may lại để hình thành một tấm phông vuông vắn và cắt chữ " VINH DANH CHÚA CẢ TRÊN TRỜI" dán lên trên phông. Để làm tượng Chúa Hài Đồng tôi cùng hai bạn tù là Điệp và Giờ, lấy đất sét và bùn chung quanh trại, lọc ra để lấy dất dẻo làm tượng. chúng tôi đã làm việc mất một tuần lễ, vì ban ngày phải đi làm, đến tối về mới có thì giờ làm, trong khi làm vẫn phải nhờ anh em khác canh chừng bọn Công-an kiểm soát.

Thoạt đầu ban Hành động đặt ra với chúng tôi, những người thực hiện hang đá Giáng sinh là phải nghiên cứu để tạo dựng một bàn Thờ và hang đá thật dã chiến, nghĩa là có thể tháo gỡ thật nhanh trong trường hợp báo động có tụi Công-an vào. Tuy nhiên sau đó ban Hành-động đã thay đổi ý định và cho làm cố định, bất chấp sự có mặt của tụi Công-an sau đó. Lúc đó tôi không rõ lý do tại sao ban Hành-động lại thay đổi ý định như vậy, tôi đã nghĩ rằng chắc anh em muốn làm làm một hành động như một thách thức, hay ít ra cũng nhắn một thông điệp cho bọn cai tù rằng: chúng tôi sãn sàng đối đầu, chúng tôi không chịu khuất phục... và lúc đó chúng tôi đã thi hành, không thắc mắc. Mấy anh em phụ làm lúc đó đã hào hứng la lên: "Tới luôn, tới luôn bác tài.."

Vào buổi tối 24 tháng 12, khi chương trình Mừng Giáng -sinh bắt đầu lúc 9 giờ. Thánh lễ mặc dầu không có Linh-mục chủ tế như thường lệ, nhưng có Linh-mục Thông, nguyên là Cha phó sở nhà Thờ Đức Bà Sai gòn, cũng đang bị giam bên K.3, Ngài đứng bên kia hàng rào thông công với anh em K.1. buổi lễ thật sốt sắng, trang nghiêm, và cảm động vì đã lâu anh em không được tham dự thánh lễ và hát nhạc Giáng- sinh một cách thoải mái như vậy.

Khi thánh lễ gần xong, thì anh em bên ngoài chạy vào thông báo, có Công-an bên ngoài vô. Anh em vẫn bình tĩnh tiếp tục Thánh-Lễ. Ba bốn tên công-an vác súng đị vô, nhưng có lẽ chúng thấy anh em dự Thánh Lễ quá đông, nên chúng đã quay trở ra và không nói gì.
Khoảng 5 phút sau, chúng lại kéo vô, lần này chúng vô đông hơn khoảng 7 hay 8 tên, có cả tên thủ trưởng của chúng. Tên thủ trưởng đến tận bàn Thờ và hỏi: " Ai là người tổ chức?" nhưng tất cả anh em không ai lên tiếng. Sau nhiều lần hống hách quát hỏi, nhưng không ai trả lời, tên Thủ trưởng ra lệnh đám thủ hạ đi theo bắt 3 anh em đang ngồi ở hàng ghế trên cùng, sát với bàn Thờ. ba anh em đó là : anh Hoàng, anh Rĩnh và anh Bé.

Chúng đưa ba anh ra ngoài trại. Tất cả anh em lúc ấy không ai bảo ai, dồng loạt đi theo và ra dến tận cửa sân trước của K.1, tập họp ngay trước cổng ra vào của tại, đòi thả ba người vừa mới bị bắt dẫn đi, song song đó, qua các hàng rào, chúng tôi đã thông báo sự việc ở K.1 cho các bạn đồng tù K.2 và nhờ K.2 thông báo đi các K. khác, để yêu cầu các anh em ở K. khác đồng loạt ra khỏi phòng, tập trung ở sân chính của mỗi K. và đồng thanh hát liên tục bài hát Đêm-đông.
 
Tôi cũng muốn nói thêm về Tượng Chúa Hài-Đồng. Sau khi đám công an trước quay trở ra. có lẽ nhận ra sự nguy hiểm xảy ra nếu bọn Công-an quay trở lại, và xúc phạm đến tượng Chúa, khiến có thể phải đổ máu, nên anh Điệp đã mau mắn đem tượng Chúa cất đi.
Tôi không ngờ anh Điệp lại đem tượng Chúa đến chỗ tôi nằm, lấy chăn mùng của tôi quấn lại để đó rồi ra sân trước tập họp với anh em. khi tôi trở về chỗ mình, thấy vậy tôi vội ôm tượng chúa ra sau nhà, bẻ ra thành từng mảnh nhỏ và đào lỗ chôn xuống đất (tượng Chúa bằng đất còn ướt nên dễ dàng bẻ ra mảnh nhỏ). Sau đó tôi và Diệp dẹp và cất các vật liệu làm bàn thờ để phi tang các dấu vết.

Trong khi đó anh em toàn trại gồm 5 K đều đã tập họp ở sân chính của mỗi trại, tiếp tục ca hát, yêu cầu thả 3 người bị bắt.

Phía bên ngoài các trại đã bắt dầu thấy xuất hiện của một số M 113 có gắn súng đại liên và đông đảo Bộ đội cộng-sản xuất hiện, súng trực diện vào trong các phân trại, như đang chuẩn bị "công đồn đả viện".
Sau này chúng tôi được biết, khi thấy toàn thể trại giam, anh em tù nhân tập họp ngoài sân chính để ca hát, đòi thả tự do cho những người bị bắt, ban Giám thị trại dã kêu cầu cứu Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Biên-Hòa tăng phái các đơn vị Bộ -đội và lực lượng cơ giới đến để tiếp sức dập tắt cuộc nổi dậy.

Riêng phân trại K.1 không có việc nổ súng, nhưng ở những phân trại có tiếng súng nổ là để thị uy.
Khoảng 1 giờ sau, tên thủ trưởng K1 đứng bên ngoài vòng rào, ngay cửa chính yêu cầu anh em cử đại diện ra để thương thảo. Phía bên trong, các thành viên ban hành động, đứng trong bóng tối nói vọng ra là "anh em chỉ giải tán khi trại thả ba người mới bị bắt giữ (một số anh em đã lớn tiếng la lên" Không ngu, không ngu"), đôi bên đôi co qua lại khá lâu, một đằng Cán bộ trại đòi anh em giải tán họ mới thả người mới bị bắt. Trong khi đó ngược lại, ban Hành động ở trong bóng tối thì đòi trại thả người trước, anh em giải tán sau, chứ không chịu giải tán với lời hứa khơi khơi, không có hạn định bao giờ sẽ thả các người bị bắt giữ.
Việc giằng co kéo dài cả tiếng, cuối cùng trại đề nghị là anh em vô nhà lán hết, ba phút sau trại sẽ thả 3 người bị bắt giữ. Kết quả cán bộ trại chịu thua, sau khi tất cả anh em người nào ở nhà nào về nhà đó, đúng 3 phút sau thì 3 anh Hoàng, Ring và Bé dược thả vào trại.

Nguyên cả tuần lễ sau, kéo dài qua tết Dương lịch, tình hình toàn bộ các trại yên tĩnh, tuy Bộ đội và cơ giới tăng cường vẫn còn duy trì. sự yên tịnh kéo dài cả hai tuần lễ sau, và Cộng- sản bắt đầu việc thanh trừng, cán bộ đọc danh sách một số anh em gọi là " Cải tạo tốt" được cho về với gia đình, rồi dụ dỗ những người này khai báo. Chiến dịch gọi tên cho về để dụ dỗ kéo dài cho đến hết năm sau. Nhưng thực tế, lúc bấy giờ cũng không ai biết được những người được gọi tên "có thực sự được thả tự do hay không" hay là được chuyển sang một trại khác, sau khi bị Cán- bộ dụ dỗ khai báo về việc tổ chức nổi dậy đêm Giáng-Sinh.
Sau mỗi đợt gọi là "Sổ xố" này, là có một số anh em bị biệt giam kỷ luật, rồi sau đó những người được gọi này, kẻ thì được chuyển về khám Chí-hòa, người bị đưa đi trại Hàm-Tân, hoặc Xuân-Phước ở Phú Yên.
Về sau, khi tên Đào-Lượng, trưởng trại Suối-Máu và khu E Chí -Hòa, được anh em đặt tên cho là "Bò Rô-ti" bị kết tội hủ hóa, lột lon giam chung với một số anh em ở Tống Lê Chân cho biết, dù ban giám thị trại giấu nhẹm việc nổi dậy ở trại Suối Máu, tuy nhiên Trung ương và Bộ Chính-trị ĐảngCSVN cũng biết được. Bộ nội vụ đã tổ chức cuộc thanh tra tại Suối máu. tất cả diễn biến liên quan dến việc nổi dậy được thu thập soạn thành tài liệu để cho các cán bộ trại thuộc cục quản lý Trại-giam của Bộ Nội-vụ học tập" rút tỉa kinh-nghiệm".

Cũng xuất phát từ cuộc nổi dậy của anh em tù nhân trại Suối-Máu , CSVN đề ra những biện pháp mới để bảo đảm an ninh vào những ngày lễ quan trọng củaVNCH qui định trước đây, đặc biệt là ngày Lễ Giáng Sinh.

Hồi tưởng lại cuộc nổi dậy ở trại Suối Máu 30 năm trước đây, của anh em tù nhân, vốn hầu hết là những sĩ-Quan trong QLVNCH. đã thực sự làm rúng động bộ chính trị và những cơ quan đầu não của của những người cai trị, trong lịch sử hình thành chế độ Cộng-Sản, từ trước chưa hề có một nhà tù nào do Cộng sản quản lý mà lại xảy ra một cuộc nổi dậy, như đã xảy ra tại trại Suối Máu, chỉ trong vòng một vài tiếng, đồng loạt hơn 5 ngàn tù nhân của 5 phân trại cùng nhau bày tỏ thái độ, khiến không những ban Giám thị hoảng sợ, mà ngay cả Tỉnh ủy Biên-Hòa cũng hoảng hốt, phải tăng cường cả M.113 và cả Sư đoàn súng ống để phong tỏa" nội bất xuất ngoại bất nhập" toàn bộ trại tù Suối Máu.

Giờ đây sau 30 tháng tư 1975, bên cạnh những thương đau tủi nhục của hàng triệu Quân, Dân, Cán chính VNCH trong chốn lao tù khổ sai của CSVN thì cuộc nổi dậy của tù nhân Suối-Máu vào Giáng-Sinh 1978 là một Trang Vàng, một vòng Nguyệt- quế đã thể hiện và nêu cao sự hào hùng, bất khuất của người chiến sĩ VNCH vẫn hiên ngang không hề khiếp sợ.
30 Năm hay nhiều hơn nữa thì mỗi năm, vào mùa Lễ Giáng Sinh, dù ở bất cứ phương trời nào thì người Cựu tù Suối-Máu vẫn không sao phai mờ được ấn tượng của mùa Giáng Sinh 1978./.
==========
Trong hình: cựu tù Suối Máu họp mặt.

 
 
1. ANH XE ĐẠP THỒ - Huong Nguyen
Nguyễn Thành Hướng
Cựu SVSQ/TVBQGVN/K28
 
Xin được giới thiệu một "KÝ SỰ
" đầy Hoài niệm, viết bởi người Thầy của tôi: thầy Lê Thúc Thái, giáo sư môn Vật Lý Cơ Bản, tại Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, Đà Lạt - từ năm 1970 - 1975 - thầy Thái hiện sống ở Huế.
 
Đó là một hình ảnh hết sức quen thuộc mà chúng ta thường nhìn thấy trên vạn nẻo đường đô thị Miền Nam sau năm 1975, nhất là những năm đầu thập niên 80 đầy đói khổ. Xuôi ngược, ngang dọc trên các con đường phố thị đó dưới bầu trời bốn mùa thời tiết đầy khắc nghiệt, năm này qua năm khác là những tấm thân khô gầy đen đủi được khoát những manh áo phai màu bởi nắng gió, mưa mùa. 
 
Họ hầu hết là những người trở về sau nhiều năm từ các “trại tù cải tạo” của bên chiến thắng, có thể gần chín mươi phần trăm những người đạp xe thồ là những Sĩ Quan , binh lính, giáo chức của chế độ Miền Nam cũ phải chấp nhận bước và giai tầng thấp nhất của xã hội thời bấy giờ. Đồng thời - đồng thời - chế độ Miền Bắc đã khống chế lên đầu lên cổ hằng triệu người dân Miền Nam dưới những “đợt cuồng phong“ cải tạo công thương nghiệp để trắng trợn cướp nhà cướp của, cướp vàng và mọi tài sản vào tay giới cán bộ từ ở cấp thấp cho đến cấp cao của chế độ. Lúc trở lại Saigon giữa năm 1980, tôi đã thuê phần trước một căn nhà để mở phòng vẽ chân dung và thuê một nơi gần đó để ở hai nơi này đều sát gần chợ Nguyễn Tri Phương thuộc Quận 10, chủ cũ của cả hai căn nhà này đều bị “gió táp“ trong các đợt cuồng phong đầy khốc liệt đó và bây giờ chủ cuar tôi, chủ của các căn nhà đó chỉ là cán bộ cấp thấp của Quận 10 !!!
 
Kể như thế để nói lên một thời điêu linh khốn cùng cho người dân Miền Nam ! Vô vàn những hình ảnh đau thương đè lên dân Miền Nam thời đó, thống khổ vạn kiếp người, thống khổ một thời đại. 
 
Nhưng, nổi bật nhất chính là những tinh hoa của Quân Lực Việt Nam Cọng Hoà, những Sĩ Quan, những người từng là những anh hùng ngoài mặt trận đã gìn giữ bình yên cho miền Nam suốt 20 năm - được trở về từ “ngục tù cải tạo“ trên khắp mọi miền đất nước, giờ đây hầu hết họ là những anh chạy xe đạp thồ đứng đợi khách trước các cổng chợ và mọi nơi, mọi nẻo đường, những hình ảnh hết sức quen thuộc chúng ta thường gặp hằng ngày. Thầy Lê Thúc Thái cũng chính là thành phần cựu tù nhân cải tạo, làm sao thoát khỏi cảnh cơ cực đó, chẳng lời oán trách ai, đành chấp nhận số phận như bao kiếp “tù cải tao” khác, thầy đã viết như “kể lại“ phần đời của thầy qua một lối hành văn trôi chảy, “bình yên” nhưng cuốn hút dễ đọc trong bài bút ký đầy những hình ảnh quen thuộc của dân Huế và của chúng tôi, những người tù cải tạo trở về nhà, xin đọc để nhớ một chặng đời cơ cực mới gần đây thôi của đất nước mình.


*****************************

2. KÝ SỰ XE THỒ - Thuc Thai Le
Khoảng năm 1980, tỉnh Bình Trị Thiên có lệnh cấm dân thường đi xe máy, chỉ có cán bộ nhà nước được đi. Tương tự như chính sách đưa dân đi kinh tế mới, đã giúp cán bộ, bộ đội ngoài Bắc vào, mua nhà đất với giá rẻ mạt, rẻ như cho, hay rẻ như ăn cướp. Cho nên, hồi đó có những ông bà già phản kháng thụ động bằng cách đi bán rong hai món vật dụng đũa tre và quạt giấy, ngày nào tôi cũng nghe rao: “Đũa quạt không, ai đũa quạt không…”. Xin mở ngoặc để chú thích cho những ai không quen với ngôn ngữ xứ Huế: “đũa quạt” nói lái là “đoạt của” nghĩa là cướp đoạt tài sản. Lệnh cấm dân thường đi xe máy cũng giúp cán bộ mua sắm xe máy dễ dàng hay đổi xe đạp lấy xe máy.
 
Anh bạn hàng xóm của tôi, trước kia là giáo viên, có được chiếc Honda 67, nhờ cẩn thận gởi lại xe ở quê trước khi nhanh chân chạy vào Sài gòn, nhưng “chạy trời không khỏi nắng”, Sài gòn cũng thất thủ, sau 30 tháng tư cón nấn ná ở chơi, không lo về sớm, nên khi trở lại Huế, chiếc xe thì còn, chỗ dạy thì mất, anh phải đi xe thồ kiếm ăn. Bây giờ, có lệnh cấm, không đi thồ được, xe để nằm nhà lâu ngày dễ hư, nên khi nghe người anh chú bác ngoài Bắc vào, gạ đổi chiếc Honda 67 lấy chiếc xe đạp Phượng hoàng TQ có tuổi đời như xe máy, anh bạn tôi suy nghĩ mấy ngày, hỏi ý kiến vợ, cuối cùng đồng ý đổi, và ngày hôm sau anh hành nghề xe đạp thồ. 
 
Mới đầu, thiên hạ thấy hơi lạ, chưa mấy ai đi, nhưng Honda thồ không có, xe Lam thì phải chờ lâu mới có một chuyến, mà không phải tuyến đường nào cũng có, giá xe đạp thồ lại rẻ, chỉ bằng nửa giá Honda, xích lô, nên dần dần xe đạp thồ phát triển nhanh trở thành phương tiện giao thông phổ biến, khách đi xe cũng nhiều mà người hành nghề cũng đông vì xe đạp nhà nào cũng có.
 
Nhân sự đạp xe thồ hầu hết là những người “thất cơ lỡ vận”, không vốn liếng, không nghề chuyên môn như những người học tập cải tạo trở về, những giáo viên “mất dạy”, lớp trẻ rất ít. Ngoài ra, những công nhân viên lương thấp, không có bỗng lộc, sau giờ bãi việc chiều, cũng tham gia để kiếm thêm thu nhập, sống qua ngày.
 
Nhận thấy anh bạn hàng xóm sống được với nghề xe đạp thồ, tôi cũng thôi phụ thợ nề ở hợp tác xã xây dựng, sửa sang lại chiếc xe đạp để theo chân anh ấy. Cảm nhận đầu tiên của tôi là đạp xe thồ không vất vả, cực nhọc như phụ thợ nề nhưng quá bi thảm vì phải đứng đầu đường, góc chợ, chường mặt ra nơi chốn đông người, thấy ai phải đon đả mời, tranh nhau mời, không mời thì ế khách, không đủ tiền mua gạo, đi chợ. Anh em thường cay đắng bảo nhau là nghề “dân biểu”, ai biểu (sai bảo) đi đâu thì chở đi đó. Một hôm, tôi đang đứng chờ khách, trước cửa chợ Đông Ba, thì găp người quen, bác ôm chầm lấy tôi và khóc, tôi chảy nước mắt và lúng túng không biết phải làm gì, rồi bác bảo tôi chở về, sau khi mời vào nhà uống nước, hỏi han mọi điều, bác lấy hai đồng bạc nhét vào túi tôi, tôi xin nhận 5 hào, đúng giá cuốc xe, vì nhà bác còn nghèo hơn nhà tôi, nhưng bác nhất quyết không chiụ vì bác biết tôi từ nhỏ, con một, nhà khá giả, chỉ biết đi học, rồi ra làm thầy giáo, không biết lao đông chân tay là gì, nay giữa trưa nắng gắt phải đạp xe thồ vất vả, dưới mắt bác vô cùng tội nghiêp, thảm thương, cuối cùng, tôi phải nhận một đồng, bác mới để tôi đi. Tình cảm sâu đậm này tôi vẫn nhớ mãi như là một kỷ niệm đẹp, ấm áp tình người, thời buổi cơm độn khoai sắn, bo bo.
 
Rong ruổi trên mọi nẻo đường xứ Huế, tôi gặp rất nhiều “đồng nghiệp bất đắc dĩ”: các thầy giáo dạy tôi thời trung học, các bạn cùng học ỏ đại hoc, các bạn dạy cùng trường, và cả lứa học trò của tôi, tất cả đều kinh qua mấy năm học tập cải tạo trở về nên phải đạp xe thồ.
 
Suốt ngày lông bông ngoài đường, bạn bè dễ gặp nhau, có tin tức gì mới đều truyền cho nhau rất nhanh. Ngày đầu tiên báo đăng về chương trinh H.O. là ngày phấn khởi nhất của anh em xe thồ ở Huế, anh em tụm năm, tụm ba, đọc đi, đọc lai các mẫu tin trên các báo, bàn tán xôn xao, người tin tưởng, kẻ nghi ngờ. Kinh nghiệm xương máu sau 30 – 4 - 75 còn đó: “cấp tá trình diện học tâp 10 ngày, cấp úy 7 ngày”. Người đa nghi bảo rằng: nhà nước cho đăng tin như vậy để thử xem ai còn “trông chờ, vọng tưởng Mỹ” thi bắt đi cải tạo lại. Nhưng giới xe thồ, sau 15 năm dưới chế độ mới chỉ còn “thượng xỉ, hạ đạn” (trên răng, dưới dế) chẳng còn gì để mất, vượt biên thì không có vàng, cơ hội ngàn năm một thuở đã tới, cho nên ngày phòng xuất nhập cảnh công an Bình Trị Thiên bắt đầu bán đơn làm hồ sơ H.O. thì từ ba, bốn giờ sáng, anh em đã có mặt, xếp hàng đông cả trăm người, nhìn mặt nhau cũng chẳng xa lạ gì, cùng cảnh ngộ cả, nên xếp hàng rất trật tự, chẳng ai dám chen lấn xô đẩy, khác hẳn cảnh xếp hàng mua vé xe, vé tàu thường thấy.
 
Trong cả nước, Đồng Nai và Bình Trị Thiên là 2 tỉnh xúc tiến làm hồ sơ H.O. sớm nhất. Lẽ ra, có nhiều người xe thồ ở Huế phải được xếp vào danh sách HO1, HO2 … Nhưng ngành công an lại nghĩ ra cách làm tiền béo bở: mở dịch vụ làm hồ sơ HO. Những người chậm chân có của, vội bỏ ra năm ba chỉ vàng làm dịch vụ để hồ sơ được ký và chuyển ra Bộ Nội vụ nhanh hơn. Thậm chí, những người giàu có còn bỏ cả chục cây vàng, ra thẳng Hà nội chạy chọt “siêu dịch vụ” để được đi trước. Xem ra còn rẻ và an toàn hơn đóng tàu vượt biên nhiều.
 
Chậm, rồi cũng đến, một số đông anh em xe thồ lần lượt ra đi đến miền đất hứa cùng với gia đình vợ con. Cũng có những người kém may mắn bị từ chối vì cải tạo chưa tròn 3 năm hay vài lý do khác. Tôi có người bạn, anh L., chung trại cải tạo với tôi ở Trảng Lớn, Tây Ninh, được gọi phỏng vấn khá sớm, HO7, anh bán xe, bán căn nhà nhỏ, hy vọng “một đi không trở lại” , nhưng bị từ chối vì chưa đủ 36 tháng. Quá bức xúc, anh phản ứng quyết liệt: “Được các ông gọi, tôi phải bán cả nhà, cả phương tiện làm ăn, mới đủ tiền đưa vợ con đi Sài gòn phỏng vấn với niềm tin sẽ được tái định cư ở Mỹ, nay các ông không cho gia đình tôi đi, cũng như các ông đã giết gia đình tôi, vì tôi không còn nhà ở, không còn phương tiện làm ăn”. Cuối cùng quyết định vẵn không thay đổi, anh L. không về Huế nữa, bám trụ lai Sài gòn làm nghề bán báo. Từ đó, tôi hết nóng lòng trông chờ giấy gọi phỏng vấn vì biết trước kết quả thế nào cũng giống anh L.
 
Một anh bạn khác, anh Tâm, cựu đại úy bộ binh, cải tạo trên 5 năm cũng bị từ chối, người Mỹ hỏi đến giấy tờ quân đội cấp, hình ảnh mặc quân phục chứng minh anh là Sĩ quan, anh không có gì cả, lúc anh đi cải tạo, chị vợ ở nhà sợ quá, đã đốt hết. Anh lại đạp xe thồ và lo thủ tục khiếu nại. Ngày đi tái phỏng vấn, gặp tôi anh chỉ vẫy tay chào,nét mặt căng thẳng, lo lắng, chị vợ phấn khởi: “Anh ở lại mạnh giỏi”, tôi chúc anh chị gặp may mắn. Nhưng anh không có số đi Mỹ, nên anh lại thất vọng trở về. 
 
Chương trình HO, như chiếc đũa thần kỳ đã giúp rất nhiều gia đinh cựu SQ đạp xe thồ đổi đời nơi xứ lạ quê người, một số chuyển sang thồ Honda hay ngành nghề khác, số còn lại bỏ nghề vì lý do sức khỏe hoặc con cái đã trưởng thành, sắp dựng vợ gả chồng hay có công ăn việc làm, không nở để cha phải gò lưng trên chiếc xe đạp. Tôi cũng trở lại với nghiệp gõ đầu trẻ tại nhà. Riêng anh Tâm, người cải tạo hơn 5 năm, qua hai lần phỏng vấn thất bại, năm 2006, chương trình HO mở lai, đổi tên thành HR, anh kiên nhẫn khiếu nại lần thứ ba, nhưng kết quả chỉ nhận đươc thư trả lời “chúng tôi rất tiếc …”, nên đến hôm nay anh vẫn miệt mài với chiếc xe đạp thồ, hằng ngày có mặt trước cổng chợ Đông Ba, nhưng không còn chở khách, vì thời nay ai thèm ngồi sau xe đạp mà chở. Anh đứng đó, bên cạnh chiếc xe, công việc của anh bây giờ là thồ những lẳng hoa, lẵng trái cây chuyển đến các đám cưới, đám tang … và những giỏ thức ăn chay cho khách. Ở Huế, cúng giỗ thường làm chay, gia chủ bận nhiều việc, nên gọi điện thoại đặt hàng, các sạp bán đồ chay trong chợ, khi hàng nhiều thì người ta gọi Honda, hàng ít thì gọi anh cho rẻ. Thỉnh thoảng anh giúp thông dịch mấy câu tiếng Anh đơn giản khi có khách Tây hỏi mua hoa tươi, trái cây. Tôi thắc mắc không hiểu anh nghèo, không có năm bảy triệu để mua một chiếc Honda cũ, hay mắt mờ, tay chân chậm chạp không thi nổi cái bằng lái xe máy 100 phân khối.
Gần đây, một buổi tối, tôi đi bộ tập thể dục, tình cờ gặp lại anh H. trước thuộc thành phần đảng phái, làm xây dựng nông thôn, cải tạo về, đạp xe thồ, rồi đi HO, anh bảo hai vợ chồng đã về sống ở VN hơn một năm rồi, con cái ở lai bên Mỹ. Tôi nói: “Anh quá sướng, được lựa chọn hai lần, lần trước, tay không anh chon đi Mỹ, lần này trong túi rủng rỉnh đô la anh chọn đem tiền Mỹ về VN sống. Tôi chỉ mong được lựa chọn một lần mà không được”. Về nhà, tôi nhớ đến anh Tâm, ba lần, bước không qua số phận, nên bây giờ du khách đến Huế, ghé chợ Đông Ba vẫn còn thấy một ông già đen đủi, hom hem, bên cạnh chiếc xe đạp thồ cũ kỹ.
Giá như trời cao có mắt, giá như những người Mỹ phỏng vấn sáng suốt hơn, công bằng hơn, chấp thuận cho gia đình anh Tâm đi Mỹ, tôi chắc rằng anh không bao giờ lựa chọn lần thứ hai như anh H.
 
3. Ra Khỏi Tù - Thuc Thai Le
 
Một ngày đẹp trời đâu năm 1978, tôi được tha tù từ trại cải tạo Bù Gia Phúc tỉnh Phước Long. Hành trang gọn nhẹ gồm 2 bao cát, một bao đựng gạo ăn đi đường 7 ngày do trại cấp, mỗi ngày 6 lạng gạo (cộng tiền ăn, tiền đi xe về Huế), một bao đưng áo quần.
Ra khỏi cổng trai, có ngay xe đò về Phước Bình, chúng tôi 7 người, chiếm 1/3 hành khách trên xe, nhưng khi trả tiền thì chủ xe nhất định không lấy, nói là để mừng các anh về với gia đình, mặc dù chúng tôi đã nói rõ là nhà nước đã cấp cho chúng tôi đầy đủ tiền xe và tiền ăn đi đường.
 
Đến Saigon, tôi và anh bạn cùng làng đi bộ từ cầu Trương Minh Giảng vào hẽm bên hông ĐH Vạn Hạnh về nhà chị tôi thuê ở cuối hẽm, mỗi đứa gánh tòn ten hai đầu hai bao cát hành lý. Vào nhà, chị êm mới hỏi han đôi câu, chưa kịp uống ly nước, thì có hai bà xồn xồn đẫn theo một bé trai đến la lối: “các anh đi đường xô ngã con tôi té u đầu mà cứ bỏ đi”. Tôi cũng không biết anh em tôi có vô ý đụng cháu bé hay không, nhưng cũng “xin lỗi hai chị, chúng tôi đi học tập cải tạo mới được tha, nóng lòng về nhà nên đi vội, không biết đã va phải cháu”. Nghe thế hai bà lập tức dịu giọng “các anh mới cải tạo về, thôi, các anh nghỉ ngơi, tôi đem cháu về xoa dầu cũng đươc.” Chị tôi lấy chai dầu Nhị Thiên Đường đưa ra, nhưng hai bà không lấy và dẫn cháu bé ra về.
 
Trãi qua hơn bốn mươi năm, tôi vẫn thắc mắc: không biết chúng tôi có vô tình đụng phải cháu bé ngã không? Hay chỉ là một màn ăn vạ vì thấy chúng tôi đi dép lốp, áo quần loi thôi, lại gánh gồng tòn ten, tưởng lầm là dân ngoài Bắc vào thăm cán bộ, bộ đội. Nên khi biết chúng tôi là dân cải tạo thì vui vẻ ra về.
Dù sao thì chúng tôi vẫn tri ân sự chân tình của người miền Nam, người Saigon đối với người học tập cải tạo trở về.
 
 
Chúng ta...tuổi chạy về chiều! 
Bạc phơ mái tóc, tiêu điều...hàm răng! 
Da nhăn, huyết áp...lại tăng... 
Muốn nghe, trợn mắt...phải căng tai vào...!
Bước đi, lững thững...thấp cao. 
Phải luôn cẩn thận...tè nhào! khổ thân!
Chân tay run rảy...cốt gân...! 
Người nhà nhắc nhớ: luôn cần ba toong. 
Phụ làm việc gì: đi đoong! 
Tách, ly, chén, bát...cả xoong nhiều lần ...!
Cháu, con...biết chẳng kêu mần. 
Tìm nơi vắng vẻ...yên thân cho rồi. 
Trí, lòng...sống lại từng hồi... 
Ấu thơ, niên thiếu đến thời trung niên....
Mưu sinh...ngụp lặn triền miên! 
Giòng đời đưa đẩy...khắp miền khó khăn!
Chúa ơi! cuộc sống...nhọc nhằn! 
Như Lời phán trước: do căn "Tội truyền"
Chúa Toàn Năng...thật Uy Quyền... 
Cho Tin, Cậy, Mến...đã nguyền vững hơn.
Nghĩ rằng: con chẳng cô đơn! 
Chúa thương, Mẹ giúp...trong cơn ngặt nghèo! 
Cuối cùng núi Sọ...phải leo... 
Ban ơn, thêm sức...con trèo đến nơi.
 
 

5. Ngày nào với người con gái của ông ấy cũng là "FATHER ’ S DAYS"
Khuong Saigon is feeling fantastic with Anthony Hayward and 65 others

Con gái của Ba,
 Còn bốn tháng nữa con tròn 56 tuổi. Nhưng trong lòng Ba con vẫn còn trẻ như tuổi 15. Ba nhớ lại cũng ngày này 18 năm về trước, cha con mình đùm túm dắt nhau đi vượt biên rồi sang Mỹ.

Ba nói là "đùm túm" vì hồi đó Ba từ trại tù cải tạo về thì con đã gần 40 tuổi. Khổ. Nghèo. Nhìn con gái Ba héo úa dung nhan mà Ba khóc ròng. Tại ba! Tại Ba hết thảy! Làm con gái của một "sĩ quan nguỵ" nên từ trường Đại Học ra con không có việc làm. Hàng ngày, ngồi ở góc chợ Bàu Hoa vùng Ngã Tư Bảy Hiền-Sài Gòn để bán từng tô bún mắm. Cứ ba tháng một lần lặn lội ra Bắc thăm Ba.

 Năm 1975 Mẹ con mới 50 tuổi. Người vẫn nghĩ rằng Ba chỉ đi "học tập ít ngày". Thành ra, nghe Ba đi Bắc, Mẹ con bị shock. Cộng thêm bệnh cao huyết áp sẵn có Mẹ còn "nhất định nằm một chỗ!".Thế là con gái của Ba vừa lo cho Mẹ, vừa lo cho Ba. Ba ở tù 8 năm thì Mẹ con mất. Phải đến 4 năm gian khổ đời con nữa Ba mới được trở về.
Buổi tối đoàn viên ấy, cha con mừng mừng tủi tủi. Nhìn ảnh Mẹ con vẫn như tươi cười Ba tan nát cả lòng. Nhưng biết nói làm sao" Vận mệnh cá nhân mình gắn liền với vận mệnh quốc gia dân tộc.
 Cả thời tuổi trẻ của Ba hầu như đi khắp 4 vùng chiến thuật. Mẹ con cứ bồi hồi theo dõi đường Ba đi. Không biết mình sẽ thành goá phụ lúc nào. Thời gian ở nhà của Ba rất ít. Con là con đầu lòng. Lại là con gái. Cảm ơn con gái của Ba. Một đứa con gái có lòng hiếu thảo.
Trong một lần thăm nuôi tại trại tù, con kể Ba nghe: Từ nhà mình tới chợ Bàu Hoa chừng non 1 cây số. Sáng nào con cũng bày hàng bún mắm ra. Mùi mắm kho thơm lừng. Có cả tôm thẻ lột, thịt quay, cà tím. Có cả những rau nhúc, cây bông súng, rau đắng, húng cây, giá sống và bắp cải bào. Khách hàng đông lắm! Con còn cười vui nói với Ba:
 Khi nào Ba về con sẽ mở một tiệm bún mắm và rau VÂN KHANH cho Ba ngồi thu tiền.
 Ba nghe với lòng se sắt.
Con gái của Ba,
Trớ trêu thay, lúc Ba về con đã là con gái lỡ thì. Ba buồn lắm. Nhờ ơn Thượng Đế mình vượt biên một lần trót lọt. Ba đặt chân đến đất Mỹ vào cái tuổi người ta sắp nghỉ ngơi. Chính vì vậy mà con lại khổ vì Ba. Con không muốn Ba đi làm ca đêm giữa trời rét buốt.
Con nói cái lạnh miền Bắc Việt Nam đã cứa nát thịt da Ba cả chục năm trời cũng đủ lắm rồi. Ba hãy để con lo. Nhưng Ba đâu đành lòng như thế.
Buổi sáng con ra khỏi nhà là Ba cũng đi. Tiệm giặt ủi gần nhà mình quá mà. Ba nhận phần việc ủi và xếp quần áo. Đi tới đi lui xem máy giặt nào ngưng. Máy sấy nào đồ đã khô. Chỉ vậy thôi. Một ngày, tính ra Ba đi cũng gần 5 cây số. Tội nghiệp con gái của Ba. Lúc người ta báo tin Ba bị xỉu thì con khóc ròng. Ba về nhà ở không và cho con nuôi tiếp. Thật người xưa nói đúng! "Trẻ cậy cha, già cậy con" mà.
Vân Khanh con,
Cho đến một buổi chiều, con đưa về nhà một trung niên trẻ. Trung niên mà Ba cho là "trẻ". Vì Ba thấy diện mạo anh ta cũng dễ nhìn. Ba mừng vì con của Ba rồi cũng có một bến đợi để neo thuyền. Ba cầu mong cho con hạnh phúc.
Chồng của con cũng là chiến hữu của Ba. Gia cảnh cũng không may mắn giống như Ba. Vợ anh đã chết trong lần đi thăm chồng. Cả chiếc xe lăn xuống vực. Từ đó anh dở dở ương ương. Qua Mỹ rồi anh vẫn sống như người mộng du. Cho tới ngày gặp con. Tình yêu thật là kỳ diệu! Chẳng những khiến cho con gái của Ba trẻ lại mà anh chàng "dở hơi" kia cũng chừng như mới cải lão hoàn đồng. Cứ 4 giờ khuya , anh thức dậy đi bỏ báo. Tới 9 giờ sáng về. Nghỉ ngơi rồi 5 giờ chiều đi vào hãng. 1 giờ đêm mới trở về nhà. Ba cảm ơn Thượng Đế lần nữa vì con có người chồng hiền lành và độ lượng. Chứ vào tuổi của Ba không bị đưa vào nhà dưỡng lão là hiếm lắm. Con nhớ gia đình Bác Th. không" Hai bác cưới vợ cho anh Cảnh từ lúc còn ở Việt Nam . Vậy mà qua Mỹ rồi Bác Thanh bị cô dâu xem như gánh nặng. Nhất định đòi anh Cảnh phải đưa Mẹ vào Nursing home cho đến chết.
Vân Khanh con,
Cả một thời trẻ tuổi của con đã dành để sống cho cha mẹ. Bây giờ con hãy sống cho con đi.
Ba rất cảm động mỗi lần khách đến thăm nhà con hay nói: vợ chồng con có phước lắm nên suýt soát tuổi 60 mà vẫn còn có cha để phụng dưỡng. Phải ! Hồi đó ba khó nghĩ mỗi lần nghe người ta cho rằng sự sống con người tính theo công thức: 5 năm, 6 tháng, 7 ngày. Nghĩa là ở tuổi đời 5 bó, tuổi thọ tính theo năm. Đến 6 bó thì tính theo tháng , mà 7 bó thì tính theo ngày. Ba đã 80, chắc phải tính theo giờ quá!
Cảm ơn vợ chồng con đã chăm sóc Ba mỗi ngày. Con nói: Ba ơi ! Với chúng con ngày nào cũng là Father's Day cả. Ba thật có lỗi với con. Hồi đó Ba vẫn buồn thầm trong lòng khi mẹ con sinh con là con gái. Ông Nội con sợ Ba chết trận thì không có con trai nối dõi tông đường. Còn nếu Ba già mà yếu đau thì con là gái không thể chăm cho Ba được. Ca dao có câu:
"Trai mà chi Gái mà chi
Con nào có nghĩa có nghì thì hơn".
Nói đến đây Ba chợt nhớ loáng thoáng câu chuyện "Tấm đắp mông ngựa" mà Ba đã đọc từ rất lâu:
Chuyện kể :
Một người cha đã đem cả gia tài còn lại của mình cưới cho con cô vợ giàu, trẻ đẹp. Một thời gian đầu sống vui. Rồi những đứa cháu nội lần lượt ra đời. Người cha mỗi ngày một già yếu. Người con trai rất yêu và nể vợ. Dần dần quên đi trong nhà còn có người cha. Mùa Đông lạnh lẽo mà sức già chịu không thấu những ngày giá tuyết phũ phàng. Trong khi những con ngựa nuôi trong chuồng thì được giữ ấm bằng những tấm đắp mông. Đến chừng không thể chịu đựng được nữa người cha bèn gọi con trai để nói rằng:
- Con ơi , hãy cho cha một tấm đắp mông ngựa đễ cha dễ ngủ vì mùa Đông này lạnh quá!
Con dâu nghe được bèn nói với chồng:
- Anh hãy lấy tấm đắp cũ ngoài sân kia mà cắt cho cha một nửa.
Người con trai làm theo lời vợ. Trong lúc cố dùng sức cắt đôi tấm đắp ra thì đứa con nhỏ đến gần, hỏi:
-Cha ơi, sao không cho ông Nội cả tấm đi" Cha cắt ra làm chi "
Người cha trả lời:
- Để dành con à.
Hôm sau, người con trai thấy đứa con mình cũng đem tấm đắp mông ngựa khác cắt ra làm đôi. Người con trai giận dữ hỏi:
- Con làm cái gì vậy" Tại sao con cắt nó ra"
Đứa con nhỏ đáp:
- Nửa tấm này con cho ông Nội. Còn nửa này để dành khi nào cha già con sẽ cho cha.
Người cha giật mình hối hận. Từ đó, hết lòng chăm sóc cha mình cho đến cuối cuộc đời.
Vân Khanh,
Ba ước ao những người cha khác cũng có con hiếu thảo như con gái của Ba. Ba rất tự hào về con. Trong lúc có biết bao gia đình, cha mẹ ngậm đắng nuốt cay vì những đứa con Việt Nam sống theo kiểu Mỹ. Rất tự do! Thậm chí đã khước từ hai chữ HIẾU KÍNH cha mẹ, làm cho các bậc sinh thành hàng ngày sống "nước mắt chan cơm" thì Ba đã được vợ chồng con hết lòng chăm chút từng miếng ăn, giấc ngủ.
Người xưa nói: "Hiếu thuận huờn sinh hiếu thuận tử. Ngỗ nghịch huờn sinh ngỗ nghịch nhi".
Ba ước nề nếp gia đình mình là như vậy.
Ba của con
 

6. Hòa Hợp Hòa Giải là Sáo Ngữ
 
47 năm, đúng 47 năm rồi những hình ảnh năm xưa vẫn tồn tại trong ký ức của tôi...con đường từ Plejku tới Phú Bổn qua ngã ba Buôn Mê Thuột và đường số7..."người ta bồng bế nhau chạy trốn"...và từ thị xã Phú Bổn tới con sông cạn con đường số7 bắt đầu nhuộm đỏ máu của đồng bào miền Nam...những viên đạn pháo từ trên núi bắn xuống xé nát con người và cuộc thảm sát khi quân dân miền Nam rơi vào ngã cụt và bọn việt cộng say máu truy sát người sống sót...
Sống cùng bọn việt cộng 4 năm(1975-1979) tôi biết thế nào là cộng sản thế nào ĐÓI thế nào VINH, NHỤC. Hôm nay tôi rất ngạc nhiên khi bấm Google để tìm một vài hình ảnh"chiến tranh Việt Nam" thì chỉ thấy hình ảnh tuyên truyền cho nhà cầm quyền cộng sản, mà sự thật thì gần như bị xó dấu hoậc không được nhắc tới...hòa họp hòa giãi...chỉ là  phiếm ngữ..
tp.10-03-2022 

7. Phúc niễng đâu rồi, ra lạy bác đạp xe xích lô làm Thầy nè! Minh Tran
Cái hình này làm tui nhớ chú hàng xóm cạnh nhà tui. Lúc nhỏ tui hay mắt tròn mắt dẹt ngạc nhiên nữa khi nghe nghe chú nói tiếng Pháp, nghe nhạc Pháp. Tui nhớ bà chị Hai nhà tui hỏi má, chú giỏi tiếng Pháp sao chú đạp xích lô kiếm sống dzậy má. Má nói do thời thế.
Thời thế thay đổi nên có nhiều chuyện cười ra nước mắt. Mấy chú mấy bác đạp xích lô, chạy xe ôm thì đọc báo tiếng Anh, tiếng Pháp, nói tiếng Anh, Pháp như gió. Còn mấy loại chóp bu trong xã hội thì muốn nói gì phải cầm giấy đọc, mà đọc còn vấp. Biết đâu còn cầm giấy ngược nữa hổng chừng. Găp thời TẶC cũng thành QUAN.
 
*************************
8. Trinh Hao Tam - Nguyen Duong
Một bài viết thật xuất sắc. Những em nào sanh ra thời 9x, 2000. Nên đoc kỹ để hiểu rõ tại sao nhưng người Saigon bỏ nước ra đi, liều mạng sống trên biển nhưng vẫn ra đi. Coi đi rồi mới hiểu tại sao 46 năm qua ròi mà mọi người vẫn không tha thứ đuọc nõi đau mất mát do CS gây ra. 
 
Các bạn đừng so sánh khập khễnh giũa VN và các nuóc khác như Đức chẳng hạn. Họ thống nhất đát nước đua cả nước thành một nhưng họ chua bao giờ cướp của người dân vô tội thì đừng bao gio so sánh VN vơi những nước mà có chién tranh. 
 
Dĩ nhiên thắng làm vua, thua làm giặc. Nhung CS bắc việt chiếm được miền nam, vơ vét hết tài sản của dân mièn nam, bắt người ta đi tù , đi kinh té mới và ghép cho cái tội “Tư Bản”. Nếu là bạn, bạn có tha thứ không? Trả lại hết tài sản đã cướp, trả hết những năm người ta bị tù đày, bị đánh đập dã man đén bỏ mạng trong tù đi, ròi những mạng ngươi chết trên biển đông. Trả lai hết những mất mát đó đi ròi hoà giải và cùng nhau xây dựng đất nước nhé.
“Đánh tư sản” ở miền nam sau 1975
 
I. Đánh tư sản:
Đánh tư sản cũng là một sự kiện chấn động lịch sử Việt Nam ngang hàng sự kiện Thuyền nhân Việt Nam và chỉ xảy ra sau ngày 30 tháng Tư năm 1975.
– Sự kiện Đánh tư sản do Hà Nội thực hiện đối với người dân miền Nam Việt Nam theo Quyết Định mang số 111/CP vào ngày tháng 4 năm 1977 do Phạm Hùng ký đặc biệt nhằm vào việc tịch thu nhà cửa đất đai của nhân dân miền Nam.
Các đợt Đánh tư sản đối với người dân miền Nam được Hà Nội cho ký số X1, X2 và X3.
– Đợt X1 được bắt đầu vào sáng ngày 9 tháng Chín năm 1975 xảy ra khắp 17 tỉnh thành miền Nam và thành phố Sài Gòn. Đợt này chủ yếu nhắm vào nhà của các cư dân thành thị, tịch thu nhà và cưỡng bức toàn bộ những nạn nhân phải đi về vùng Kinh Tế Mới sống.
Đợt X1 này tập trung vào những người tư sản mại bản gốc Hoa vốn đã sanh sống thành công tại miền Nam ngót nghét hơn 200 năm.
– Đợt X2 được Hà Nội tiến hành từ tháng Ba năm 1978 và được kéo dài cho đến sau Đổi Mới, tức là khoảng năm 1990 thì mới chấm dứt.
Đợt này chủ yếu nhắm vào tư thuơng, tiểu tư sản, các thành phần sản xuất nhỏ vốn rất đa dạng và phồn thịnh trong nền kinh tế tự do do chính phủ Việt Nam Cộng Hòa khuyến khích hậu thuẫn.
– Song song với chiến dịch X2 là chiến dịch X3 đặc biệt tập trung tại Sài Gòn. Đỗ Mười, sau này là Tổng Bí Thư Đảng, lúc bấy giờ thay thế ông Nguyễn Văn Linh làm trưởng ban cải tạo TW Vào ngày 16 tháng Hai năm 1976 là người chỉ huy trực tiếp đợt thực hiện này.
 
Bảy giờ sáng ngày 23-3-1978, tất cả các cửa hàng kinh doanh to nhỏ, đủ mọi ngành nghề, ngóc ngách, đóng cửa, án binh bất động theo lệnh của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Một bản thông báo ngắn gọn do ông Vũ Đình Liệu thay mặt UBND thành phố ký được ban hành ngay sau đó, xác nhận “Chiến dịch X3”, bắt đầu ở thành phố mang tên Bác.
 
Tất cả các cơ sở kinh doanh, buôn bán, nhà hàng, cửa hàng, kho tàng, trung tâm dịch vụ bị niêm phong. Danh sách đã được lên từ trước. Họ làm bí mật lâu rồi. Như một trận đánh giặc đã được trinh sát, điều nghiên tỉ mỉ, chính xác. Các tổ công tác ập vào từng điểm bất ngờ, nhanh chóng niêm phong tài sản, khống chế mọi người trong gia đình nội bất xuất, ngoại bất nhập. Mỗi điểm niêm phong có tối thiểu một tổ ba người, không cùng cơ quan, không quen biết nhau. Họ là thanh niên xung phong, thanh niên công nhân các nhà máy, sinh viên các trường đại học, cả những thanh niên các phường được huy động vào chiến dịch.
 
Ngay buổi chiều hôm ấy một cuộc mít tinh tuần hành từ Nhà văn hóa thanh niên do Thành đoàn tổ chức. Hàng ngàn học sinh, sinh viên rầm rộ xuống đường, diễu hành khắp các phố chính Sài gòn, Chợ Lớn, hoan nghênh chính sách cải tạo công thương nghiệp của đảng, đả đảo bọn gian thương.
Nền công nghiệp nhẹ, sản xuất đồ tiêu dùng, gia dụng trong nhà của Việt Nam đã hoàn toàn chính thức bị phá hủy. Không những thế, các nhà máy nhỏ sản xuất nhu yếu phẩm như đường, bột giặt, giấy, … cũng bị tê liệt vì chủ nhân bị quốc hữu hóa.
Chiến dịch X3 thành phố Hồ Chí Minh, đã đánh gục 28.787 nhà máy, xí nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh, hộ buôn bán.
 
Ông Nguyễn Văn Linh nói:
– “Khi tôi làm Trưởng ban cải tạo trung ương, tìm hiểu và dự kiến Sài Gòn, Chợ Lớn có khoảng 6.000 hộ kinh doanh buôn bán lớn. Khi anh Đỗ Mười thay tôi, anh ấy áp dụng theo quy chuẩn cuộc cải tạo tư sản Hà Nội từ năm 1955, nên con số mới phồng to lên như vậy. Anh Mười không trao đổi với chúng tôi. Anh ấy có ‘thượng phương bảo kiếm’ trong tay, toàn quyền quyết định”. – (Nguyễn Văn Linh – Những trăn trở trước đổi mới).
 
Ông Đỗ Mười đã đưa hàng ngàn hộ tiểu thương, trung lưu vào diện cải tạo, gộp luôn những hộ sản xuất vào đối tượng đó.
Riêng tại Sài Gòn, thì báo Tuổi Trẻ đã phải thừa nhận là đã có trên 10000 tiệm bán hàng bị đóng chỉ qua một đêm, khiến một viên thuốc trụ sinh cũng không có mà mua, mà dùng.
 
Trong chiến dịch X-3, Đỗ Mười không sử dụng người của Nguyễn Văn Linh, mà đưa hầu hết cán bộ từ miền Bắc vào nắm giữ những vị trí quan trọng. Đồng thời ông bố trí cán bộ các ngành thương nghiệp, giao thông vận tải, công nghiệp nhẹ, kho hàng vào tiếp quản. Ông đóng đại bản doanh ở Thủ Đức, trực tiếp chỉ đạo, không tham khảo bất cứ ý kiến ai trong cơ quan lãnh đạo thành phố Hồ Chí Minh.
 
Kết quả X3, với “công lao to lớn” của Đỗ Mười, thu được khoảng hơn 4.000 kg vàng, gần 1.200.000 đô la, và một khối lượng hàng hóa không thống kê hết. Từ chiếc xe hơi, tivi, tủ lạnh, đến bịch bột giặt, quả trứng gà đều bị kê khai và tịch thu chất trong các kho, để rồi không cánh mà bay, hoặc biến thành phế thải.
 
– Sau chiến dịch X3, hàng ngàn gia đình cán bộ miền Bắc đã vào Sài gòn sinh sống trong những ngôi nhà bị tịch thu. Theo thừa nhận ngắn ngủi từ báo SGGP và báo Công An khi bàn đến vấn đề trả lại nhà cho những “đối tượng” bị đánh tư sản oan ức vào tháng 9 năm 1989, ước tính lên đến khoảng 150 ngàn người thuộc gia đình cán bộ gốc miền Bắc vào Sài Gòn sinh sống trong những ngôi nhà bị tịch thu.
Trong chiến dịch này, số lượng người Sài Gòn phải bị mất hết tài sản và bị cưỡng bức đi Kinh tế mới là khoảng 600.000 người, tạo ra một sự hoảng sợ hoang mang chưa từng có trong lịch sử phát triển Sài Gòn qua các triều đại.
 
Cuối đợt X3, ghi nhận của Hà Nội là có khoảng 950.000 người Sài Gòn bị cưỡng bức đi Kinh tế mới, không hoàn thành chỉ tiêu đề ra là một triệu hai người !
– Sức mạnh kinh tế Sài Gòn tự nhiên bị phá hoại đi đến kiệt quệ hoàn toàn sau chiến dịch X3 do Đổ Mười trực tiếp chỉ huy.
Hơn 14.000 cơ sở tiểu thủ công nghiệp tại Sài Gòn rất cần cho nền kinh tế quốc dân, với khoảng 270 ngàn nhân công hoàn toàn bị trắng tay, đóng cửa với tổng số thiệt hại tài sản trước mắt lên đến gần chín đến hai mươi mốt tỷ Mỹ kim và tiến trình phát triển công nghệ của đất nước trong tự cường hoàn toàn không còn hy vọng để phục hồi.
 
– Riêng về tổng số vàng, nữ trang tịch thu từ tư bản ở miền Nam được các báo đài của Đảng thừa nhận lên đến 4000 lượng vàng – nhưng đây chỉ là con số tượng trưng tính riêng ở Sài Gòn từ tháng Năm năm 1977 qua tháng Hai năm 1978 mà thôi. Cả thảy trên dưới gần 35 ngàn lượng vàng, tính luôn cả nữ trang và kim cương thu trong những đợt Đánh tư sản ở miền Nam.
 
II. Hợp tác hóa:
– Riêng về chỉ thị 43 của Bộ Chính Trị vào tháng 5 năm 1978 đã quốc hữu hóa toàn bộ đất đai của nông dân miền Nam vào tay nhà nước thông qua hình thức “Tập Đoàn Sản Xuất”.
 
Việc hợp tác hóa ở miền Nam được tiến hành khẩn trương trong các năm từ 1977 đến 1980. Theo kế hoạch thì ruộng đất được tập hợp lại để tổ chức canh tác tập thể, sản phẩm được phân chia căn cứ theo mức đóng góp. Máy móc nông nghiệp của nông dân bị trưng mua để thành lập các tập đoàn phục vụ sản xuất nông nghiệp. Các tập đoàn sản xuất có nghĩa vụ bán sản phẩm của mình cho Nhà nước theo giá kế hoạch thấp hơn rất nhiều giá thị trường. Bù lại, Nhà nước cung cấp vật tư và hàng hóa tiêu dùng cho các tập đoàn.
 
Tuy nhiên tình hình kinh tế Miền Nam không thích hợp với mô hình hợp tác hóa vì chương trình “Người cày có ruộng” vào đầu thập niên 1970 đã phân phối ruộng đất khiến đa số nông dân Miền Nam thuộc hạng trung nông với năng suất khá cao. Hơn nữa chính quyền cũng đã nhận thấy lịch sử hợp tác hóa ở miền Bắc đã gặp nhiều thất bại nên hợp tác hóa ở miền Nam cũng bị bỏ dở.
 
Tính đến cuối năm 1979, ở Miền Nam thành lập được 1.286 hợp tác xã và hơn 15.000 tổ sản xuất bao gồm khoảng 50% nông dân. Vậy mà sang năm 1980 các tổ chức này đã tan rã, chỉ có trên giấy tờ mà không hoạt động được như kế hoạch. Hậu quả là sản xuất nông nghiệp khựng lại trong khi dân số tăng, gây ra cảnh thiếu thực phẩm khiến từ năm 1976 đến 1980 mặc dù trong hoàn cảnh hòa bình Việt Nam phải nhập cảng 5,6 triệu tấn thực phẩm.
Sang đến năm 1979, nhà nước áp giá pháp lệnh 5,2 hào một kg lúa trong khi thị trường là 1,5 đồng một kg nên nông dân không chịu bán. Bí thư Võ Văn Kiệt khi ấy chỉ đạo Công ty Lương thực thu mua lúa của dân theo giá tương xứng, cứu đói cho thành phố và để cứu vãn tình thế bất mãn không còn dằn được nữa từ nông dân miền Nam trước những đợt thu lúa từ năm 1977 trở đi.
 
III. KINH TẾ MỚI:
Tất cả những ai tại Sài Gòn bị tịch thu nhà, tài sản đều phải đi về vùng Kinh tế mới, là những nơi mà cơ sở hạ tầng cho sinh hoạt chưa được xây dựng, trong đó có cả điện nước, trường học và bệnh xá. Hơn 600.000 nạn nhân bị cưỡng bức qua đêm phải rời Sài Gòn để về những vùng Kinh tế mới và bỏ lại hết toàn bộ tài sản của mình từ nhà ở, của cải, đồ đạc cho Đảng quản lý.
Khi đến vùng Kinh tế mới để sống, họ phải tham gia vào các tập đoàn sản xuất hay còn gọi tắt là Hợp Tác Xã, “thành quả lao động” của các nạn nhân này được phân phối chia ra như sau:
– 30% trả thuế
– 25% góp cho chính phủ theo giá thu mua của nhà nước;
– 15% trả lương cho cán bộ quản lý ;
– 30% còn lại chia cho các thành viên tính theo số điểm thuế lao động.
 
Như vậy là sản phẩm nông nghiệp từ các nông trường vùng Kinh tế mới đã bị tịch thu hết 70 % và chỉ còn 30% là chia lại cho các thành viên, vốn là các nạn nhân bị tịch thu nhà cửa sống trong vùng Kinh Tế Mới, thế là gần cả triệu người dân Sài Gòn đột nhiên lâm vào cảnh đói kém trầm trọng như là đòn trả thù hữu hiệu của chế độ Hà Nội đối với những bị liệt vào thành phần không phải “Cách Mạng”, ngụy quân ngụy quyền và tiểu tư sản.
 
Phát biểu tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội chung cả nước, ngày 25 tháng 6 năm 1976 ông Lê Duẩn chủ trương:
“ … ở miền Nam, những người trước đây nhờ chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ mà có một mức sống vật chất vượt xa khả năng của nền kinh tế trong nước và kết quả lao động của bản thân họ, nên hiểu rằng đó là một cuộc sống phồn vinh giả tạo, đổi bằng đau khổ, chết chóc của hàng triệu đồng bào, bằng sự triệt phá biết bao xóm làng, thị trấn, bằng sự sa đọa của biết bao thanh niên, bằng sự chà đạp nhân phẩm của biết bao phụ nữ ở các vùng tạm bị chiếm, và bằng nhục mất nước.
 
Họ nên hiểu rằng lối sống chạy theo những nhu cầu giả tạo theo kiểu “xã hội tiêu thụ”, đua đòi theo những thị hiếu tầm thường, hoàn toàn trái với cuộc sống hạnh phúc văn minh chân chính. Những đồng bào ấy ngày nay có thể và cần trở lại với thực tế, trở về với cuộc sống của dân tộc, sống bằng kết quả lao động của mình. Đó là con đường để tiến tới một cuộc đời tươi vui, đẹp đẽ, có ý nghĩa, có phẩm giá, có hạnh phúc thật sự và lâu bền cho chính mình và con cháu mình.”
 
Ước tính có khoảng 300 ngàn trẻ em bị thất học vì sống ở các vùng Kinh Tế Mới này. Nhân dân miền Nam cả triệu người đang sống sung túc bổng lao vào chịu đói kém khổ sở chưa từng có. Nạn đói kém lan tràn khắp mọi nơi, mọi nhà.
 
Hàng vạn người dân Sài Gòn đã phải bỏ trốn khỏi các vùng Kinh Tế Mới, đi ăn xin trên đường trở về Sài Gòn, đói rách khổ sở. Đây là thời kỳ khốn khổ bi đát nhất trong lịch sử phát triển Sài Gòn.
 
IV. Quyết Định 111/CP của Hà Nội về việc “Đánh tư sản” ở miền Nam Việt Nam:
Quyết định 111/CP của Hà Nội là một tài liệu chứng quan trọng. Quyết định này là nguồn gốc của mọi khổ đau, nghèo khó của người dân miền Nam Việt Nam sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 và là lý do Việt Nam bị tụt hậu về mọi mặt, đứng hàng thứ ba nghèo nhất thế giới theo tuyên bố của Liên Hiệp Quốc vào năm 1985.
Trích:
“Điều IV. ĐỐI VỚI NHÀ, ĐẤT CỦA CÁC TỔ CHỨC VÀ CÁ NHÂN THUỘC BỘ MÁY CAI TRỊ CỦA NGUỴ QUÂN NGUỴ QUYỀN VÀ ĐẢNG PHÁI PHẢN ĐỘNG
 
1. Mọi loại nhà cửa, đất đai trước ngày Giải phóng do chính quyền Mỹ nguỵ quản lý hoặc dành cho những tổ chức hay cá nhân, thuộc nguỵ quân nguỵ quyền và các tổ chức đảng phái phản động sử dụng, nay đều là tài sản công cộng, do Nhà nước trực tiếp quản lý.
2. Nhà cửa, đất đai của những người sau đây đều do Nhà nước trực tiếp quản lý:
– Sĩ quan nguỵ quân cấp từ thiếu tá trở lên.
– Sĩ quan cảnh sát từ cấp trung uý trở lên.
– Cán bộ thuộc bộ máy cai trị của nguỵ quyền đã giữ chức vụ, từ Chủ sự phòng cơ quan Trung ương, Ty phó, Quận phó trở lên.
– Các phần tử ác ôn, mật vụ, tình báo, chiêu hồi cố tình phản cách mạng.”
Điều IV của QĐ 111/CP đã cho thấy rõ nhiều gia đình, thân nhân của người trong quân đội, chính quyền VNCH phải chịu mất nhà mất cửa rất thê thảm. Mọi quy chụp là phản động hay Ngụy quyền thì coi như là bị tịch thu nhà cửa.
 
Bởi không có định nghĩa rõ ràng thế nào là thành phần ác ôn nên các viên chức cán bộ Cộng Sản tha hồ kết tội thuờng dân vô tôi vạ là thành phần ác ôn của “Ngụy quyền” để tư lợi cướp bóc nhà cửa cho riêng mình, không cần tòa án nào xét xử cả. Ai ai cũng có thể là điệp viên CIA, hay là có lý lịch ba đời liên quan đến Ngụy quân, và đều có tư tưởng phản động và cần phải tịch thu nhà cửa dựa trên điều khoản này của QĐ 111/CP. Không khí hoảng sợ , đau thuơng oán hận lan tràn khắp cả miền Nam.
 
V. Đổi tiền:
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Việt Nam thống nhất lãnh thổ và tiếp sau đó là thống nhất về chế độ chính trị. Tuy nhiên, nền kinh tế quốc gia vẫn còn bị chia cắt trên một số lĩnh vực. Một trong số đó là việc tồn tại đồng thời 2 đơn vị tiền tệ: Đồng (tiền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) và Đồng (tiền Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam).
 
Việc chấp nhận 2 đơn vị tiền tệ cùng tồn tại thời gian đầu được Đảng Cộng sản Việt Nam giải thích là “tuy là một nước thống nhất, nhưng do còn có sự khác biệt về phương thức sản xuất và phân phối, chúng ta phải tạm thời cho lưu hành hai đồng tiền khác nhau ở hai miền.”
 
Tuy nhiên, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn xem điều này là “trở ngại trong giao lưu kinh tế và thanh toán giữa hai miền”. Mặt khác, quốc hiệu của Việt Nam đã được đổi thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không dùng quốc hiệu cũ vẫn ghi trên các đơn vị tiền tệ đang lưu thông. Do đó, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đã có chủ trương thống nhất tiền tệ.
 
Ngày 01 tháng 4 năm 1978, Bộ Chính trị ra nghị quyết số 08-NQ/TW về việc phát hành tiền ngân hàng mới, thu hồi tiền ngân hàng cũ ở hai miền, thống nhất tiền tệ trong cả nước. Việc thống nhất tiền tệ vừa bao gồm mục đích tạo thuận lợi cho trao đổi và thanh toán, vừa bao gồm mục đích kiểm soát lượng tiền trong lưu thông, lại vừa bao gồm mục đích cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Ngày 05 tháng 5 năm 1978, công việc đổi tiền được tiến hành trên toàn quốc. 1 đồng (tiền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) đổi bằng 1 đồng mới, 0,80 đồng (tiền Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam) đổi bằng 1 đồng mới.
 
Mức tiền mặt được đổi ngay được ấn định như sau:
– Mỗi hộ độc thân được đổi ngay đến mức tối đa ở thành thị là 100 đồng, ở nông thôn là 50 đồng;
– Mỗi hộ gia đình có 2 nhân khẩu được đổi ngay ở thành thị mức tối đa là 200 đồng, ở nông thôn là 100 đồng;
– Mỗi hộ gia đình có 3 nhân khẩu trở lên được đổi thêm cho mỗi nhân khẩu ở thành thị là 50 đồng, ở nông thôn là 30 đồng, những hộ nhiều nhân khẩu nhất cũng chỉ được đổi ngay đến mức tối đa ở thành thị là 500 đồng, ở nông thôn là 300 đồng;
– Mỗi nhân khẩu trong các hộ tập thể, như bộ đội, công an vũ trang, công nhân viên chức, sinh viên… được đổi ngay đến mức tối đa là 100 đồng.
– Số tiền sở hữu trên mức tối đa phải khai báo và ký thác vào ngân hàng. Khi cần dùng thì tiền đó có thể rút ra nếu có lý do chính đáng.
 
Một điều kiện nữa là người dân phải chứng minh rằng số tiền trên mức tối đa là tiền kiếm được bằng “lao động cá nhân” chân chính chứ không phải tiền trục lợi qua lao động của người khác. (!)
 
VI. Hậu quả quá trình Đánh tư sản của Hà Nội:
– Theo các chuyên gia của Liên Hiệp Quốc về kinh tế, Việt Nam tụt hậu hơn 50 năm về kinh tế vì các chính sách đánh tư sản này của Cộng Sản Hà Nội lên đầu người dân miền Nam. Việt Nam là quốc gia nghèo đứng hàng thứ ba trên thế giới vào năm 1985.
– Kinh tế của Việt Nam mãi đến năm 1997 mới thực sự khắc phục được một phần hậu quả của 10 năm Quá Độ, Đánh tư sản do Hà Nội tiến hành từ năm 1976 đến năm 1987.
– Từ năm 1987 đến năm 1997, Hoa Kỳ đã nhắm mắt làm ngơ cho những người Việt di tản hay Vượt Biên định cư tại Mỹ gởi tiền hàng ồ ạt về cứu đói thân nhân mình và vực dậy sự sinh động về kinh tế vốn có ngày nào của miền Nam.Tổng số ngoại tệ gởi về lên đến 8 đến 15 tỷ Mỹ kim mỗi năm trong suốt 10 năm đó.
– Sang đến năm 1989, chính quyền bắt đầu tiến hành trả lại nhà cho một số nạn nhân bao năm trời khổ ải, cũng như bắt đầu bàn tới vấn đề cho phép các sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa được bán nhà vốn hầu hết đã bị tịch thu nếu ra đi theo chương trình HO-Special Release Reeducation Center Detainee Resettlement Program (Chương trình tái định cư phóng thích đặc biệt tù nhân trung tâm cải tạo)
– Chỉ số nghèo đói của Việt Nam đứng hàng thứ ba trên thế giới và chỉ mới có những tiến bộ cải thiện khi World Bank và USAID tăng tốc trợ giúp, mọi tài liệu, hình ảnh ca ngợi đánh tư sản từ các báo chí đài phát thanh của Đảng cũng bị dẹp dần đi.
Hà Nội tới ngày nay vẫn chưa chính thức xin lỗi hai mươi mốt triệu người dân miền Nam về hành động này.
 

9. HỒI KÝ VƯỢT BIÊN - Trinh Hao Tam
BÀI 4: NGÀY GIÃ TỪ SÀI GÒN
Bài và hình: TRINH HAO TAM
 
 
Cách nay đúng 40 năm trước hôm nay là ngày tôi giã từ Sài Gòn, ngày 30/11/1978 thành phố thân yêu mà tôi đã sống trên 11 năm với biết bao nhiêu kỷ niệm. Tôi sẽ ra đi đến một nơi nào chưa biết trước được, mà không biết có còn sống sót hay không? May mắn nếu sống sót thì chắc sẽ ra đi vĩnh viễn không ngày trở lại!
 
Hôm nay là ngày N khởi sự cuộc hành trình, chúng tôi quyết định là cánh đi từ Sài Gòn với tất cả 24 người phải có mặt trước rạp Quốc Thái đường Trần Quốc Toản lúc 6 giờ sáng. Xe sẽ đến đón tại đây để đi Cần Thơ. Đêm hôm trước thì vợ và 3 đứa con tôi 2, 4 và 6 tuổi đã mang hết hành lý sang qua nhà má vợ tôi ngủ để giã từ. Cảnh chia lìa mẹ con, bà cháu đau đớn như thế nào thì chắc các bạn cũng biết! Tôi ngủ tại căn nhà 195 Phạm Ngũ Lảo với Chu và Tổ, hai thanh niên khoảng 20 tuổi ở Đa Kao ngang rạp Casino mà cả gia đình tất cả 7 người sẽ ra đi cùng chúng tôi hôm nay. Ngoài Chu và Tổ là anh em, 5 người kia còn lại toàn là phụ nữ người Hoa gồm bà nội già khoảng 65, bà mẹ và 3 người cô độc thân. Mẹ Chu và Tổ là em của ông Thành Xương ở Trà Vinh đã ra đi chuyến trước trong ghe em trai tôi là Trịnh Quan Trung hiện ở Toronto. Ông Thành Xương đi được và định cư ở Anh, gởi gấm gia đình em gái lại đi với tôi.
Năm giờ sáng 3 chúng tôi thức dậy không xếp mùng mền như thông lệ mà bỏ mặc tất cả. Đồ đạc trong nhà những món có giá trị như TV, tủ lạnh nhỏ, radio cassette, máy hát băng Akai, amply, loa đã mang đi nơi khác từ những ngày trước. Ông già bán cà phê trước nhà hỏi sao bán, tôi nói hết tiền bán lần mua gạo. Chúng tôi lên hai xe Honda đến nhà má vợ tôi ở đường Phan Thanh Giản Quận 3. Sài Gòn vắng vẻ như nghĩa trang, đèn đường cúp điện mờ tối nên chút nữa là xe tôi vướng vô dây kẽm gai rào lại nơi Hội Nghệ Sĩ trong đám tang cô đào Thanh Nga mới bị ám sát chết vài ngày trước đó cùng với chồng là ông Lân Đổng Lý Văn Phòng Bộ Thông Tin thời VNCH.
 
Khi chúng tôi đến nhà bên vợ thì chiếc taxi tôi dặn hôm trước đã chờ ở đó. Vợ con từ giã bà già ra đi trong nước mắt. Hai chiếc xe Honda bỏ lại cho má vợ tôi, chắc bả sẽ bán rẻ để lấy phụ tùng, tất cả 4 người lớn, 3 đứa nhỏ lên xe. Tôi nói với bác tài xế chở chúng tôi ra xa cảng Miền Tây đề về quê sớm kẻo hết xe. Nhưng khi vừa qua khỏi rạp Quốc Thái tôi kêu bác tài cho chúng tôi xuống đây, tôi nói rằng vừa thấy chiếc xe đò quen còn đậu ở đây. Tôi xuống đó nhìn quanh các bàn cà phê thì thấy cánh ông Lê Xâu 7 người (2 vợ chồng với 5 con) và người em vợ là Dương Sum 5 người (2 vợ chồng 3 con) đã tề tựu đầy đủ đang ngồi nhấm nháp cà phê. Một lát sau thì 5 phụ nữ gia đình Chu Tổ cũng tới bằng taxi.
 
Sáu giờ thì xe đò tới, đây là một chiếc Microbus, chủ xe bà con với ông Lê Xâu hôm qua đã báo với Ban Giám Đốc Xa Cảng Miền Tây là xe trục trặc nghỉ một ngày để sửa chữa. Muốn di chuyển 24 người mà không có xe riêng thì kẹt lắm. Ở thành phố muốn về tỉnh phải có giấy đi đường do công an cấp, rồi ra xa cảng sắp hàng để chầu chực mua vé, chỉ bán vé cho người có giấy phép đi đường. Còn không thì mua vé chợ đen.
 
Chủ xe là bà con thì không sao nhưng tài xế và lơ xe thì hơi ngại nên chúng tôi trả 500 đồng mới (lúc đó 2,000 đồng một lượng vàng) cho 2 người. Xe chạy ngang qua Xa Cảng Phú Lâm thì cũng không ai ra chận, đến trạm kiểm soát xa lộ Đại Hàn thì anh lơ nhảy xuống đi trình giấy tờ gì đó. Vài công an áo vàng ra ngó dáo dác trên mui thấy không có hàng hóa gì ráo nên khoác tay cho đi. Hàng lậu thì không có nhưng người vượt biên thì ngồi đầy trong xe mà họ không biết!
 
Xe tới Bắc Mỹ Thuận thì chưa tới 8 giờ sáng, mọi người phải xuống xe đi bộ qua phà. Anh lơ trao cho mỗi người một vé đò nho nhỏ cầm xuống phà. Tôi sợ mấy người đàn bà và con nít đi bộ qua phà không kịp nên tôi đi sau chót mà nhìn tới trước để kiểm điểm mọi người. Thấy nhiều người trong nhóm xuống nhưng không thấy xe đò mình xuống, tôi tưởng xe mình còn kẹt lại nên tôi ở lại đi chuyến phà sau. Hóa ra vì không nhận dạng kỹ chiếc xe mình đi nên tôi không thấy nó đã xuống phà, khiến ông Lê Xâu và nhiều người lo lắng không biết tôi có chuyện gì mà không có mặt trên đò. Tôi bị bắt thì ai sẽ điều khiển tàu ngoài biển? Qua phà họ lên bờ chờ tôi, xe cũng đậu lại chờ mà công an cũng không để ý gì vì xe đò bình thường cũng chờ một vài người trễ vì đi vệ sinh hay mua quà cáp bánh trái gì đó xuống phà trễ.
 
Xe chạy nửa giờ thì tới Bắc Cần Thơ, mọi người cũng lại xuống xe đi bộ qua. Đến đây thì chiếc xe chúng tôi đi sẽ quay đầu chạy về Sài Gòn. Để khỏi bị nghi ngờ và kiếm thêm tiền bạc, xe rước một số hành khách, đây là hành khách thật. Chúng tôi chia tay với người chủ xe, tài xế và anh lơ nhanh nhẹn nhiệt tình. Có lẽ họ chia sẻ với chúng tôi nỗi phập phồng lo sợ không biết tụi tôi có đi đến nơi bình an hay không?
 
Qua bắc Cần Thơ rồi chúng tôi lên xe lôi đến nơi hẹn là bến xe Cần Thơ chỗ xe đi Sài Gòn đậu nằm cách đó chừng hai cây số. Nơi đây bọn tôi vào các quán kêu cơm ăn và chờ gia đình ông Hai ra đón để xuống các ghe nhỏ đậu ở Bến Ninh Kiều cạnh chợ Cần Thơ nơi có tượng của Bác mỉn cười. Tụ tập đông người và đi cùng một lúc sẽ khiến công an nhận ra và theo dõi, nên chúng tôi làm như các gia đình xa lạ nhau, ăn uống chờ đợi để đón xe di Sài Gòn. Một giờ sau thì vợ của Thời ra gặp để cho biết tình hình bến bãi Cần Thơ như thế nào.
 
Tới đây tôi xin nói về một nhân vật nữa sẽ tham gia đi với chúng tôi là người bạn thân nhất, tôi quen với hắn từ 1963 lúc đó tôi mới qua trường Công Lập Vĩnh Bình học lớp Đệ Tam. Thời bị động viên đi lính VNCH trở thành trung sĩ thông dịch viên cho Sư Đoàn 21 bộ binh đóng ở Sóc Trăng. Sau trân chiến An Lộc Nguyễn Văn Thời bị thương và giải ngũ về Cần Thơ làm Phường Trưởng và bị đi tù cải tạo sau khi mất Miền Nam. Sau khi ra tù Thời phụ vợ buôn bán hủ tiếu, phân phối nước đá cho các quán cà phê ở Cần Thơ, làm tài công một vài chuyến cho các ghe chở trái cây. Khi thấy ông Hai kéo dài việc đóng ghe, có thể để moi thêm tiền từ chúng tôi, tôi rủ Thời tham gia để có người ở ngay Cần Thơ phụ giúp và thông tin liên lạc giữa chúng tôi ở Sài Gòn và ông Hai ở Cần Thơ. Tôi đồng ý ngoài gia đình Thời vợ với 2 con nhỏ còn đem thêm gia đình Nguyễn Văn Son với vợ và một con trai nhỏ, Son trước đây là Biên Tập Viên (Đại Úy) Cảnh Sát bà con vói Thời cũng là bạn với tôi dù không thân lắm vì khác chỗ ở nên ít gặp nhưng Son là người hiền lành đáng tin cậy.
 
Khi tôi cho ông Hai biết là tôi có nhận thêm Thời vào chuyến đi và Thời ở ngay tại Cần Thơ, ông Hai có vẻ phản đối nói rằng người học tập ra không tin được. Nhưng tôi nói đây là thằng bạn thân tín biết nhau rất lâu, Mâu Thân 1968 Thời ở nhà tôi ở Trà Vinh khi làm thông dịch viên cho USAID Vĩnh Bình. Lên Sài Gòn tôi và Thời cùng ở nhà của ông Vương Hồng Sển và Bà Năm Sa Đéc số 5D Nguyễn Thiện Thuật Gia Định khi tôi học trường Công Chánh và Thời học Trường Sinh Ngữ Quân Đội trong Bộ Tổng Tham Mưu. Bị thương ở An Lộc trong lúc chờ ra hội đồng giải ngũ Thời cũng ở chung cư 60 Võ Tánh với gia đình tôi. Tôi xem như họ hàng trong nhà. Tôi và ông Lê Xâu khẳng định cho Thời tham gia nên ông Hai miễn cưỡng chấp nhận. Từ khi có Thời và vợ giám sát, việc đóng ghe tiến triển nhanh hơn. Vài năm sau khi tới bến bờ tự do, ở thủ đô Washington DC Thời là chủ nhân hệ thống nhà hàng Nam Việt. Thời đã mất cách nay 10 năm vì ung thư phổi!
 
 
10. NỖI LÒNG NGƯỜI SAY... 
Trần Quảng Nam
Bể nhân gian sóng cuồng vào hố thẳm
Cầu Nại Hà mờ mịt bởi khói sương
Từng đêm đen tiếng quốc vọng canh trường

Trong lặng lẽ, xót xa lòng cô lữ
Khách say thơ, máu trào theo con chữ
Gieo vần thơ lây lất giữa phong trần
Mộng kiêu sa khóa kín cửa..giai nhân
Thành bại tướng ta mong chi tiếp bước
Mờ mịt khói sương sóng cuồng phía trước
Ngày đêm dài chìm đắm cõi đời say
Tháng năm trôi đeo đẳng kiếp lưu đày
Trong cùng tận liệu có vơi niềm tiếc nuối
Lời nước non sao nghe chừng đã nguội
Mộng kiêu hùng từng cánh rã rời tan !
Máu xương qua không thắm nụ hoa vàng
Để tàn úa vào cuối mùa xuân trước…!
Bến Ngân đây…nào thấy đâu ô thước
Lũ quạ nầy chừng trốn biệt mù khơi
Để khách thơ nghiêng ngả giữa cuộc đời
Đêm nguyệt tận chân xiêu dò dẫm bước
Lãng tử say....con thuyền không bến nước
Trên lối về đầy ắp những hoang, si
Chén nồng cay tràn chảy giữa biên thùy
Hồn tử sĩ oán hờn đang réo gọi...
 
Chiến tranh tàn lụi lâu rồi
Giờ đây sao vẫn bồi hồi trong tim
Chiến hữu xưa như thoáng bóng chim
Kẽ vùi non lạnh người chìm biển sâu..
Còn ta sương điểm trắng đầu
Nhớ về dĩ vãng lòng đau muôn vàn
 
11.HỒNG ĐÀ LẠT ... Có Gai!
Captovan (Tô Văn Cấp, K19)
Trước khi vào Võ Bị, tôi đã nhiều lần đến thăm Đà Lạt, rồi sau khi tốt nghiệp, ra trường, đi đánh giặc khắp mọi miền đất nước, từ cao nguyên xuống đồng bằng, từ Bến Hải đến Cà Mau, nhưng chưa nơi nào tôi thấy dễ chịu dễ thương như Đà Lạt, vì thế nếu được chọn một nơi nào đó trên quê hương để làm việc và dưỡng già thì tôi không cần suy nghĩ, trả lời ngay: Đà Lạt.
Đà Lạt thời tiết dịu mát quanh năm, có thác Cam Ly, thác Prenn, có hồ Xuân Hương, hồ Than Thở và nhất là có “Suối Vàng” nữa, nơi mà ai cũng mong đến thăm sau khi.
 
Người Đà Lạt thì lịch sự hiền hòa vì là nơi quy tụ các quân trường hiện dịch, những chàng SVSQ làm thành phố thêm đẹp, khiến má các em thêm hồng. Đà Lạt có trường nữ trung học Bùi Thị Xuân nổi tiếng với Hoa đẹp. Hoa Đà Lạt muôn màu muôn sắc nhưng tôi yêu nhất là Hồng. Hồng là lý do khiến tôi muốn chọn Đà Lạt làm nơi dừng chân, tìm tổ ấm sau khi “trở về trên đôi nạng gỗ”. 
 
Nhưng đó là Đà Lạt trước 30/4/1975, sau ngày mất nước thì thác Cam Ly cũng cạn khô, nhô lên những tảng đá đen sần sùi nằm chung cùng chất phế thải! Hoa hồng cũng bị nhuộm đỏ và nhất là sân Cù thì .. không còn nữa, buồn như cù. Sân Cù là một ngọn đồi cỏ mịn xanh mướt, dốc thoai thoải, nằm sát bờ hồ Xuân Hương, nơi hò hẹn lý tưởng của những đôi trẻ yêu nhau, dìu nhau leo dốc, ngồi dựa vai dưới gốc thông già, nhìn xuống mặt nước hồ trong xanh soi bóng, soi hình mình trong mắt em thì thầm tính chuyện tương lai. Vậy mà nay chúng bao vây, che kín sân Cù, cấm người dân lai vãng đến gần, vì đó là sân “gâu gâu” (golf).
 
Chúng che kín sân Cù để cán bộ “cấp cao” trung ương cùng tư bản đỏ tới giải trí chơi trò ..banh lỗ. Người dân Việt hỏi nhau banh lỗ là gì thì không ai biết, chỉ những chuyên viên kinh tế xuất cảng “cô dâu” sang xứ Đoài, xứ Hàn thì tủm tỉm cười: “banh lỗ, hẩu lớ, hẩu sực lớ”!
 
Đà Lạt của tôi đã chết rồi, mộng ước bình thường tìm một nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi cũng không được! Thôi đành tìm về dĩ vãng, sống với kỷ niệm thời trai trẻ, sống với Đà Lạt thập niên 1960-1970 đầy thơ mộng và yêu thương.
 
Hè 1957, ông già tôi cho tôi đi “nghỉ mát” Đà Lạt. Gia đình tôi chẳng khá giả gì mà phung phí tiền bạc, nhưng tôi bị đi nghỉ mát chỉ vì có chị ruột trên đó và lý do chính vẫn là bố tôi muốn tách tôi ra khỏi đám bạn yêu .. quái, cái đám bạn tối ngày lặn lội bờ sông Khánh Hội, leo lên tàu, bờ-lông-nhông xuống sông, tuột cái quần nylon, chẳng chóng thì chày thế nào cũng có ngày chết vì nước. 
 
Những ngày đầu tiên ở Đà Lạt sao mà buồn thế! Do chỉ thị của ông già, bà chị tôi kỷ luật thằng em hơi kỹ, không được xuống phố một mình, bà ấy bảo cao-bồi Đà Lạt dữ lắm, (?). Ngày ngày tôi phải nằm nhà học bài cho niên khóa tới! Ôi mớ sách ông già bắt mang theo nào có ích gì cho buổi ấy! Nhớ đám bạn ở bến Sáu Kho Khánh Hội quận Tư, thèm nghịch ngợm, cái tuổi chưa biết yêu nhưng thích chọc gái, tuy lên Đà Lạt nghỉ hè nhưng chứng nào vẫn tật nấy, vì thế mà tôi đã làm buồn lòng cô hàng xóm.
 
Nhà anh chị tôi ở thuộc khu công chức nghèo, có khoảng chục căn, nằm trên đường Phạm Ngũ Lão, sau lưng là đồi cao có nhà thờ Con Gà, phía trước mặt, xuyên qua khuc vực trồng rau là đến ấp Ánh Sáng rồi tới rạp hát Ngọc Lan, từ rạp Ngọc Lan xuống vài bậc dốc là bến xe đò con-con Minh Trung Saigòn-ĐàLat. Những chi tiết này về sau tôi mới biết, còn những ngày đầu chỉ quẩn quanh trong vườn, bực dọc với những bụi hồng gai góc. Ghét hoa này lây sang hoa khác, khi trông thấy một “bông hoa” đi ngang qua trước cửa, quen miệng tôi chúm môi huýt sáo khiến cô bé giật mình quay lại lườm tôi, bỉu môi một cái thật dài.
 
Ngày qua ngày tôi bị bà chị “cấm trại” trong góc vườn với hoa, “gươm lạc giữa rừng hoa”, còn cô hàng xóm nữ sinh trường Bùi Thị Xuân kia thì vẫn đồng phục trắng, áo len xanh nước biển khoác ngoài, cạc-táp che ngực tới trường. Vì không còn con đường nào khác để thoát thân nên ngày ngày vẫn phải đi qua trước cửa nhà chị tôi và tôi thì vẫn huýt sáo ghẹo chơi.
Chiều cuối tuần, bố cô gái sang thăm anh chị tôi, khi ông về, tôi bị bà chị mắng ra điều dạy dỗ:
_ “Cậu quá lắm nghe không, bố cô Hồng mới sang mắng vốn tôi đó, cậu liệu hồn không tôi mách thầy cho đấy” (thầy-bu là tiếng gọi bố-mẹ ở quê tôi).
 
À thì ra tên cô ta là Hồng, một bông hồng nhung đẹp nhưng có gai. Bị mắng không oan, tôi chạm tự ái bèn xuống phố một mình. Từ hướng nhà thờ Con Gà, men theo đường Phạm Ngũ Lão tới ngã ba cầu Ông Đạo, chỉ việc qua cầu là lên phố, khu chợ Hòa Bình. Nhưng lên phố làm gì? Tôi đi thẳng, ngang qua nhà Thủy Tạ, muốn vào ngồi ăn ly kem hay uống ly café nhưng lại thấy mấy ông SVSQ/VB cùng các bông hồng dập dìu vào ra khiến tôi phát rét bèn cúi đầu đi thẳng.
 
“Ôi ta buồn ta đi lang thang bởi vì đâu”? Tôi đã có dịp quan sát hồ Xuân Hương trên bản đồ thành phố Đà Lạt, hồ nhỏ chút xíu, cứ đi một vòng bờ hồ dăm ba phút thì thế nào rồi cũng về chốn cũ, về tới cầu Ông Đạo. Nghĩ thế, tưởng thế, thế là hai tay đút túi quần, tôi cúi đầu đếm bước.
 
Giật mình vì tiếng thét còi tầu, ngước mặt lên, trời xâm xẩm tối, không một bóng người, không ai đồng hành, tôi cảm thấy lành-lạnh. Khi ra khỏi nhà, vì giận chị tôi mà phát nóng nên không mặc áo len. Còi tàu lại thét lên từng hồi kèm theo tiếng nổ xình-xịch, chắc là có nhà ga xe lửa đâu đây. Nhìn xa-xa phía trước, những bóng đèn đường vàng úa nối tiếp thành một vòng cung theo ven bờ hồ, tôi nương theo đèn đường mà tiến, quyết không lui, hù ông anh bà chị một phen cho bõ ghét.
Ngang qua công viên thấy chữ đề “Vườn Bích Câu”, thằng con trai lần đầu đến Đà Lạt giận hờn đi lang thang, bụng đói cật rét, mỏi mệt bèn dừng chân bó gối trên ghế đá. Hai tay vòng hai đầu gối ôm sát vào ngực, gục mặt xuống mà vẫn không giảm được tần số rung, tới khi cái đói bên trong rung cộng hưởng cùng cái lạnh bên ngoài thì “thằng nhỏ” lăn đùng xuống bãi cỏ!
 
Ánh đèn pin làm tôi chói mắt và giật mình, hai ông bú-lít đi tuần nghi tôi không là dân ăn cắp thì cũng xì-ke nên đòi xem “cạc-đăng-ti-tê” rồi dẫn tôi về bót. Ông anh rể đến lãnh tôi về và sáng hôm sau tôi quyết giã từ Đà Lạt. Trước khi lên xe, tôi mong gặp mặt “nhỏ Hồng” hàng xóm để mắng cho cô ta vài mắng vì cái tội “mét-bu”. Tôi có làm gì đâu, chỉ huýt sáo chơi thôi mà cô cũng đi mách bố! Con gái đẹp mà lắm chuyện! Lần đầu lên Đà Lạt đã đụng Hồng gai!
 
Giận thì giận, thương thì không thương nhưng mà sao trong lúc ngồi xe Minh Trung trên đường trở lại Saigòn, hình bóng nhỏ Hồng cứ luẩn quẩn trong đầu tôi mãi? Cô ta có cái gì hay hay và kín đáo khó nói, không như những đứa bạn gái của tôi ở đường Đỗ Thành Nhân Q.4, Khánh Hội, chúng mặc xà-lỏn tắm sông, đánh lộn và chửi thề như giặc. Hè năm sau tôi tự động xin ông già cho đi Đà Lạt để học thi.(?) Hồng vẫn còn đó, trong xóm cũ, nhưng tôi chỉ dám núp sau cánh rèm, nhìn theo bóng em mỗi khi cô ôm cặp trước ngực đi ngang qua cửa.
 
“Máu giang hồ của mày đâu rồi? Sao nhát thế?” Tôi tự hỏi, rồi một buổi sáng tôi dậy sớm đi xuống đường giả đò chạy bộ, chờ đúng giờ Hồng đi học, tôi đi ngược trở lên như vô tình đụng mặt, con hẻm chật hẹp làm sao em tránh, tôi dự định nói nhiều nhưng miệng chỉ còn lắp bắp:
_“Xin lỗi cô Hồng về việc tôi huýt ..”.
Hồng không nói gì mà né sang một bên rồi tiếp tục đi, em đi đường em, tôi đi đường tôi. Bực bội, mắc cở tôi quay lại chưa kịp rủa thầm thì đúng lúc tôi bắt gặp Hồng cũng quay ngược lại nhìn trộm rồi mỉm cười. Nụ cười khinh bỉ? Nụ cười ngạo mạn hay thương hại cho thằng nhỏ còn nhớ cái lỗi chọc gái hè năm ngoái? Kệ, bất cứ lý do gì đi nữa thì nụ cười của cô Hồng hàng xóm cũng đã làm tim tôi đập loạn nhịp.
 
Thế mới biết nụ cười của giai nhân là nguy hiểm, làm “đổ nước nghiêng thành”, nụ cười giai nhân đốt cháy bao “tướng công”. Hồng Đà Lạt đã đẹp lại thêm nụ cười chúm chím buổi sáng, hơi thở mờ mờ hơi sương thì dẫu sắt cũng phải mềm. Nụ cười của Hồng vào những mùa Hè kế tiếp sau đó và thư đi tin lại làm tôi đầu quân vào Võ Bị.
Nói ra có vẻ nhụt chí làm trai, nứt mắt đã lụy vì gái mà thiếu lý tưởng phục vụ Tổ Quốc, nhưng thú thật Hồng gai Đà Lạt và những bộ Jaspe’ dạo phố mùa Đông của mấy ông Võ Bị đã làm tôi bỏ quyết định vào một quân trường khác mà chọn lò luyện thép đồi 1515 để tu thân.
 
Hồng hàng xóm không biết tôi vào Võ Bị, ngày đi phố đầu tiên, sau 8 tuần Tân Khóa Sinh, tôi súng sính trong bộ đại lễ màu trắng với cầu vai alfa đỏ có tua. Xe GMC nhà trường thả tân sinh viên sĩ quan xuống khu chợ Hòa Bình, tôi thong thả xuôi dốc, qua cầu Ông Đạo, theo đường Phạm Ngũ Lão, miệng thổi sáo, mang tâm trạng “áo gấm về nhà” với những lo âu cùng hồi hộp. Lo âu vì vô phúc mà đụng mặt ông niên trưởng trên đường thì chỉ có thác! Hồi hộp vì nghĩ tới lúc gặp Hồng, chắc cô hàng xóm sẽ ngạc nhiên khi thấy tôi bất ngờ là SVSQ/VB.
 
Khi đi ngang qua nhà Hồng, tôi không thấy bóng Hồng đâu nhưng lại thấy bố Hồng đang trà đàm, café’ đạo cùng mấy ông SVSQ đàn anh ngoài sân! Liếc nhìn những bộ Jaspee’ là tôi biết họ là đàn anh, nhưng không dám nhìn cặp alfa để biết họ là khóa mấy? Khoá 18, khóa 17 hay khóa 16 đây?
Theo quyền sinh sát trong gia đình họ “Cùi” thì K18 là cha, K17 là ông nội, K16 là ông cố nội của K19 chúng tôi, tôi chỉ kịp than thầm: “Chết rồi!” Rồi lủi thẳng vào nhà mà quên đi một động tác bắt buộc, tối cần thiết là đưa tay lên chào các niên trưởng dù họ có nhìn thấy mình hay không.
“Lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ”! Đang hí hửng toan khoe người đẹp cặp alfa thì đã bị “ông cha, ông cố” chắn lối! Tôi lo lắng hồi hộp, quên hẳn bóng Hồng ngay bên cạnh mà nghĩ đến chuyện tương lai, tai ương sẽ không bao giờ thoát.
 
Miệng đắng ngắt bữa cơm chiều, tôi vội vàng thuê tac-xi trở về trường gấp đề chuẩn bị “tương lai”. Vừa về đến trường là tới giờ xuống phạm điếm (nhà ăn), không ăn cũng phải đi tập họp để sinh viên cán bộ điểm danh.
 
Sau vài động tác sơ khởi bốn món ăn chơi nhẩy xồm, hít đất, tôi nghe tiếng thét của hung thần Khóa 17 từ trên bục gỗ:
_ “SVSQ khóa 19 nào sáng nay ra phố gặp các niên trưởng đã không chào mà còn nghinh, hãy tự giác bước ra khỏi hàng”!
Hai tiếng “tự giác” thật nhẹ nhàng nhưng là tôn chỉ của người SVSQ, thiếu tự giác thì chỉ còn con đường “thịt nát xương tan”! Tôi tự giác bước ra khỏi hàng. Tối mùa Đông Đà Lạt lạnh cóng mà sao trán tôi vã mồ hôi, hai đầu gối chúng không nghe lời mà cứ run lên bần bật.
Màn dạy dỗ của mấy “ông nội 17” kéo dài cho đến khi kèn báo giờ đi ngủ tôi mới được tha về phòng! Người tôi tã ra như cái mền rách nhúng nước, nằm vật xuống nền nhà, mặc cho 2 thằng bạn cùng phòng là Nguyễn Xuân Huy và Nguyễn Trọng Hiếu thay quần áo dùm, còn tôi chỉ biết thở dài than thầm:
_ “Nào ai dám nghinh! Vừa trông thấy các ông là tôi đã sợ té đ.. nên mới quên chào! Nào ai dám liếc các ông, tôi chỉ liếc xem cô hàng xóm có nhà hay không mà thôi! Nhưng than ôi! Hồng kia đã có chủ rồi! Thôi từ nay em xin chừa không dám liếc nữa”.
 
Những Chủ Nhật sau đó, mỗi khi bất ngờ gặp Hồng ngoài sân, ngoài ngõ, tôi chỉ biết yên lặng gật đầu chào như chào một người chị và Hồng thì khẽ cười mím chi. Bà chị tôi biết ý hỏi:
_ “Cậu giận cô Hồng à? Cô ấy hỏi thăm cậu đấy”
Tự ái được vuốt, tôi lại thấy Hồng đẹp, Hồng hiền dễ thương hơn, nhưng tôi sợ, tôi sợ cái buổi tối sau cái hôm đi phố đầu tiên ấy. Hồng đã có gai nay lại còn thêm hai ba vòng kẽm gai “concertina” của mấy ông niên trưởng khóa đàn anh rào quanh nữa thì đàn em chỉ còn thở than, than thở:
_“Chí tuy còn mong tiến bước nhưng sức không kham nổi đoạn trường”.
 
Hai năm quân trường với bao cay đắng khổ cực nhưng giúp tôi trưởng thành, hãnh diện và mãi mãi nhớ những kỷ niệm quân trường, bị hành xác và hành xác lại khóa sau như vũ điệu liên hoàn “nàng dâu mẹ chồng”. Nhớ ơn các niên trưởng, không mẹ chồng đố “mày” thành sinh viên sĩ quan trường Võ Bị.
 
Hình ảnh bộ kaki với cặp alfa làm việc trên cầu vai, đôi găng tay và thắt lưng cổ truyền trắng muốt, cái mũ nhựa, đôi giày sô bóng loáng là nỗi kinh hoàng đối với bất cứ anh chàng dân chính nào vừa bước qua cổng Nam Quan. Không cần biết tính nết như thế nào, nhưng hễ ai mặc những thứ đó vào là cặp mắt tự dưng có lửa, long lên sòng-sọc, nụ cười tự dưng biến mất mà chỉ còn những la cùng hét. Nhưng cũng thật đẹp và oai, hạnh phúc cho những ai được mặc bộ kaki ấy, đó là biểu tượng của trường Võ Bị. 
 
Nếu một mai, có cựu sinh viên nào trở về làm chỉ huy trưởng trường VBQGVN thì tôi xin đề nghị CHT cho đúc một bức tượng SVSQ Cán Bộ đặt ngay trước cổng trường như bức tượng đồng đen ở trước Trung Tâm Huấn Luyện BĐQ/RNSL ở Dục Mỹ.
Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, trường đại học CTCT, các chàng sinh viên SQ là một thành phần tạo nên nét đẹp Đà Lạt, câu chuyện anh em nhà Võ họ hành hạ nhau ra sao thì trăm họ đều biết, chuyện quân trường để lần sau, đề tài này tôi xin kể tiếp những bông Hồng gai.
 
Những ngày Chủ Nhật được đi phép, thay vì ra phố, nhưng lại thấy thằng em cứ nằm nhà, bà chị tưởng tôi thất tình cô hàng xóm bèn rủ em đi chợ Hòa Bình:
_ “Đi với chị, chị cho cậu coi cái này hay lắm”. 
 
Tôi theo chị vào chợ, thấy chị nói chuyện với bà chủ sạp vải, tôi trông dáng bà quen quen, phụ với mẹ tiếp khách là một cô tuyệt đẹp, tôi cũng thấy như quen quen. Tôi mỉm cười một mình, chàng thanh niên nào thoạt trông thấy người đẹp đều có cảm tưởng là mình đã quen, “quen quen”. Nhưng quen riết rồi thì làm bộ mặt xa lạ, quên cả đường đi lối về nhà em!
Ra khỏi chợ, bà chị hỏi tôi:
_ “Cậu có nhớ bà chủ sạp vải vừa rồi là ai không?”
Không nghe tiếng tôi đáp lại, chị tôi có vẻ sốt ruột nên tự trả lời ngay:
_ “Bà Xuân đấy, hàng xóm của nhà mình ở phố Dinh, Hải Phòng đấy”.
Tôi giật mình vội hỏi liền:
_“Thế cái cô đèm-đẹp ngồi cạnh bà Xuân là cô Hồng hay cô Phụng”.
_ “Cô Hồng, cậu thấy sao? Hay lắm đấy”.
Lại một bông Hồng nữa xuất hiện, Hồng này có cô em gái tên Phụng nên tạm xin gọi là Hồng-P. Hồng-P, Phụng và em trai tên Thiệp là những người bạn trong khu phố Dinh Hải Phòng của tôi thời 1954-55. Chúng tôi chơi thân với nhau, thường đánh bi đánh đáo, búng dây thung, chơi trò bịt mắt bắt dê, tối tối rủ nhau đi ăn “chí mà phù”, “lạc phá xang” ngoài bờ sông Cấm. Trong đám bạn ấy, Hồng-P đẹp nhất và dễ thương, tôi thường về phe Hồng-P, bênh vực Hồng-P mỗi khi có tên nào chọc ghẹo, Hồng cũng thường cho tôi kẹo cam thảo.
Nhớ lần tôi bị bịt mắt đi bắt dê, lạng quạng làm sao tôi chụp được Hồng-P rồi nghe Hồng-P kêu ré lên, tôi hoảng hồn vội kéo miếng vải bịt mắt xuống thì mới hiều lý do tại sao Hồng la, thay vì chụp sau lưng thì tôi lại chụp nhầm chỗ, chụp phía trước...!
Hồng đỏ mặt lườm tôi, tôi bối rối không biết nói gì nhưng không giận nhau. Thời gian ngắn sau, cả khu phố chúng tôi xuống tàu Marine Serpent di cư vào Nam, mỗi người một nơi, gần 10 năm sau, nay bất ngờ gặp nhau đây mà không nhận ra bạn cũ!
 
Nhớ kỷ niệm xưa, nay thấy em đẹp quá, tôi sinh ngẩn ngơ, dò tin tức biết gia đình Hồng-P ở khu dốc Nhà Bò, như vậy Hồng-P sẽ đi lễ nhà thờ Con Gà. Kể từ đó tôi siêng đi lễ ngày Chúa Nhật hơn và Chúa đã thương con chiên không ngoan đạo, tôi đã trông thấy Hồng-P “trong giáo đường đêm Noel ấy”.
 
Vẫn suối tóc dài chấm eo thon, nhưng Hồng-P không còn là một cô bé 12 nữa mà là một thiếu nữ tuyệt đẹp, đẹp hơn ngày xưa nhiều lắm. Dần dần mỗi Chủ Nhật tôi tìm cách ngồi xích lại gần từ phía sau thêm một chút cho tới khi Hồng-P ngồi hàng ghế trước, tôi quỳ ngay phía sau, những lần như thế thì .. “mùi tóc em thơm làm ngây ngất hồn anh”! Chúa ở trên cao còn người tôi yêu thì ngay trước mặt, tôi không nghe được lời giảng của linh mục mà chỉ nghe nhịp đập loạn xạ của con tim. 
 
Ước chi thưở đó cũng có nghi thức bắt tay những người xung quanh như ngày nay ở hải ngoại. Khi linh mục chủ tế nói: “Anh chị em hãy chúc bình anh cho nhau” thì con chiên quay xung quanh cầm tay nhau nói: “chúc bình an”
Hồng-P đẹp như một pho tượng khiến tôi không dám lại gần hoặc vì “nhát gái” nên tôi cứ lẽo đẽo theo sau mỗi sáng Chúa Nhật để rồi khi vào trường là nhớ nhung mộng mơ cả tuần! Tới gần ngày mãn khóa thì tôi uống thuốc liều, sau thánh lễ tôi chận Hồng ngay cuối nhà thờ và thật khó mở đầu, tôi chỉ gọi được một câu:
_“Hồng”.
Có lẽ Hồng cũng đã nhiều lần từng bị các chàng SVSQ chận đường như vậy nên nàng hơi khựng lại, nghiêng đầu hất mái tóc qua một bên, nhìn xem người gọi tên mình là ai. Tuy thật bối rối nhưng không còn đường lui, rất nhanh, tôi nhắc chuyện ngày xưa. Khi nhận ra tôi, Hồng cười thật tươi và .. bạn cũ không rủ cũng tới, thật tự nhiên Hồng đưa tay ra cho tôi bắt và nói:
_ “Mấy tháng nay Hồng biết có người theo dõi, nhưng không ngờ đó lại là VanTo”.
Hồng-P mời tôi về nhà, cũng gần đó thôi, ngay cuối dốc nhà Bò. Tôi nói với Hồng là tôi biết nhà từ lâu rồi, để tôi dẫn đường cho thì Hồng nháy mắt:
_ “Vẫn cái tật nghịch ngợm như ngày xưa ở Hải Phòng”.
Tôi không biết Hồng còn nhớ cái vụ tôi chụp nhầm chỗ trên người Hồng khi chơi trò “bịt mắt bắt dê” hay không, nhưng nghe Hồng nhắc kỷ niệm cũ tôi thấy cái bàn tay ngày ấy tê-tê, thấy ấm lòng và hồi hộp khi Hồng mời về nhà. Bước vào nhà chưa kịp hỏi thăm ông bà cụ và các em thì Hồng đã nói:
_ “Mẹ bán vải ngoài chợ Hòa Bình, bố đi chơi xa, em Phụng đã có gia đình và ở riêng, còn em Thiệp thì đi Không Quân, hiện đang học ở Nha Trang”
 
Bạn bè gần 10 năm mới gặp lại nhau làm sao kể cho hết kỷ niệm, Hồng-P giữ tôi ở lại ăn cơm với đọt su-su xào tỏi. Mộng ước theo đuôi bấy lâu chỉ mong có thế thôi, nay đang trong tầm tay, trời gầm cũng không nhả. Tôi giúp Hồng tước vỏ đọt su-su, ôn chuyện cũ, đôi khi như vô tình, hai tay chạm vào nhau khi cùng một lượt lấy đọt rau đựng trong rổ và rồi cứ để yên. Hồng đột ngột hỏi tôi:
_ “ Tháng sau Anh mãn khóa rồi phải không?”
Hồng-P bất chợt gọi tôi là anh thay vì Vanto khiến tôi muốn ngộp thở, không trả lời câu nàng hỏi mà nhìn thẳng vào mắt nàng, không cần phải giả đò ứa lệ mà tôi cảm động thật sự, làm liều bóp chặt tay em, tôi nói:
_ “Em vào dự lễ mãn khóa của anh nhá”.
Có lẽ bàn tay tôi chai đá vì hít đất nhẩy xổm mà xiết “búp măng” hơi chặt, tay Hồng-P hơi nhúc nhích như muốn gỡ ra nhưng lại vẫn để nguyên chỗ cũ rồi em mỉm cười khẽ nói:
_ “Đây là lần đầu tiên em sẽ được dự lễ mãn khóa của một SVSQ Võ Bị”.
“Lần đầu tiên” ư? Đúng hay sai chưa biết, nhưng rõ ràng Hồng-P muốn nói một điều gì đó mà chỉ những người để ý đến nhau mới hiểu: “em chưa có ai”. Chúng tôi xưng hô “anh em” từ lúc nào không hay, nói đủ chuyện trên trời dưới đất, trừ chuyện tình yêu. Khi bắt tay nhau để tôi về trường thì trời đã tối, đành gọi taxi, dùng dằng tay lại cầm tay, nghe như có tiếng ai nghẹn ngào:
_ “ Mình vừa gặp lại nhau thì đã! Có thể lại xa nhau 10 năm như lần trước”!
Hồng-P đến tham dự ngày mãn khóa và chúng tôi vui bên nhau như chưa bao giờ có, thân thiết nhau như “ngày xưa thân ái”. Rồi chúng tôi chia tay nhau trong tình bạn, tình yêu hoàn toàn trong sáng, tôi nói với Hồng-P ước mong sẽ quay lại chọn .. Đà Lạt làm nơi dừng chân. Lệ tràn khóe mắt, tay nắm tay, Hồng-P chúc tôi lên đường bình an và sớm gặp lại. 
 
Hôm đó là sáng ngày 30 tháng 11 năm 1964.
Sau 15 ngày phép mãn khóa, vừa khoác áo trận TQLC ra chiến trường thì ngày 31/12/1964, thủ khoa Võ Thành Kháng cùng Nguyễn Văn Hùng TĐ.4/TQLC, Nguyễn Thái Quan BĐQ hy sinh tại mặt trận Bình Giả Phước Tuy, chưa kể một số bị trọng thương! Chiến tranh khốc liệt bắt đầu, những chàng trai Võ Bị lăn vào lửa đạn, thằng mất thằng đu mình trên đôi nạng gỗ, không còn thời gian nào đề nghĩ đến bố mẹ, gia đình và cả người yêu, trước mắt chì còn đồng đội, đôi khi vừa gặp nhau chưa tàn điếu thuốc thì vuốt mắt cho nhau!
Những bông Hồng Đà Lạt thường trách các anh mau quên lời hứa! Không phải thế đâu, nhớ lắm chứ, nhớ mà chưa có seo-phôn gọi về khiến càng nhớ thêm. Nằm võng viết thư cho người yêu bằng ánh sáng đèn pin, vừa nắn nót được câu: “Em yêu” thì nghe địch pháo kích, “ầm”! Buông “em yêu” để nhẩy ào xuống hố.
 
Thôi hẹn em thơ sau để anh đi kiểm soát xem có ai bị thương không ..và đã có người vừa vĩnh viễn ra đi sau tiếng nổ! Nhớ lắm chứ nhưng sao đành để em phải đội khăn tang, thôi đừng trách các anh nữa những bông Hồng gai Đà Lạt ơi.
 
Hồng-P và tôi tiếp tục thư từ qua lại và mí-mí chuyện tương lai, nhiều khi nhận được thư nhưng chưa kịp đọc vì đang lội sình, thư trên túi áo cũng bị ướt nhòe, mắt anh mờ không đọc được thư em. Thú thật nhiều lúc mong bị thương, bị nhẹ thôi, để có dăm ba ngày dưỡng thương về phép thăm người mình thương.
 
Cầu được ước thấy, nhưng khốn nỗi, không nhẹ tí nào mà nặng ngàn cân, tôi bị loại khỏi vòng chiến ngày 19/6/1969, gẫy chân tay, đạn chui qua lưỡi trào máu họng! Sau hơn một năm nằm nhà thương, rồi xuất viện chờ tái khám, tôi chân thấp chân cao, tay bó bột tay chống nạng, trở về thăm trường cũ và người xưa.
 
Năm 1970, trường Võ Bị vẫn như ngày nào, tôi gặp lại niên trưởng K17 cùng người bạn đồng khóa Nguyễn Xuân Huy và vài bạn khác nữa đang là cán bộ và huấn luyện viên của trường. 
 
Huy dẫn tôi đi thăm một vòng doanh trại, đâu đâu cũng gặp những hình ảnh quen thuộc và nhớ thương. Nhìn căn phòng ngày xưa Huy và tôi ở là tôi nhớ ngay mỗi trưa thứ Bẩy chúng tôi không dám ngả lưng trên giường mà nằm dưới sàn để chờ “hung thần” khám xét. Bước vô phạn điếm là nhớ cảnh TKS/k19 ngồi thẳng lưng miệng nhai cơm với ớt, mắt trợn trừng vì cay, tai nghe bản nhạc “Biệt Kinh Kỳ” mà mấy ông NT/K17 cố tình hành hạ cả thể xác lẫn tinh thần đàn em!
 
Hình ảnh đẹp là các SVSQ trong quân phục tác chiến di chuyển nhanh nhẹn đầy sức sống, mặt lúc nào cũng ngước lên, hướng về tương lai cao hơn thay vì cúi xuống “lượm bạc cắc” như lời mấy ông cán bộ vu oan giáo họa. Nhưng hình ảnh đẹp nhất vẫn là các chàng SVSQ trong quân phục dạo phố, những cặp alfa đỏ với hai hoặc ba vạch vàng, “tay trong tay với những bông hồng” trông nó oai, nó đẹp làm sao! Tôi đã từng được giống như họ, tuy chỉ với “con cá một đuôi” mà còn thấy thấy mê huống chi những người khác .. phái. Nếu như bây giờ trường VBQGVN lại tuyển mộ sinh viên thì tôi sẽ lại nạp đơn ngay, nạp thật sớm để làm sinh viên đàn anh đón tiếp TKS khóa 17. 
 
Tôi gặp lại Hồng-P khi còn là SVSQ và lời hứa năm xưa với Hồng-P là sẽ quay về chọn Đà Lạt làm nơi dừng chân, và tôi tin rằng trong tim Hồng-P vẫn là hình ảnh một SVSQ trong quân phục dạo phố mùa Đông. Nhưng buồn thay, ngày nay quay trở về, sau 6 năm xa cách với một thân xác “bệnh hoạn”, chân thấp chân cao thì làm sao dừng chân với em đây!
 
Gió lạnh trên đồi thông trước cổng câu lạc bộ Nhữ Văn Hải thổi mạnh làm một ống quần tôi lay động, bất giác tôi rùng mình và quyết định không trở lại quân trường nữa, thất hứa với Hồng-P, tôi không chọn Đà Lạt làm nơi dừng chân, không đủ can đảm gặp lại Hồng-P trong hoàn cảnh trớ trêu! Hãy giữ mãi cho nhau hình ảnh đẹp hơn là “anh trở về trên đôi nạng gỗ, anh trở về làm dang dở đời em”.
 
Tôi không giải ngũ như hội đồng y khoa phân loại, mà xin quay về với anh em đồng đội TQLC, ở đó anh em chúng tôi cần nhau và tôi cũng tự an ủi rằng mình còn may mắn hơn những đồng đội khác khi họ đã phải trở về trên chiếc xe lăn và hằng ngày, mỗi tuần, hằng trăm anh em trở về với hòm gỗ không có hoa cài, không có hai hàng nến trắng mà chỉ có những vành khăn tang.
 
Chúc Hồng hàng xóm, Hồng-P, cả hai Hồng và những bông hồng gai Đà Lạt không phải nhìn thấy khăn tang và đừng trách các anh VB là những người không biết giữ lời hứa./.
Tô Văn Cấp, K19
==========
 
Hình minh họa: 2 SVSQ Trường VBQGVN đi dạo cùng người thân.
 
 
12. 30 THÁNG TƯ, 1975 - Bi Nguyen
 
Thầy Thái Bá Tân
Bộ đội Miền Bắc chết
Một triệu một trăm nghìn.
Số lính Miền Nam chết -
 
Hai trăm tám hai nghìn.
Vì chiến tranh, dân chết -
Trên dưới hai triệu người.
Lính Miền Nam cải tạo,
Ngồi tù - một triệu người.
Trong số một triệu ấy,
Một trăm sáu lăm nghìn
Chết vì đói, lao lực,
Vì không còn niềm tin.
Trốn chạy khỏi cộng sản -
Hơn một triệu rưỡi người.
Hai trăm nghìn đã chết,
Bỏ xác ngoài biển khơi.
Từ đấy, dẫu đất nước
Hết chiến sự, bình yên,
Chín mươi triệu người Việt
Mất tự do, nhân quyền.
Vậy xin hỏi các bạn:
Ngày ấy là ngày gì?
Vui mừng và kỷ niệm?
Nhưng vui mừng cái gì?
 

 13. ĐỔI ĐỜI - A20 Bùi Đạt Trung  

Sau 11 năm tù cs, đến tháng 7/1987 tôi đã tìm đường vượt biên theo đường bộ qua Thái Lan. Ở trại Tỵ nạn 6 tháng và qua Phi 6 tháng. Đến tháng 8/1988 tôi đã qua Mỹ và ở nhà chị ruột.

Theo quy chế tỵ nạn, thời gian đầu được hưởng trợ cấp một năm gồm:

- Tiền trợ cấp khoảng $360.
- $60 Food Stamp
- Thẻ khám bệnh

Ở nhà chị đỡ phải trả tiền nhà và mượn $2000 mua chiếc Civic 81 làm phương tiện, thi lấy bằng lái. Khi mới qua tôi cũng có dự định đi học tiếp và tham dự lớp ESL trau dồi thêm Anh ngữ.

Lãnh trợ cấp tháng đầu, nhân dịp lễ "Veterans Day" anh rể chở đi mua bảo hiểm xe (AAA), hôm đó anh ghé vào hãng cũ SMT thăm đồng nghiệp xưa, trong lúc ngồi trò chuyện, nghe nói mình mới qua thì tình cờ anh bạn cho biết trong Stockroom đang cần người và họ trả $7 một giờ trong khi lương tối thiểu lúc đó là $5.7, nếu đồng ý thì họ sẽ giới thiệu.

Về nhà bàn với gia đình, anh chị tôi nói thời buổi này kiếm một cái job với lương $7 không phải là dễ, mà sống với tiền trợ cấp chỉ nội đóng tiền bảo hiểm xe thì cũng đâu còn gì để sinh hoạt, có cơ hội đến thì phải bắt ngay, đi học sẽ tính sau, một phần lúc này tuổi cũng lớn (41) nên tôi quyết định đi làm.

Ngày đầu tiên đến Interview với Supervisor của Stockroom là một  cô Mỹ khoảng 30 tuổi tên Diane Sywer rất hài hòa, dễ thương, cô đã đưa một số bài tính cộng, trừ, nhân, chia chỉ 2 con số thôi để trắc nghiệm khả năng toán học của mình.  Quá dễ chỉ mấy phút là xong và tôi đã được nhận, Interview kiểu này nhiều khi lại không dễ dàng với chính người Mỹ, vì có những SV, học sinh khi đi xin việc đưa những bài toán này họ đòi phải có Calculator họ mới làm được chứ tính nhẩm thì không biết nên bị reject.

Những ngày đầu tôi phải đi làm bằng xe bus trong khi đợi thủ tục bảo hiểm xe hoàn tất. Công việc cũng dễ dàng không có gì khó, xuất kho, nhập kho, kiểm kê .. Chỉ xử dụng tính cộng trừ sao cho số liệu hàng trong kho luôn chính xác. Một shift có 2 lần break (15 phút) và một lần Lunch (30 phút), đồ ăn mang từ nhà, để trong Lunch box và ăn trong Cafeteria.

Hãng nhận qua hệ thống trung gian Agent, khi nào lãnh lương phải qua đó lấy check, làm temporary, khi nào được nhận permanent thì tính sau.

Làm được một tháng thì Diane gặp tôi và nói: "Hãng vừa thông báo khai phá sản, giai đoạn đầu tạm thời sẽ cho các nhân viên temp. nghỉ trước, phải chịu thôi, nhưng anh đừng lo, tôi cũng sắp nghỉ hãng này và đã tìm được job khác, khi nào qua đó một thời gian nếu thuận tiện tôi sẽ liên lạc với anh”. Tôi cám ơn cô xem đó như một lời an ủi chứ không hy vọng mấy.

Đang làm việc quen, bây giờ nghỉ tay chân tự nhiên trở nên thừa thãi, tôi bèn dò hỏi và tập xoay sở kiếm việc qua báo chí ở những mục rao vặt, cuối cùng tìm được một hãng tên Vantronix, job cũng tương tự như SMT và apply vào Stockroom, Shipping, Receiving.

Sau khi điền đơn tôi được gọi phỏng vấn, vì không có kinh nghiệm nhiều và lại là hãng của Tàu nên họ đã ép giá, chỉ chịu trả $5.7/hr, ở thế bí nên cũng đành phải chấp nhận. Làm được chừng 2 tuần, vào một buổi tối nhận được cú điện thoại của Diane:

- Chỗ tôi đang open, anh muốn qua không ? Lương $7.5/hr"

Mừng quá lương đang $5.7 đổi lại $7.5 thì ngu sao không đi, tôi nhận lời liền, quit job và qua làm hãng mới với Diane tên là ARRAY.

Thời gian này tôi đang chuẩn bị lập gia đình, bà xã tương lai lúc đó đang làm Operator cho hãng điện tử Watkin Johnson ở Palo Altos. Hai đứa ghi tên học một khóa Technician tại trường Bác Ái do hội thiện nguyện VN tổ chức và được cấp bằng sau 6 tháng tuy không giá trị bằng College nhưng cũng đủ để lận lưng.

Làm ở Array được một năm thì cô Diane nghỉ vì hoàn cảnh gia đình,tôi mang ơn cô rất nhiều. Ngày cuối mọi người đều viết mấy chữ trong thiệp Farewel, tôi đã viết:

"I don't want to say Good Bye with My Benefit
My Boss
and My Best Friend
I still want to see you again.
Take care Diane"

Đọc xong cô cảm động và đã khóc. Lúc chia tay cô đã ôm tôi, mắt rưng rưng và trao cho tôi một tờ giấy, viết vội vàng vài hàng chữ:

          " My dear friend,
Thank You for all of your thoughtfulness and support.
I think you are very special and I will miss you very much.
You are a very good worker and a very good friend.
        Take care of yourself
        I will write and keep in touch.
I wish you all the happiness in the world to you and your family.
                                                                        Love, Diane"                                                          
  Tờ giấy này vẫn còn nắm trong ví tôi hơn 20 năm nay và đợi có dịp gặp lại nhau tôi sẽ show cho cô xem..

Làm việc ở Stockroom và Shipping & Receiving rất dễ dàng và thoải mái, tuy nhiên vấn đề lương bổng không lên cao được. Sau đó một người bạn thấy tôi có bằng Technician đã giới thiệu tôi vào làm hãng Điện tử Pantronix, một hãng nhỏ của người Tàu Đài Loan chuyên làm gia công cho các hãng lớn dể thực hiện những con chip, khi vào phỏng vấn phải qua một bài thi trắc nghiệm, nếu pass mới được nhận vào làm, và tôi đã pass.

Công việc của technician là Set Up và Repair máy, một con chip hình thành từ giai đoạn đầu tiên là Wafer chứa những "die = bộ nhớ" sẽ được cắt (saw) ra thành từng con một, rồi chuyển qua "die attach", "Bonding= nối mạch điện", "Sealing: đóng nắp", "Marking=gắn nhãn hiệu" là hoàn tất.
Photo  ------

Làm được 10 năm, học hỏi được rất nhiều, chả bù ngày đầu tiên, không biết tí gì, cầm cái Allen Wrench giống như cầm cái dũa móng tay của quý bà làm mọi người cười ngất.

Vì muốn làm gần nhà tôi đã chuyển qua hãng mới với job tương tự, nhưng sau một thời gian, mọi việc trong hãng cái gì cũng làm được hết nên chủ đã chuyển tôi qua làm Facility cho tới bây giờ và cũng là thời gian tôi chuẩn bị về hưu, tuy vẫn yêu việc nhưng tuổi già, sức khỏe không cho phép, đến một lúc nào đó mình phải biết ngừng.
 

Sau lần bị bắt thứ hai với tội danh “Có hành vi chống lại XHCN”, chúng đem xe Falcon lại chở mình tôi (cứ như Bộ trưởng…) vào trại Phan Đăng Lưu ở Gia định cùng một đêm với NT Nguyễn Ngọc Tiên K.23 (Tư Rè).

Sau 7 tháng không khai thác được gì chúng kêu ra đọc lệnh thả với nội dung như sau:

“Xét hành vi không đáng bị bắt giữ, cho về”. Đọc xong chỉ muốn “mếu” mà thôi, ở yên cũng không xong, thế là trong vòng một tháng tôi đã chuẩn bị “Tìm đường cứu nước”, đi đường bộ qua Campuchia rồi qua Thái Lan.

Đường đi này cũng nhiều Hỉ Nộ Ái Ố lắm, người ta bị Hải tặc còn mình thì bị Đạo tặc, nhưng chuyện hơi dài, để lúc khác vậy…

Kẹt ở Miên 2 tháng, đến tháng 9 thì qua đến Thái Lan và vào trại Phanatnikom, một trong 3 trại tỵ nạn của Thái, 2 trại kia là Sikiu thuộc biên giới Thái Miên, còn trại cuối là SongKhla gần biên giới Thái Mã.

Sinh hoạt ban đầu ở trại tỵ nạn hình thức cũng giống như một trại giam vì còn phải sưu tra về lý lịch, chỉ sau khi gặp phái đoàn các quốc gia nhận cho đi định cư thì lúc đó mới chính thức trở thành tỵ nạn, thành ra tổ chức trại cũng giống như một trại tù: Trưởng trại, An ninh và hệ thống trật tự gồm những người thanh niên qua đây nhưng không có diện đoàn tụ nên bị phái đòan từ chối còn gọi là bị “đá”, phải sống lây lất một thời gian dài học và nói được tiếng Thái để sinh tồn, rồi bị dụ vào làm trật tự để lấy credit hy vọng được cứu xét, làm lâu thành “tinh” quên mất thân phận mình và sinh ra lắm tệ đoan, lợi dụng vai trò trật tự hống hách, hù dọa các đồng hương tỵ nạn mà kiếm chác.

 
Ở tù cs quen rồi nên không khí ở đây đối với tôi vẫn là Thiên đường, một hôm đang đi qua một khu vực thấy một nhóc trật tự đang la lối mắng mỏ bà con toàn những người lớn tuổi, đáng tuổi cha mẹ, thấy bất nhẫn quá tôi lại nổi máu điên:

- Này thằng kia, ra đây tao bảo.

Nghe gọi cu cậu khựng lại và ngạc nhiên. Như là chưa bao giờ gặp ai lại dám có thái độ như vậy, hắn hất hàm:
- Gì đó?
- Mày qua đây bao lâu rồi?
Trừng trừng nhìn tôi hắn trả lời cộc lốc:
- 3 năm
- Mày qua đây 3 năm, thế mày có biết tao là ai không?
Hơi ngây người, nghĩ một hồi:
- Không !!!!”
Tôi quắc mắt và gằn giọng:
- Ở đây 3 năm mà mày không biết? Bây giờ tao hỏi lại lần nữa, mày có biết tao là ai không?

Nhìn nét mặt ‘ngầu pín” của mình hắn bắt đầu hơi nhờn nhợn:
- Dạ, dạ không.

Lúc đó tôi mới vỗ vai hắn:
- Làm sao mày biết tao là ai được… Tao còn không biết tao là ai (?) thì làm sao mày biết…
 
Sau đó tôi đã dẫn cu cậu đi uống café và khuyên nhủ, giải thích nên đối xử tử tế với bà con, nhờ vậy sinh hoạt cũng thoải mái hơn.

Trại được điều hành bởi Cao Ủy Liên Hiệp Quốc (UNHCR) mà các nhân viên đa số là người Thái, những người có trình độ học thức hay tay nghề đều muốn làm việc thiện nguyện, một phần để giúp đỡ đồng bào, đồng thời có credit để có cơ hội được cứu xét đi định cư dễ dàng và nhanh hơn.

Tình cờ tôi được anh bạn giới thiệu cho một job mà người phụ trách sắp chuyển qua Bataan (Phi), anh tên Thạch và job này mang cái tên rất là đặc biệt “ MAP MAKER”, hiểu theo nghĩa đen là “Người làm Bản đồ”.

Nhưng đó chỉ là một danh từ ngụy trang, thực chất của nó chính là: “ỦY BAN BÀI TRỪ HẢI TẶC” mà Tổng hành dinh nằm ở Bangkok, cứ mỗi tháng có một người Mỹ tên HENRY vào gặp tôi, ông đưa cho tôi mấy tấm HẢI ĐỒ và nhiều xấp tài liệu của tháng trước, mỗi xấp là một chuyến Thuyền nhân đã bị Hải tặc, trong đó ghi lại những cuộc thẩm vấn các nạn nhân, như rời VN lúc nào, đi hướng nào, gặp trục trặc gì, khi nào thì gặp hải tặc..v..v..

Từ những chi tiết đó công việc của tôi là dùng sự suy luận để vẽ lộ trình và xác định tọa độ nơi gặp hải tặc, tháng sau ông ta vào tôi giao kết quả và nhận hồ sơ mới. Kết quả đem về Bangkok, qua những tọa độ mình chấm, họ sẽ khoanh vùng và xem Hải cảng nào ở gần đó nhất, sẽ là nơi xuất phát của Hải tặc, rồi tổ chức một chiến dịch tảo thanh mang theo những nạn nhân giả làm dân Thái, trà trộn trong đó để nhận dạng mấy tên hải tặc đã từng hiếp và cướp, chiến dịch này đã tạo ra được rất nhiều kết quả khả quan.

Mỗi lần đi làm việc, nhân viên Cao ủy gặp, cứ gọi tôi là Mr Map Maker, một hôm Ông Phó Cao ủy mời tôi lên nói chuyện, vừa ngồi xuống ông nói:

- Mr Map Maker, Tôi nhờ anh một chuyện được không?
- Vâng ông cứ nói.

- Thời gian tới Ông Bộ trưởng Tư pháp ở Bangkok sẽ xuống đây thanh tra, tôi muốn nhờ anh làm một bản Thống kê trong năm 1986 có bao nhiêu thuyền nhân VN qua đây, xuất phát từ đâu đến đâu, mỗi lộ trình bao nhiêu người…..? Hai tuần cần làm cho xong.

Nghe tới đây trong lòng cảm thấy tan nát rồi, từ khi lọt lòng mẹ có bao giờ đụng tới nó đâu, bây giờ phải lôi một “núi” hồ sơ ra ngồi đếm thì từ chết tới bị thương mà thôi, nhưng vì tự ái của thằng “Điên” tôi vẫn phải nói cứng:

- I’ll try my best.

Ra về tôi thẫn thờ nằm vắt trán tìm cách hoàn thành cái việc trời đánh thánh đâm này, sau 2 ngày “suy tư” nhớ về quá khứ từ khi đi học rồi đi lính tôi sực nhớ đến sư phụ dạy Sử Địa và cũng là bác của mình là Giáo sư Trần Hữu Quảng đã chỉ cho tôi cách vẽ bản đồ, tại sao phải làm một bản thống kê bằng ngoại ngữ lòng thòng trong khi vốn Anh văn chưa đủ để sỉa răng….

Thế là tôi lấy tờ giấy đánh máy, kẻ ô bằng số ô trên tấm Hải đồ, rồi copy lại bản đồ Đông Nam Á, từ khổ 1 thước bây giờ thu nhỏ lại thành trang giấy học trò, vừa vẽ xong thì viên Sỹ quan trưởng ban An ninh trại đi ngang qua nhìn thấy tấm bản đồ, lại gần cầm lên xem, hắn trừng mắt nhìn tôi:

- Làm sao anh làm được cái này?
Tôi nhún vai:
- Vì tôi là Sỹ quan.

Nghe vậy hắn tự động bỏ đi. Sau đó tôi bắt đầu lục các hồ sơ thuyền nhân năm 1986 phân ra từng nơi xuất phát (Rạch Giá, Phú Quốc, Vũng Tàu.v..v…) rồi qua đến Songkla hay Phanatnikom… Tính ra số liệu tổng quát, số liệu từng lộ trình, tỷ lệ phần trăm, rồi chỉ việc kẻ những đường lộ trình, lấy bút màu Highlight và ghi những số liệu cùng tỷ lệ bên mỗi lộ trình rồi “Giao hàng”.

Sau khi Bộ trưởng về lại Bangkok, ông Phó Cao Uỷ mời tôi đi ăn và tỏ ý cám ơn những gì đã giúp ông, ăn xong đang ngồi nhâm nhi thì ông phán cho một câu:

- Can you do me a favor one more thing?
Nghe tới đây là tôi sắp muốn sỉu rồi:
- Vâng, ông cứ nói
- Khi nào qua Mỹ, anh có thể gửi về cho tôi một mớ sách PLAYBOY được không?

Nghe tới đây tôi nhẹ cả người:
- Chuyện nhỏ.

Làn sóng người đến rồi đi vẫn tiếp tục, một hôm đang làm, ra nghỉ xả hơi, những người mới tới đang chờ ở ngoài đợi kêu tên vào làm giấy tờ, thấy một người đang ngồi ủ rũ “suy tư”, nhìn là biết ai rồi, tôi lẳng lặng đến gần giả giọng Cán bộ TKS:
- Anh tên gì?
Người đó giật mình ngửng lên:
- Tôi tên Loan
- Gì Loan?
- Ơ, Trần Văn Loan
- Phải Loan K.23 không?

Người ấy trố mắt nhìn kỹ lại:
- Mày hả Trung?

Bèn dẫn ông anh vào làm thủ tục cho lẹ.

Cũng một lần ở Bataan, đang làm ở JVA, lù lù một ông Tù Trưởng đi vào, hóa ra Hung thần TĐT/TKS Đợt 1 Trần Vĩnh Thuấn K.23:
- Ủa NT tới hồi nào vậy?
- Mới hôm qua, tôi ở Vùng 2
- Hèn gì tôi còn một cái ở đây ai dè của NT.

Làm thủ tục lý lịch có bà xã của NT đứng cạnh, tôi hỏi:
- Anh chị có mấy cháu?
- 6 đứa

Vừa nghe xong tôi ngửng lên, trợn mắt, cau có:
- Trời... đẻ gì đẻ dzữ dzậy? Làm hai ông bà nhìn nhau bẻn lẻn cười.

Phải công nhận thời gian tỵ nạn là thời gian vàng son, chưa phải lo sinh kế, chỉ lo học và chuẩn bị để thích nghi với cuộc sống mới sau này, và cũng ở đây không khí sinh hoạt trong tình VB, Chiến hữu thật là hài hòa và ấm cúng, với các NT và NĐ như K.19 (Ng, Nho. , Ng. Phùng Trọng), K.20 (Trần Kim Bảng, Ng.V.Huân, Lê.V.Phương, Ngọc), K.23 (T.V.Loan, T.V.Thuấn), K.27 (N.V.Xuyên, N.V.Gương), K.28 (N.M.Thu,Trương Thành Minh), K.29 (Trịnh Xuân Ngọc), K.31 (Nguyễn Xuân Quý)

Cùng khóa thì có Hà Quốc Hùng, tên này chỉ vì cái tội vô tình ở cùng trại nên sau này qua Mỹ tôi đã lôi đầu ra bắt làm phù rể. Ngoài ra còn NT Diên K.10 và thầy Bội thuộc khoa Anh văn.

Thời gian trôi mau, lần lượt người đi, người đợi.

Đối với những Cựu Quân Nhân có diện đi Mỹ, khi lên làm việc với phái đoàn Mỹ phải qua 3 Cơ quan: JVA, EAO và INS.

JVA chỉ phụ trách về thủ tục giấy tờ, lý lịch rồi chuyển qua EAO là cơ quan quan trọng nhất phụ trách về Nhân chủng học, kiểm chứng xem mình là thứ thiệt hay “dzổm”, đi hay bị “đá” là do nơi đây. Có những trường hợp tưởng chắc ăn, cuối cùng lại thua, như trường hợp một vị Th/Tá có đầy đủ giấy tờ, ngoài ra bên mình lúc nào cũng kè kè một folder gồm giấy tờ về huy chương, giấy ban khen của Tướng lãnh, bằng tốt nghiệp..v..v.. ai thấy cũng phát thèm. Hôm lên gặp phái đoàn gồm một nhân viên Hoa Kỳ và một Nữ Quân Nhân Việt nam rất giỏi và có uy tín, người ta vẫn gọi là Bà Thuận, khi được gọi tên, vị Th/T này bước vào, không thèm chào một câu, vất cái folder lên bàn cái “bịch”, tự động kéo ghế ngồi. Bà Thuận ngồi im không nói, đợi ông ta ngồi xuống bà mới cất tiếng:

- Tôi đã biết tất cả về anh, nhưng nếu mà ngày xưa một người thuộc cấp vào trình diện mà không chào rồi tự động kéo ghế ngồi thì không biết anh có cho họ ăn một cái đá từ dưới lên trên không? Tôi nghĩ rằng đó không phải cung cách của một Sỹ quan nhất là cấp tá, mời anh ra ngoài đợi.

Mọi người đang xếp hàng đợi đều “teo” hết, gặp bà chằng rồi. Nhưng sau đó Bà Thuận đã ra trấn an mọi người, ngày hôm đó mọi người đều được nhận, kể cả những người bị đá lúc đầu cũng được nhận lại, chỉ trừ có mình vị Th/Tá kia là rớt đài, kể cũng là bài học về nhân cách.

Giai đoạn cuối cùng là cơ quan di trú INS, qua khỏi EAO là đã được 8, 9 chục phần trăm rồi, nhưng cũng phải coi chừng ngựa về ngược. Bàn làm việc gồm một người Mỹ và một người thông dịch viên, người Mỹ đều nói được tiếng Việt nhưng chỉ khi nào cần họ mới nói. Câu hỏi đầu tiên luôn luôn được đặt ra là: “Nguyên nhân nào khiến ông/bà bỏ nước ra đi?”

Có những trường hợp “ngoại lệ” xảy ra cũng vui, như có một cựu quân nhân khi vảo, với câu hỏi đầu tiên, muốn chứng tỏ cho người Mỹ biết mình cũng nói được tiếng Anh:

“I’m very poor Sir, my life is… 3 DOWN, 7 UP, 9 UP and DOWN”
“Tôi khổ lắm ông ạ, cuộc đời của tôi nó…3 CHÌM, 7 NỔI, 9 cái LÊNH ĐÊNH” vừa nói tay ông vừa chỉ xuống, chỉ lên và uốn lượn, thế mà Mỹ cũng hiểu và cho ông pass.

Còn lần tôi lên INS sau khi qua khỏi EAO (cũng nhờ còn giữ lại căn cước Th/Úy lúc mới ra trường) và thấy chắc ăn rồi, khi cô thông dịch hỏi:

- Nguyên nhân nào khiến anh bỏ Nước ra đi?
- Tôi đâu có bỏ Nước ra đi, tôi theo nước qua đây mà...

Ông Mỹ trợn mắt, hỏi ngay tiếng Việt:
- Nước nào?
- Nước Biển….

Ông phì cười, lấy ngay con mộc đóng vào tờ giấy:
- Thôi đi đi cha nội…”
A20 Bùi Đạt Trung (BĐT/BĐ/Người Nhái K.25)
 
 
Vào thời điềm 1984; lúc đó tôi đang ở trại B của A.20 Xuân Phước, những đặc tính thường xảy ra với các trại là: chuyển trại, chuyển nhà hay chuyển "Đội". Mục đích để hóa giải những âm mưu nổi loạn hay vượt ngục cùng những lý do khác....
Thời gian lạnh lùng trôi đi, "Lịch" cứ mỗi ngày mỗi chồng chất không biết khi nào ngừng. Lúc đó một đội Tù gồm 3 Tổ, điều hành đội gồm Đội Trưởng, Đội Phó,Thư ký và 3 Tổ Trưởng.

Sau một lần chuyển đội, hệ thống điều hành, sinh hoạt cũng thay đổi theo. Lúc đó ĐT là Lưu Kim Long, một cựu Đ/U Cảnh Sát, ĐP là Phạm Văn Thận là Th/U, rất thân với tôi, cả 2 tuy còn độc thân nhưng đùa với nhau: "Sau này tôi với Ông sẽ làm Sui Gia với nhau,O.K?". Thế là mỗi lần găp nhau cứ gọi nhau "Ông Sui, ông Sui..." òm cả tỏi làm mọi người phì cười,  "Sao tao mệt với 2 cái thằng SUI này quá..." Sau này qua Mỹ cả 2 đứa mới lập gia đình, khi bắt liên lạc với nhau, mỗi lần gọi phone tôi đều ân cần hỏi thăm: "Này ông Sui, con DÂU tôi nó đã bỏ TÃ chưa ????"

Sau khi chuyển đội, nhân số không thay đổi bao nhiêu nhưng tổ 3 của tôi lại thiếu Tổ trưởng, trong đó có NT của tôi là anh Năm Tấn K.14VB, Tr/Tá Pháo Binh, Trịnh Đình Lâm giáo chức, Hồ Hoàng Khánh Tr/sĩ Người nhái, con Võ sư Hồ Cẩm Ngạc, Nguyễn Thanh Tùng một tù nhân Chính trị bị bắt vì tội chống phá vẹm, ăn cơm chung với Ngọc Đen.

  Lúc đó ông Sui tới gặp và cầu cứu nhờ tôi làm Tổ trưởng Tổ 3, vừa nghe xong tôi dãy nảy liền "Ối giời! ông Sui tính làm tê liệt cuộc đời và sự nghiêp  của tôi sao? Sau này nếu có lỡ dại ra tranh cử Tổng Thống chả lẽ tôi lại khoe: Năm 37 tuổi Cụ đã từng làm Tổ trưởng Tổ 3 Đội 21 tại trại tù A.20 Xuân Phước... Nghĩ tới viễn ảnh đó là tôi hết Điên luôn"

 "Không phải, kêu mấy cha kia, ai cũng né hết, mà không né thì mình cũng không yên tâm, mình cần người biết duy trì được hòa khí và tinh thần của mọi người với nhau." Giằng co mãi cuối cùng cũng phải chiều lòng ông Sui (nếu không mất mẹ nó con Dâu...)

Thế là một trang sử thử thách mới bắt đầu lật qua, công việc điều hành thì không có gì nặng nhọc, chỉ có đầu óc luôn phải chuẩn bị để đối phó với những gì xảy đến.

 Thử thách đầu tiên: Vào dịp chuẩn bị đón Tết, trại chỉ thị thực hiện một tờ Bích báo với sự đóng góp bài vở của các "trại viên", thế là ban trật tự thi đua liền ra chỉ tiêu cho các nhà, các đội làm sao nộp cho đủ 100 bài thơ, văn gì cũng được, theo hệ thống quân giai phân phối từ trên xuống dưới thì mỗi tổ phải góp 2 bài, một tin sét đánh ngang tai, mình đã thuộc loại VÕ chứ không phải VĂN, nhất là viết bài "bốc thơm" thì lại càng không phải nghề của chàng, buổi tối ngồi sinh hoạt hàng tuần với tổ, tôi bắt đầu năn nỉ mấy ông tổ viên, nhất là thầy giáo Trịnh Đình Lâm đúng nghề của chàng, chỉ cần làm bài thơ con cóc, vô thưởng vô phạt nộp đủ chỉ tiêu thế là xong. Rốt cuộc điều phũ phàng đã xảy đến, tất cả đều "khẳng khái" từ chối...

Buồn quá hôm sau tôi khai bệnh xin nghỉ một ngày, tình hình lúc đó nghỉ ở trại chúng không cho đi lang thang mà gom mấy tên khai bệnh vào một nhà, khóa lại chờ các đội đi về mới mở cửa, hôm đó tôi mang theo mấy gói mì qua để "nấu nướng linh tinh" và tán gẫu với nhau, lần này gặp ngay Thầy Đạt, một tu sĩ Phật Giáo ở chung trại Hàm Tân và ngủ cạnh nhau,Thầy đặc biệt 2 bàn chân đều có 6 ngón, Thầy cũng thuộc loại ba gai có hạng, về khoản cãi cọ tay đôi với Vẹm thì khỏi chê, tôi còn nhớ Thầy nằm ngay cửa sổ, cứ 2,3 giờ sáng Thầy thức dậy lẳng lặng ngồi giữa mùng và cửa sổ hướng ra ngoài, ngồi theo kiểu thiền nhắm mắt và âm thầm tụng kinh, lúc đó một tên võ trang đi tuần xung quanh, ngang qua đó thấy Thày đang ngồi, đứng đối diện nó hỏi: "Này anh kia, anh đang làm gì đó?". Thầy vẫn nhắm mắt tiếp tục tụng kinh không trả lời. Nó hỏi đến hơn chục lần vẩn im lặng y chang, tức quá nó bèn xổ bựa: "Này thằng kia ! Mày đang làm gì đó ???". Lúc đó thầy mới từ từ mở mắt ra: "Tại sao cán bộ gọi tôi là mày?" "Ừ, tao gọi mày là mày, mày đang làm gì đó ???"
 "Nếu cán bộ gọi tôi là MÀY thì… TAO cũng gọi MÀY là MÀY !!!!!!!"
Thế là 21 ngày Biệt giam thoải mái.....

 Trở lại câu chuyện, gặp nhau Thầy cười: "Hê Điên, hôm nay bị "Liệt" hả ?"
 "May quá hôm nay có Thầy ở đây thật đỡ buồn, lát nữa mời Thầy ăn sáng với tôi."
Thầy nhận lời, sau khi ăn sáng xong ngồi tán gẫu, chợt nhớ đến vụ bích báo và Thầy cũng thuộc loại thơ văn cao cường. Tôi liền hỏi thầy có biết vụ bích báo không,Thầy nói biết chứ, mừng quá tôi liền cầu cứu :"Thầy có thể cứu tại hạ bằng 2 bài thơ con cóc, vô thưởng vô hại được không? Để nộp cho tụi nó cho xong nợ." Nghe xong Thày cười: "Chuyện nhỏ".

Tôi liền đi kiếm giấy bút đưa cho Thầy, quả thật chỉ trong thoáng chốc,"ngoáy" một cái đã xong 2 bài thơ, đọc thấy cũng hay mà chả liên quan gì đến bọn kia, thế là hí hửng "Giao hàng", thường thì 100 đâu có đăng hết, nó đã trừ hao rồi nên 100 chỉ lấy 50 thôi sau khi đã lọc lựa, thiên bất dung gian, sau khi lọc lựa xong rốt cuộc 2 bài của mình lại được chọn đăng lên đúng là cười "té ghế"......

Một lần khác vì thời tiết mưa gió thất thường trại không cho ra ngoài lao động,
bắt tập trung trên hội trường ngồi chờ cho đến hết giờ mới cho giải tán, trực trại
là một tay sĩ quan cán bộ tên Tiến cấp bậc Tr/úy thuyên chuyển từ Nam Hà vào, tay này thuộc loại Võ biền nên cung cách có phần "phổi bò" hơn mấy tên khác, đỡ nham hiểm. Một hôm muốn đổi không khi, hắn bắt tất cả ra tập họp và tập cơ bản thao diễn, muốn khoe cái tài chỉ huy, điều động của mình và chỉ cho các đội trưởng, tổ trưởng cách hướng dẫn về CBTD.

Khi nghe hắn đứng ban lệnh tôi thật ngạc nhiên vì ngược hẳn với cách thức của QL/VNCH, ban lệnh thường có 2 phần: Dự lệnh và Động Lệnh, phần ĐL được nhấn mạnh và hô to, thí dụ "Thao diễn....NGHỈ" còn bên kia thì "THAO DIỄN......nghỉ", giống như đang Gia Tốc thành Gia Giảm.
Sau đó hắn cho đội đi tới đi lui một hồi rồi bán cái lại cho mấy ông trưởng thay phiên nhau điều khiển còn hắn đứng quan sát, đến phiên mình ra điều khiển tôi nghĩ trong đầu: "Hôm nay mày gặp thứ thiệt rồi con ạ,
ông cho mày biết thế nào là CBTD." Thế là tôi điều khiển hoàn toàn theo
lối của mình, mà trong đội đa số cũng là Quân nhân nên không ai bỡ ngỡ hết,
thế là cả nhóm đi như trong quân trường, răm rắp như đang diễn hành vậy, quay phải, quay trái, đằng sau, đều cùng nhịp hết, tên Tiến lừ lừ nhìn tôi, hắn có vẻ hơi quê độ nên lặng lẽ bỏ đi.

Nỗi cực hình của các Tù nhân cs không phải lao động, mà là mỗi thứ 6 hàng tuần phải ngồi họp phê và tự phê, bình bầu cá nhân xuất sắc, đầu tiên là họp các tổ riêng sau đó mới họp đội, có nhiều tổ sản sinh ra nhiều ông "8" phát biểu lia chia có khi tới nửa đêm chưa xong. Tổ của tôi thì rất lý tưởng, được quy tụ toàn những "Đầu gối" sịn nên mỗi lần họp chỉ chừng 5 phút là xong: "Vâng báo cáo anh, quá trình lao động trong tuần qua tôi nhận thấy tổ chúng ta đều tích cực cải tạo lao động tốt, không có biểu hiện một tiêu cực nào cả, riêng về cá nhân xuất sắc, theo sự quan sát và nhận xét của cá nhân tôi thì anh C lao động rất xuất sắc nên đề nghị (kỳ này) chúng ta bầu cho anh C là CNXS, có ai có ý kiến gì không ? (im lặng) Như vậy chúng ta đã nhất trí và bây giờ giải tán chờ họp đội...."

Trong khi đó bên tổ 2 do anh Tân (T/U cảnh sát) thì đang bình bầu sôi nổi và căng thẳng để rồi xảy ra "biến cố", trong đám tù thường có 2 nhóm, một nhóm thì "an phận" còn nhóm kia thì "Quậy" phá bĩnh, tà tà,"trây lười lao động", khai bệnh liên miên. Bên nhóm an phận thì có anh Nguyễn Văn Bàng bị bắt trong nhóm Hòa Hảo ở Long Xuyên. Anh là một người nông dân thuần túy, mộc mạc, chất phát, có vợ con mà nghèo quá nên gia đình không có khả năng thăm nuôi anh chỉ có một ý nghĩ đơn sơ duy nhất là "Lao động tốt, cải tạo tốt" để được về sum họp với gia đình. Còn bên kia thì có "siêu quậy" Nguyễn Tú Cường chủ trương CNXS nên chia phiên nhau cho đồng đều và cùng chia xẻ với nhau, nhưng anh Bàng không chịu: "Trong tổ này tôi là người lao động và đạt năng suất nhiều nhất cho nên tôi bắt buộc phải là CNXS".

Lời qua tiếng lại đưa đến ẩu đả nhưng mọi người ngăn kịp, tuy vậy sự ầm ĩ này đã không "Ếm" được vì xung quanh còn có các đội khác và "Tai mắt" cũng khá nên sự việc phải đem lên bàn mổ.

Vào buổi họp, ĐT và ĐP chưa biết giải quyết ra sao bèn nghĩ ra kế sách bán cái cho các tổ trưởng lên tiếng trước nhờ đó mới chôm được ý tốt, nhìn hoàn cảnh này tôi hơi ngao ngán, quay qua ngó Tùng nói nhỏ "Lại đầu gối nữa thôi", nhờ tổ 3 nên tôi còn có thời gian soạn bài diễn văn, trong khi 2 tổ trưởng kia đang phát biểu (Cò Dung tổ 1, Cò Tân tổ 2) thì tôi nẩy ra một bài diễn văn "Huề vốn"...
"Anh tổ trưởng tổ 3 có ý kiến gì không ?" Tôi bèn đằng hắng lấy hơi rồi nói :
"Thưa các anh, qua sự kiện đáng tiếc vừa xảy ra giữa anh Bàng và anh Cường tôi xin có ý kiến như sau:
- Về anh Bàng, như chúng ta đều biết anh là một người có sức khỏe tốt và lao động xuất sắc đạt năng suất rất cao,vượt trội hơn ai hết, thì khi anh nhận mình là CNXS thì điều đó rất đúng, anh xứng đáng được như vậy....
- Còn về anh Cường, một người sức khỏe hơi yếu, thường phải khai bệnh để có thuốc uống, và anh cũng nhận mình xứng đáng là CNXS thì tôi thấy điều đó cũng không có gì là......SAI !!!!!
   Vì chủ trương của đảng và nhà nước không đánh giá việc cải tạo, lao động qua yếu tố sức khỏe mà đánh giá ở yếu tố "Nhiệt tình lao động", anh khỏe thì anh làm nhiều, tôi yếu thì tôi làm vừa với sức của tôi thôi, nhưng Nhiệt tình Lao động thì không ai thua ai cả.....
Nhưng có một điều ở đây, các anh và tôi đều có chung một ước mơ mà tôi nghĩ đó là ước mơ đẹp: Một ngày nào đó chúng ta cùng khoác vai nhau, bước ra cổng cùng một lúc, đó chính là dấu ấn không bao giờ phai nhạt trong cuộc đời còn lại của mỗi người trong chúng ta, xin hết"

 Vừa nói xong, nhìn lên thấy nét rạng rỡ của 2 ông ĐT và ĐP: "Tôi rất đồng ý với ý kiến của tổ trưởng tổ 3...". Trong khi đó quay qua bé Tùng tôi lắc đầu nói nhỏ: "Sao tao mệt quá....". Thằng Bé cứ tủm tỉm ......

 Qua đây chúng ta thấy rằng làm chức sắc trong tù không phải là cái tội, đó chỉ là bất đắc dĩ không có lựa chọn nào khác, một đội toàn cấp Tướng,Tá. Anh có tìm đâu ra một anh cấp Úy hay Hạ SQ để bán cái làm chuyện đó. Điều chúng ta muốn nói, làm chức sắc nếu vẫn giữ được Nhân Cách, Danh Dự, duy trì được Hòa Khí và Tinh Thần Đoàn Kết với nhau thì đó cũng là CHIẾN ĐẤU.
 
16. Khi Chén Kiểu Đụng Chén Sành
 
Sau 1975, ai cũng biết, đa số người miền Bắc ồ ạt vào Nam hơn là dân miền Nam ra Bắc. Ngoại trừ những nhân vật đặc biệt với công tác đặc biệt có giấy phép, còn hầu hết thường dân bị cấm, nhất là đối với thành phần “ngụy quân, ngụy quyền” như tôi.
Cho đến khoảng năm 1979-1980, lịnh cấm ra Bắc vẫn còn hữu hiệu. Tôi, do một nhân duyên, bà con phía chồng cũng như nhà mình đều ở ngoài Bắc. Tôi có người anh họ bên chồng sau 1975 vào Sài Gòn làm cơ quan nhà nước. Anh lại là trưởng đoàn trong chuyến công tác ra Bắc năm đó. Nhờ vậy mà tôi xin quá giang anh (xe tải) ra Bắc thăm chồng cải tạo. Anh làm cho tôi một giấy công nhân gõ rỉ của nhà máy theo đoàn công tác.
 
Để có bạn, tôi rủ thêm chị Nga, con dâu nhà văn Hoàng Đạo (Tự Lực Văn Đoàn). Chị có chồng cải tạo Hà Nam Ninh, và cũng mang giấy giả mạo như tôi do người nhà tôi giúp chị. Chuyến xe dong duổi cả tháng trời ngoài đường như du mục từ Sài Gòn ra tới Hà Nội. Tôi và chị trải một cuộc sống bụi đường lẫn… bụi đời, ngủ trên tấm ván kê trên những thùng phuy, hay lủng lẳng đu đưa trên chiếc võng máng móc vào thành xe.
 
Dọc đường, để tiết kiệm chi phí, và cũng để tỏ lòng cám ơn cho quá giang xe, tôi và chị tình nguyện làm “chị nuôi” nấu ăn cho đoàn (bảy người). Tôi làm sẵn một xô dưa cải muối mang theo. Ngoài những lúc bất đắc dĩ vào quán ăn, xe tắp vào một thị trấn, ghé chợ mua tí thịt, cà chua, củi lửa… rồi tìm một sân vườn nhà dân xin bắt bếp nấu ăn. Bếp chỉ là ba viên gạch hoặc kiềng sắt ba chân. Thế là chúng tôi có bữa cơm ngon: Một nồi canh dưa cải chua vàng vàng lẫn màu đỏ của cà chua, tí xanh xanh của hành ngò; ăn kèm rau sống. Vậy cũng là sang trọng, ở cái thời gạo châu củi quế.
 
Ra tới miền Bắc, sau khi tôi và chị hoàn thành xong việc thăm nuôi chồng, cả hai tự túc đi xe lửa ra Hà Nội, hẹn với đoàn tại nhà một giáo sư đại học, bà con chị Nga. Hai chúng tôi tạm ở đó. Trong khi chờ đoàn xe công tác Hải Phòng, Bắc Ninh xong trở lại đón, chúng tôi lại có công tác mới do đoàn giao phó. Số là khi ra Bắc, để kiếm tí tiền trang trải ăn tiêu, anh em trong đoàn mua dừa xanh giấu ở lòng xe tải; với một số khá lớn rổ rá bằng nhựa. Toàn là những tay bất đắc dĩ không biết làm ăn, không rành thương mại. Dừa xanh ra tới Bắc hư gần hết phải đổ đi. Rổ rá kềnh càng bán chả được bao nhiêu lời. Số vốn thu được, anh em nhờ tôi và chị Nga ra chợ Đông Xuân mua khoai tây để khi về mang vào Nam bán. Nhưng rồi khoai tây về đến nơi, thúi gần hết, lại đổ!
 
Suốt thời gian ở Hà Nội, trong nhà bà con chị Nga, tôi có dịp chứng kiến cuộc sống dân miền Bắc dưới chế độ XHCN. Vợ chồng anh chị Vĩnh, người mà chúng tôi xin tá túc, được đánh giá là thành phần trí thức của Hà Nội. Anh là giáo sư đại học; chị là giáo viên tiểu học. Anh chị được cấp một căn phòng ở tầng trệt trong căn nhà tập thể có hai tầng. Căn nhà không lớn lắm, cũ mèm, dành cho bốn hộ. Tầng trên hai hộ, tầng dưới hai hộ.
Căn phòng anh chị chỉ kê được một sofa nhỏ, một bàn con, vài chiếc ghế đẩu vừa tiếp khách vừa dùng ăn cơm. Anh chị bắc ván gỗ làm thêm gác xép, thấp lè tè, làm phòng ngủ. Lên đó chỉ có thể ngồi mà không đứng được. Anh chị trải chiếu gần chỗ anh chị nằm dành cho tôi và chị Nga. Sát vách phòng anh chị là mẹ con bà Huých, hàng xóm, được ngăn bởi liếp tre. Cứ ở trên căn gác nhìn xuống và qua cái liếp tre là nghe thấy hết mọi sinh hoạt của hai mẹ con bà.
Một buổi sớm tinh mơ, trời miền Bắc sắp vào Xuân se lạnh. Nằm cuộn mình trong chiếc chăn ấm, lòng nhẹ thênh thang, nghe tiếng rao lanh lảnh của người bán rong, tôi cảm nhận được nét sinh hoạt thực mà bao lâu nay chỉ đọc qua trong sách vở, trong Tự Lực Văn Đoàn. Bây giờ mới thực sự được thưởng thức: Ai bánh khúc nào? Ai xôi vò nào? Ai bánh cuốn nào? Ai… Tiếng rao ngọt ngào, trầm bổng, mời gọi như hót, dễ thương làm sao. Chỉ nghe đã thấy ruột gan lăn tăn réo gọiGiữa lúc tôi và chị Nga còn nằm nướng, xeo xéo ở góc gác, vợ chồng anh chị Vĩnh hình như cũng đang ngủ vùi, bất chợt giọng bà Huých cất lên, lanh lảnh: “Tiên sư bố nhà chúng nó. Cứ dòm… dòm… dòm…! Nhà bà chỉ có mỗi thằng bé. Lâu lâu nó đưa bạn gái về nhà chơi. Chúng có ‘làm ăn’ gì thì cũng như chúng mày làm, có khác gì nào, mà cứ rình mò?!”. Tôi giật mình đưa mắt nhìn quanh quất xem bà chửi ai. Vẫn không nghe động tịnh. Chỉ có tiếng bà tiếp tục hung dữ cất lên, phá tan sự tĩnh mịch.
Vẫn điệp khúc: “Tiên sư bố”… và “dòm… dòm… dòm…”, bà lặp đi lặp lại dai dẳng. Tuy chửi nhưng âm điệu lên bổng xuống trầm, có vần có điệu. Bỗng nhiên, có tiếng sột soạt chiếu kế bên. Chị Vĩnh ngồi dậy, quay mặt nhìn xuống nhà hàng xóm: “Này, tôi nói cho mà biết nhá. Mới sáng sớm hãy để cho mọi người ngủ nhá. Nhà chúng tôi không rỗi hơi đi dòm con bà đâu nhá. Bà có câm mồm đi không nào?”.
Lời nói của chị Vĩnh như dầu đổ thêm vào lửa. Bà Huých nổi xung thiên, chửi xối xả một hơi dài: “Tiên sư bố nhà chúng mày. Chúng mày vễnh tai lên, cái tai dài và cao như tai lừa ấy mà nghe bà chửi đây này. Con mắt nhà chúng mày là mắt cú vọ. Cú vọ chỉ một tròng chứ mắt nhà chúng mày đến bốn tròng cơ. Các tròng ấy để mày liếc, mày xéo, mày xiên, mày soi, mày rọi, mày chiếu vào nhà bà. Mày dòm từ hòn cát, mày liếc tới hòn than, mày rọi từng hòn sỏi, mày chiếu tới hòn gạch, mày soi tới cả hòn… thằng con bà…”.
Đến lúc này tôi chưng hửng, mới biết từ nãy giờ bà chửi nhà anh chị Vĩnh trong khi anh chị qua nay không đụng chạm gì tới bà. Tôi thở dài nghĩ tới viễn ảnh cái “thế giới đại đồng” mà nhà nước đang vẽ vời cho miền Nam mình…
“Thế giới đại đồng”
Trước khi ra Hà Nội, tôi vô cùng háo hức, phần được thăm lang quân sau ba năm không gặp kể từ khi anh bị tống ra Bắc, phần sắp thưởng thức nền văn minh XHCN như thế nào mà mỗi tối, sau giờ cơm, tôi cùng lối xóm “được” nhà nước thúc hối mời đi học nếp sống văn minh mới XHCN. Nhưng tới nơi, tôi chưng hửng, đặc biệt khi chứng kiến cái nhà xí tập thể của thủ đô ngàn năm văn vật tại nhà anh chị Vĩnh.
Nhà xí nhỏ như một cái chòi canh bằng gạch, nằm một bên sát tường sân sau, cao tầm một chiếc bàn, có tam cấp để bước lên. Một khoanh cửa nhỏ thấp lè tè phủ một tấm vải thô làm cửa vào nhà xí. Khi bước vào phải cúi gập xuống. Mỗi khi vén tấm màn lên để bước vào thì ruồi xanh, ruồi đen con nào con nấy to bằng móng tay cái bay ào ra. Bên trong là một ụ tro lớn trải rộng, chừa một cái lỗ vừa đủ để…! Hai bên có hai viên gạch để người hành sự đặt chân. Những con giòi mập ú trắng hếu bò lúc nhúc miệng lỗ. Mùi hôi thối nồng nặc. Không hề có nước dội cầu. Mà nhà xí như vậy cũng không cần phải dội. Lại nữa, nước vốn không đủ cho bốn hộ tập thể sống với nhau. Phải tiết kiệm tối đa. Một cái vòi nước khiêm nhường, đặt trước buồng tắm giữa lối đi song song với nhà xí, nhỏ một cách yếu ớt xuống bốn cái thùng của bốn hộ xếp chờ sẵn, cứ đầy thùng này thì đẩy sang thùng khác. Ai muốn tắm phải lo hứng nước trước.
Trở lại cái nhà xí. Bên dưới cái lỗ, có một thùng lớn hứng phân nằm trong hầm cầu, có một cửa nhỏ để mở lấy thùng phân. Khi thùng phân đầy sẽ có ban vệ sinh đến lấy đem làm phân bón. Đường phố Hà Nội thỉnh thoảng gặp những chiếc xe chở phân vung vãi dọc đường. Phân là một trong những “sản phẩm” quí nộp cho hợp tác xã, nhờ đó được tăng thêm điểm để nhận thóc, do vậy, khi một con bò hay trâu phóng uế, người “có duyên” gặp thì hốt ngay bằng tay, chứ chạy về nhà tìm cuốc xẻng, chạy ra là mất.
Một ngày, tôi tìm thăm người cô ruột, em út của ba, mà tôi chưa hề biết mặt trước đó. Cô tôi ở phố Khâm Thiên. Cùng huyết thống nên dù lần đầu mới gặp, hai cô cháu đã cảm thấy gần gũi thân thiết, nhất là cả nhà luôn nói, tôi có khuôn mặt giống cô út. Chồng cô là cán bộ từng du học Liên Xô. Cả hai được cấp một căn nhà riêng diện tích độ 30 mét vuông nằm trong khu tập thể, tên gọi “Khu tập thể đường sắt Khâm Thiên Hà Nội”. Nhà cô tôi, không chung chạ như nhà anh chị Vĩnh, nhưng giếng nước và nhà vệ sinh thì chung với nhiều nhà trong khu.
Dãy nhà xí gồm bốn căn cho khu tập thể nằm chính giữa một khu đất rộng. Gần đó có một giếng nước chung, cách nhà cô tôi khoảng 50 mét. Từ sáng sớm, tôi đã nghe tiếng lào xào của mọi người quanh giếng, kẻ múc nước gánh về, người giặt giũ, tắm rửa… Ì xèo cả lên. Tôi bước về hướng nhà vệ sinh. Trước mắt tôi, trên hành lang nhỏ dẫn vào nhà xí, phân đầy lối đi. Mùi khai thối nồng nặc. Nhà xí này “văn minh” hơn, đúc bằng xi măng, ngồi xổm. Tôi nhìn qua cả bốn nhà xí. Không cái nào khá hơn. Tôi bịt mũi, nhắm mắt… Chao ôi, không thể tả nổi, thế giới đại đồng là đây sao?
Nhà cô tôi diện tích không lớn, nhưng để thực thi chính sách “lao động là vinh quang” và để thêm thu nhập, cô còn nuôi heo. Hai con heo trong chuồng gần sát giường tôi và cô nằm (khi tôi tới, chồng cô… di cư nơi khác, sáng mới về; như anh chị Vĩnh vậy – anh chị phải gởi đứa con duy nhất về nhà ông bà nội, ngoại). Con heo ụt ịt cả ngày lẫn đêm. May mắn là cô tôi tắm rửa heo và chuồng sạch sẽ nên không nghe mùi hôi lắm. Tuy nhiên, tiếng ụt ịt của heo thì chẳng bao giờ ngưng. Tôi thiếp đi trong “tiếng ru” của nó, và lại hãi hùng khi nghĩ về cái “thế giới đại đồng” mà tôi cũng như người miền Nam sắp đón nhận!
Ai “giải phóng” ai?
Niềm háo hức khi sắp ra Hà Nội là được ngắm “36 phố phường” của Thạch Lam với những quán ăn mệnh danh “đệ nhất Bắc Hà” mà Thạch Lam khẳng định… xém là đệ nhất Đông Dương; và những cô gái Hà Thành thanh lịch… Nhưng trước mắt tôi, quán ăn đâu không thấy, chỉ toàn những căn nhà nhỏ hẹp tối tăm nhiều năm không sơn phết. Rồi vài tiệm tạp hóa bán lèo tèo vài thứ gia dụng. Người đẹp Hà Thành cũng chẳng thấy đâu. Không có cảnh “Dập dìu tài tử giai nhân. Ngựa xe như nước áo quần như nêm”. Trên đường toàn xe đạp, lâu lâu mới thấy vài chiếc Honda được mang từ Nam ra. Nam thanh nữ tú đâu cả rồi? Sao vắng bóng?
Trước mắt tôi, tất cả, là những chiếc áo cộc (tập thể mà!) màu trắng hay xanh lơ, cổ bẻ, với quần vải đen. Hầu hết các cô đều thắt bím. Không một ai mặc áo dài (áo dài như trong Nam, với hai tà áo “dư thừa”, đã bị kết án là phí phạm, là tư sản). Đã thế, sự dinh dưỡng không đầy đủ, còn phải “lao động vinh quang”, nên chiều cao đa số rất khiêm nhường.
Một ngày, khi dạo phố, gặp người ngoại quốc, anh họ tôi nhắc: “Đừng đến gần họ, sẽ bị qui là CIA, công an đến còng ngay đấy”. Anh nói thêm: “Ra đây, muốn yên thân, câm mồm là thượng sách”. Trên đường trở về Nam, chị Nga thủ thỉ với tôi: “Thiên đường Cộng sản là vậy sao? Đời sống như thế mà… ‘giải phóng’ miền Nam trù phú nghe sao nghịch lý quá! Đúng là một cuộc chiến ‘chén kiểu đụng chén sành’! Thà trong Nam tụi mình cứ để ‘Mỹ Ngụy kềm kẹp”.
Ngày nay, sau gần 50 năm, thực tế càng chứng minh rõ hơn bao giờ hết. 30/4 chẳng là ngày “giải phóng miền Nam” gì cả. Gần nửa thế kỷ nay, người Bắc vẫn vào miền Nam chứ chẳng “ma” nào trong Nam muốn ra xây dựng sự nghiệp và tìm kiếm cơ hội “đổi đời” ở đất Bắc. Không chỉ vậy, bọn con ông cháu cha bây giờ thèm được Mỹ “kềm kẹp” hơn bất kỳ ai khác. Gần 50 năm qua, miền Nam VNCH đã dạy miền Bắc XHCN vô số bài học. Gần nửa thế kỷ qua, miền Nam đã giải phóng miền Bắc hoàn toàn ra khỏi cuộc sống tối tăm…
Theo SGN News ngày 24 tháng 4, 2022
Hoài Niệm T.TT
 
17. Trả Tôi Sài-Gòn… Hoài Niệm

Trả tôi cảnh cũ Sài-Gòn
Thời gian hạnh phúc thuở còn Tự Do
Sài-Gòn là cả nỗi niềm
Giờ đây đánh mất biết tìm nơi đâu
Sài-gòn vùng đất chân tình                                         
Của người dân việt thanh bình dấu yêu
Trả tôi cảnh cũ người xưa
Lúc còn là *Ngọc lúc chưa đổi đời
Trả tôi hai chữ Sài-Gòn
Để tôi thấy lại đời còn dễ thương
Mặc dầu ngày tháng xói mòn
Nhưng tôi vẫn nhớ Sài-Gòn dáng em
Sài-Gòn nắng ấm tình người
Là vùng đất mẹ nụ cười an vui  
Sài-Gòn là của chúng mình
Của tôi của bạn người tình thân thương
Sài-gòn ơi hỡi Sài-Gòn
Lừng danh châu Á dẫu còn chiến tranh
Mặc dù nay đã mất tên
Lòng người xưa cũ nào quên bao giờ
Sài-Gòn hòn ngọc năm châu
Người xa luôn nhớ những câu chuyện buồn
Nhớ ngày *xập cổng đổi cờ
Miền nam đổi chủ thẫn thờ nỗi đau
Sài-gòn phồn thịnh một thời
Dẫu rằng trắc trở đường đời chênh vênh
Mai đây cờ cũ trở về
Sài-Gòn trở lại … chăng hề mất tên …
Thuyền Qua Lối Cũ
Tuấn TT.  Apr 30 2022  
*Ngọc…Hòn Ngọc Viễn Đông
*xập cổng đổi cờ… Ngày 30/4 chiếc xe Tank của người Miền bắc ủi xập cổng Dinh Độc lập và hạ lá cờ vàng VNCH thay bằng lá cờ máu.
 
 

Mai Văn Phụng K24/Pilot 
18. GỬI EM NGÀY SINH NHẬT

11.4.75- Đôi ngã chia ly. Anh vào trại tập trung quay quắt. Em ở SG hoang mang trông ngóng. Rồi mọi hy vọng sụp đổ ngày30.4, chúng mình khó được gặp nhau.
11.4.76- Anh trong rừng sâu,nhớ về em mùa xuân 26.Thương và buồn cho phần số nợ duyên.
11.4.77- Lại bị xa em,trở về cố lý bị quản chế. Dặm dài xa biệt thân phận lưu đày.
 
11.4.78- Sinh nhật em trong cô đơn vượt cạn,anh trên núi làm việc khổ sai. Con trai chào đời trong nghèo khổ,thiếu vắng bóng cha.
Rồi nhiều nhiều tháng tư nữa trôi qua trong cách trở nghìn trùng,hoặc bị lãng quên do vất vả cơm áo gạo tiền.
Bây giờ...
11.4.2020- Tóc em đã phai màu,lưa thưa xơ xác, tay yếu chân run, Sinh Nhật lại đến trong mùa đại dịch hắt hiu buồn. Anh chẳng biết chúc em điều gì, tặng em quà chi,ngoài tấm lòng yêu em,ơn em bằng lời thơ bình dị sau đây:
 
THƯƠNG EM NGƯỜI VỢ NHỎ(2)
Thương em người vợ nhỏ,
Bốn mươi mấy năm qua,
Chia cay và xẻ đắng,
Nếm ngọt bùi cùng ta.
Thương em người vợ nhỏ,
Tóc mây óng ả xưa,
Qua bao mùa nắng đổ,
Giờ chỉ còn tóc thưa.
Thương em người vợ nhỏ,
Xưa áo lụa dáng mềm,
 
Vượt bao tầng gian khổ,
Thân em gầy guộc thêm.
Thương em người vợ nhỏ,
Dù tàn phá tháng năm,
Nét duyên xưa vẫn giữ,
Tình Yêu chẳng thăng trầm.
Thương em người vợ nhỏ,
Lời ân ái đượm nồng,
Dù qua bao giông tố,
Vẫn thắm nghĩa vợ chồng.
Thương em người vợ nhỏ,
 
 
 
Hơn bốn chục năm qua,
Cùng sớt chia khốn khó,
Xua nỗi buồn dang xa.
Ta không còn lẻ bạn,
U ẩn chất trong lòng,
Đời có em bên cạnh,
Ta đã thoả ước mong.
 
 
 
 
 
 
TẶNG GÌ CHO VỢ?
Tặng vợ quà gì Lễ Tình nhân?
Sáng trưa chiều tối cứ phân vân.
Quà sang nhẫn hột,tiền không có,
Vật mọn hoa khô,vợ chẳng cần.
Đành thôi lơ quách cho xong việc,
Cứ vậy quên đi mới rảnh phần.
Tình nhân tặng vợ Tình yêu cũ,
Một nụ hôn nồng đậm ái ân.
Ảnh st fb

19. Sau ngày cộng sản chiếm miền Nam 
 
Sau ngày cộng sản chiếm miền Nam thì người dân Sài Gòn (và cả nước) không những chỉ đau khổ vì những lần đổi tiền mà còn phải chịu nhưng chia lìa của người thân phải đi tù "cải tạo" mà ngày về thì vô vọng. Vì thế dân SG đã có một tiếng lóng để chỉ đi tù cs là "mút mùa Lệ Thủy" chắc quí bạn nào lớn tuổi hẳn biết điều này.
Miền Nam không chỉ bị cái đói về vật chất mà còn bị một cái đói về tinh thần .Đó là sự nghiêm cấm của cs về việc lưu hành các văn hóa của miền Nam mà chúng gọi là văn hóa đồi trụy, nên các sách báo, truyện kiếm hiệp của Kim Dung, các loại truyện trinh thám,tình cảm cũng đều bị đốt sạch ....Bất cứ ai còn giữ những loại văn hóa này đều bị ghép vào tội phản động và có thể bị "mút mùa Lệ Thủy" Nhà tôi đã bị văn hóa quận xuống khám xét và tịch thu rất nhiều sách quý nhất là các loại tự điển Anh -Pháp ......Hồi đó nghe lén được những bản nhạc ngoại của các ban nhạc nổi tiếng như BONEY- M ,ABBA...được thân nhân từ Mỹ gởi lén về là hết sức thú vị,mặc dù khi nghe những bản nhạc này ở các quán cà phê cũng rất hồi hộp không biết công an nó ập vào hỏi giấy tờ bất cứ lúc nào và có thể bị mời về phường ngủ một hoặc vài đêm.Tôi cũng đã từng bị bắt về phường. Lúc đó nghe phong phanh là công an sẽ đưa tất cả đám thanh niên bị bắt đêm đó đi lao động ở vùng Lê Minh Xuân.Nhưng rất may là đêm đó tôi và một người bạn thân đã bẻ được thanh sắt của cửa tù và ra thoát được.....
Hôm nay nhớ lại ngày xưa khi đang nghe KỶ VẬT CHO EM trong một quán cà phê thì bị công an nó vô hỏi giấy tờ và bị bắt.
********************
 
 
 
 20. "Ký Ức Sơ Sài"
Nguyễn Anh Khiêm (Nguyễn Chí Thiệp - Tango Bui chuyển)

Trong tác phẩm (Ký Ức Sơ Sài) của nhà giáo Nguyễn Anh Khiêm, có ghi lại một câu nhận định của bạn bè tác giả về nơi sinh trưởng của ông: “Này, tao nói thật nghe, Quảng Nam mày mười thằng thì tao thấy hết chín đứa liều mạng rồi. Nói thế cũng không đúng hẳn, tao thấy thật ra là … chín thằng rưỡi!”
Tôi cũng quen biết đâu chừng chục ông/bà Quảng Nam. Nhận xét của tôi về họ thì hơi khác: mười người chỉ cỡ tám kẻ liều mạng mà thôi, hai còn lại thì cẩn trọng và dè dặt hơn (chút xíu) nhưng cũng sẵn sàng bán mạng hay liều mình khi cần.

Nguyễn Chí Thiệp (NCT) thuộc loại này.
Ở trang bìa sau của cuốn Trại Kiên Giam – do Sông Thu xuất bản lần đầu, năm 1992 – tôi thấy in dòng chữ sau: NCT sinh năm 1944 tại Quảng Nam, tốt nghiệp Học Viện Quốc Gia Hành Chánh 1965 – 1969, trường Bộ Binh Thủ Đức 1966, Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt 1970…
Tác giả – rõ ràng – không phải là kẻ liều lĩnh mà là mẫu người của cửa Khổng sân Trình, với tâm niệm tu thân/tề gia/bình thiên hạ. Tuy thế, thay vì theo đúng lời dậy của Khổng Tử (nguy bang bất nhập loạn bang bất cư / không vào nước lâm nguy, không ở nước loạn lạc) cho nó chắc ăn thì NCT lại hành xử khác hẳn. Liều lĩnh hơn thấy rõ!
Dù là một công chức cao cấp của chính quyền miền Nam nhưng ông không chịu di tản ra nước ngoài, và cũng nhất định không chịu “đi trình diện học tập” (như bao kẻ khác) sau khi vùng đất này thất thủ.
Đã thế, NCT còn tính “vào bưng” luôn nữa chớ – theo như lời của chính ông, qua tác phẩm thượng dẫn:
    “Có người móc nối tôi vào tổ chức Phục Quốc, nhưng tôi từ chối vì biết không thể hoạt động ở nội thành – vào bưng để chiến đấu thì không có tổ chức nào có mật khu. Có lần tôi lên Dốc Mơ, để được đưa vào mật khu, không thành …”

Chả trách, NCT bị bắt với tội danh (“tham gia tổ chức phản cách mạng”) tuy không hoàn toàn chính xác nhưng cũng chả oan ức gì cho lắm. Vào tù không lâu, ông đã gặp ngay giáo sư Đoàn Viết Hoạt – một nhân vật cũng vô cùng liều lĩnh dù không hề dính dáng chi đến Quảng Nam – và hai người lại “rù rì” tính chuyện tiếp tục  … vá Trời :
    “Chúng tôi mong được đóng góp và chia sẻ với những anh em trẻ bị bắt trong các tổ chức phục quốc. Giúp họ thêm một phần hiểu biết, cộng với nhiệt tình của tuổi trẻ và lòng căm thù sâu sắc với Cộng sản, để trước hết là những ngày tù không trở nên vô ích, không bị hủy hoại tinh thần trí óc bởi sự nhàn rỗi…
    Thứ nữa, để anh em hiểu biết rằng là tại sao mình chống Cộng và mình chống Cộng để xây dựng cái gì cho đất nước – Lòng căm thù là một động lực để có hành động chống Cộng, nhưng lòng căm thù chưa đủ, và lòng căm thù lại càng không thích hợp cho sự xây dựng…
    Về sau vì số các em càng đông, không thể ngồi nói chuyện được, anh em đề nghị làm tài liệu viết… Chúng tôi bắt đầu phổ biến tài liệu viết, đặt tên là tập ‘Rèn Luyện.

    Thể thức phổ biến là lập các địa điểm hộp thư tại sân khấu hội trường, anh em thân thiết tin cậy được chỉ những hộp thư đó, đọc xong để lại và thống nhất cách khai nếu bị bắt, khai là lượm được tò mò đọc chơi không biết của ai.
    Những anh em có nhiệm vụ ‘lên khuôn’ cố gắng viết chữ in và tránh nét chữ quen thuộc của mình để tránh điều tra phát hiện. Tài liệu ‘Rèn Luyện’ được duy trì cho tới tháng 3-1979, đa số anh em chuyển trại vào khu nhà xây mới chấm dứt.”


Qua tháng 9 cùng năm, khi chuyển đến Trại Trừng Giới A20 và gặp gỡ thêm nhiều bạn đồng điệu (liều mạng) khác thì NCT lại tiếp tục làm báo nữa. Thế là tờ Hợp Đoàn được hình thành giữa chốn lao tù :

    “Trao đổi ý kiến với Trần Danh San và Vũ Văn Ánh, chúng tôi đồng ý với nhau cần phổ biến rộng rãi hơn những hiểu biết ít ỏi về chế độ Cộng sản, về những vấn đề trọng đại của thế giới, để cùng nhau có những cái nhìn xa hơn và sẵn sàng chấp nhận một thời gian tù đày lâu dài, có một niềm tin là chế độ Cộng sản sẽ sụp đổ…
    Hợp Đoàn xem như là một thành công, anh em tiếp nhận đọc rất thận trọng và nghiêm túc. Thực chất nội dung vẫn chưa hẳn là một tờ báo đáng giá gì nhưng vì ở trong tù vừa khó khăn vừa nguy hiểm, mỗi lần Ánh hay Cường viết và lên khuôn tờ báo, những anh em thân thiết đều phải canh chừng và tổ chức đánh cờ chung quanh để tránh sự dòm ngó của ăng-ten, nên công một người thành công của nhiều người. Anh em đọc (cũng) cố bảo vệ nó như người phát hành, vì nếu đổ bể ra thì tất cả đều bị chịu thiệt hại.”
Tất nhiên là phải đổ bể thôi, và sự thiệt hại (xem ra) hơi nhiều – theo như tường thuật của người tù Nguyễn Thanh Khiết, trong cuốn Ký Ức Bỏ Quên:

    Cũng vì tờ Hợp Đoàn mà 1983 có gần 60 mạng vào biệt giam … Tháng 10-1986 Alpha, Nguyễn Chí Thiệp, Trần Danh San, Trần Bửu Ngọc, Ngô Văn Ly, Nguyễn Tú Cường, cùng vài đấng máu mặt bị quăng lên xe đưa về trại T20 (Thành Gia Định).
    Bọn chèo dứt khoát muốn đào tận gốc rễ tờ báo “Hợp Đoàn”. Chính vì thế tại trại giam này, một số các anh được thả từ 1981-82 cũng bị hốt lại, trong đó có mặt những hào kiệt từng làm điêu đứng bọn cai tù ở trại A20, Phạm Đức Nhì, Trần Đức Long, Bùi Đạt Trung, Nguyễn Văn Hiếu, Phạm Chí Thành …
Đến nông nỗi này rồi, và đã qua hơn 10 năm bị giam cầm nhưng NCT vẫn chưa biết sợ. Ông lại vẫn “liều mình” để cứu bạn :

    “Cả đêm hôm đó và những ngày tiếp theo tôi suy nghĩ làm thế nào để cắt vụ án cho gọn và nhẹ, càng ít người dính dáng càng tốt, tôi đã bị Hải và Ly khai quá rõ, chừng đó đối với pháp chế của Việt Cộng cũng đủ buộc tội, dù tôi không nhận.
    Vậy tốt hơn là tôi theo đúng như lời Hải khai, tôi nhận là chủ trương tờ báo… Tôi sẽ cắt phần đóng góp của anh Trần Danh San vì có thêm anh San vào không có ích lợi – kể cả phần của Ánh cũng vậy, tôi sẽ khai giống như Hải, Ánh chỉ là người cộng tác mà thôi. Thực ra, Ánh là người chủ chốt.”
May mắn là Viện Kiểm Sát Nhân Dân đổi ý vào phút chót nên vụ báo Hợp Đoàn được cho chìm xuồng êm thắm. Dù có ngu tối và tàn ác đến đâu chăng nữa, nhà đương cuộc Hà Nội – cuối cùng – cũng phải nhận thức được rằng làm lớn chuyện báo chui (underground press) trong một trại tù thì chả được cái giải gì sất cả, ngoài việc khiến cho thiên hạ thấy rõ thêm tính chất bất khuất của những kẻ thuộc bên thua cuộc.

Nhờ thế, sau hơn 13 năm tù (với nhiều năm biệt giam) NCT được phóng thích vào hôm 13 tháng 2 năm 1988, khi đã ngoại tứ tuần.
Thế là coi như xong một kiếp người chăng?
Chưa “xong” đâu. Dễ gì mà một thằng cha liều mạng cỡ NCT chịu “xong’ như vậy. Bạn học của ông, nhà thơ Luân Hoán cảm thán: Mừng ông, lẽ đương nhiên/ nhất là khi được biết/ ông vượt Trại Kiên Giam/ trở thành người cầm viết.
Tất cả những câu văn trong ngoặc kép (thượng dẫn) đều được trích dẫn từ Trại Kiên Giam. NCT hoàn tất tác phẩm này vào năm 1990, và được xuất bản (lần đầu) vào năm 1992. Thế mà mãi đến ba mươi năm sau tôi mới hân hạnh được cầm đến cuốn sách, và liên lạc được với tác giả. Thực là đáng tiếc, và đáng trách. Tôi mong được ông thứ lỗi vì sự muộn màng và chậm trễ này.

Tưởng Năng Tiến
2/2022
 
 
21. NẾU.....NẾU....!!! 
Trần Trần (Chinh Nhân - fb Cao Thien Hoang)

Nếu ngày đó người vô tình bước hụt
Viên đá buồn chua chát tiễn bát đi
Thì ngày sau đâu còn ai rên rỉ
Cũng chẳng ai oán hận bát làm gì.
Nếu ngày đó người vô tình vọp bẻ
Cận Vệ buồn vì....bị bát kéo theo
Về bên đó cùng hàn huyên tối sớm
Thì ngày nay đất nước đã chẳng nghèo.
Nếu ngày đó Trời thương làm bão lớn
Bát mò đường ngã mẹ xuống vực sâu
Bầy quạ đói, kền kền chào đón bát
Thì giờ đây Quê Mẹ chẳng tủi sầu.
Nếu chiều đó bát vào hang trú ẩn
Thấy con hàng cảnh vệ đã chổng mông
Bát hứng máo nhảy bừa như chó đói
Thượng Mã Phong ngã cái rật là xong.
Nếu...nếu...nếu....mà thôi...thôi đừng nếu
Nếu tỷ lần nữa cũng vậy mà thôi
Nó đã chết, đéo thằng nào chôn hết
Chắc phơi khô, nướng nhậu khỏi mua mồi.
Chinh Nhân
 
22. Ai giải phóng ai ????
 (fb Nguyễn Quang Lập - fb Cao Thien Hoang).
 
"Mãi tới ngày 30 tháng 4 năm 1975 tôi mới biết thế nào là ngày sinh nhật. Quê tôi người ta chỉ quan tâm tới ngày chết, ngày sinh nhật là cái gì rất phù phiếm. Ngày sinh của tôi ngủ yên trong học bạ, chỉ được nhắc đến mỗi kì chuyển cấp. Từ thuở bé con đến năm 19 tuổi chẳng có ai nhắc tôi ngày sinh nhật, tôi cũng chẳng quan tâm. Đúng ngày “non sông thu về một mối” tôi đang học Bách Khoa Hà Nội, cô giáo dạy toán xác suất đã cho hay đó cũng là ngày sinh nhật của tôi. Thật không ngờ. Tôi vui mừng đến độ muốn bay vào Sài Gòn ngay lập tức, để cùng Sài Gòn tận hưởng “Ngày trọng đại”.
 
Kẹt nỗi tôi đang học, ba tôi không cho đi. Sau ngày 30 tháng 4 cả nhà tôi đều vào Sài Gòn, trừ tôi. Ông bác của tôi dinh tê vào Sài Gòn năm 1953, làm ba tôi luôn ghi vào lý lịch của ông và các con ông hai chữ “đã chết”, giờ đây là triệu phú số một Sài Gòn. Ba tôi quá mừng vì ông bác tôi còn sống, mừng hơn nữa là “triệu phú số một Sài Gòn”. Ông bác tôi cũng mừng ba tôi hãy còn sống, mừng hơn nữa là “gia đình bảy đảng viên cộng sản”. Cuộc đoàn tụ vàng ròng và nước mắt. Ông bác tôi nhận nước mắt đoàn viên bảy đảng viên cộng sản, ba tôi nhận hơn hai chục cây vàng đem ra Bắc trả hết nợ nần còn xây được ngôi nhà ngói ba gian hai chái. Sự đổi đời diệu kì.
 
Dù chưa được vào Sài Gòn nhưng tôi đã thấy Sài Gòn qua ba vật phẩm lạ lùng, đó là bút bi, mì tôm và cassette của thằng Minh cùng lớp, ba nó là nhà thơ Viễn Phương ở Sài Gòn gửi ra cho nó. Chúng tôi xúm lại quanh thằng Minh xem nó thao tác viết bút bi, hồi đó gọi là bút nguyên tử. Nó bấm đít bút cái tách, đầu bút nhô ra, và nó viết. Nét mực đều tăm tắp, không cần chấm mực không cần bơm mực, cứ thế là viết. Chúng tôi ai nấy há hốc mồm không thể tin nổi Sài Gòn lại có thể sản xuất được cái bút tài tình thế kia.
Tối hôm đó thằng Mình bóc gói mì tôm bỏ vào bát. Tưởng đó là lương khô chúng tôi không chú ý lắm. Khi thằng Minh đổ nước sôi vào bát, một mùi thơm rất lạ bốc lên, hết thảy chúng tôi đều nuốt nước bọt, đứa nào đứa nấy bỗng đói cồn cào. Thằng Minh túc tắc ăn, chúng tôi vừa nuốt nước bọt vừa cãi nhau. Không đứa nào tin Sài Gòn lại có thể sản xuất được đồ ăn cao cấp thế kia. Có đứa còn bảo đồ ăn đổ nước sôi vào là ăn được ngay, thơm ngon thế kia, chỉ giành cho các du hành vũ trụ, người thường không bao giờ có.
 
Thằng Minh khoe cái cassete ba nó gửi cho nó để nó học ngoại ngữ. Tới đây thì tôi bị sốc, không ngờ nhà nó giàu thế. Với tôi cassete là tài sản lớn, chỉ những người giàu mới có. Năm 1973 quê tôi lần đầu xuất hiện một cái cassete của một người du học Đông Đức trở về. Cả làng chạy đến xem máy ghi âm mà ai cũng đinh ninh đó là công cụ hoạt động tình báo, người thường không thể có. Suốt mấy ngày liền, dân làng tôi say sưa nói vào máy ghi âm rồi bật máy nghe tiếng của mình. Tôi cũng được nói vào máy ghi âm và thật vọng vô cùng không ngờ tiếng của tôi lại tệ đến thế. Một ngày tôi thấy tài sản lớn ấy trong tay một sinh viên, không còn tin vào mắt mình nữa. Thằng Minh nói, rẻ không à. Thứ này chỉ ghi âm, không có radio, giá hơn chục đồng thôi, bán đầy chợ Bến Thành. Không ai tin thằng Minh cả. Tôi bỉu môi nói với nó, cứt! Rứa Sài Gòn là tây à? Thằng Mình tủm tỉm cười không nói gì, nó mở casete, lần đầu tiên chúng tôi được nghe nhạc Sài Gòn, tất cả chết lặng trước giọng ca của Khánh Ly trong Sơn ca số 7. Kết thúc Sơn ca số 7 thằng Hoan bỗng thở hắt một tiếng thật to và kêu lên, đúng là tây thật bay ơi!
 
Sài Gòn là tây, điều đó hấp dẫn tôi đến nỗi đêm nào tôi cũng mơ tới Sài Gon. Kì nghỉ hè năm sau, tháng 8 năm 1976, tôi mới được vào Sài Gòn. Ba tôi vẫn bắt tôi không được đi đâu, “ở nhà học hành cho tử tế”, nhưng tôi đủ lớn để bác bỏ sự ngăn cấm của ông. Hơn nữa cô họ tôi rất yêu tôi, đã cho người ra Hà Nội đón tôi vào. Xe chạy ba ngày ba đêm tôi được gặp Sài Gòn. Tôi sẽ không kể những gì lần đầu tôi thấy trong biệt thự của ông bác tôi, từ máy điều hòa, tủ lạnh, ti vi tới xe máy, ô tô, cầu thang máy và bà giúp việc tuổi năm mươi một mực lễ phép gọi tôi bằng cậu. Ngay mấy cục đá lạnh cần lúc nào có ngay lúc đó cũng đã làm tôi thán phục lắm rồi. Thán phục chứ không ngạc nhiên, vì đó là nhà của ông triệu phú. Xin kể những gì buổi sáng đầu tiên tôi thực sự gặp gỡ Sài Gòn.
 
Khấp khởi và hồi hộp, rụt rè và cảnh giác, tôi bước xuống lòng đường thành phố Sài Gòn và gặp ngay tiếng dạ ngọt như mía lùi của bà bán hàng tạp hóa đáng tuổi mạ tôi. Không nghĩ tiếng dạ ấy giành cho mình, tôi ngoảnh lại sau xem bà chủ dạ ai. Không có ai. Thì ra bà chủ dạ khách hàng, điều mà tôi chưa từng thấy. Quay lại thấy nụ cười bà chủ, nụ cười khá giả tạo. Cả tiếng dạ cũng giả tạo nhưng với tôi là trên cả tuyệt vời. Từ bé cho đến giờ tôi toàn thấy những bộ mặt lạnh lùng khinh khỉnh của các mậu dịch viên, luôn coi khách hàng như những kẻ làm phiền họ. Lâu ngày rồi chính khách hàng cũng tự thấy mình có lỗi và chịu ơn các mậu dịch viên. Nghe một tiếng dạ, thấy một nụ cười của các mậu dịch viên dù là giả tạo cũng là điều không tưởng, thậm chí là phi lí.
 
Tôi mua ba chục cái bút bi về làm quà cho bạn bè. Bà chủ lấy dây chun bó bút bi và cho vào túi nilon, chăm chút cẩn thận cứ như bà đang gói hàng cho bà chứ không phải cho tôi. Không một mậu dịch viên nào, cả những bà hàng xén quê tôi, phục vụ khách hàng được như thế, cái túi nilon gói hàng càng không thể có. Ai đòi hỏi khách hàng dây chun buộc hàng và túi nilon đựng hàng sẽ bắt gặp cái nhìn khinh bỉ, vì đó là đòi hỏi của một kẻ không hâm hấp cũng ngu xuẩn. Giờ đây bà chủ tạp hóa Sài Gòn làm điều đó hồn hậu như một niềm vui của chính bà, khiến tôi sửng sốt. Cách đó chưa đầy một tuần, ở Hà Nội tôi đi sắp hàng mua thịt cho anh cả. Cô mậu dịch viên hất hàm hỏi tôi, hết thịt, có đổi thịt sang sườn không? Dù thấy cả một rổ thịt tươi dưới chân cô mậu dịch viên tôi vẫn đáp, dạ có! Tranh cãi với các mậu dịch viên là điều dại dột nhất trần đời. Cô mậu dịch viên ném miếng sườn heo cho tôi. Cô ném mạnh quá, miếng sườn văng vào tôi. Tất nhiên tôi không hề tức giận, tôi cảm ơn cô đã bán sườn cho tôi và vui mừng đã chụp được miếng sườn, không để nó rơi xuống đất. Kể vậy để biết vì sao bà chủ tạp hóa Sài Gòn đã làm tôi sửng sốt.
 
Rời quầy tạp hóa tôi tìm tới một quán cà phê vườn. Uống cà phê để biết, cũng là để ra dáng ta đây dân Sài Gòn. Ở Hà Nội tôi chỉ quen chè chén, không dám uống cà phê vì nó rất đắt. Tôi ngồi vắt chân chữ ngũ nhâm nhi cốc cà phê đen đá pha sẵn, hút điếu thuốc Capstan, tự thấy mình lên hẳn mấy chân kính. Không may tôi vô ý quờ tay làm đổ vỡ ly cà phê. Biết mình sắp bị ăn chửi và phải đền tiền ly cà phê mặt cậu bé hai mươi tuổi đỏ lựng. Cô bé phục vụ chạy tới vội vã lau chùi, nhặt nhạnh mảnh vỡ thủy tinh với một thái độ như chính cô là người có lỗi. Cô thay cho tôi một ly cà phê mới nhẹ nhàng như một lẽ đương nhiên. Tôi thêm một lần sửng sốt.
 
Một giờ sau tôi quay về nhà ông bác, phát hiện sau nhà là một con hẻm đầy sách. Con hẻm ngắn, rộng rãi. Tôi không nhớ nó có tên đường hay không, chỉ nhớ rất nhiều cây cổ thụ tỏa bóng sum sê, hai vỉa hè đầy sách. Suốt buổi sáng hôm đó tôi tha thẩn ở đây. Quá nhiều sách hay, tôi không biết nên bỏ cuốn gì mua cuốn gì. Muốn mua hết phải chất đầy vài xe tải. Giữa hai vỉa hè mênh mông sách đó, có cả những cuốn sách Mác – Lê. Cuốn Tư Bản Luận của Châu Tâm Luân và Hành trình trí thức của Karl Marx của Nguyễn Văn Trung cùng nhiều sách khác. Thoạt đầu tôi tưởng sách từ Hà Nôi chuyển vào, sau mới biết sách của Sài Gòn xuất bản từ những năm sáu mươi. Tôi hỏi ông chủ bán sách, ở đây người ta cũng cho in sách Mác - Lê à? Ông chủ quán vui vẻ nói, dạ chú. Sinh viên trong này học cả Mác - Lê. Tôi ngẩn ngơ cười không biết nói gì hơn.
 
Chuyện quá nhỏ, với nhiều người là không đáng kể, với tôi lúc đó thật khác thường, nếu không muốn nói thật lớn lao. Tôi không cắt nghĩa được đó là gì trong buổi sáng hôm ấy. Tôi còn ở lại Sài Gòn thêm 30 buổi sáng nữa, vẫn không cắt nghĩa được đó là gì. Nhưng khi quay ra Hà Nội tôi bỗng sống khác đi, nghĩ khác đi, đọc khác đi, nói khác đi. Bạn bè tôi ngày đó gọi tôi là thằng hâm, thằng lập dị. Tôi thì rất vui vì biết mình đã được giải phóng"
(Nguồn FB Nguyễn Quang Lập).
 
 
23. TẠ LỖI TRƯỜNG SƠN
(fb Rossie Tran, fb Dang Nguyen)
 
1.
Một ngàn chín trăm bảy mươi lăm
Các anh từ Bắc vào Nam
Cuộc trường chinh 30 năm dằng dặc
Các anh đến
Và nhìn Sài Gòn như thủ đô của rác
Của xì ke, gái điếm, cao bồi
Của tình dục, ăn chơi
“Hiện sinh – buồn nôn – phi lý!!!”
Các anh bảo con trai Sài Gòn không lưu manh cũng lính nguỵ
Con gái Sài Gòn không tiểu thư khuê các, cũng đĩ điếm giang hồ
Các anh bảo Sai Gòn là trang sách “hư vô”
Văn hoá lai căng không cội nguồn dân tộc
Ngòi bút các anh thay súng
Bắn điên cuồng vào tủ lạnh, ti vi
Vào những đồ tiêu dùng mang nhãn Hoa Kỳ
Các anh hằn học với mọi tiện nghi tư bản
Các anh bảo tuổi trẻ Sài Gòn là “thú hoang” nổi loạn
Là thiêu thân uỷ mị, yếu hèn
Các anh hùa nhau lập toà án bằng văn chương
Mang tuổi trẻ Sài Gòn ra trước vành móng ngựa!!!
2.
Tội nghiệp Sài Gòn quá thể
Tội nghiệp chiếc cầu Công Lý
Có anh thợ điện ra đi không về
Tội nghiệp những “bà mẹ Bàn Cờ” của những ngày chống Mỹ
Lửa khói vỉa hè nám cả những hàng me
Tội nghiệp những người Sài Gòn đi xa
Đi từ tuổi hai mươi
Nhận hoang đảo tù đày để nói về lòng ái quốc
Có ai hỏi những hàng dương xanh
Xem đã bao nhiêu người Sài Gòn hoá thân vào sóng nước
Tội nghiệp những đêm Sài Gòn đốt đuốc
Những “người cha bến tàu” xuống đường với bao tử trống không
Tội nghiệp những ông cha rời khỏi nhà dòng
Áo chùng đen đẫm máu
Tội nghiệp những chiến trường văn chương, thi ca, sách báo
Những vị giáo sư trên bục giảng đường
Ưu tư nhìn học trò mình nhiễm độc
Sài Gòn của tôi – của chúng ta.
Có tiếng cười
Và tiếng khóc.
3.
Bảy năm qua đi với nhiều buồn vui đau xót
Một góc phù hoa ngày cũ qua rồi
Những con điếm xưa có kẻ đã trở lại làm người giã từ ghế đá công viên để sống đời lương thiện
Những gã du đãng giang hồ cũng khoác áo thanh niên xung phong lên rừng xuống biển
Tìm lại hồn nhiên cho cuộc sống của mình
Cuộc đổi thay nào cũng nhiều mất mát, hi sinh...
4.
Và khi ấy
Thì chính “các anh”
Những người nhân danh Hà Nội
Các anh đang ngồi giữa Sài Gòn bắt đầu chửi bới
Chửi đã đời
Chửi hả hê
Chửi vào tên những làng quê ghi trong lí lịch của chính mình
Các anh những người nhân danh Hà Nội sợ đến tái xanh
Khi có ai nói bây giờ về lại Bắc!!!
Tội nghiệp những bà mẹ già miền Bắc
Những bà mẹ mấy mươi năm còng lưng trên đê chống lụt
Những bà mẹ làm ra hạt lúa
Những năm thất mùa phải chống gậy ăn xin
Những bà mẹ tự nhận phần mình tối tăm
Để những đứa con lớn lên có cái nhìn và trái tim trong sạch
Bây giờ
Những đứa con đang tự nhận mình “trong sạch”
Đang nói về quê mẹ của mình như kẻ ngoại nhân
Các anh
Đang ngồi giữa Sài Gòn nhịp chân
Đã bờm xờm râu tóc, cũng quần jean xắn gấu
Cũng phanh ngực áo,cũng xỏ dép sa bô
Các anh cũng chạy bấn người đi lùng kiếm tủ lạnh ti vi, casette, radio...
Bia ôm và gái
Các anh ngông nghênh tuyên ngôn”khôn và dại”
Các anh bắt đầu triết lý “sống ở đời”
Các anh cũng chạy đứt hơi
Rượt bắt và trùm kín đầu những rác rưởi Sài Gòn thời quá khứ
Sài Gòn 1982 lẽ nào...
Lại bắt đầu ghẻ lở?
5.
Tội nghiệp em
Tội nghiệp anh
Tội nghiệp chúng ta những người thành phố
Những ai ngổn ngang quá khứ của mình
Những ai đang cố tẩy rửa “lí lịch đen”
Để tìm chỗ định cư tâm hồn bằng mồ hôi chân thật
6.
Xin ngả nón chào các ngài
“Quan toà trong sạch”
Xin các ngài cứ bình thản ăn chơi
Bình thản đổi thay lốt cũ
Hãy để yên cho hàng me Sài Gòn
Hồn nhiên xanh muôn thưở
Để yên cho xương rồng, gai góc
Chân thật nở hoa.
Này đây!
Xin đổi chỗ không kì kèo cho các ngài cái quá khứ ngày xưa
Nơi một góc (chỉ một góc thôi)
Sài Gòn bầy hầy, ghẻ lở
Bây giờ...
Tin chắc rằng trong các ngài đã vô số kẻ tin vào”thượng đế”
Khi sống hả hê giữa một thiên đường
Ai bây giờ
Sẽ
Tạ lỗi
Với Trường Sơn?
Đỗ Trung Quân
1982
Lời tác giả khi công bố bài thơ năm 2009:
Đã 34 năm trôi qua. Hoà bình cũng dài ngang bằng cuộc chiến tranh khốc liệt nhất trong lịch sử. Chưa có cuộc chiến nào ám ảnh một dân tộc cho bằng cuộc chiến tranh này, nó thay đổi hình thái xã hội. Thay đổi số phận con người. Công bố bài thơ viết năm 27 tuổi, bảy năm sau hoà bình (1982). Nay nhìn lại, tôi cũng không hiểu điều gì đã dẫn dắt cho những dòng chữ này. Khi làm xong nghĩa vụ một thanh niên thời hậu chiến, người có lý lịch may mắn không vướng phải chuyện lính tráng dù thế hệ tôi sau “mùa hè đỏ lửa 1972” hầu hết cũng đã “yên vị” khói hương trên bàn thờ gia đình. Còn nhớ những năm của thập niên 80, giáo sư Nguyễn Khắc Viện viết một bài đanh thép trên báo Sài Gòn giải phóng Sen hay bùn về danh xưng khi nào thì gọi là Thành phố Hồ Chí Minh, khi nào thì gọi là Sài Gòn? Và ông khẳng định cái tốt thì gọi TP Hồ Chí Minh, cái tệ nạn, cái xấu, cái “tồn đọng” thì gọi là Sài Gòn. Giáo sư Nguyễn Ngọc Lan đã đối thoại bằng một bài báo khác (tất nhiên ông không thể đăng bài phản biện ấy trên báo Sài Gòn giải phóng như trong một xã hội bình thường), ông nhắc rằng hiện tại sau 10 năm giải phóng, thành phố vẫn còn một tờ báo lớn tiếng nói chính thức của “Đảng bộ và nhân dân thành phố” tờ Sài Gòn giải phóng ( nó vẫn còn đến tận hôm nay), còn một nhà máy thuốc lá Sài Gòn, còn một đội bóng danh tiếng mang tên Cảng Sài Gòn (nay đã không còn)… Bài thơ này, có lẽ là cái nhìn đau đớn đầu tiên của một người trẻ tuổi vừa từ chiến trường K trở về với bao nhiêu hoài bão sau khi chứng kiến những hy sinh cao đẹp của một thế hệ thanh niên Sài Gòn, những con người thành phố tuổi chỉ mới đôi mươi…
Hai mươi bảy tuổi và một bài thơ dài nhất của đời mình...
__________
FB Nguyễn Hải Nhu
 
 
24. Thắng/Bại Tháng Tư
Kông Kông (Danlambao) - fb De Phan
Cuộc chiến huynh hệ tương tàn bằng súng đạn kết thúc đã 44 năm. So với đời người thì khá dài. Thông thường với thời gian như thế thì cho dẫu có bị thương tích cũng đã rơi vào quên lãng. Vì thời gian là “thuốc tiên” chữa lành những vết thương lòng.

Một bé chào đời năm 1975 bây giờ có thể đã là ông bà nếu lập gia đình sớm, có thêm một thế hệ mới. Thời gian đằng đẵng là thế lẽ ra phe chiến thắng yên tâm tận hưởng “thành quả” nếu đất nước đang là con rồng, con hổ (theo cách nói về sự phát triển ngoạn mục mọi mặt) Được như thế thì các lãnh đạo đảng đâu cần phải lo tìm mua quốc tịch nước ngoài, lo thâu tóm của cải rồi tìm mọi cách cho gia đình đi định cư ở các nước Dân chủ Tự do? Chế độ đâu cần phải dốc sức vào cái gọi là Bộ Thông tin và Tuyên truyền (xin gọi là 4T) để tự ca ngợi? Vì đã có thực tế trước mắt trả lời cụ thể! Thử nhìn các “con rồng, con hổ” ở Á châu có tốn kinh phí khổng lồ như Bộ 4T không?

Nhưng để đối phó với “bọn phản động”, “bọn căm thù quê hương”, “bọn dân chủ cuội”, “bọn tung tin nói xấu đảng”, “bọn khủng bố”... và đặc biệt quan trọng là “bọn tự diễn biến” dù Bộ 4T phải làm việc cật lực vẫn thất bại! Vì “tự diễn biến” chính là người của phe chiến thắng. Ở phe chiến thắng mà “tự diễn biến” thì rõ ràng có cái gì đó rất không ổn nếu không muốn nói là khủng hoảng nội bộ.

Chính sự dốt nát và vô đạo của giàn lãnh đạo mới là phản động. Bọn chóp bu làm mục ruỗng chế độ chứ chẳng có “thế lực thù địch” nào. Đây là sự đổ vỡ từ bên trong, không do áp lực bên ngoài. Là sự đổ vỡ tất yếu do ngu và tham. Vì bất cứ việc gì đi ngược với sự phát triển tự nhiên thì cho dù có vu khống hay che đậy dưới bất cứ hình thức nào tự nó cũng phải bị đào thải. Dù Lực lượng 47 với mười ngàn hay trăm ngàn dư luận viên được đào tạo bài bản và thêm vài cái Luật An ninh mạng nữa ra đời cũng sẽ thất bại. Vì không ai có thể ướp màu da cho một cái xác chết được mà phải chôn đi.
Thế giới văn minh đã xác nhận: Cộng sản là đại họa của nhân loại!

Thử nhìn các nước Dân chủ Tự do, hỏi có nước nào có Bộ 4T? Đã thế họ cũng chẳng hề lo lắng về cái gọi là “tự diễn biến”! Trái lại, nếu tự diễn biến để thích nghi với thực tế xã hội, càng tốt. Có được nhiều đảng viên như thế sẽ giúp đảng điều chỉnh kịp thời để cử tri tín nhiệm bầu cho nhiệm kỳ kế tiếp! Nhờ đó xã hội Dân chủ Tự do cứ thăng tiến.
“Tự diễn biến” là những ai?
Hiện tại trí thức XHCN đang có phong trào “tự diễn biến” điều mà Tổng Chủ Nguyễn Phú Trọng lo lắng và cảnh báo nhiều lần nhưng chắc chắn sẽ không đi đến đâu. Vậy họ là những ai?
- Là một số trí thức theo Mặt trận GPMN bị gạt ra rìa sau năm 1975. Một số bỏ chạy khỏi nước. Một số không chạy thoát hoặc chọn ở lại. Những “tai to mặt lớn” đó từng lãnh đạo sinh viên học sinh tranh đấu chống VNCH bây giờ quay ra chống chế độ. Trong tuổi hoàng hôn họ viết bài phân tích, kể lể hay ký tên vào các thư ngỏ phản đối... nhưng lúc còn sung sức, tức 10, 20 năm sau 1975, không hề dám chống chế độ như từng chống VNCH. Tại sao? Tại hèn. Sợ bị tù cộng sản. Sợ chết! Họ hiểu thời VNCH dẫu gì cũng có Tự do Dân chủ, có tam quyền phân lập, có Hiến Pháp bảo vệ. Nếu bị tù gia đình con cái cũng không bị ảnh hưởng. Có người bị giam giữ vẫn được cho ra ngoài đi thi để hoàn tất việc học!

Bây giờ sinh viên tranh đấu thì đừng nghĩ sẽ được đi học trở lại. Không những thế, gia đình sẽ bị liên lụy ngay. Trường hợp Nguyễn Phương Uyên là một ví dụ. Đã thế công an còn công khai đàn áp đẫm máu người dân giữa Sài Gòn (ngày cả nước xuống đường chống Luật Đặc khu và Luật An ninh mạng, 10/6/2018) Hôm đó có 2 ông giáo sư của một trường đại học được công an gọi đến công viên Tao Đàn, thay vì thể hiện vai trò nhà giáo lại hành sử vai trò “đảng ủy”, giúp công an đàn áp, làm ngơ trước tiếng kêu cứu trong tuyệt vọng của học trò. [1]

- Với số trí thức XHCN lớn tuổi phía Bắc phản tỉnh công khai, rất ít. Đa số họ chỉ chống đảng đương quyền (ví dụ chống đảng Nguyễn Phú Trọng) cho thấy họ vẫn cho rằng đảng Hồ Chí Minh tổ chức chiến tranh “giải phóng miền Nam” là đúng, bất chấp cảnh núi xương sông máu của hàng triệu người. Vì thế họ rất khó bỏ đảng trừ khi bị kỷ luật hoặc biết sẽ bị khai trừ.
- Với số trí thức XHCN trẻ tuổi dấn thân chống đảng còn ít dù nhờ internet không bị nhồi sọ. Họ nhìn lại cuộc nội chiến khách quan hơn. Nhưng lại bị ràng buộc với thực tế đang có nhờ công trạng, gốc gác, gia đình... so với thời bao cấp. Tâm lý sợ rơi vào tình cảnh “đứng núi nầy trông núi nọ”, nên khó dứt khoát hẳn.
- Với dân phía Bắc, từ nghèo đói lạc hậu bây giờ nhờ dựa vào quen biết cán bộ, phe nhóm... có nhà, có xe..., con cháu có điều kiện du học ở các nước Dân chủ Tự do... đương nhiên là “nhờ ơn đảng”(!) Qua chuyện kể của một số vị tranh đấu ở Hà Nội về thăm quê dịp Tết vừa rồi phần nào đó đã phản ảnh như vậy. Số trí thức nầy bị bà con gia tộc có vẻ mỉa mai, nếu không muốn nói là tiếp xúc miễn cưỡng. Họ chỉ trách đảng vì đụng chạm đến quyền lợi riêng chứ không chống đảng! Vụ Đồng Tâm ở ngay Hà Nội là điển hình.
Nói chung trí thức XHCN và người phía Bắc đa số chỉ chống đảng tham nhũng chứ không chống đánh chiếm miền Nam. Do đó, với họ, biểu tượng Cờ Vàng của miền Nam vẫn chỉ là “cờ 3 que”(!) Đây là lý do chế độ cộng sản sụp đổ trên thế giới nhưng tại VN vẫn đang còn là tiến trình. Cho dù là tiến trình không thể đảo ngược!
Trí thức “tự diễn biến” là như thế nhưng tại sao Tổng Chủ Nguyễn Phú Trọng lo sợ? Câu trả lời là chính Tổng Chủ biết rõ đảng đang bị ung thư “cấp” nên phải làm bất cứ điều gì có thể, để kéo dài mạng sống, kể cả chư hầu cho Bắc Kinh!

Về mặt nổi, xã hội đang hỗn loạn mọi mặt, điều nầy cho thấy những cơn sóng ngầm dữ dội dưới đáy sẽ quyết định vận mạng của đảng. Người dân phải tự xoay xở, tự tìm cách đối phó với nan đề của đời sống vì không còn tin vào việc được bình đẳng trước pháp luật. Cùng đường nên họ quay ra ngưỡng mộ cả những tên xâm trổ đầy người, từng là tội phạm, như chuyện Dương Minh Tuyền về Hưng Yên hỗ trợ gia đình nạn nhân bé gái bị bạn học cùng lớp bạo hành. Hay phản ứng sai luật của vài cá nhân xịt sơn, quăng chất bẩn vào nhà của đảng viên Nguyễn Hữu Linh, cựu Phó viện trưởng viện KSND Đà Nẵng ấu dâm cháu bé trong thang máy ở Tp HCM. Điều trớ trêu, đó là họ học đúng cách của công an đối với với gia đình người bất đồng chính kiến! Rồi nhìn lại hình ảnh cựu Ủy viên Bộ Chính trị Đinh La Thăng hay Trịnh Xuân Thanh khóc lóc, van xin tại phiên tòa hình sự giúp người dân “sáng mắt sáng lòng”! Rồi so sánh với hình ảnh 5 người tranh đấu của nhóm Liên Minh Dân Tộc đứng hiên ngang hô lớn “đả đảo cộng sản”, “đả đảo phiên tòa” ngày 18/3/2019 ngay giữa tòa phúc thẩm tại Sài Gòn [2] coi bản án tù khổ sai 10, 15 năm không ra gì cả! Thực tế những tiếng hô đó không đủ lớn để bên ngoài phòng xử nghe được nhưng là tiếng nổ của những cơn sóng ngầm, tự nó vang xa, đánh thức được lương tâm công luận.

Lịch sử chưa có nghèo giải phóng giàu, lạc hậu giải phóng văn minh mà chỉ có cướp. “Giải phóng miền Nam” đang nói lên như thế. Khi kẻ cướp điều hành xã hội tất phải hỗn loạn!
Cộng sản biết rõ và không thể nào thoát khỏi được tâm trạng bất an của kẻ cướp (!) vì biết rằng họ sẽ phải đối diện Công lý.

Thử nhìn thực tế sau 44 năm “giải phóng” hỏi có được bao nhiêu người từ phía Nam ra Bắc lập nghiệp so với “biển người” phía Bắc tràn vô Nam? Hiện tại giai cấp đang thống lĩnh kinh tế tại phía Nam do những ai cầm đầu? Hầu hết mọi cơ ngơi đồ sộ nhất, các trọng điểm kinh tế hái ra tiền do ai làm chủ? Đồng bằng sông Cửu Long là vựa thực phẩm của cả nước nông dân vẫn nghèo xơ xác, cơ sở hạ tầng không được nâng cấp như các nơi ở phía Bắc mà một tờ báo chỉ nhắc thoáng qua đã bị phạt đình bản 3 tháng? Tại sao Sài Gòn “phồn vinh giả tạo” bây giờ vẫn là “đầu tàu kinh tế cả nước”?
Còn với lãnh vực văn minh, văn hóa thì ngược lại. Phía Bắc cố gắng đồng hóa phía Nam bằng thứ ngôn ngữ đặc trưng XHCN. Ngọng nghịu, chói tai, kẻ cả. Vì thế tính “ưu việt XHCN” đó thất bại ngay từ đầu. Chẳng những không hủy diệt được “cặn bã Mỹ Ngụy”, dù tổ chức chiến dịch đốt sách, nhưng ngọn gió văn minh thổi “tro tàn” của nó bay ngược tràn lan ra khắp phía Bắc rất nhanh. Những tác phẩm văn học, nghệ thuật thay vì tàn lụi thì mỗi ngày một sống lại, dù chẳng có ai tuyên truyền. Nhạc Vàng, nhạc bolero... các ca sĩ già U70 cỡ Chế Linh, Khánh Ly, Hương Lan, Elvis Phương, Lệ Thu... ở ngoài nước được mời về hát, được đón tiếp nồng nhiệt với tiền cát xê hậu hĩnh trong lúc đó NQ 36, cái gọi là “hòa hợp hòa giải”, chỉ biết “ăn theo”! Thực tế sờ sờ như thế do ai “chủ đạo”?
VNCH tồn tại chỉ 20 năm trong thời chiến mà đến bây giờ, 44 năm sau, những tác phẩm, tác giả thời đó càng ngày càng được nhiều người ưa thích, tìm đọc. Tại sao?

Sự thật khách quan như thế! Sự thật đó cho biết VNCH đã đi vào lòng dân tộc, đi đúng hướng văn minh của thời đại. Vì thế cho dù có bị phỉ báng, bị vùi dập cỡ nào thì chính nó vẫn tiềm ẩn trong lòng xã hội, như một thân cây bất ngờ bị giông bão làm gãy ngang nhưng rễ của nó vẫn sống trong lòng đất. Lòng đất là lòng người. Được lòng người nuôi dưỡng, che chở gìn giữ nên nó tồn tại.

44 năm của đời người thì rất dài nhưng 44 năm của dòng lịch sử lại ngắn. Một chế độ chỉ tồn tại vỏn vẹn 20 năm (1955-1975) tưởng đã là cát bụi nhưng mạch sống của nó vẫn tiềm ẩn trong lòng người nên lại vươn lên. Là những cơn sóng ngầm làm chế độ đang băng hoại thêm lo sợ. Như những đóa tulip ẩn tàng dưới băng giá mùa Đông đợi đến mùa Xuân sẽ nứt tuyết nhú lên đẹp lóng lánh, khoe sắc dưới ánh mặt trời.

Đó mới thật sự là chiến thắng. Một chiến thắng rạng rỡ, nhân văn, không hề có tiếng súng hay hận thù.
Quy luật của lịch sử là thế. Chẳng có “3 dòng thác cách mạng” nào cuốn phăng được bọn “tư bản giãy chết” mà chỉ có Thịnh vượng, Văn minh đối đầu với Đói rách, Ngu dốt.

Một chế độ chỉ còn biết dựa vào sức mạnh, cố bám víu vào quân đội và công an “còn đảng còn mình”, vẫn chủ trương giáo dục nhồi sọ, ngu dân, vì sợ dân biết sự thật, chế độ đó đã tự phơi bày ra sự sợ hãi tột cùng.

Tội ác phải sợ hãi Công lý. Bóng tối phải sợ hãi Ánh sáng. Và Ánh sáng là sự Sống. Sự Sống tất thắng.
Kông Kông
 
 
25. AI CHÉM LIỄU THĂNG?
Trong giờ lịch sử của một lớp trường trung học phổ thông, cô giáo dạy sử như thường lệ ôn bài cũ trước khi giảng bài mới.
- Bây giờ cô ôn bài cũ trước khi giảng bài mới. Dũng cho cô biết Liễu Thăng bị chém ở đâu?
- Dạ thưa cô, Liễu Thăng bị chém ở cổ ạ.
Cả lớp cười ồ, Cô giáo lắc đầu cố nén tiếng cười.
- Vậy em nói cho cô biết: Ai đã chém Liễu Thăng?
- Dạ, thưa cô, ai chém thì em không biết nhưng không phải em!
Cô giáo mất hết kiên nhẫn.
- Em không hiểu tý gì bài đã học, cô cho em 0 điểm.
Sáng hôm sau trong lúc ăn sáng, ông bố kiểm tra vở sử của con, ông phát hiện ra Dũng bị 0 điểm môn Sử
- Vì sao như thế, ông quắc mắt hỏi.
Dũng ấp úng trả lời
- Dạ, hôm qua cô giáo hỏi ai đã chém Liễu Thăng, con nói không biết nên cô cho con 0 điểm.
Ông bố tức lồng lộn đẩy con lên xe, lái đến trường. Ông vào gặp thầy hiệu trưởng vừa nói lý do tại sao con ông bị 0 điểm môn Sử. Cô giáo được mời lên phòng hiệu trưởng, trước mặt thầy, cô và bố, Dũng được yêu cầu cho biết vì sao bị 0 điểm. Dũng trả lời y chang câu đã trả lời với bố sáng nay.
Vốn là một quan chức lớn trong tỉnh, ông hiệu trưởng cũng rất nể sợ, ông bố đã không kìm được cơn giận quát lớn
- Cô dạy dỗ kiểu gì thế, tại sao chỉ vì con tôi không biết ai chém Liễu Thăng mà cô cho nó 0 điểm. Đáng ra nếu vụ việc nghiêm trọng cô phải báo bên công an hình sự, họ sẽ lập chuyên án điều tra để tìm thủ phạm mới đúng chứ!
Cô giáo sững sờ chưa kịp trả lời thì thầy hiệu trưởng vốn rất sợ bị mất điểm thi đua vội cười nịnh với ông bố Dũng rồi phân trần
- Dạ, anh Hai đã chỉ đạo thì chúng em rút kinh nghiệm ạ. Thôi anh Hai đi làm kẻo trể, để vụ này em xử lý nội bộ, rút kinh nghiệm. xin anh hết sức thông cảm cho. Em xin đa tạ.
Ông bố vùng vằng bước ra xe hơi còn nói vọng lại
- Chỉ một lần duy nhất thôi đấy, lần này tôi thông cảm nhưng sẽ không có lần hai đâu nhé.
Thầy hiệu trưởng cúi đầu dạ vâng.
Khi trong phòng chỉ còn lại hai người, thầy hiệu trưởng mới nói với cô giáo
- Sao cô đem ba cái chuyện đâm chém ra hỏi học trò chi vậy, nó làm cho phụ huynh người ta bức xúc đó, rút kinh nghiệm lần sau thận trọng nhé. Thôi cô về lớp đi. Cô giáo mới bước mấy bước chưa ra tới cửa thầy hiệu trưởng gọi giật lại
- A mà này, thế thì cái thằng Liễu Thăng đang học lớp nào vậy, bị chém có nặng không mà tôi không nghe ai báo cáo hết vậy ?!
( sưu tầm )
Write to Tango Bui
 
26. 30/4 – SUY NGẪM VỀ MỘT CÂU CHUYÊN KỂ CỦA MỘT NGƯỜI “CHIẾN THẮNG” KHI VÀO NAM
 
Chỉ những người trí thức mới biết mình bị LỪA, và họ bắt đầu sống trong ân hận hối tiếc cho đến cuối đời.
Tôi đã có dịp ngồi nói chuyện với một anh Giáo sư dạy Toán người Hà Nội. Sau khi anh vào Nam để tiếp quản trường học. Gặp nhóm sinh viên chúng tôi anh cười buồn
" Tôi thật ngỡ ngàng không biết phải dạy các em điều gì nữa? " ...
Sau này anh không dạy học mà cùng vợ bán tại một cửa hàng vải nhỏ.
Gặp tôi anh chỉ nói
"Một lầm lẫn tai hại cả một thế hệ " ...
Mấy mươi năm rồi họ vẫn không chiếm được trái tim của người miền Nam và họ ngược lại mất đi khá nhiều trái tim của người miền Bắc.
.......................
Xe vừa vào địa giới miền Nam,
chúng tôi đã bấm tay nhau nhìn khung cảnh mới.
Nhà cửa người dân cùng các công trình đô thị như cầu, đường gần các trục lộ giao thông trông đẹp và văn minh hơn hẳn miền Bắc.
Đi rồi nghỉ ngơi rồi đi tiếp cho đến khi đoàn xe đến được khu công nghiệp Biên Hoà.
Có quá nhiều nhà máy tại đây.
Đoàn 18 người chúng tôi nhìn ngang nhìn dọc từng dãy nhà máy trong khu vực này và tuy không ai nói với ai nhưng đều trầm trồ trước công nghiệp miền Nam.
Rồi chúng tôi được phân công vào công tác trong một nhà máy có cái tên VICACO.
Một nhà máy sản xuất chất Sút (NaOH) từ muối biển và cả Acid Chlohidric (HCL) nữa.
Một nhà máy bề ngoài trông rất nhỏ mà không ngờ bên trong lại lắp đặt các máy móc tối tân, sản xuất được các hóa chất với sản lượng,
hàm lượng rất cao gấp nhiều lần so với công nghệ tại miền Bắc.
Chúng tôi ngạc nhiên và ngầm thán phục trong bụng.
Nhìn những công nhân miền Nam đang làm việc tại đây rồi sau đó làm việc chung với họ, tôi mới thấy người dân miền Nam khác xa người dân miền Bắc.
Kiến thức chuyên môn và xã hội của họ hơn hẳn chúng tôi.
Kỹ sư hơn hẳn kỹ sư ở miền Bắc và công nhân cũng vậy.
Một sự rụt rè, cẩn thận tự nhiên nẩy sinh trong đoàn tiếp quản chúng tôi. Ai cũng sợ người trong nhà máy tại miền Nam này biết trình độ thực sự của cả đám chúng tôi.
Sợ họ cười, nỗi lo chính trong lòng vì dầu gì mình cũng thuộc phía chiến thắng.
Về nằm nghỉ trong căn phòng mà được biết trước đây là các phòng dành cho công nhân ngủ qua đêm nếu phải ở lại tăng ca, tôi suy nghĩ xã hội miền Nam không hề lạc hậu về công nghệ về con người… như lời nói trước giờ vẫn được nghe.
Ngay cả trong buổi họp khi chọn người xung phong vào tiếp quản,
cán bộ ngành từ trung ương cũng đã nói như vậy khi động viên cán bộ công nhân viên.
Những dãy nhà nghỉ đầy đủ tiện nghi từ các trang bị như bàn ghế,
giường ngủ, quạt trần, phòng vệ sinh, đèn chiếu…
Ở đây, trong khu vực khép kín của khu công nghệ còn được như vậy thì trong thành phố Sài gòn chắc chắn phải rất đẹp.
Tôi cũng chưa nghĩ sẽ ra sao khi tìm gặp được hai cô em gái tôi.
Rồi một ngày tôi theo đoàn vào làm các thủ tục công tác trong một toà nhà Tổng Cục Hoá Chất vừa tiếp quản nay trở thành trụ sở của Công Ty Hóa Chất Cơ Bản miền Nam nằm gần chợ Bến Thành.
Lần đầu tiên trong đời tôi biết đến thang máy khi lên một phòng tuốt trên tầng thượng.
Sau khi làm xong các giấy tờ và thụ tục, chúng tôi được thoải mái đi thăm phố xá.
Ngay từ lúc còn ngồi trên xe buýt nhìn cảnh vật dọc theo đường và khu phố dẫn vào Sài gòn tôi đã thấy vượt trội nhiều lần so với thủ đô Hà Nội. Một vẻ bề ngoài sáng sủa, văn minh lộ ra từ cách phục sức, sinh hoạt của người dân miền Nam.
Giờ đây đi bộ trên các con đường trong khu trung tâm thành phố mới thấy bản thân tôi, một người dân miền Bắc quá sức lạc hậu,
nghèo nàn… từ bộ cánh (quần áo) trên người.
Tôi rõ ràng xa lạ với các tiện nghi đang được người dân trong thành phố này sử dụng.
Bên vệ đường và trong các cửa hiệu sang trọng đầy ắp hàng hoá thật đẹp và mới lạ lần đầu chúng tôi được thấy.
Có tiền cứ việc vào mua thoải mái khác hẳn với cảnh chen chúc để chờ được tới lượt mua số hàng ít ỏi như cảnh thường thấy ở các khu phố ngoài miền Bắc.
Phố xá thì thôi, những tòa nhà to đẹp thấp thoáng sau dòng xe gắn máy chạy hối hả trên đường.
Khung cảnh y như ở nước ngoài,
một người trong đoàn chúng tôi nói nhỏ cho nhau cùng nghe.
Tôi bối rối ngắm nhìn các cô gái miền Nam nói chính xác là cô gái Sài gòn đang dạo bước trên đường.
Họ đẹp quá sức, như tiên… từ dáng điệu, mái tóc, y phục mặc trên người và nhất là khuôn mặt của họ lộ rõ vẻ sung túc đài các so với những nữ cán bộ trẻ trong đoàn chúng tôi.
Tôi mỉm cười, nghĩ thầm hai cô em gái tôi trong này cũng vậy.
Tôi âm thầm tách ra khỏi đoàn để tự mình đi theo ý muốn.
Tôi đi rảo qua nhiều con phố Sài Gòn rồi thấy mỏi chân, tôi lấy can đảm bước vào một hàng nước thật đẹp gần một giao lộ lớn, có tên là Cafe Minirex.
Chọn một bàn sát khung cửa kính trong suốt có thể nhìn rõ người đi bên ngoài, tôi quan sát chung quanh. Bàn ghế, các bình hoa, quầy thu ngân, khách cùng vách tường trang trí cảnh một rừng cây thật đẹp…
thật không khác một tiệm ở nước ngoài trong phim ảnh.
Chợt một người hầu bàn bước đến, gật đầu chào tôi rồi hỏi :
- Thưa ông, ông dùng chi ?
Trời ơi ! Người hầu bàn này quá lịch sự khi tiếp xúc với khách hàng thật khác hẳn với cung cách của Mậu dịch viên trong các tiệm ăn ngoài miền Bắc.
Tôi lại nghĩ, hay ông ta biết tôi là cán bộ chế độ mới qua quần áo mặc trên người nên xưng hô như vậy?
Tôi gọi nước uống và ngầm để ý xem sao.
Nhưng không, bất cứ có khách nào vào quán, người hầu bàn này cũng một cách tiếp đón như vậy.
Rất tự nhiên, lịch sự mà không khúm núm hoặc hách dịch.
Một thay đổi đã đến trong lòng tôi mà tôi biết điều này cũng sẽ đến với bất kỳ người nào từ miền Bắc xã hội chủ nghĩa khi đặt chân vào miền Nam ở thời kỳ đó.
Sài Gòn hay nói rộng ra cả miền Nam không phải là một xã hội lạc hậu, nghèo nàn, đói khổ, đầy rẫy cảnh người bóc lột người như bao lâu nay người dân miền Bắc được (hay bị) báo chí, đài phát thanh Hà Nội… mô tả về con người và xã hội của chế độ Ngụy quyền tay sai đế quốc Mỹ.
Đây là mô hình của một xã hội văn minh và người nào được sống trong xã hội này quả thật may mắn hơn sống ở xã hội xã hội chủ nghĩa tại miền Bắc.
Tiếc thay ! Một xã hội như vậy lại vừa bị cướp mất đi.
Trương Minh
Nguồn: Facebook của Thầy Sam Nguyen)



Số Thứ Tự:

42. Từ Ngày Các Bác Vô Đây - Nguyễn Thành Bửu (fb Long Vo)
41. TRỜI HÀNH CƠN LỤT - B.PAS - Nhóm Sóng Nước Trùng Dương
40. CƠN ĐÓI U MINH - B.PAS - Nhóm Sóng Nước Trùng Dương
39. THÀNH QUẢ CỘNG NÔ - B.PAS - Nhóm Sóng Nước Trùng Dương
38. XA RỜI THỊT XƯƠNG - B.PAS - Nhóm Sóng Nước Trùng Dương
37. NGHE TIẾNG PHỐ ĐÊM (fb Trần Thị Kim Liên, fb Kieu Duong)
36. SAO ANH KHÔNG VỀ THĂM VIỆT NAM? Hong Le (B.PAS Nhóm Sóng Nước Trùng Dương)  
35. CỘNG SẢN LÀM GÌ? B.PAS - Nhóm Sóng Nước Trùng Dương
34. NGƯỜI CON GÁI VIỆT NAM TRÊN ĐẤT KHÁCH - Hong Le (B.PAS Nhóm Sóng Nước Trùng Dương) 
33. Món hàng “Đàn Bà Việt Nam” bán ra nước ngoài - PHAN NGUYÊN LUÂN (Chuyện Xứ Xã Nghĩa - fb Tinh-Tri Vo)
32. NỖI RAY RỨC TRONG LÒNG TÔI...!  Đinh Trực sưu tầm - fb Duc Bui
31. Đời Cha Ăn Mặn, Đời Con Uống Bia - fb Dui Bui - fb Tưởng Niệm
30. Chưởng môn phái Việt Võ Đạo (Vovinam) - Tù Cải Tạo
29. CHÚ XE ÔM:
28. NGƯỜI VỀ TỪ CUỘC CHIẾN 
27. Nhớ về cuộc nổi dậy Đêm Giáng- sinh năm ấy (fb An Nguyen)
1. Anh Đạp Xe Thồ - Huong Nguyen
2. Ký Sự Xe Thồ - Thuc Thai Le
3. Ra Khỏi Tù - Thuc Thai Le
4. Cung Phan
5. Ngày nào với người con gái của ông ấy cũng là "Father's Day" - Khuong Saigon
6. Hòa Hợp Hòa Giải là Sáo Ngữ - Thien-hoang Chung
7. Phúc niễng đâu rồi
8. Trinh Hao Tam - Nguyen Duong
9. HỒI KÝ VƯỢT BIÊN - Trinh Hao Tam
10. Nỗ Lòng Người Say - Trần Quảng Nam
11.HỒNG ĐÀ LẠT ... Có Gai! Captovan (Tô Văn Cấp, K19) 
12. 30 THÁNG TƯ, 1975 - Bi Nguyen 
16. Khi Chén Kiểu Đụng Chén Sành - Hoài Niệm
17. Trả Tôi Sài-Gòn… Hoài Niệm 
18. Gửi Em Ngày Sinh Nhật - Phung Mai 
19. Sau ngày cộng sản chiếm miền Nam - Cuong Bui 
20. "Ký Ức Sơ Sài" - Nguyễn Anh Khiêm (Nguyễn Chí Thiệp - Tango Bui chuyển)
21. NẾU.....NẾU....!!! Trần Trần (Chinh Nhân - fb Cao Thien Hoang)
22. Ai giải phóng ai ???? (fb Nguyễn Quang Lập - fb Cao Thien Hoang). 
23. Tạ Lỗi Trường Sơn (fb Rossie Tran, fb Nguyễn Hải Nhu)
24. Thắng / Bại Tháng Tư - Kông Kông (Danlambao) - fb De Phan 
25. AI CHÉM LIỄU THĂNG?
26. 30/4 – SUY NGẪM VỀ MỘT CÂU CHUYÊN KỂ CỦA MỘT NGƯỜI “CHIẾN THẮNG” KHI VÀO NAM
 
 
More:
* Hoài Niệm
Các bạn cũng thông cảm cho họ, sau 47 năm ngày đêm ca tụng giải phóng nhưng thật sự chúng ta đã thấy rõ ràng... Giải phóng cái gì ? Chỉ đem và tròng vào cổ người dân sự mất mát và đau thương, những người trẻ được thuê chửi để trả lương, cứ kệ họ đi chúng ta rất khó đả thông bộ óc của họ cứ để họ họ nói, cứ để cho họ viết những lời nhảm nhí, tôi sẽ đón dep sạch tất cả... Trân trọng vì mấy ngày nầy bận rộn rất nhiều cho ngày tủi nhục miền nam...
 
 

No comments: