Tuesday, April 5, 2022

THÁNG TƯ ĐEN (NỖI BUỒN KHÔNG DỨT)

@ Tiểu Đoàn 15 Nhảy Dù và Người Lính Trẻ Võ Bị by Nguyễn Văn Thành
@ 30/4/1975 và Người Lính Trẻ Võ Bị vào Giờ Thứ 25
* Mỗi Độ Tháng Tư Về 1 - Lê Minh Ngọc K16/LĐT/LĐ4/ND
* Mỗi Độ Tháng Tư Về 2  - Lê Minh Ngọc K16/LĐT/LĐ4/ND
 --------------------------------
 --------------------------------
 
Sài Gòn đã chít khăn tang
Chỉ trong phút chốc tan hoang đất trời
Ngửa mặt để chặn lệ rơi
Bao nhiêu xương máu, bị trôi giữa dòng
Niềm tin, ao ước, đợi mong
Trở thành tuyệt vọng, nỗi lòng... thiên thu
Hôm nay trời quấn sương mù...
*NVT mặc niệm giờ phút Sài Gòn thất thủ
 
 -----------------------------
  --------------------------------
  
30/04/1975. Theo âm-lịch thì ngày này vẫn còn là mùa xuân. Câu hỏi được làm đề tựa cho bài viết này, ai cũng đoán ra là mùa xuân 1975. Xuân thường ý-nhị, tươi thắm, tình nồng-nàn. Nhưng xuân 1975 mang nhiều bộ áo khác nhau. Tôi thì nghĩ rằng, mỗi bộ áo đó không phản ảnh những khía cạnh của 1 mùa xuân nói chung. Mà rằng, mỗi bộ áo chính nó là một mùa “xuân”, và nhiều bộ áo thì có nhiều ý xuân khác nhau trong cái
“xuân chung 1975”.

Mùa xuân 75, với “Bên Thắng Cuộc” đương nhiên là tưng-bừng, hả hê. Tuy thế, hãy cẩn-thận. Vui đậm thì buồn cũng phải đến (là thế xoay vần của trời đất), và hẳn cũng buồn đậm, buồn thảm! Vay trả có luật của nó.

Người di-tản 75 + kẻ vượt biển, vượt biên từ đấy đến nhiều năm sau, lúc đầu thật thổn-thức. “Em còn nhớ mùa xuân”, bài ca nhạc của Ngô Thụy Miên cũng đã khiến người rơi lệ. Thế nhưng mươi năm sau thôi, tình-tự có khác trước. Xuân xưa trong ta chỉ là cảm-xúc nhất thời.
Thời-gian qua, cuộc sống bon-chen xứ người cuốn hút lấy ta. Một số gặp lại người thân, thì ca bài ca “hội ngộ, đoàn tụ”. Kẻ mà thời-gian và không gian là yếu tố chính cho những cuộc tình của họ, thì phần đông mất-mát, cay-đắng. Thế là những bài hát sau thành phong-trào : “10 năm tình cũ”, “10 năm yêu em”, “10 năm đợi chờ” .. đã thay thế “em còn nhớ mùa xuân”. Xuân đi qua, và “xuân đó không hề trở lại”, chỉ có “xuân mới” đang đến, sắp đến .. e xa lạ.

Người ở lại, còn trong nước : - kẻ đi tù cải tạo thì cứ tự nhiên mà đi, - những thiếu nữ còn trong yêu đương thì chờ đợi ngày về của bạn tình, - phụ nữ thì chờ chồng, và có thêm con dại, phải bươn-chải mưu sinh, - (còn ai thỏa hiệp) thì cứ đường ta đi tới. Khỏi bàn đến dạng sau cùng.

Nhưng “bên thắng cuộc” không để “kẻ bại” được yên. Áp-chế, bạo lực, cướp-đoạt .. nhận chìm “kẻ thù” xuống tận đất đen. Biết bao chuyện đau thương được kể. Là những thảm cảnh, mất mát, ly tan, chết-chóc, tù đày ..

Niềm đau thì không thể so sánh. (Anh bất hạnh hơn tôi sao?). Tuy vậy, người từ nửa vòng trái đất xa khơi, hay nói rõ hơn, từ bên kia bờ Thái Bình dương, có than-thở thì cũng “dễ thở”. Mà kẻ ở tù chắc khác : “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”. Ai từng ở tù, mới cảm-thông với câu nói trên. Tôi có 1 người bạn đồng tù. Từng đêm không ngủ, từ miếng nhôm pha thép cứng rắn, mài thành những chiếc lược. Cò chạm khắc lên miếng nhôm-thép những hàng chữ : “Đương quân hoài quy nhật. Thị thiếp đoạn trường thì”.

Bạn tôi, Huỳnh Văn Lượm, Cựu Trung Tá chế độ cũ (VNCH, khóa 17 VBQG ĐL, Lữ Đoàn Phó 1 LĐ TQLC) + 1 bạn cùng khóa 16 VBQG ĐL với tôi, PVN + tôi, 3 người hay tụ-họp vào chúa nhật tại Trại Giam Vĩnh Quang A. Tôi không có quà, chạy chân sai vặt, nhóm bếp, coi lò, nấu nướng. Nói thì nói vậy, Lượm không mặc tôi lăng xăng, mà nhiệt tình tiếp tay, dù phần lớn quà thăm nuôi đều đến với Lượm, giữa 3 chúng tôi.

Ăn uống, trò chuyện. Rất tế nhị không hỏi sâu về tình-trạng gia đình của nhau. Đều là vu-vơ cho chóng qua ngày tháng. Tên PVN thì từng học piano, phong cầm, nên thích nói về nhạc. Ở đây không có các phương tiện, nhạc khí. Lượm thì cũng giống tôi, thơ văn “đầu môi cuối mắt”. Thế mà cũng qua được 7 năm.

1982, chúng tôi chuyển Trại, từ Bắc xuôi tàu về Nam. Tôi không cùng chung xe, toa với 2 bạn trên. Về Nam, dù hình thức nào cũng là niềm vui cho đại-đa-số tù nhân. Không ai cô đơn. Hai người chung với nhau 1 “cái còng”. Ăn uống bên nhau. Đại, tiểu-tiện có nhau. Bị dân (tại Đồng Hới khi tàu ngang qua ban ngày) ném đá, ráng tránh, nhờ cửa tàu nhanh chóng được đóng lại, nhưng đều “hốt hoảng” chung.

Cùng ở Trại Z30A, Gia Ray Long Khánh. Lượm ở đội nhà bếp. Tôi thuộc đội 19. Có lẽ PVN ở đội 21. Chúa nhật được nghỉ, tự do họp mặt, tự do nấu nướng. 3 người chúng tôi cũng thường chung nhóm. Nay thêm người này, mai thêm người khác. Không còn bị giám sát chặt chẽ như lúc còn ở ngoài Bắc.

Một hôm, tôi gặp PVN (2 đội ở gần nhau - có khi cùng ra ngoài “cuốc đất lật cỏ” trên những thửa đất gần cạnh nhau), nghe N. nói rằng vợ + con của Lượm đến thăm chồng. N. nói “Có điều thấy nó có vẻ buồn”. Thăm nuôi mà buồn. Chắc gia đình có người đau ốm nặng, hay không may, có người “..”. Chỉ N. xuống nhà bếp, gặp và tâm sự với Lượm mới biết nội-tình.

Hai hôm sau N. mới nói cho tôi biết, nhờ gạn hỏi Lượm. Lượm không muốn than-vãn chuyện mình. Vợ Lượm đến báo tin cho chồng biết mình sẽ đi xa, không trở lại. Sơ khởi, con được giao cho bà nội, và trong tương lai sẽ tạo điều kiện đón nó (nội dung để lộ chuyện cô ta sẽ chính thức đi Pháp - không hiểu vì sao chỉ mỗi mình cô, và con phải giao cho mẹ Lượm). Theo N. thì bên trong không đơn giản. Ly-biệt là đây.

Ít ngày sau, Lượm gặp tai nạn. Chảo lớn nước sôi, trước khi đổ gạo vào, thì Lượm vào trước. Lượm chết. Vĩnh biệt cũng là đây.

Chuyện kể về tình xa của 2 bên bờ đại dương, rồi chuyện tình đời - thường là phụ nữ xa chồng, trong áp lực hay cám dỗ từ những đàn ông chế độ mới - hay chuyện người trong tù .. đã thành vô hạn, chồng chất những trang thơ, nhạc, các loại văn phẩm .. dưới mọi hình thức. Nhưng chuyện của Lượm thật quá thê thảm.

Tôi chỉ nói về mùa xuân 75. Tôi chỉ muốn hỏi “mùa xuân nào em còn nhớ?” “Là bộ áo nào em còn nhớ của mùa xuân 75?” Là xuân ly biệt? Quá nhiều cuộc ly biệt. Xuân uất hận? Đại đa số ai mà không uất hận. Xuân đau thương? Quá đau thương đi chứ - ai mà không đau thương? Hay xuân tái ngộ? Cũng không đơn giản. Không lắm cuộc tái ngộ yên lành đâu. Nếu không là chua xót, ngỡ ngàng, rồi đau thương.

Hay, cuối cùng là xuân vĩnh biệt? Chắc khi bước chân vào tù kể từ 6/1975, thì Lượm đã linh tính nghĩ đến 1 xuân “vĩnh biệt” rồi! Để lòng nhớ bạn, Huỳnh Văn Lượm!

(Stone Mountain GA - Aug.28, 2021 edited on Jan.19, 2022)

 
8 giờ 30 sáng ngày 30.4.75 DVM đơn phương tuyện bố ngừng bắn. 10 g 45 phút T 54 ủy sập cổng Dinh Độc lập rồi ngay sau đó Ông Minh bị áp giải đến đài phát thanh tuyên bố đầu hàng. Mọi chuyện tưởng chừng như kết thúc. Nhưng chưa  đâu ! Ở ngả tư Bảy Hiền và B.TTM súng của Nhảy dù và 81BCD vẩn còn nổ. Bức ảnh minh họa 3 chiếc T54 bị bắn cháy nằm cạnh nhau do Một phóng viên của Corbis chụp đã minh chứng cho điều này. 3 chiếc này nằm trong số trên 10 chiếc T 54  ( phía công sản chỉ công nhận có 7 T54 và 1 PTR 76 ) thuộc 2 trung đoàn xe tănng E 24 ( Sư 10 ) và E 273 ( Quân Đoàn 3 ). Nhưng dù 7 hay 10 củng không quan trọng. Cấp chỉ huy CS đã không tiên liệu sức chiến đấu mảnh liệt của QLVNCH trong buổi sáng cuối cùng này. Thậm chí một vị trí đề kháng của nhảy dù trong Tân sơn Nhất chỉ với 6 ,7 chiến binh mà mải đến hai giờ chiều phải điều một chiếc T 54 mới giải quyết được.( Những ngày Hoa lửa. NXB Trẻ 2016).

    Trong buổi sáng hôm ấy chỉ tính từ cầu Tham lương đến ngả tư bảy hiền đã có hàng trăm người lính BV phơi xác trên đoạn đường này. Xác của họ được tâp trung về khu vực Vinatexco vả chôn vội vàng không áo quan mãi đến  1981 mới cải táng cào nghỉa trang liệt sỉ Tân Xuân( ảnh nghỉa trang liệt sỉ Tân xuân 2016)
    Những hàng mộ thẳng tắp ,những tấm bia ghi ngày chết là 30 4.75 là bằng chứng hùng hồn nhất về Ngả Tư Bảy Hiền sáng 30.4. 1975

 
(Viết để edit bài đã viết hôm 27/3/2022) - và bài này sẽ thay thế bài cũ (bài cũ đương nhiên bị xóa)
Hôm nay lên FB - trước mặt là ly cà phê sữa. Những Group, Page - những tên người cứ theo ngón tay tôi mà lướt lên. Bấm "like" một số chủ đề. Vài comment. Vào FB một Group quen thuộc, đọc 1 chủ đề : "Yesterday at 8:09 - Hằng năm cứ vào ngày 26 tháng 3 giải phóng quê hương Thừa Thiên Huế, tất cả các khối học sinh từ cấp 1 đến cấp 3 từ thành thị tới thôn quê đều tổ chức hội trại học sinh. Có những trường thì cho tổ chức cắm trại cho học sinh trước 1 tuần, có những trường thì cho học sinh cắm trại cùng ngày 26 tháng 3 chào mừng giải phóng quê hương".

Cà phê thực chất vốn đắng, nhưng rất nhiều người thích nó. Chính là thích uống, thích nhấm nháp. Tôi cũng đã nhiều lần uống cà phê Starbucks, mùi vị thơm ngon của loại cà phê này đã biến vị thành dễ chịu.
Suốt 12 năm kể từ lúc tôi nghỉ việc ở tuổi 70 thì sáng nào vợ tôi cũng làm 1 ly cà phê sữa cho tôi.
  "Sữa" là sữa bột "Nestle - coffee mate". Cà phê thì "Columbian product". Cả 2 thứ đều mua tại Costco. Mỗi tháng hết 2 pound sữa bột và 3 pound cà phê. Còn đường thì chỉ dùng đường hóa học SPLENDA đã gần 20 năm nay. Cứ vậy mỗi sáng.

   Đắng miệng nhưng không đắng lòng!
Tôi đang ráng nhớ mình lần đầu uống cà phê từ bao giờ. Thời học sinh, đôi lúc do bạn mời mọc hoặc có khi có tiền, cũng có thể có dịp uống cà phê, nhưng tính tôi "hảo ngọt" - nhất là ở Huế bấy giờ nổi tiếng về chè - nên tôi chỉ thích chè. Chè đậu ván, chè đậu xanh (có mấy loại), v.v... "Đậu hủ" với đường đen (thắng thành nước đường + chút gừng) từ những gánh bán hàng rong (thật hết sẩy!)

Mà sao tôi lại nói về cà phê? Sao tôi lại kể thời học sinh? Ở Huế? Thật tình trong thâm tâm tôi có suy nghĩ rằng, kể từ thuở "tò mò" học trò, rồi lớn lên và trưởng thành hơn -  thì những thức ăn, thức uống không đơn thuần chỉ là "bổ dưỡng" thân thể, mà còn thể hiện một khuynh hướng suy nghĩ, tâm lý, đối xử nữa.
Tôi không muốn nói đến những người quá "đặc thù", suốt đời chỉ muốn "ăn lạt", "ăn chay" - chỉ uống nước (trắng, thường) đun sôi mà thôi. Có nhiều người thích uống cà phê, trà, rượu, bia, v.v... Nhiều người chỉ thích trà. Chỉ thích rượu. Có người thích "đủ loại". Riêng phần tôi, có phân biệt. Thời học sinh chỉ "hảo ngọt", thích "chè". Những thay đổi, tôi sẽ tùy lúc mà giải thích.

Chỉ khi nhập ngũ, chân bước vào trường VBQG tại Đà Lạt, tôi mới làm quen với cà phê. Hai tháng đầu, dù trong trường có câu-lạc-bộ, tôi vẫn không  thích cà phê. Nhớ ra điều này, tôi sáng mắt ra mà suy rằng mình chưa từng uống cà phê trước kia (nghĩa là thời học sinh, ở Huế). Khám phá đó khiến tôi khen tôi quá. Bộ nhớ của mình thật super! Tôi vỗ vào đầu mà khen nó : "còn tốt".

Cuối 1959 (23/11) nhập học quân trường VBQG tại Đà Lạt - qua 2 tháng (8 tuần sơ khởi) chỉ bị "hành xác" theo "thủ tục". TÂN KHÓA SINH không dám "hưởng thụ", chỉ biết "vâng phục, tuân lệnh" không cần biết lý do. Rồi, đầu 1960, thư thả hơn khi Alpha được gắn, và được vào qui chế "chính thức". Ta có thể "dạo phố" (nếu không đến phiên trực, hay bị kỷ luật).

  Thế là tôi cũng như các bạn cùng khóa, "bát phố". Theo các bạn lần đầu dạo phố Đà Lạt đầu xuân (dương lịch). Ngoài những tiệm phở, hai tiệm cà phê "Kinh Đô" và "Tùng" đều đầy "phe ta". Bây giờ tôi không thể nhớ cảm tưởng của mình lúc ấy, khi bắt chước bạn, gọi ly cà phê đen. Nhưng mà chắc chắn đắng. Cà phê rõ ràng đắng!

  Vị đắng lúc nào vẫn còn với cà phê, nhưng uống quen dần, ta sẽ không còn thấy "khó chịu". Thì cũng như chất "cay nồng" của rượu - nhất là rượu "đế" với độ cao - vẫn có người ghiền. Nên ghiền cà phê cũng là một cách nói.

Thế là trong óc tôi nảy sinh 1 suy nghĩ. Còn trẻ, người ta hay nóng nảy, hành động thiếu suy nghĩ. Chỉ thích người khác khen mình, không chịu bị chê ... Nên tôi "hảo ngọt". Hoặc giả, đã quá quen, nên ghiền - hay, bị người khác thuyết phục, hết ngày này đến ngày khác, khiến ta thiếu suy xét. Than ôi, đã thành "quán tính" với độ cao "đỉnh", đến nỗi "vị giác" nguyên thủy của ta đã "không còn chính của nó nữa". Đó là cách "trồng người 100 năm của Bác Hồ kính yêu"!

Trở lại việc đọc trên FB một chủ đề viết hôm qua mà tôi trích 1 đoạn, nói về học sinh Huế những ngày giải phóng quê hương của họ là Thừa Thiên Huế vào ngày 26 tháng 3 hàng năm.

  Cô học sinh viết đoạn văn đó, nói lên nỗi lòng, suy nghĩ trên vị trí của 21 năm trước, từng là học sinh lớp 4. Nghĩa là lúc ấy, cô chỉ khoảng 10 tuổi - hẳn cô ta sinh vào 1990 trở về sau. Thì cô ta kinh nghiệm gì về chiến tranh VN? Đâu là sự thật?

  Ai cảm thấy đắng thì cô không biết, còn cô - con đường từ 1990 đến nay (2022) đầy "hoa thơm cỏ lạ", là "Thiên đường Cộng Sản" đúng nghĩa. Cháu ơi, cứ đi tiếp 6, 7 chục năm nữa đi, cho đủ 100 năm trồng người của bác Hồ, rồi viết tiếp!

Chuyện những tháng ngày của các tháng 3, 4 năm 1975 thì đã có 3 khuynh hướng rõ rệt :
(1) Bên Thắng Cuộc thì gọi là ngày "giải phóng quê hương" (còn bảo giải phóng khỏi Mỹ thì cần phải đặt lại vấn đề - chính họ + Mỹ cuối cùng hầu như là 1 phe, và Mỹ đã theo cam kết rút quân từ 1973 rồi - hơn nữa, nhiều người khác lại nói, "Bên Thắng Cuộc" chưa giải phóng quê hương khỏi Tàu - nghĩa là chưa giải phóng trọn vẹn), 

(2) Bên Thua Cuộc không đặt vấn đề cách gọi của bên kia, chỉ tự mình đặt cho nó cái tên "Tháng Tư Đen", hoặc vài tên khác tương tự - và sinh viên VN du học tại Pháp đã chít khăn tang trắng 3 ngày trước khi VNCH hoàn toàn sụp đổ, 

(3) Tôi tôn trọng khuynh hướng thứ ba - ai thắng ai thua, thì những người này (họ đứng giữa, chịu đựng nhất, tổn thất nhất) chính là nạn nhân đúng nghĩa.
Vậy, cảm thấy cà phê "đắng" có 2 trường hợp : (1) đắng nhưng vẫn cảm thấy dễ chịu, (2) đắng trong đắng ngoài - đắng cách khó chịu.

Tưởng đã quen và thích cà phê, thế nhưng 1 ngày đầu tháng 11 của năm 1963, tôi và 2 bạn thân : Cương và Gioang - từ 1 quán bar tại Đà Nẵng cùng ngậm ngùi. Hai tên kia đều dùng bia. Tôi uống cà phê đen. Thường thì tôi cũng uống bia như các bạn. Tôi không muốn say để quên. Tôi muốn cảm sự đắng để còn "tỉnh táo" nhìn.

  Nhưng đã quên nó đắng, thì nay cà phê trở nên đắng, và đắng hơn - ngoài thực chất chính nó. Đệ Nhất VNCH cáo chung với cái chết của 2 anh em họ Ngô Đình.

Cà phê thì vẫn uống, rồi cũng nhiều lần "đắng trở lại". Những xáo trộn trong nội bộ lãnh đạo VNCH những năm sau 1963, bàn cờ thế giới đổi thay mặc cho sự bóp thả trong bàn tay các siêu cường. Cuối cùng, cà phê "không đường" suốt các tháng 3, 4 của năm 1975 cho "Bên Thua Cuộc".

"Bên Thắng Cuộc" không uống cà phê. Họ "quá no" vì vật chất cướp, lấy được từ cả miền Nam VN đã giúp "Tư Bản Đỏ" có vài chục Tỷ Phú đô la Mỹ (trên danh sách thế giới), hàng ngàn "đại gia", tiền liên tục chất đầy các nhà băng Thụy Sĩ, và nhiều hình thức khác. "Bên Thắng Cuộc" chỉ "say máu quân thù", và chỉ biết "uống ... quân thù"

47 năm sau. 1 đoạn viết ngắn - thật vô tình - của 1 cô gái, vốn đơn thuần. Cô ta cũng không hẳn trong phe "Thắng Cuộc". Ngược lại, cô ta đang khốn đốn vì cuộc sống hiện nay.  Đối diện những bất công - và đang lên tiếng thở than.

(Stone Mountain GA - March 27, 2022, edited on June 28, 2022)
 
Cũng không phải mãi đến ngày 30/4/1975, khi Tổng Thống "ít hôm" Dương Văn Minh tuyên bố "đầu hàng", quân nhân các cấp của QLVNCH mới buông súng.
"Tinh thần" bỏ súng đã có, khi Ban-mê-thuột mất. Có từ thượng tầng. Không hiểu sao, tinh thần này lại bắt nguồn từ vị lãnh đạo cao nhất của VNCH. Không có câu trả lời chính xác.

  "Tinh thần" bỏ súng hẳn đã có với Cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, khi sơ khởi, ông là người đầu tiên biết rằng Mỹ sẽ bỏ Miền Nam VN - nghĩa là khi Mỹ thay đổi chiến lược toàn cầu của họ.
Vậy thì cuộc chiến tại Miền Nam VN những năm 71-75, quân nhân cấp dưới lăn lộn, quyết đấu, hy sinh ... chỉ là "đơn giản" dưới cái nhìn ái ngại từ thế lực bên kia Thái Bình Dương, và dưới tâm tư "dằn vặt" của vị Tổng Tư Lệnh QLVNCH. Ông đã thấy được hậu quả của chiến lược Mỹ thay đổi.

  "Nhìn ái ngại", khi dùng mấy chữ này, tôi đã thầm cảm ơn một nhóm người Mỹ "thiện tâm". Họ cũng thương cho số phận VN. Mà không phải tất cả. Cả 1 đa số + những kẻ biểu tình "phản chiến" tại Mỹ đã không chút thương tiếc chi dân VN, quân sĩ QLVNCH. Không những thế, họ còn "nguyền rũa", trách móc cuộc chiến đó đã lấy đi sinh mạng của hơn 5 vạn người thân của họ.

Này An Lộc, Kontum, Cổ Thành Quảng Trị. Bao nhiêu ngày đêm giành giựt từng tấc đất An Lộc. Từng tấc Cổ Thành Quảng Trị đổi lấy bao nhiêu sinh mạng người lính VNCH. Kontum kiêu hùng, Nguyễn Đình Bảo với Charlie, với bài hát để đời cho người ở lại.

Hơn 1 tuần tại Bình Tuy, tôi chỉ gặp Đại úy Triệu, thuộc Ty ANQĐ. Chúng tôi biết nhau khi cùng làm việc tại Quảng Ngãi những năm trước. Những ngày đầu tại Bình Tuy, tôi vào Tiểu khu mà "không gặp" những giới chức cần thiết. Gặp Triệu loanh quanh trong sân Tiểu khu. Đương sự nhìn ra tôi và gọi tên tôi. Triệu cho biết Phòng Tổng Quản Trị tạm đóng cửa. Vì không còn ai.
  Tôi nhờ Triệu chở tôi đến Trung Tâm Hành Chánh Tiếp Vận của TK để nhận lương. Tôi chưa có lương từ tháng 1/1975. Lương và hồ sơ cá nhân "chạy" không kịp tôi. Tôi ăn lương Tỉnh Quảng Ngãi. Rời Quảng Ngãi, trình diện Bộ Nội Vụ đầu tiên, thì lương chuyển về Bộ Nội Vụ. Tiếp, trình diện Bộ Quốc Phòng, lương chạy theo. Về Bộ Tổng Tham Mưu, lương chạy nước rút. Về Quân đoàn/QK III, chờ hơn 1 tháng ở đây, lương chưa tới. Về Tiểu Khu Bình Tuy, hỏi thử. Chắc là lương "mắc đổ xăng", nhưng câu trả lời "hiệu quả" nhất chính là, doanh trại TTHCTV đóng cửa kín mít.
Tôi ở tạm căn phòng thuê của Triệu ngoài phố. Triệu cho biết tuần trước, dân + lính chạy loạn về Bình Tuy rất nhiều. Có Tướng Nhựt và nhiều đơn vị của Sư đoàn 2 BB, của BĐQ. Những ngày đầu có cướp bóc ... nay tạm yên. Triệu chở tôi xuống chỗ tạm đóng quân của SĐ 2 và BĐQ.

  Tôi gặp Thiếu úy Thứ, làm việc tại BCH/BĐQ/V1CT. Trước kia Thứ là Trung sĩ I thuộc BCH/B20. Thứ di tản từ Đà Nẳng, đem theo chiếc Honda "dame". Tàu hải quân chuẩn bị bốc người về Vũng Tàu. Thứ hối hả không biết giải quyết chiếc xe Honda ra sao. Thấy tôi, Thứ giao mọi giấy tờ chủ quyền. Nếu còn gặp lại nhau thì tôi giao xe lại, nếu không, tôi toàn quyền. Tôi ghi địa chỉ của tôi tại Sài Gòn cho Thứ. Thế là chia tay.
Hôm sau, tàu và người đã rời Bình Tuy. Có tin Hàm Tân đã bị địch chiếm. Tôi đã rời nhà Triệu tối qua, và đến nhà A Tỷ, một người Tàu Chợ Lớn, đàn em (lính kiểng) của Triệu. Nhà ở sát bờ biển. Người ta ào ạt tìm thuyền rời Bình Tuy. Đổ đầy xăng chiếc xe Honda của Thứ, tôi chở A Tỷ dọc bờ biển đến 1 địa điểm khá vắng, kín đáo.

  A Tỷ là 1 thương gia buôn đồ biển. Cậu ta đã thuê sẵn 1 chiếc ghe máy. Chỉ có khoảng 10 người trên ghe, chờ chúng tôi.

Ghe máy đến Phước Hải, Vũng Tàu an toàn. Ở lại đây qua đêm. Làng chài tại Phước Hải cũng rục rịch. Sau này tôi mới biết, cả làng chài Phước Hải đều là công giáo, họ đã dùng thuyền bè vượt biển hầu hết cả làng.
A Tỷ chở tôi. Hành trang gọn, nhẹ. Chúng tôi đều mặc dân-phục. Nhiều trạm xét, nhưng cả hai đều có đủ giấy tờ hợp lệ. Ghé qua căn vườn tại cây số 74.5 mà tôi đã mua năm ngoái, hỏi thăm cha mẹ vợ (đang coi sóc vườn) về tình hình ở đây. Chúng tôi tiếp tục chạy về Sài Gòn.

Đưa A Tỷ đến nhà tại Quân 5, tôi về nhà tại Quận Phú Nhuận. Đã là ngày 21/4/1975. Mệt quá, nghỉ ngơi, và ngủ vùi.

  Gần 4 tháng qua, tôi chưa nhận đơn vị. Chưa được phát vũ khí, quân trang quân dụng. 

Hôm sau, tội vội đến nhà bạn thân, là Lê Hữu Cương. Ở quận Tân Bình (hình như đường Thoại Ngọc Hầu). Cương có nhiều bạn tại Sài Gòn. Chúng tôi cùng nhau đi thăm hỏi tình hình. Hình như Tổng Thống Thiệu vừa từ chức.

  Quanh qua La Pagode, Brodard, trước Quốc hội, trước Caravelle, từng nhóm người lớn tiếng bàn thời sự. Công khai chỉ trích chính quyền, chỉ trích nhiều nhân vật ...

Tôi tìm Đức (là Phạm Đức, con ông Phạm Tự - Ty trưởng Nội an Quảng Ngãi). Đức đã cho tôi biết chỗ làm việc. Chúng tôi vẫn duy trì liên lạc, sau khi Đức rời Quảng Ngãi năm trước. Đức đang là Sĩ Quan Cảnh Sát, làm việc tại phi trường Tân Sơn Nhất.

  Bây giờ là 24/4/1975. Thiên hạ quanh tôi đều chú tâm một việc : làm sao ra nước ngoài. Đức rất thích tôi. Và nói rõ chương trình ít ngày tới. Vợ chưa cưới của Đức là Tiếp viên hàng không VN. Cả 2 đều có thể rời VN bất kỳ lúc nào, kể từ hôm nay. Tôi nói về ý định ra nước ngoài của mình cho Đức. Đức offer tôi 4 chỗ. Thời gian để quyết định là từ 25-27/4. Chỉ trong 3 ngày này, tôi có thể rời VN.

Chiều tối 25, Đức đến nhà tôi. Đức và bạn gái sẳn sàng rời tối nay, nếu tôi quyết định. Tôi cho Đức biết, nhà tôi có 7 người (2 vợ chồng + 5 con), biết ai đi ai ở lại đây? Đức ra về, hẹn chiều mai.

  Vợ tôi thúc giục tôi đi 1 mình. Bà không nỡ xa con, dù bất kỳ đứa nào. Thế là trong ngày, tôi đi đổi lấy 1 ít tiền đô-la Mỹ (khoảng 100 bằng tiền lẻ 5$, 10$), ít vật dụng vừa chỗ 1 samsonite xách tay nhỏ.
  Đức lại đến, xẩm tối 26. Rồi tôi lại đổi ý định. Đức bảo sẽ chỉ chờ đến trưa mai, nếu tôi không đến gặp Đức, và cho biết quyết định, thì Đức sẽ rời tối đó.
Đức và bạn gái rời VN đêm 27/4/1975. Cũng ngày này, Cương và tôi chạy tìm phương tiện, đủ chỗ cho cả 2 gia đình chúng tôi. Lần lượt 2 ngày sau, chúng tôi tìm mọi nơi, nhưng thất bại.

Thế là sau 30/4/1975, 2 đứa tôi : - 1 Cương thương-phế-binh đã giải ngũ, đã trả súng - và tôi, 1 quân nhân chưa được đơn vị nhận, chưa được phát súng - thì súng đã gãy rồi.

  Đón chúng tôi, chỉ là trại giam khổng lồ trên cả nước VN, từ Nam chí Bắc, từ Cà Mâu đến biên giới Việt-Trung. 

Tôi vẫn còn nhớ việc Thứ và chiếc xe Honda. Giao giấy tờ chủ quyền xe cho vợ tôi và dặn, khi nào Thứ hay người được Thứ viết giấy xác nhận, đến thì giao xe. Vài ngày trước khi đi trình diện "học tập cải tạo", thì Thứ đến. Ra đầu ngõ, Thứ mời tôi "ly sâm bổ lường". Rồi chia tay.
Kỷ-niệm thứ 47 ngày "gãy súng"!
(Stone Mountain GA - April 18, 2022)
 
 
Lạc Long Huỳnh Quốc Phú - fb Cao H Sơn (Cao Hoài Sơn)
Thân tặng tất cả các chiến hữu Lạc Long, để ngậm ngùi tưởng nhớ một thời oai hùng lẫn cay đắng.
LỜI NÓI ĐẦU:
Đã bốn mươi mấy năm rồi, nỗi hờn di tản tưởng đã phôi phai. Nhưng không, cứ mỗi “tháng tư đen” về, vết đau lại nứt ra. Chuyện ngày xưa vẫn lảng vảng trong đầu những người đã từng đóng góp xương máu trong cuộc chiến. Càng già niềm đau càng âm ỉ. Tôi muốn ghi lại những gì đã xảy ra, nhưng đã bao nhiêu lần ngồi trước keyboard mà chẳng viết được gì. Đánh được vài ba chữ, cổ họng thấy mặn đắng.

Cho đến bây giờ, lịch sử đã mở ra: trong khi đồng minh bỏ chạy, súng đạn của ta cạn dần, bọn VC lại bán nước để lấy thêm vũ khí. Vết đau tuy thuyên giảm vì có lý do xoa dịu mặc cảm người thua trận, tuy nhiên nó vẫn không lành hẳn.

Đôi lúc tôi lẩm cẩm nghĩ rằng: phải chi quân dân miền nam bán Hoàng Sa và Trường Sa cho “Đế Quốc Mỹ,” thì kẻ được giải phóng phải là miền bắc chứ không phải miền nam. Dù sao “Đế Quốc Mỹ” cũng không đến nỗi giết hại ngư dân mình nếu họ đi lạc vào những hòn đảo này, nghĩ tiếc thay!!!
Mỗi người một câu chuyện, nhưng cùng một niềm đau…

Ngày 10 tháng 3 năm 1975, chỉ trong một đêm, Ban Mê Thuột mất vào tay việt cộng. Những người lính trấn thủ miền cao nguyên lại phải vất vả đánh đuổi quân thù để chiếm lại vùng đất đã mất.

Trung Đoàn 44 và 45 thuộc Sư Đoàn 23 bộ binh được di chuyển cấp tốc từ Pleiku về Ban Mê Thuột để giải cứu bản doanh của họ. Chiến trường tây nguyên bùng nổ lớn, tuy nhiên, đối với những người lính tác chiến, chuyện đánh giặc là chuyện xảy ra hàng ngày, suốt bao nhiêu năm trời, chiến tranh có bao giờ ngừng đâu mà phải hốt hoảng, giặc tới thì ta đánh thế thôi.
Mặt trận Ban Mê Thuột hứa hẹn gay go, những người lính Sư Đoàn 23 và Biệt Động Quân sẵn sàng tiến vào chiếm lại thành phố này. Nhưng rồi một cái lệnh quái đản từ Quân Đoàn 2 ban ra: “Pleiku di tản chiến thuật.”

Ô lạ chưa, Pleiku có bị đánh đâu mà phải di tản? Chẳng lẽ chỉ vì một vài trái đạn pháo kích mà cả một Quân Đoàn lại bỏ chạy?

Cũng vì cái lệnh quái đản đó mà hàng trăm ngàn quân dân nhốn nháo đổ xô về Qui Nhơn, Tuy Hòa và Nha Trang. Cuộc hành trình đã gây nên bao nỗi đau thương và uất hận cho mọi người. Chiến tranh quả thật là tàn khốc. Hàng vạn người tranh nhau để tìm đường sống, đã gây nên bao cảnh tượng tang thương mà lần đầu tiên trong đời tôi nhìn thấy. Tôi không thể tưởng tượng được mạng người sao lại rẻ mạt như đám bèo trôi giữa giòng sông!

Cũng như những đơn vị khác của Sư Đoàn 6 Không Quân, Phi Đoàn Trực Thăng 229 của tôi được lệnh di tản về Nha Trang.

Pleiku, thành phố buồn nằm trên cao nguyên, xứ của lính và những người liên hệ đến lính. “Đi dăm bước trở về chốn cũ”, bài thơ được phổ nhạc đã diễn tả chính xác cái phố núi này. Ngày thuyên chuyển ra đây, tôi cứ tưởng rằng đã đến một nơi tận cùng bằng số, nhưng không ngờ trong những giây phút cuối cùng tại đây, từ trên cao độ một ngàn bộ nhìn xuống, một niềm cảm xúc lưu luyến dạt dào dâng lên mà chính tôi cũng không ngờ nó đã làm mắt mình ươn ướt. Tôi có linh cảm là sẽ không còn dịp trở về nơi nắng bụi mưa bùn, nơi của những con người vì chiến tranh gặp nhau ở đây. Một năm qua, chỉ ở đây mới có một năm thôi mà cảm tình của tôi đối với cái thành phố cao nguyên này đã nẩy nở một cách sâu đậm. Pleiku thân thương, thành phố mang nhiều kỷ niệm những ngày cuối cùng trong cuộc đời binh nghiệp của tôi.

Đơn vị của tôi về đến Nha Trang, nhưng vì căn cứ này quá chật hẹp, nên một tuần sau lại có lệnh di chuyển xuống Phan Rang. Ngày rời Pleiku, tôi đã cố gắng đem được hầu hết vật dụng về Nha Trang, nhưng ngày rời Nha Trang xuống Phan Rang tôi đành bỏ lại tất cả những bàn ghế bằng gỗ quý đã tậu được ở Pleiku. Tiếc lắm, nhưng làm thế nào được, vả lại của cải là vật ngoại thân, bỏ đi để cho nhẹ gánh, mình còn nhiều việc quan trọng hơn phải lo.

Phan Rang, quê hương của Tổng Thống Thiệu. Một thành phố hiền hòa nằm cạnh bờ biển. Phi trường Phan Rang rộng lớn. Sau vài ngày sống tạm trong một cư xá chật hẹp, chúng tôi được cấp phát cho một cư xá khang trang hơn. Sau khi rời Pleiku, đây là lần đầu tiên chúng tôi có được một chỗ ở riêng biệt, chả bù cho những ngày còn ở Nha Trang, tất cả nhân viên Phi Đoàn 229 đều sống lăn lóc với những tiện nghi rất eo hẹp. Mọi người hăm hở sửa soạn chỗ ở và chấp nhận Phan Rang làm quê hương mới cho mình…

Tình hình chiến sự từ các mặt trận thay đổi nhanh chóng. Những thành phố từ Quảng Trị trở vào lần lần mất vào tay quân địch. Nói đúng ra là tất cả những đơn vị chiến đấu đều được lệnh rút lui một cách vội vã trong khi địch quân chưa tới. Hơn nữa, có nhiều thành phố việt cộng không có ý định tấn công, mình lại tự động rút lui bỏ ngỏ.

Tôi là một người lính chuyên nghiệp, mặc dù với một cấp bậc nhỏ bé, nhiệm vụ của tôi chỉ biết thi hành mệnh lệnh chứ không có nhiều thắc mắc. Nhưng vì cứ lui binh mãi, lòng tự ái của người lính tác chiến bị xúc phạm. Sự tức tối vì cứ phải lui binh, cộng với những hình ảnh đau thương của người di tản đã nhiều lúc làm tôi như một người điên. Hôm Đại, người cơ phi của tôi bị thương vì việt cộng bắn trong lúc đang cứu người di tản, việc này làm tôi không còn bình tĩnh nữa. Tôi đã xách khẩu súng lục P38 định bắn vào ổ khóa của nhà tắm khi về đến căn cứ. Nhà tắm này nằm trong cư xá của một số nhân viên cơ hửu đóng tại Phan Rang. Họ đã khóa cửa nhà tắm lại chỉ vì sợ không còn đủ nước khi đơn vị của tôi đến chia xẻ. Đứng trước cửa nhà tắm, tôi giận dữ chửi thề:
“ Đ..M. tại sao lại đóng cửa? Có người nào mở ra không?”
Tôi la lớn để mọi người đều nghe. Rất nhiều binh sĩ trong cư xá đó theo dõi hành động của tôi nhưng tất cả đều im lặng. Tôi tức tối nói lớn hơn:
“ Được rồi, nếu không ai mở ra, thì tôi sẽ mở.”
Quay vào trong cư xá, tôi lấy khẩu súng lục P38 trở ra. Lần này với một giọng hằn học hơn tôi cảnh cáo:
“ Đ.M có thằng nào chịu mở không?”
Nhiều cặp mắt nhìn tôi chầm chầm, nhưng tất cả vẫn hoàn toàn im lặng. Tôi dí họng súng vào ngay ổ khóa định bóp cò, thì thình lình có người vội vã lên tiếng:
“ Anh đừng có bắn, để tôi mở, tại mấy thằng kia nó khóa lại đó.”

Thế rồi anh này vội vã mở cửa nhà tắm ra sau khi đổ thừa là tại một vài người nào đó ích kỷ khóa lại. Lúc đó, tôi thật sự rất cần những gầu nước thật lạnh để gột rửa những tức tối trong lòng mình. Di tản, chết chóc, khổ đau, đói khát.v.v…và sau cùng là đồng đội của tôi đã đổ máu, tôi đã không còn là tôi nữa…

Sau Pleiku, Ban Mê Thuột, rồi đến Quân Đoàn 1 vội vã rút lui. Bây giờ cái lệnh di tản chiến thuật quái đản này thật sự gây hoang mang cho cả mọi người. Làn sóng người hớt hải xuôi nam như một bệnh dịch lan truyền nhanh chóng. Dân và quân không còn niềm tin vào lệnh lạc nữa. Theo tôi nghĩ, mọi người chỉ sợ mình là kẻ bị bỏ rơi, chứ không hẳn là sợ đánh với việt cộng.

Tôi cứ tưởng là lệnh sẽ cho dừng lại tại đây để đánh một trận sống chết với quân thù, nhưng rồi, Qui Nhơn lại được lệnh di tản! Để rồi kể từ đó, Khánh Dương, Tuy Hòa, Nha Trang sụp đổ theo làn sóng người bỏ chạy, trong khi đó Bảo Lộc lại bị áp lực nặng nề và Đà Lạt không còn quân bảo vệ. Tất cả mọi người đều lo di tản về Sài Gòn. Lòng quân và dân hoàn toàn rối loạn. Tin chiến sự thay đổi từng giờ từng phút, ai cũng lo lắng cho gia đình bị bỏ rơi. Phi trường Phan Rang chỉ còn lại những quân nhân thật sự cần thiết để tác chiến. Tất cả gia đình binh sĩ và những phần sở không trực tiếp chiến đấu đều di tản về Sài Gòn. Chiến tranh đã thật sự hiện ra rõ ràng nơi tôi vừa định cư mà thoạt đầu tôi cứ tưởng sẽ là quê hương lâu dài của đơn vị.

Trong một đêm của những ngày cuối cùng tại Phan Rang, tôi đã thao thức và hồi hộp suốt đêm. Tôi sợ rằng, đến sáng hôm sau Đà Lạt sẽ bị mất. Tôi sợ gia đình chị tôi và mấy đứa em đang sống tại thành phố này phải chịu cảnh lầm than như những người di tản trên liên tỉnh lộ 7. Tôi không theo đạo Chúa hay Phật, nhưng tôi đã cám ơn Chúa Phật rất nhiều vì đến ngày hôm sau, Đà Lạt vẫn chưa lọt vào tay việt cộng. Nhờ chuyến bay của một đơn vị bạn, tôi lên Đà Lạt ngày hôm đó, với ý định: đuổi gia đình bà chị về Sài Gòn bằng mọi giá. Tôi sợ rằng bà chị của tôi không chịu đi vì tiếc rẻ cái tài sản to lớn mà vợ chồng bà khổ công tạo dựng. Tôi sợ lắm vì cảnh đau thương của những người di tản đã hằn sâu vào đầu tôi trong mấy tuần qua. Càng sợ hơn nữa, trước đó vài ngày, lợi dụng một phi vụ lấy tàu từ Nha Trang về Phan Rang, tôi đã lén bay lên Đà Lạt và đáp trên nóc nhà bà chị để báo tin di tản. Cứ tưởng rằng bà chị của tôi hiểu được sự khẩn cấp mà về Sài Gòn, nhưng không ngờ mấy ngày sau, tôi được tin cả gia đình bà ấy vẫn còn ở tại Đà Lạt, chẳng ai đi đâu hết…

Vừa xuống phi trường Cam Ly, tôi tức tốc đến ngay nhà bà chị với quyết định: nếu chị ấy tiếc rẻ cái gì thì tôi sẽ rút súng bắn bỏ cái đó. May mắn thay, ngày hôm đó cũng là ngày bà ấy rời Đà Lạt. Còn lại một người em gái, tôi định đem em về Phan Rang để tìm phương tiện di chuyển, nhưng khi ra đến phi trường Cam Ly, gặp một chuyến C-130 chở người di tản, tôi đã gửi em về thẳng Sài Gòn. Nhìn chiếc C-130 nặng nề cất cánh mang theo người em của mình, tâm tư tôi cảm thấy nhẹ nhõm. Nhẹ gánh lo gia đình, tôi yên tâm trở về Phan Rang và tự nhủ rằng, dù có phải tử thủ đến giờ phút cuối cùng, tôi cũng không sợ.
Sau cùng, việc đáp phi cơ trên nóc nhà bà chị, đã làm cho chị tôi gặp nhiều rắc rối sau khi việt cộng lên nắm chính quyền. Thật ra tôi cũng không muốn làm vậy, nhưng đâu còn cách nào khác, bởi vì tình hình lúc đó rất hỗn loạn, phương tiện truyền thông rất giới hạn, trong khi chiến sự lại thay đổi từng giờ từng phút !

Rồi thì việc phải đến đã đến, sau khi Khánh Dương mất vào tay việt cộng, Nha Trang bỏ ngỏ, bây giờ Phan Rang là tiền đồn của cuộc chiến. Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi được cử ra từ Sài Gòn cùng Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang Tư Lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân là hai người chỉ huy bộ tư lệnh tiền phương chống giữ Phan Rang.

Thành phần chống giữ phi trường Phan Rang gồm có Địa Phương Quân, Sư Đoàn 2 Bộ Binh, Biệt Động Quân. Nhưng thành phần chủ lực thật sự chỉ có Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù. Những đơn vị khác chỉ là những đơn vị được tập họp lại một cách vội vã sau khi di tản từ những nơi khác về.

Không khí chiến tranh càng lúc càng nặng nề. Mọi người chỉ mong rằng mình có thể giữ vững phi trường Phan Rang hầu cản bước tiến của địch quân. Những tin đồn như là: “Ông Thiệu sẽ không bỏ quê hương của ông ta” đã được nhiều người nhắc nhở hầu lấy đó làm niềm tin để sống chết với quân thù.

Phi trường Phan Rang vắng lặng, không một hàng quán mở cửa, không một bóng dáng của gia đình binh sĩ, không khí chiến tranh bao trùm lên mọi cảnh vật. Lác đác một vài chiếc xe cam nhông hối hả chạy qua, một vài binh sĩ gò lưng trên chiếc Honda trong trạng thái vội vã. Tình trạng tiếp liệu cho Phan Rang càng ngày càng eo hẹp. Những đàn bò nuôi trong phi trường lần lượt bị giết để làm lương thực cho quân đồn trú. Tình trạng giết bò này lại không được tổ chức một cách hiệu quả, cho nên nhiều con bò bị giết một cách dư thừa, những con còn lại sợ hãi bỏ chạy tán loạn mỗi khi thấy bóng dáng của người. Tôi đã chứng kiến một con bị giết ngay trước cư xá mình, trong tích tắc, cả một con bò to lớn chỉ còn lại một đống xương và một vũng máu bầy hầy, mùi hôi thối nồng nặc xông lên trong cái nóng hừng hực của Phan Rang đã làm mọi người lo lắng.

Trong nhiều tuần liên tục, chúng tôi sống nương tựa vào gạo sấy thịt hộp, không có đồ ăn tươi. Một vài cái mương trồng rau muống quanh khu gia binh đã bị ngắt ăn hết, ban đầu còn ăn lá, sau đó những cọng già cũng bị ngắt ăn luôn.

Vào một buổi ăn với lương khô, tôi vất vả nuốt từng miếng cơm gạo sấy, người xạ thủ của tôi móc trong túi áo bay ra một trái cà chua đưa cho tôi:
“Ông thầy, tôi có cái này nè”
Tôi sáng mắt lên cầm lấy quả cà chua non nhỏ xíu, không do dự, bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến. Thú thật là tôi chưa bao giờ ăn một trái cà mà ngon như vậy. Sau khi nuốt mất trái cà quý báu đó, tôi bèn hỏi:
“ Ở đâu mà có vậy?”
“ Ở trong khu gia binh đó ông ơi. Tôi tìm thấy một luống cà, nhưng tất cả đều còn non.”
“ Bây giờ còn không?” Tôi hỏi.
“ Không biết nữa, Ngày hôm qua tôi thấy có mấy người đến hái.”
Sau khi ăn xong, tôi vội vã xách Honda chở Một, tên của người xạ thủ, trở lại khu gia binh kiếm thêm. Khi đến nơi, tất cả những trái cà dù lớn hay bé đều không còn. Cả hai chúng tôi chỉ đành hái lá cà về nấu canh. Ngày hôm sau, tôi và Một trở lại lần nữa, nhưng lần này cả hai đều thất vọng, bởi vì cả luống cà đều trụi lủi, một cái lá cũng không còn.

Vì ăn uống không có chất tươi, tôi đã bị nổi một cái nhọt to tướng ở ngay thắt lưng. Trong lúc tình hình nguy ngập như vậy, cái nhọt trên lưng quả là một điều đáng ngại. Đứng không thẳng, chạy không được, đã làm tôi lo lắng. Tuy nhiên, Một mới chính là người lo lắng nhiều hơn về cái nhọt của tôi. Một đã trông chờ từng giờ từng phút để ra tay tận diệt cái nhọt ấy. Ngày mà trên đỉnh cái nhọt vừa có một đốm trắng nhỏ xíu, là ngay lập tức, Một bắt tôi ngồi lên ghế với lưng quay về phía trước. Hắn ta đã xử dụng hết mười thành công lực để ép cho bằng được cái cùi nhọt ra. Tôi cắn răng chịu đựng sự đau đớn với hai hàng nước mắt tuôn rơi. Xong việc, tôi cảm thấy nhẹ nhõm như không còn cục đá ngàn cân đè ngang thắt lưng. Vận động chân tay để đo lường sự bình phục của mình, nhìn nét mặt lo lắng của Một, tôi cười nói:
“Chắc được rồi, không còn thấy khó chịu nữa.”
Nét mặt của Một lộ vẻ vui mừng:
“Ông thầy mà chạy không được thì phiền lắm đó.”
Một là người cùng quê, học cùng trường với tôi và sau tôi hai lớp. Không ngờ hai đứa lại gặp nhau ở một cái xứ cao nguyên xa lắc xa lơ, để rồi với tình chiến hữu, nghĩa đồng hương, hai chúng tôi đã cùng sống chết bên nhau trong những giờ phút cuối cùng của cuộc chiến.

Đã mấy ngày liên tục, tụi việt cộng cứ pháo kích ra rả vào phi trường, mọi người đều sống trong tình trạng cảnh giác. Sáng sớm ngày 16 tháng 4 năm 1975, đạn pháo của địch càng lúc càng dồn dập. Tất cả nhân viên của Phi Đoàn 229 đều túc trực ứng chiến tại phi cơ của mình.

Bầu trời ngày hôm đó quang đãng, có thể nhìn xa đến mười cây số. Ngay từ 7 giờ sáng, tiếng súng đạn đã vang dội từ xa. Địch quân đang dàn quân tiến chiếm phi trường. Mấy ngày hôm trước ba chiếc khu trục A1 biệt phái từ Sài Gòn ra yểm trợ Phan Rang, hôm nay chỉ còn lại hai, một chiếc đã anh dũng hy sinh trong trận chiến ngày hôm qua. Hai chiếc còn lại đang quần thảo với địch quân trên bầu trời hướng đông bắc. Tôi say sưa nhìn từng chiếc A1 nghiêng cánh sà xuống như những con đại bàng đang bắt mồi, rồi từng chiếc lại chậm rãi ngóc lên, theo sau là một cột khói dựng lên và sau cùng một tiếng nổ vang rền rung chuyển mặt đất.

Cùng lúc hai chiếc A1 đánh bom, bốn chiếc trực thăng võ trang của Phi Đoàn 229 và Phi Đoàn 235 thay phiên nhau nhả từng loạt đạn và rocket ngăn chận sự tiến quân của việt cộng. Tiếng rống vang lên từ mấy khẩu mini gun của trực thăng võ trang càng lúc nghe càng gần. Khi vỏ đạn từ những khẩu súng này rớt trên phi đạo tạo thành những tiếng kêu rổn rảng thì thình lình tôi nghe một âm thanh xì xèo xé gió. Kinh nghiệm chiến trường cho biết là một trái đạn pháo kích của địch đang rớt vào vị trí của tôi. Mọi người nhanh nhẹn nằm xuống để tránh sự tàn phá. Một tiếng nổ long trời cách tôi chừng ba mươi thước, quả đạn này trúng vào ụ đổ xăng của trực thăng, đồng thời làm cho Tuấn, người Trưởng Phi Cơ của chiếc trực thăng đậu trước mặt tôi bị thương nặng.

Cũng xin nói qua một ít về người phi công với nhiều đặc điểm khác người này: Th/Úy Nguyễn BửuTuấn.
Tuấn là đàn em của tôi ở quân trường Thủ Đức, nhưng là đàn anh của tôi ở trường bay. Cả hai chúng tôi phục vụ cùng một đơn vị ở Cần Thơ khi về nước và cùng đổi ra Phi Đoàn 229 Pleiku năm 1974.
Hắn ta rất đẹp trai, trắng trẻo như con gái, ăn nói nhỏ nhẹ nên nhiều người tưởng Tuấn là một người nhút nhát. Lầm, ngược lại Tuấn là một hoa tiêu rất bình tĩnh và lỳ lợm.

Năm 1971, trong lúc Phi Đoàn 219 chuyển sang bay UH, tôi và Tuấn biệt phái thay thế đơn vị này để đổ Lôi Hổ ở Lộc Ninh. Tuấn là Hoa Tiêu Chánh, tôi là Hoa Tiêu Phó. Mặc dù mặt mũi non choẹt, nhưng Th/Úy Tuấn đã chứng tỏ đầy đủ bản lãnh với phi công của hai chiếc trực thăng Cobra khi những chiến sĩ đồng minh này yểm trợ chúng tôi vào tận mật khu việt cộng ở tỉnh Kratie bên xứ Chùa Tháp. Mặc dù có tài, nhưng cuộc đời binh nghiệp của Tuấn không may mắn: từ ngày về nước mang lon Th/Úy, cho đến tàn cuộc chiến, Th/Úy Tuấn vẫn là Th/Úy Tuấn, không lên một cấp nào cả!

Đối với Tuấn, súng đạn không phải là thứ làm hắn ta hoảng hốt. Trong lúc mọi người tìm chỗ trú ẩn vì đạn pháo kích của địch, hắn ta vẫn bình thản ngồi khảy đàn trên sàn phi cơ của mình, chỉ tiếc rằng, lần này súng đạn không tránh hắn nữa!

Sau tiếng nổ kinh hồn và lửa bốc lên vì trúng ụ xăng, tiếng ồn ào phát ra từ phi cơ của Tuấn, một mảnh đạn pháo kích đã đâm vào lưng làm Tuấn gục xuống, máu tuôn ra ướt đẫm áo bay. Cây đàn đã rời tay Tuấn nằm nghiêng ngửa trên mặt đất…Vì vết thương của Tuấn quá nặng, Tr/Úy Xủi, người Trưởng Phi Cơ của chiếc trực thăng đậu bên cạnh vội vã cất cánh mang Tuấn về Phan Thiết cứu cấp…

Cũng may, người hoa tiêu tài hoa, lỳ lợm, nhưng thiếu may mắn này chỉ gục một lần, không chết, vẫn đứng dậy hiên ngang cất tiếng hát: “Anh không chết đâu em, anh chỉ vừa ngủ gục đêm qua…” Sau cuộc chiến, Th/Úy Tuấn một lần nữa thoát khỏi ngục tù cộng sản và định cư ở cái xứ “Down Under,” để rồi trong lúc trà dư tửu hậu, chàng có dịp kể lại những oai hùng đời lính cho con cháu mình nghe: chuyện của Tuấn, một chàng trai nước Việt…

Sau khi trái đạn làm cháy ụ đổ xăng, địch quân càng pháo kích nhiều hơn. Súng đạn nổ vang trời, địch quân quá đông và tràn ngập phi trường. Những con chim sắt của Phi Đoàn 229 đành đoạn lìa tổ để tránh xa vùng lửa đạn.

Phan Rang đã mất!
Tôi bàng hoàng!
Vẫn không tin là sự thật!
Tôi nghĩ là mình có thể giữ được Phan Rang, nhưng tôi đã lầm, trận chiến đã quyết định kể từ khi cái lệnh di tản chiến thuật quái đản ban ra! Một cái lệnh đã làm tan rã ý chí chiến đấu của những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa !!!

Tôi không hèn đến nỗi phải bỏ chạy.
Đồng đội của tôi cũng không hèn đến nỗi phải bỏ chạỵ
Chiến tranh đã bao nhiêu năm rồi, người lính miền nam có bỏ chạy đâu? Tại sao bỗng dưng lại bỏ chạy?
Tới bây giờ tôi vẫn không có câu trả lời một cách xác đáng. Tuy nhiên tôi biết là những người lính như tôi không hèn nhát buông súng trước kẻ thù. Bằng chứng:
Trong một chuyến bốc quân và dân di tản từ Ban Mê Thuột về Khánh Dương, tôi đã chửi thề khi thấy một Ông Đại úy Biệt Động Quân trong đó:
“Đ.M mấy cha đánh giặc gì mà cứ bỏ chạy?”
Tôi đã gặp phải phản ứng giận dữ của Ông Đại Úy này:
“Đ.M tụi này đang chiếm lại Ban Mê Thuột thì có lệnh rút lui”
 
Lúc đó tôi ngạc nhiên, linh cảm một việc trọng đại sắp xảy ra. Nhưng sau đó tôi mới hiểu được những uất hận của một người lính cầm súng mà không được quyền chống trả. Tôi nợ một lời xin lỗi với Ông Đại Úy Biệt Động Quân này.
Than ôi!
Vận nước bấp bênh từ đây!
 
 --------------------------------
1. Tháng Tư buồn - Kim Châu

Tháng tư để lại nỗi buồn
Tấm thân tù tội mưa tuông cuộc đời
Chim bằng gãy cánh đơn côi
Bao nhiêu mơ ước bỗng trôi theo dòng
Tháng tư em ngóng,ngày trông
Cánh thư xa cách trông mong gửi về
Vợ chồng tình nghĩa phu thê
Dù bao gian khó chẳng nề vượt qua
Tháng tư phủ kín vòng hoa
Màu hoa tang tóc kéo xa cuộc đời
Lệ buồn nhỏ giọt ai ơi
Thương người chiến sĩ đầy vơi nỗi niềm
Tháng tư buồn lắm niềm riêng
Làm sao quên được ba miền nước non
Cùng nhau giữ lấy lòng son
Buồn trong kỷ niệm vẫn còn có nhau
Tháng tư ơi, nỗi niềm đau
Bao nhiêu buồn khổ theo nhau kéo về
Lạy Trời ,qua khỏi cơn mê
Bình minh ló dạng lại về đó thôi. 
 

2. BAO THÁNG TƯ RỒI ? 
Kimnga Lêthi 27B

Ai đi day dứt niềm riêng
Ai về khắc khoải oan khiên chuyện đời
Tháng tư ... Ai đã khóc ? Cười ?
Ai buồn lặng lẽ nhìn đời cuốn trôi
Tháng tư ...Bao tháng tư rồi ?
Thiên đường sụp đổ, tình người hoang mang
Quẩn quanh còn đó bàng hoàng
Niềm đau trỗi dậy, ngỡ ngàng không anh?
Tháng tư ...Đen nhuộm trời xanh
Trần gian ngơ ngác, phố thành đổi tên
Đắng lòng , ôi tháng tư đen
Làm sao quên được lấm lem mỗi đời
Tháng tư ... Rơi xuống phận người
Nỗi đau còn đó vạn đời còn đau
Tháng tư giết chết đời nhau
Hằn từng vết sẹo đêm sâu trở mình
Tháng tư ...dẫm nát cuộc tình
Một đời âm ĩ giọt tình chưa vơi
Tháng tư bao tháng tư rồi ?
Trái tim trĩu nặng, môi cười lệ rơi ...

 
3. NGÀY NÀY THÁNG NÀY CỦA NĂM XƯA
*  30/03/75 10 giờ đêm nằm trên một cao ốc tại thị trấn An Nhơn Bình Định nghe qua đài BBC nói Đà Nẳng vừa mất 29/03 và Qui Nhơn đang mất 30/03 (trong khi tôi đang còn đây). Tin tức qua BBC khiến cho tinh thần chiến đấu không còn , nhưng không thể bỏ đi vì không có lệnh
* 31/03 lúc 10 giờ sáng Thị trấn Bình Định vắng teo mọi người dân hối hả lũ lượt bỏ nhà ra đi về phía Nam chạy nạn . Tôi tập họp một số nhân viên  tuyên bố cho họ quyền tự quyết đi hay ở . Một số khóc xin ở lại
* 31/03 lúc 12 giờ trưa tôi cùng 7 người còn lại ngồi trên chiếc xe Jeep chạy vào thành phố Qui Nhơn. Thành phố vắng teo , nhà cửa đều đóng kín mít. Tôi kéo vào Trưòng Trung Học Tăng Bạt Hổ tạm trú để theo dỏi tình hình. Địa thế Qui Nhơn  giống như một cái túi treo lũng lẳng mà sợi dây thắt miệng túi đó là quốc lộ số 1 kéo dài từ Bắc vô Nam. Con đường duy nhất vô Nam bị cột chặt ở chân đèo Cù Mông . Xem như tụi tôi lọt vô miệng túi không có lối thoát ra
* 31/03  Lúc 4 giờ chiều cả bọn kéo xuống bờ biển gặp một chiếc ghe của người dân , tiến thoái lưỡng nan tôi đành ra biển. Qui Nhơn đang hấp hối.  
* 6 giờ chiều 31/03/75 tôi cũng bắt đầu cho đoạn đường dài 47 năm từ Qui Nhơn -> Phú Quốc -> Sài Gòn -> các trại tù cải tạo Lam Sơn Dục Mỹ -> Chợ Đầm Nha Trang -> Ty công an Phú Khánh -> Đồng Găng -> Trại A30 và cuối cùng là nước Mỹ. Năm đó tôi 25 tuổi
* Năm nay tháng tư đau buồn lại về. Đã 47 năm thế hệ trong chiến tranh của chúng tôi cũng đang lần lượt ra đi vì tuổi đời chồng chất. Ngước nhìn về nơi xa chỉ thấy mái tóc già mỗi ngày mỗi trắng
 
4. THÁNG TƯ NGÓ LÊN MÁI TÓC
 
Tháng tư nắng trổ da non
Bao nhiêu năm sẹo vẫn còn dính da
Nhíu nhăn thêm mớ tuổi già
Trời buồn bất quá như ta là cùng
Tháng tư nắng xuống rất gần
Nhón tay là đụng cái thân lạc hồn
Thời gian sét rỉ sắt mòn
Tuổi chồng như chất đá hòn lên vai
Đôi khi cảm thấy sống dai
Chỉ làm thêm trái đất này chật thôi
Tháng tư sông núi ngậm ngùi
Làm thân chiếc lá cuối trời quá giang
Nhiều năm sau buổi tan hàng
Giờ đây còn sót hai hàng lệ đu
Trong mơ thấy ngọn cỏ sầu
Lả về quê cũ lòng đau như vầy
Tháng tư ta đứng nơi này
Ngó lên mái tóc mỗi ngày bạc thêm
 
          
Đã  mấy  thu  rồi,  hả  bể dâu ?
Những hình bóng cũ nay về đâu ?
Có  ai  đốt  lại  lò  hương  ấy
Mà nhớ vô cùng, hỡi Lệ-Châu !
Ta nhớ em như nhớ tháng ba*:
Ngày giờ có đó, nghĩ không ra!
Chính ta chẳng hiểu mơ hay tỉnh;
Ta  ở  đây  mà  nhớ  chính  ta!
(*) 29/03/1975: Đà Nẵng (thủ-phủ Miền Trung) thất-thủ.
Ta  nhớ  ta  là  một  tiếng  im,
Con thuyền không bến, máu không tim,
Không hoa cho một làn hương quyện,
Không tổ nương nhờ một cánh chim!
Ta có đầu ta – một thánh-thư:
Biết đường, đâu ngại ngã ba, tư!
Lòng ta có lửa mà không bếp,
Như thiếu trùng-dương cho hải-ngư!
Thiếu một thần-giao, một cảm-thông;
Đời không tri-kỷ, không tâm-đồng;
Bơ-vơ như trận kình+nghê-chiến:
Biển cả tung-hoành một lão-ông!
Rồi bỗng đâu đây giữa gió khơi
Có em bỗng gọi, có ta "ơi!"
Thuyền như nhắm bến, chim tìm tổ,
Đêm muốn hừng đông, hận muốn vơi ...
Em đến – gần mà như muôn trùng,
Không tên, không lấy cả hình-dung...
Nhưng em đã đến, bằng xương thịt,
Đã  sưởi  lòng  ta ...  ấm  lạ-lùng!
Em  có  là  tiên... hay  là... ma
Thì  em  cũng  đã  có  yêu  ta!
Tình em là một nguồn thi-hứng:
Bút rỉ mười năm... lại nở hoa!
Em đã theo ta mỗi bước chân,
Hòa trong hơi thở, nhập trong gân!
Có em là bạn... nên từ đó
Ta có niềm vui tự bản-thân...
Nhưng, bỗng tư bề nổi bão đêm:
Kình-ngư còn lại bộ xương lem!
Đất thành hoang đảo! dân thành rợ!
Ngư-phủ vào tù, lạc dấu em...
Nỗi nước khôn khuây, lại nỗi nhà,
Nỗi mình khắc-khoải một mình ta!
Bao nhiêu kỷ-niệm vào tro bụi
Như những kê vàng, quá-khứ xa ...
Ôi! Những ngày xanh, những ước mơ
Tan như ảo-ảnh mống trời mưa!
Thời-gian liệm lấp vào quên-lãng
Những mộng vàng son hóa mộng hờ!
Rồi có hôm nào như hôm nay:
Gió nào gợn sóng, lá nào bay ...
Cho ta gợi lại trong tâm-tưởng
Một thoáng ân-tình, thoáng rượu say ...
     Trại Kho Đạn (Đà Nẵng), 1980-81
                               THANH-THANH
 ********************
 
6. MỘT NGÀY ĐÁNG NHỚ CỦA MIỀN NAM VN
Tiet Dang - Đặng Minh Tâm
Xin chuyển đến bài viết về ngày 10-3-1975 của một BS sống tại Ban Mê Thuộc vào giây phút dầu sôi lửa bỏng nầy:
         
Hôm nay 9/3/2022, cách đây đúng 47 năm vào đêm 9/3/1975, thị xã bé nhỏ Ban Mê Thuộc của tỉnh Darlac, một tỉnh Cao nguyên Trung phần đã hứng chịu một trận đánh quyết tử của csbv, định đoạt số phận của cả miền Nam sau 50 ngày đau thương đổ dài từ vĩ tuyến 17 trở vô.
Đau thương, đổ nát, mất mát, chia lìa nối tiếp nhau kéo dài từ Ban Mê Thuột xuống Khánh Dương M' Drak, qua liên tỉnh lộ 7 và lên Quốc lộ 1 kéo dài từ Huế và Đà Nẵng, cả miền Trung duyên hải, Cao Nguyên Trung phần. Những hình ảnh" chạy giặc" của người dân trên khắp nẻo đường miễn sao về được Sài Gòn đã là một minh chứng cho cuộc bỏ phiếu bằng đôi chân của người miền Nam từ vĩ tuyến 17.
Rồi sau 50 ngày bồng bế nhau chạy trốn, tất cả trở về con số O khi đến trưa ngày 30/4/1975, buông súng để chấm dứt cuộc chiến tranh dai dẳng hơn 20 năm trên mảnh đất nhỏ bé miền Nam. Những người đã từng bồng bế nhau chạy trốn hầu hết đã ra người thiên cổ, số còn lại ngày đó là trẻ em, là thanh thiếu niên thì giờ đây cũng đã bạc trắng mái đầu.
Ký ức chiến tranh chỉ còn lại những mảnh ghép tối màu trên bức tranh cuộc đời.
Nhìn lại nửa thế kỷ qua ở VN, rồi nhìn hình ảnh cuộc chiến hôm nay ở một đất nước xa xôi hơn 6800km, lòng thương cảm đồng điệu cho người dân Ukraine phải chia tay người thân, xa tổ quốc để còn sinh tồn, người ở lại giữ gìn đất nước không biết có còn gặp nhau nữa không. Những cảnh đổ nát của cácthành phố ở Ukraine do sự tàn phá của vũ khí chiến tranh mới, của sự hung tàn cực điểm của Putin, từ đó làm liên tưởng đến cách đây 50 năm cũng vào thời điểm đầu hè cuối xuân, thị xã An Lộc là một quận nhỏ bé của Bình Long thuộc tỉnh Phước Long, đã hứng hơn 200 ngàn trái pháo của csbv bắn vào trên mỗi 1m2 đất của An Lộc trong suốt hơn một tháng dưới chiêu bài giải phóng dân tộc của kẻ xâm lăng, mà người chết đôi khi phải chết hai lần thịt da nát tan.
Ký ức đau thương của miền Nam với một số người đã quên khi dựng cờ chiến thắng trên những xác người cùng màu da, cùng tiếng nói, nhưng với một số người đã từng hưởng một nền tự do sẽ cay đắng hiểu rõ hơn "Không gì quí hơn độc lập tự do" mà người chiến thắng giăng biểu ngữ đầy đường…để rồi hôm nay cũng phải chịu đắng cay trong im lặng (vì nói ra là sẽ bị dứt điểm do các “đồng chí” …vẫn còn say máu diệt thù!
   Nhìn quá khứ, đối chiếu hiện tại, tuy giữa hai nước cách xa nhau, và sự việc cách nhau nửa thế kỷ rồi nhận ra cuộc chiến nào mang danh nghĩa gì cũng đều dơ bẩn núp dưới bóng những từ ngữ cao thượng, nhằm ngụy biện cho hành động bá quyền, độc tài và thỏa mản thú tính chiếm đoạt mà thôi. Chỉ có nạn nhân là dân chúng, người không có quyền quyết định vận mệnh của mình trước làn tên mũi đạn, địa pháo hỏa tiễn vô tri.
  Xót thương và đồng cảm với người dân Ukraine, thầm cầu nguyện cuộc chiến mau chấm dứt, những người bảo vệ tổ quốc Ukraine, bảo vệ nền tự do của quê hương họ hãy cố gắng giữ gìn mảnh đất của mình..
Những chiêu bài " để giải phóng Ukraine, để thực hiện trung lập, hay còn gọi chiến tranh đặc biệt" tất cả đều rất giống với chiêu bài “giải phóng” của csbv ngày xưa khi đưa quân xâm nhập vào vĩ tuyến 17, phá hủy Hiệp định Genève 1954, hiệp định Paris 1973.
Cầu mong cho những người dân yêu nước Ukraine cần noi gương “giải phóng” của csbv ở Việt Nam để giữ gìn mãnh đất quê cha trong tinh thần "Không gì quí hơn độc lập tự do" thực sự.
Tổng thống Volodymyr Zelensky có thể ra đi trong cuộc chiến bất cân xứng nầy, nhưng tinh thần chiến đấu của Ông và tất cả nam phụ lão ấu Ukraine sẽ còn mãi trong lòng người dân.
Lịch sử nước nầy sẽ khắc ghi một giai đoạn hào hùng của Ukraine!
LTNV – Sài Gòn – 10/3/2022


7. TÌNH KHÚC THÁNG 3 BUỒN
Thế Lộc - 3/20/2022

I. Nắng rọi thềm rêu xanh mắt lá
Sông xưa lặng lẽ lững lờ trôi
Khách qua buổi ấy giờ đâu tá!
Để lại u sầu trên khóe môi.
II. Biên ải đìu hiu mưa nhẹ rơi
Ngựa già cuồng vó hý vang trời
Thương người bức tử chiều xưa ấy
Bỏ lại yên cương biệt cõi đời.
III. Lạnh lẻo mưa giăng mờ ải vắng
Biên thùy gió hú bóng ma trơi
Thương ai gảy kiếm nhiều cay đắng
Chiến hữu xương tàn rải khắp nơi.
IV. Biên ải mưa giăng kín lối về
Oan hồn uổng tử lạc đường quê
Bao năm giá rét ngoài hoang địa
Nay tháng 3 về buồn tái tê.
V. Anh đã về bên ấy
Tôi ở lại chốn này
Hai ta cùng lính trận
Nghẹn ngào lúc chia tay.
VI. Người ấy ra đi chẳng thấy về
Ta ngồi đàn mãi buồn lê thê
Thuyền ơi, con nước về đâu tá!
Để lại mình ta buồn tái tê. 
 

8. NẮNG QUA VƯỜN CŨ - Thế Lộc

Nắng chiều thoi thóp khu vườn cũ
Hình bóng người xưa mãi chập chờn
Dẫu biết người đi không hẹn ước
Sao lòng ta, cứ đoạn đoài cơn
Tháng Giêng chim chóc mùa giao phối
Người đã đi xa tận cuối trời
Hương tóc còn thơm miền ký ức
Đâu rồi ...ngày cũ bạn lòng ơi!
Mai mốt người về ghé chốn xưa
Làm ơn lưu lại chút hương thừa
Ngày ta nhắm mắt xuôi tay ấy
Phảng phất bên mồ hương gió đưa.
31.03.2018 

 

9. CHUYỆN NGÀY XƯA - VO LAN

Năm mươi năm một cuộc tình
Tôi quên không được để mình xót xa
Lòng son gởi lại quê nhà
Miếng cơm búng nước Mẹ Cha tảo tần
Công không thành danh lận đận
Bảy mươi tuổi trời lực tận không nguôi
Tôi nhìn tôi thấy bùi ngùi
Bóng câu qua cửa chưa vui một lần
Quá giang qua cõi phù vân
Chạnh lòng cám cảnh đường trần tai ương.
03.04.2022

 

10. Thiếu Úy Già Của Em - Lê Kim Nga 27B
 
Thiếu uý anh ơi ! ...thiếu uý ơi !
Bao năm rồi nhỉ ...của một đời ?
Quanh đi quẩn lại ...vẫn thiếu uý !
Thiếu uý già ơi ! ... sao lại cười ?
Thiếu uý anh ơi ! ...lại cười buồn
Nụ cười chua chát nhớ mênh mông
Ai hay, ai hiểu, ai biết được ?
Đau đáu niềm riêng nỗi đoạn trường
Thiếu uý anh ơi! ...còn nhớ không ?
Tháng tư năm đó...những tang thương
Biết bao xương máu đầy nước mắt
Kẻ đọa ,kẻ đày, kẻ biệt phương
Thiếu uý anh ơi ! ...hãy cười vui
Bao năm cơ khổ sẽ qua thôi !
Rồi đây sông núi mình khởi sắc
Nhân quả trả vay kẻ tội đời
Thiếu uý của em !...em rất yêu
Tinh sương cho đến nắng phai chiều
Đôi tay ôm xiết chàng thiếu uý
Thiếu uý già ơi ! ...Em vẫn yêu !
 
11. Ngoại tôi - Thuyphuong Lam
 
Sắp tới ngày quốc hận rồi. Tôi thấy đắng lòng mà nghẹn ngào nhớ đến bà ngoại tôi.
  Rất nhiều người nói má tôi đẹp hơn tôi nhưng ngoại tôi đẹp hơn má tôi.
  Bà ngoại tôi vốn là con gái của ông chủ Vị người tỉnh Hậu Giang - Chương Thiện- Long Mỹ.
  Tôi không được thấy ông bà cố lúc còn sống nhưng nhìn vào tấm hình treo trên vách chụp với các con cháu kẻ đứng người ngồi xếp bằng dưới đất ( mà giờ đây tất cả đã đi vào thiên cổ ) thì ông bà cố tôi đẹp phúc hậu. Các anh chị em của ngoại thì nữ đẹp còn hai người con trai xấu hoắc, đã vậy còn mắt lé xẹ nữa chứ.
  Bà ngoại tôi dù là gái quê con của một địa chủ nhưng ông cố rất khó nên tất cả các con đều phải làm ruộng chăn nuôi gia súc, chăn trâu bò ở ngoài đồng.
  Sau ông ngoại tôi là con trai người Sài Gòn về quê đi dạy học tình cờ gặp được bà ngoại nên đi cưới rồi bà theo chồng về Sài Gòn cho đến cuối đời.
  Bà ngoại tôi có năm người con gái một người con trai. Cậu tôi cao to đẹp trai.   Cậu tôi trước bên cảnh sát Dã Chiến sau xin chuyển qua cảnh sát áo trắng. Tôi thích cậu tôi mặc đồ CSDC hơn vì trông cậu đẹp và oai phong lịch lãm.
  Cả đời ngoại tôi mẫu mực là một hiền phụ lo cho gia đình và thương con cháu lắm. Trong các con rể bà ngoại tôi thương ba tôi nhất vì ba tôi sống hiếu đạo và tốt với tất cả mọi người, sống tình cảm, biết xử sự. Trong các con của ba má thì tôi giống ba tôi nhiều nhất.
  Anh em tôi trưởng thành đều sống gần gũi với bên ngoại nhiều. Ngoại tôi thương nhất là anh trai tôi.
  Khi anh tôi vào quân đội bà ngoại cứ nhớ anh mà nhắc hoài: trời mưa gió thì sợ anh cảm lạnh do thời tiết ; nắng nóng thì sợ anh bệnh cảm nắng, sốt rét ...
  Tết và mùa hè tôi theo ngoại về thăm bà con bên ngoại và thắp nhang cho tổ tiên.
  Bên ngoại tôi có nhiều người bà con theo giặc cộng. Mỗi lần bà ngoại tôi về là họ hay đến trước thăm, sau là dụ dỗ. Họ biết tất cả con rể và con trai và cháu của bà ngoại đều là sĩ quan VNCH nên hể ngoại về thì họ tới hỏi đon hỏi ren rồi kêu bà ngoại cho đào cái hầm bí mật trong nhà. Lúc đó tôi cũng 10 ; 11 tuổi đứng kế bà ngoại tôi nghe rất rõ ràng. Bà ngoại rất sáng suốt và cứng rắn trả lời: " gia đình tao theo Quốc gia, rể tao và con cháu tao đều là lính, tụi bây nghĩ như thế nào mà lại xúi tao làm chuyện lỗi đạo với chính phủ với con cháu? Dù gì thì gì tao cũng không làm chuyện có lỗi, ở đâu quen đó, ăn cây nào, rào cây nấy ".
  Vào thời đó những người biết gia đình và bà ngoại tôi đều buột miệng khen: " bà thiệt có phước, con rể con ruột rồi các cháu đều sĩ quan trong quân đội ".
  Rồi khi ngày mất nước tất cả con rể ,con trai, cháu trai bị tù cộng sản, căn nhà tôi buồn vì trống vắng không còn ấm áp hạnh phúc, vắng tiếng cười vui vẻ của một đại gia đình ba thế hệ quây quần thuở nào.
  Bài ngoại tôi ốm rất nhiều vì thương nhớ các con các cháu đang xa nhà lâm vào cảnh tù đày khắt nghiệt. Đôi lúc bà khóc than mà nhớ nhất là anh tôi. Bà nói :" trời ơi sao việt cộng nó ác quá vậy, nó bắt con cháu tôi nhốt cải tạo không biết chừng nào mới thả ra, trời lạnh lẽo không có đủ ấm, không có mềm đắp , ăn uống thiếu thốn làm sao mà chịu nổi, trời ơi là trời... "
  Bây giờ thì mấy người ở gần xóm ngoại lại nói : " bà đó tội nghiệp, thật vô phước, con rể con ruột, cháu của bà đi cải tạo hết sạch giờ nhà chỉ còn đàn bà con nít "..
  Thật tội nghiệp bà ngoại tôi già rồi mà phải chịu đựng tiếng chì tiếng bấc của mấy bà tám lắm điều tiếng.
  Ngoại tôi vì buồn rầu thương nhớ con cháu, phần thi già yếu mà ăn uống không được riết rồi kiệt sức mà qua đời, đám ma quạnh quẽ và nghèo khổ thiếu thốn. Trước khi ngoại tôi mất bà nhớ con cháu khóc và kêu tên từng người, nhất là anh tôi.
  Anh tôi là người được về đâu tiên rồi tới cậu tôi. Lúc anh tôi trở về thì ngoại đã mất mà không thể chờ đợi được các con cháu để thấy mặt lần cuối cùng cho vơi thương nhớ. Anh tôi đứng trước bàn thờ mà nước mắt chảy dài trên gương mặt tiều tụy và đen sạm.
   Lúc ấy anh tôi ngước nhìn lên tấm hình của bà ngoại trên bàn thờ, cảm giác như đôi mắt của bà ngấn nước, trong đôi mắt như muốn nói lên điều gì đó và chứa đựng cả một bầu trời bao la bất tận tình thương cho đứa cháu trai của mình sau bao năm lưu đày biệt xứ. 
Phượng 08/4/2018.
 
12. Lỡ duyên - Thuyphuong Lam
 
Rưng rưng giọt nước mắt ngà.
Mà quên ngày tháng kiêu sa thuở nào.
Qua thời khói lửa binh đao.
Nhưng sao vẫn nhớ chiến hào giao tranh.
Nhớ người lính trẻ xuân xanh.
Một thời mưa gió đầu ghềnh nhiêu khê.
Bây giờ bạt xứ xa quê.
Tóc phai sương muối nhớ về cố hương.
Ngậm ngùi khúc ruột dặm trường.
Mùa hoa phượng trổ đôi đường chia ly.
Cho em lỡ tuổi xuân thì.
Hoa xuân lỡ lứa còn gì chờ nhau.
Chốn xưa lối cũ năm nào.
Tóc nàng giờ cũng nhuộm màu thời gian.
Mắt buồn lệ ứa đôi hàng.
Người đi biền biệt bẽ bàng kiếp hoa.
Phượng 05/4/2019.

13. CHÂN LÝ NĂM XƯA...

Tháng Tư xưa buồn về trang ký ức
Bốn bảy năm...mà ngỡ mới hôm qua
Lũ giặc vào “giải phóng” nát nước nhà
Ôi tai họa xót xa cho dân Việt
Đi “cải tạo”...ai ngờ là vĩnh biệt
Không mất mạng...thân liệt...giặc mới tha
Thả về nhà...người thân lo tang ma
Mẹ cạn lệ...xót xa tội con trẻ
Con của mẹ tuổi đời hai mươi lẻ
Yêu quê hương phải khoác áo chinh nhân
Giữ đất mẹ ...đánh đuổi giặc vô thần
Cuối cuộc chiến...mang thân tù “thua cuộc”
Hổ sa cơ...nơi đồng hoang bị luộc
Thân nát nhừ bởi móng vuốt sài lang
Trận đòn thù...ôi độc ác dã man
Bởi những kẻ mang danh đi “giải phóng”
Giặc “giải phóng”...miền Nam mất sự sống
Kẻ vào tù...người gởi xác đại dương
“Giải phóng” gì...thưa vắng cả quê hương
Khắp đất nước đau thương vành tang trắng
Lời cộng sản như thời tiết mưa nắng
Nó đổi thay...trời đang nắng chợt mưa
Hỏi ai còn nhớ chân lý năm xưa
“Đừng nghe những gì cộng sản nói....”
4-2-22
 
HẬU DUỆ ƠI....
Tháng Tư đến...lệ tràn về ký ức
Buổi trưa nào...gãy súng...mất non sông
Xếp tàn y...gạt lệ bước lưu vong
Bốn bảy năm ...nặng lòng đau cố quốc
Bước tha hương mang nợ với tổ quốc
Chiến chinh tàn...giặc phá nát giang san
Giặc nhẫn tâm dập thân xác phế tàn
Của người lính lết Lê “ bên thua cuộc”
Quê lửa khói...mong ngày tàn chiến cuộc
Trở về quê phụng dưỡng đấng song thân
Nhưng...ngờ đâu mắc mưu bọn vô thần
Một tháng học....xác thân tù nửa kiếp
Hậu duệ ơi...các con, em...đi tiếp
Đường ngày xưa dang dở bước cha, anh
Hãy vững lòng viết lại trang sử xanh
Cho đất mẹ rạng danh giòng giống Việt.
 

14. NGÀY MỌI RỪNG “GIẢI PHÓNG”...
 
Đi tù về...còng lưng nuôi cuộc sống
Chút hơi tàn gắng gượng nuôi vợ con
Giọt mồ hôi đẫm ướt thân thể mòn
Bao năm tù héo hon “bên thua cuộc”
Những cuốc xe nơi thành phố quen thuộc
Mà giờ đây xa lạ quá hoang man
Dân lầm than trong đất nước thiên đàng
Kể từ ngày giang san bị phỏng giái
Nhớ chuyện xưa...ôi lòng đau tê tái
Quân lệnh nào...để giặc cướp quê hương
Tàn cuộc chiến...không máu đổ chiến trường
Nhưng cả quê hương...giờ giặc nhuộm đỏ
Lòng sao quên chuyện đau thương ngày đó
Lũ giặc vào “giải phóng” nát giang Sơn
Mắt miền Nam rực ánh lửa căm hờn
Mang hận lòng ngày mọi rừng “giải phóng”
3-26-22



15. Tháng Tư … Gọi Hồn
Người Lính Già Tqlc
 
 

Ở quê nhà mùa này hồn vất vưởng
Nỗi đau thương của người lính miền nam
Không nơi tựa vì dòng đời quên lãng
Uất hận buồn hồn vô định lang thang
Ở quê nhà lúc này hồn rên siết
Chết chẳng yên vì bia mộ không tên
Mong đồng đội chờ bạn bè năm cũ
Ngày trở về đắp mộ dựng lại bia
Ở quê nhà đêm ngày hồn tức tưởi
Nói được đâu sau cuộc chiến dở dang
Hồn chỉ khóc thương thân đời dâu bể
Ngậm tủi hờn hồn siêu thoát được sao
Hồn dù chết đã bao năm lặng lẽ
Vẫn mong chờ những người cũ năm xưa
Đem nhang khói thắp mồ hoang lạnh giá
Hồn vẫn chờ nghiệt ngã mấy mươi năm
Ngày đen tối tháng Tư buồn lại đến
Hồn và người đều chung một niềm đau
Ôi nhức nhối vết thương đau quá khứ
Hồn gọi nguời … người khóc phận lưu vong
Niềm đau cũ rồi thời gian sẽ xóa
Tháng Tư buồn rồi tuần tự mờ phai
Người đã mất … hình hài về với đất
Người sống còn … giờ thoi thóp … niềm đau …
Thuyền Qua lối Cũ
Tuấn.TT Apr 1 .2022
Nỗi buồn “Tháng Tư Đen”

 
16. Gió Ngày Cũ
(Mùa gió chướng)
Mùa gió cũ đang chập chờn ngoài ngõ
Tháng Tư Buồn lại đến theo thời gian
Hương vị gió và nỗi buồn muôn thuở
Vẫn trong tôi như mới tựa ngày nào
Ai còn sống và những ai từng sống
Đã một thời từng khoát áo *Trây Di
Mới thấm hiểu nỗi đau này da diết
Dù bao năm nó vẫn thế chẳng nhòa
Niềm đau cũ tháng Tư buồn lại đến
không thể quên vì là kiếp nhân sinh
Cố xoá bỏ những tiềm tàng năm cũ
Nhưng gắng quên nó lại đến dập dồn
Quên sao được nỗi đau hằng tâm trí
Thế hệ tôi ôi những mái đầu xanh
Từ dạo ấy bây giờ thành bạc trắng
Cứ gió về lòng tràn ngập niềm đau
Thôi thời thế… thế thời thôi đã thế
Cứ mỗi năm như nhắc nhở cùng ta
Nợ còn đó … ơn tiền nhân chưa trả
Ôm nỗi đau … nuốt hận xuống tuyền đài …
Thuyền Qua Lối Cũ
Tuấn TT. Apr. 01 .2022

 
17. Bốn Bảy (47) Năm
Bốn bảy năm đêm nằm trong trăn trở
Bốn bảy năm ta làm kiếp lưu vong
Bốn bảy năm tả tơi đời oan nghiệt
Bốn bảy năm mù điếc kiếp làm người
Bốn bảy năm đời người hơn nửa kiếp
Bốn bảy năm gẫy cánh tuổi làm trai
Bốn bảy năm gặm nhấm nỗi hờn vong
Bốn bảy năm thấm thía tuổi về chiều
Bốn bảy năm xa nhà hơn bốn chục
Bốn bảy năm nhìn lại thấy thê lương
Bốn bảy năm như người vô tổ quốc
Bốn bảy năm chờ đợi thật mỏi mòn
Bốn bảy năm ôm niềm đau quốc nhục
Bốn bảy năm mặn ngọt kẻ sa cơ
Bốn bảy năm tưởng chừng như vô vọng
Bốn bảy năm hờn tủi lại chất chồng
Bốn bảy năm nằm hoài không đứng dậy
Bốn bảy năm tuy hiểu nhưng không khôn
Bốn bảy năm đêm nằm hay mơ mộng
Bốn bảy năm…ta bỏ núi xa rừng…
Thuyền Qua Lối Cũ.
Tuấn TT . Feb 24. 2022
 

18. CHUYỆN THÁNG 4/1975
Vũ Đăng Khoa Nguồn fb Liên Trà
Đây là một trong những lý do tôi không muốn về VN.
Những tủi nhục của Cộng sản gây ra cho tôi chắc không bao giờ xoá được. Đọc truyện này thấy hình bóng mình trong đó.
Gởi những bạn trẻ 9x. Cứ hỏi tại sao tôi ghét cộng sản, tại sao tôi không về VN. Những gì dưới đây là chuyện thật 100%.
Nếu các bạn đã từng bị Cộng Sản đàn áp, thì có lòng nào muốn về lại nơi tủi nhục đó?
TỰ TRUYỆN - THÁNG TƯ BUỒN
Ngày Sài Gòn sụp đổ, ba không là một sĩ quan VNCH. Làm bên ngành hành chánh nên không có cấp bậc, ba là truởng ty thông tin Gia Định. Có một khoảng thời gian ba làm thư ký toà hành chánh Gia Định.
Rồi Việt Cộng xâm chiếm miền Nam, ba bị bắt và bị lưu đày ở tận Hà Nam Ninh - Bắc Việt. Chúng nó biệt giam ba trong một căn phòng chỉ có 2 người. Trong đó có Đại tá Nguyễn Hữu Phước và ba. Mỗi ngày chúng nó đem cho ba 1 cục phèn chua, bắt ba hoà tan trong 1 cốc nước nhỏ và ép buộc ba phải uống trước mặt chúng. 18 tháng sau thì ba mất vì bịnh ung thư máu. Ở quê nhà gia đình hoàn toàn không biết gì về cái chết của ba.
Ngày ba đi tù.
Nhà mất.
Vì không muốn đi vùng kinh tế mới nên mẹ đưa các con về quê ngoại ở. Đó là một vùng quê xa xôi hẻo lánh ở miền Tây mênh mông sóng nước.
Nơi đó có ông chủ tịch xã Hai Sanh mặt dày tối ngày mặc bộ đồ bà ba đi chân đất lạch bạch cứ ghé nhà động viên, nhưng chủ yếu là muốn dzê mẹ của Khoa.
Có bao lần ông cứ ngồi lì tới chiều tối mà không chịu về. Các anh trai hàng ngày đi bán bưng cực khổ về đến nhà thấy cảnh chuớng tai gai mắt hoài nên tức sôi máu không nhịn được. Một chiều kia các anh giả vờ gây lộn to tiếng với nhau rồi xách dao phai, xách mác rượt nhau chém và chạy ra tới ngoài nhà trước chỗ ông ấy đang ngồi.
Anh thì núp sau lưng ông chém tới. Anh thì phía trước đâm vào.
Sợ ăn dao phai và mác lạc nên ông hoảng quá và chuồn đi mất. Từ đó không bao giờ dám tới.
Không ngờ hận thù trong ông bắt đầu ngày đó cũng trào dâng...
Giấy báo tử gởi về nhưng chủ tịch xã không cho người đưa thơ chuyển tới nên gia đình hoàn toàn không biết. Rồi bỗng một chiều miền Tây chìm trong ngập lục của năm 1978, cô em họ của mẹ lội sình vào nhà trao thơ báo tử. Mẹ ngất lịm dưới hung tin bên những tiếng thét gào của chị và em.
Cô kể lại là do cô vô tình nhìn thấy được lá thư ở đồn công an xã và năn nỉ họ cho cô đem về vì cô nhận ra tên của mẹ và địa chỉ.
Cô coi thư viện trường và họ hay sai cô làm nhiều việc. Ngày đó họ nhờ cô coi đọc những thông tin nên cô bắt gặp lá thư cha.
Thời gian lâu lắm, bác Phước ra tù về vì bác sĩ trong nhà tù đoán là do bệnh ung bứu vô phương cứu chữa thời kỳ cuối.
Họ cho bác về để được chết ở nhà.
Do sức ép của Mỹ và LHQ để sớm đổi lấy xoá bỏ cấm vận và ban giao, và vì có quá nhiều tù nhân bị giết chết trong tù nên họ buộc phải cho về để bớt mang tai tiếng.
May thay bác được cứu sống nhờ uống thuốc Nam.
Bác ấy đã tìm về quê Khoa kể lại câu chuyện những ngày tháng trong tù. Sau đó bác và gia đình đã đến Hoa Kỳ diện HO 13 về New York.
Anh Vinh là học sinh giỏi có tiếng khắp vùng Đồng Tháp. Thầy Điệu dạy khối A nổi tiếng ở Sa Đéc với 2 môn Lý Hoá đã đặt hết niềm tin vào anh trong kỳ thi đại học bách khoa.
Ngày anh đi chứng lý lịch, ông Hai Sanh đã phê tặng anh những từ ngữ vô cùng đặc biệt để rồi 3 năm sau anh về nhảy sông tự quyên sinh. Ông viết rõ từng lời và đóng ngoặc kép kỷ càng vào tờ lý lịch:
Cha làm trưởng ty thông tin Gia Định. “Thông tin là tiếng nói chống Cộng Sản đến cùng.”
Cậu : Đứng đầu đơn vị chống Cộng tại địa phương.
Rồi anh Vinh thi vào đại học.
Điểm 3 môn là 15 1/2 nhưng không bao giờ đậu vì lý lịch xấu dù cho điểm tiêu chuẩn chỉ là 10 1/2 cho 3 môn. Không nản chí anh về thi lại và thi lại.
2 năm sau kết quả cũng 15 và 15 1/2 nhưng đều bị đánh rớt vì tờ lý lịch 3 năm vẫn không bao giờ thay đổi. Những từ ngữ ông chủ tịch xã rất là tâm đắc trong dấu ngoặc kép ngày nào vẫn giống như nhau.
Dù cho mẹ có hết lời năn nỉ nhưng ông vẫn không màn tới vì mối thù xưa.
Rồi 3 năm không thể vào đại học,
anh Vinh phải đối diện cuộc đời với nghĩa vụ lao động 2 năm đi đắp đường và xây dựng nông thôn mới.
Ngày chia tay thầy trên đường về, anh Vinh nhảy cầu để tự quyên sinh. May là có người qua đường nhảy theo cứu kịp.
Khi họ đưa anh về nhà, xóm làng mới xôn xao chạy báo mẹ tin rằng :
“Thằng Vinh nó đã nhảy sông!”
Gia đình sợ quá phải lo chạy chọt đút lót cho anh Vinh đi học.
Gom hết cả gia tài bao năm dành dụm là 1 thùng đạn đựng đầy những tờ giấy săn $50 và $100 cũng chỉ đủ cho anh vào trung học ngân hàng 3 trung ương.
Đúng là đời khốn nạn !
Điểm thừa đậu đại học mà cũng không đủ để học trung học hỏi có buồn không?
Vì lẽ đó, chị Phuợng năm sau cũng chẳng thèm đi thi đại học vì sợ tốn tiền.
Chị chọn đại học sư phạm vì được ưu tiên tuyển thẳng vào đây do đã đoạt giải hạng 5 môn Anh Văn toàn quốc.
Anh Hoàng kế tiếp cũng chẳng đi thi vì được tuyển thẳng vào đại học sư phạm.
Anh đứng hạng nhì trong kỳ thi môn Lý toàn quốc 2 năm sau.
Ngày gần đi Mỹ, Khoa bị gia đình cấm đi thi dù là đang học lớp chuyên vì sợ nếu đang học rồi bỏ đi ngang sẽ không có tiền đền.
Về quê theo mẹ làm vườn cũng chẳng được yên.
Khi phỏng vấn đậu và lãnh hộ chiếu xong rồi chờ ngày đi Mỹ thì xã không thèm chứng giấy 3 không.
Họ bắt Khoa phải đóng 10 tấn gạo thay thế cho nghĩa vụ lao động 2 năm vô cớ.
Nếu không thì không chứng giấy tờ và cả gia đình đều phải ở lại.
Gia đình Khoa phải vai mượn nợ để được ra đi. Cộng sản là vậy đó.
Họ cướp miền Nam gây bao đau thương tang tóc xong nhưng họ không bao giờ dừng lại. Họ giết những nhân sĩ trí thức trong chốn lao tù. Họ cướp nhà cửa và đọa đày vợ con những người chỉ là công nhân viên chức miền Nam tới đường cùng. Giờ họ nói lắng nghe trong Khoa, gia đình và kiều bào từng hơi thở. Bạn có tin không ?
Anh Vinh và Hoàng sau này qua Mỹ đã đi học lại trong Georgia Tech University, giờ là những kỷ sư điện toán và computer science.
Anh Hoàng vẽ đường bay cho tên lữa hành trình.
Cộng sản chắc rất thèm những người kỷ sư biết vẽ đường bay như tên lữa Tomahawk!
Điều đó sẽ không bao giờ có được vì họ đã triệt tiêu không những gia đình Khoa mà bao lớp người trí thức.
Xã hội của họ giờ chỉ có những con người dốt nát làm lãnh đạo nên mới gây nên sự thù hằn chia rẽ.
Họ chỉ biết cắn xé, tàn phá và đục khoét nên quê hương mới ngày càng điêu tàn.
Họ chỉ biết cướp mà không biết xây dựng và bảo vệ nên đất nước giờ đây mới lâm vào cảnh phụ thuộc, xâm chiếm, nô lệ và diệt vong.
Họ đã thất bại thảm hại trên chính quê hương mà họ đang cai trị.
Nhưng họ luôn luờng gạt và mị dân mình là người chiến thắng đồng bào và anh em cùng dòng máu.
Bạn có bao giờ thấy người Mỹ hàng năm họ ăn mừng chiến thắng khi quân miền Bắc thắng miền Nam trong Civil War không?
Hay có lẽ người Mỹ họ ngu?
43 năm rồi và bạn hãy chờ xem coi ngày 30 tháng 4 tới họ cũng sẽ ăn mừng chiến thắng để tiếp tục tạo nên hận thù và chia rẽ.
Bài viết là sự thật 100%.
Không có một chút gì là hư cấu. Bất kỳ ai cũng có thể phản biện chuyện này đúng hay sai. Cộng sản đã cho con em họ qua Mỹ học và làm việc nhiều lắm.
Trong số đó có ai bao giờ thấy nước Mỹ ăn mừng chiến thắng Civil War không nói cho mình biết với.
Hy vọng MC Nguyễn Ngọc Ngạn, các MC, ca sĩ và bất cứ những ai muốn tham gia hay tổ chức, dù là giáng tiếp hay trực tiếp chương trình ca nhạc dịp 30/4 sẽ đọc được bài này. Để họ hiểu rõ vì sao người ta lại biểu tình và phản đối họ. Nhìn lại đất nước tan hoang như bây giờ sau 46 năm Việt Cộng cưỡng chiếm, các bạn sẽ nhận định một cách trung thực rằng :
“30 tháng 4 không phải là niềm kiêu hãnh chiến thắng để ăn mừng cho ai cả.
30 tháng 4 là nỗi nhục quốc thể chỉ để thấp nén hương lòng hồi tưởng những đau thương âm ĩ của cả dân tộc Việt Nam.”
Tháng Tư về con nhớ những mùa tang
Nhớ chị, cha, cô, dì, anh, chú, cậu...
Nhớ quê hương của một thời yêu dấu
Nhớ đau thương và những nét hằn sâu
Quê hương mình rồi sẽ đi về đâu?
Máu con dân của hai miền đổ xuống
Sao họ vẫn vui đùa và ăn uống
Trên xác người, máu Mẹ, máu non sông...!
.......................
NHỚ !
Nhớ nhớ nhớ một điều con rất nhớ
Nhớ Sài Gòn hai tiếng nói thân thương
Nhớ từng con góc phố với tên đường
Nhớ trường xưa bạn bè yêu cũ mới
Nhớ ngày xưa cha mua cho áo mới
Nhớ mẹ yêu dìu con bước đến trường
Nhớ người thầy trên bục giảng thân thương
Cô giáo nhỏ nâng niu từng nét chữ
Rồi quê hương lan tràn loài dữ
Chúng ngang tàng đốt phá cướp đi cha
Nơi quê nhà mẹ đau đớn xót xa
Con thương mẹ héo gầy nuôi con trẻ
Những tháng ngày đau thương trôi lặng lẽ
Con lang thang cùng mẹ khắp muôn nơi
Đời bôn ba nghe kiếp sống chơi vơi
Có lúc tưởng mẹ tàn hơi kiệt sức
Dắt dìu con qua tháng ngày cơ cực
Mong một ngày quê hương khỏi lầm than
Một chiều thu con chít chiếc khăn tang
Mẹ ngất lịm bên dòng thư báo tử
Chúng đã giết cha con rồi đem xử
Tội tuyên truyền chống phá quê hương con
Quê hương yêu hai tiếng nói sắt son
Cha không chống chỉ chống loài Cộng phỉ
Bao nhiêu năm cướp miền Nam rồi nhỉ
Chúng giờ đây cướp phá cả non sông
Chúng cướp ngày cướp cạn cướp ruộng đồng
Cướp nhà cửa, cướp công rồi cướp sức
Cướp tuổi xuân bao em thơ sáng rực
Cướp đồng hưu, bảo hiểm, cướp nhà băng
Cướp hồ thiêng, núi sông và mỏ quặng
Cướp xong rồi chúng bán cả giang sơn
Cộng sản gian manh dân chúng căm hờn
Ngày nổi dậy chẳng còn xa đâu nữa
Ngày mai đây vết thù xưa gội rửa
Trả cho cha hai tiếng nói oan khiên
Trả lại cha một tấm lòng trung kiên
Yêu quê hương sơn hà và tổ quốc
Bao năm qua từ ngày cha đã mất
Thương cha nhiều nhớ cha lắm cha ơi !
 
 
19. NGÀY NẦY, NĂM 1975
Tiểu Tử
 
Năm nay tôi 85 tuổi. Vợ tôi thường nói với mấy con: ” Ông bà mình nói người già hay sanh tật, đúng quá ! Bây coi: ba bây bây giờ sáng nào uống cà phê xong cũng lại đứng trước tấm lịch tháng treo ở phòng khách, nhìn trầm ngâm một chút rồi lấy bút gạch tréo ô vuông đề ngày hôm qua ! Chi vậy hổng biết ? Hỏi ổng thì ổng nói gạch để nhớ rằng đến ngày nầy tháng nầy mình vẫn còn trôi sông lạc chợ ! Trời đất ! Định cư ở Pháp từ hơn ba mươi năm chớ phải mới đây đâu mà đi gạch lịch từng ngày ! Ổng còn nói gạch để coi chừng nào mình mới thôi gạch để về lại Việt Nam … “
Câu nói của tôi là sự thật nhưng vì vợ tôi không hiểu nên cho là tôi già sanh tật ! Làm sao giải thích được mỗi lần tôi gạch tréo một ngày như vậy tôi có cảm tưởng như là tôi vừa nhích lại gần quê hương một chút – một chút thôi – đủ để nuôi hy vọng thấy một ngày nào đó mình vẫn còn sống mà trở về…
Sáng nay, cũng giống như mọi ngày, tôi cầm bút gạch tréo ô vuông ngày hôm qua. Ô vuông ngày hôm nay đập vào mắt tôi làm tôi giật mình: ngày nầy, năm 1975 ! Tôi bỗng nhớ ra, nhớ rõ, những gì đã xảy ra ngày đó, nhớ như in. Rồi sợ “cái ngày đó” nó vuột khỏi ký ức vốn đã quá hao mòn của tuổi già, tôi vội vã lấy giấy bút ghi lại…
* * *
…Hồi thời trước 75, tôi làm việc cho một hãng dầu ở Việt Nam, phụ trách nhập cảng xăng dầu từ Singapore vào kho dầu Nhà Bè để cung ứng cho thị trường dân sự và quân sự miền nam Việt Nam. Vì trong xứ có giặc nên thị trường quân sự chiếm 60%, trong đó xăng máy bay dẫn đầu. Các bạn tôi trong quân đội giải thích cho tôi biết rằng ở chiến trường miền nam sự yểm trợ của không lực là quan trọng nhứt. Do đó, tôi luôn luôn theo dõi sát tình hình dự trữ xăng máy bay ở các kho dầu miền nam, từ kho Nại Hiên Đà Nẵng dẫn xuống kho Cần Thơ thông qua kho lớn ở Nhà Bè…
Vào cuối tháng 3 năm 1975, sau lịnh triệt thoái cao nguyên, tình hình quân sự trở nên ồ ạt. Sợ trở tay không kịp, tôi còm-măng Singapore một tàu xăng máy bay. Hay tin nầy, hãng bảo hiểm có hợp đồng với hãng dầu tôi làm việc đánh điện phản đối, không cho tàu dầu qua Việt Nam viện cớ tình hình bất ổn. Đánh điện qua, đánh điện lại, cù cưa cả tuần họ mới bằng lòng cho tàu dầu qua, với điều kiện phải có hộ tống của Navy Mỹ họ mới cho tàu vào sông Sàigòn để cập kho Nhà Bè !
Tôi báo cáo với ban giám đốc vì lúc đó ở kho lớn Nhà Bè trữ lượng xăng máy bay chỉ còn đủ có bày ngày tác chiến của không quân. Ban giám đốc chấp thuận điều kiện của hãng bảo hiểm. Tôi vội vã gọi điện thoại lại cơ quan yểm trợ Mỹ để xin họp khẩn. Ông trưởng sở trả lời: ” Tôi sẽ đến ngay văn phòng ông. Cho tôi mười phút ! “. Tôi quen ông nầy – tên W, thường được gọi là ” Xếp ” – nhờ hay đi họp chung. Ông ta dễ thương nhã nhặn, biết chút đỉnh tiếng Pháp nên lần nào gặp tôi cũng nói :” Bonjour ! çà va ?” ( Chào ông ! Mạnh hả ?)
Xếp W đến văn phòng tôi với hai người phụ tá. Tôi đã làm sẵn hồ sơ nên sau khi mời ngồi, tôi trao ngay cho họ để họ dễ theo dõi những gì tôi sẽ trình bày. Mười phút sau, tôi kết luận xin can thiệp gấp để tàu dầu xăng máy bay của hãng tôi được hộ tống, không quên nhắc lại điểm chánh yếu là trữ lượng xăng máy bay chỉ còn đủ để chiến đấu trong vòng có bảy bữa !
Nghe xong, Xếp W xin phép bước ra ngoài gọi radio về trung ương. Một lúc sau, ông trở vào, nét mặt và giọng nói vẫn tự nhiên như chẳng có gì quan trọng hết: “Rất tiếc ! Chúng tôi không giúp được ! Thôi ! Chúng tôi về ! “. Tôi đang nghe nghẹn ngang ở cổ thì ông W vỗ vai tôi nói nhỏ bằng tiếng Pháp: “Allez vous en ! ” ( Ông hãy đi, đi ! ) Ra đến cửa phòng, ổng ngừng lại nhìn tôi, gật nhẹ đầu một cái như để chào nhưng tôi nghĩ là ổng muốn nhắc lại câu nói cuối cùng ” Allez vous en ! ” (Ông hãy đi, đi ! ) …
Tôi ngồi bất động, nghe tức tràn lên cổ vì thấy mình bất lực quá và cũng nghe thương vô cùng cái quê hương nhỏ bé của mình, nhược tiểu đến mức độ mà khi cần nắm tay để kéo đi theo thì ” họ ” dán… đầy đường cái nhãn ” hai bàn tay nắm lấy nhau” để chứng tỏ sự thật tình ” khắn khít “, rồi khi không còn cần nữa thì cứ tự nhiên buông bỏ không ngượng tay giấu mặt, vì biết mười mươi rằng ” thằng nhược tiểu đó không làm gì được mình ” !
Tôi ráng kềm xúc động, bước qua phòng họp của ban giám đốc, chỉ nói được có mấy tiếng: ” Chánh quyền Mỹ từ chối ! “. Sau đó, tôi đánh điện qua Singapore , cũng chỉ bằng một câu: ” Không có hộ tống “. Họ trả lời ngay: ” OK ! Good Luck ! ” ( Nhận được ! Chúc may mắn ! ) Hai chữ cuối cùng, trong hoàn cảnh nầy và vào thời điểm nầy, nghe sao thật đầy chua xót !
Thấy mới có ba giờ chiều, nhưng không còn lòng dạ đâu để ngồi lại làm việc nên tôi lái xe về nhà. Tôi lái như cái máy, cứ theo lộ trình quen thuộc mà đi. Về đến trước nhà, tôi bỏ xe ngoài ngỏ, đi bộ vô. Vợ tôi chạy ra, ngạc nhiên: ” Sao về vậy anh ? “. Tôi không nói được gì hết, chỉ gục đầu vào vai vợ tôi rồi bật khóc . Vợ tôi chưa biết những gì đã xãy ra nhưng chắc nàng đoán được rằng tôi phải đau khổ lắm mới phát khóc như vậy. Cho nên nàng vừa đưa tay vuốt vuốt lưng tôi vừa nói, giọng đầy cảm xúc: “Ờ…Khóc đi anh ! Khóc đi ! “
Ngày đó, tháng tư năm 1975…Đúng là ngày nầy !
Tiểu Tử
 
20. Nắng tháng 4
Dương Công Khánh 
 
Nắng tháng 4 rực lửa
thiêu cháy từng mảnh tâm linh
tôi đã chọn cho riêng mình
sự trắng trong trần trụi
bắt đầu nỗi sợ hãi
hóa kiếp bò già
em cứ thản nhiên lùa đến đồng hoa
pha màu cỏ úa
rong rêu vây bủa
nỗi tủi nhục tồn sinh
vô tâm vô cảm vô danh
vụn đau vụn quên vụn nhớ
hóa khói sương nuôi hơi thở
để bây giờ lại nhớ nắng tháng 4
 

21. 30/4, lấy gì để tự hào ?
Trung Son Nguyen
 

Vốn sinh ra trong một gia đình thuộc “Bên thắng cuộc”, lẽ ra tôi phải tự hào về ngày 30/4 vì đó là ngày mà gia đình tôi thuộc phe chiến thắng, ngày mà đảng cộng sản VN bảo đó là ngày thống nhất vinh quang. Nhưng tôi thấy chẳng có gì đáng tự hào về cái ngày đó.
Chiến thắng sao ? Tôi không nghĩ đó là chiến thắng khi mà người Mỹ đã bắt tay với Tàu cộng để triệt tiêu Liên Xô cho nên đẩy Miền Nam Việt Nam cho Miền Bắc. Chẳng thế mà sau hiệp định Paris 1973, quân đội CSVN được thoải mái đóng lại tại các vùng mà họ đã chiếm đóng phi pháp trước 1973. Rồi họ thoải mái chuyển quân và tấn công Miền Nam nhưng Miền Nam thì buộc phải ngồi im nhìn giặc đào hào, đặt mìn dưới chân tường nhà mình. Miền Nam thì bị cắt hết viện trợ súng đạn, xăng dầu vv… từ đồng minh Hoa Kỳ trong khi Miền Bắc thì ngày một nhiều thêm vũ khí súng đạn từ sau 1972. Và cũng đừng quên rằng, tướng Ngô Quang Trưởng sau cuộc họp với tùy viên sứ quán Mỹ tại Đà Nẵng vào ngày 28/03 đã vội vã bỏ tử thủ Đà Nẵng dẫn đến việc tan hàng một lần nữa vào ngày 29/03 của quân đoàn I. Trước đó, đài VOA và đài BBC của đồng minh Hoa Kỳ đã vội vã đưa tin không cần kiểm chứng từ đài Tiếng Nói VN của CSVN về việc mất Phú Lộc ngày 24/03/1975 trong khi thực tế tiểu đoàn 8 TQLC thuộc Lữ đoàn 258 vẫn còn đóng ở đó mà không gặp bất cứ cuộc tấn công nào. Tin thất thiệt này khiến cho một quyết định sai lầm là QĐ I tiền phương VNCH đã không rút theo quốc lộ 1 mà rút theo cửa Thuận An dẫn đến bước đầu tiên tan tác của QĐI. Và còn rất nhiều điều nữa đã chứng minh cho việc “Chiến thắng” của Miền Bắc đã được Kissinger cùng Mao định đoạt từ trước đó rồi… Chính vì vậy, nếu chúng ta đọc lịch sử đúng đắn và có đầu óc trung lập thì cũng đã thấy được việc Miền Nam phải bị thất bại là điều tất yếu. Chẳng có tự hào gì về cái gọi là “Chiến thắng” mùa Xuân cả.
 

Thống nhất ư ? Có lẽ là thống nhất thật, nhưng mà trước cái sự thống nhất ấy, hàng triệu thanh niên Miền Bắc đáng lẽ ra đang tuổi ăn học để xây dựng cuộc sống, đã bị đẩy vào chỗ chết mất xác. Trong đó có không ít người trong gia đình tôi là nạn nhân của cái gọi là “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước ấy”. Cái sự thống nhất ấy không được lãnh đạo đảng CSVN tiến hành trong hòa bình và chiều lòng dân mà họ quyết dùng vũ lực. Cho nến cái sự thống nhất ấy không chỉ trả bằng máu của thanh niên Miền Bắc mà cả của hàng triệu đồng bào Miền Nam. Cái giá quá đắt cho một sự thống nhất chỉ có trong tâm trí của lãnh đạo Hà Nội. Và cái sự thống nhất ấy chẳng là gì cả khi đảng CSVN coi đó là mục tiêu cần phải thực hiện dù cái giá họ trả cho Tàu cộng đổi lấy vũ khí là một phần Vịnh Bắc Bộ và quần đảo Hoàng Sa (Hoàng Tùng đã thừa nhận đảng CSVN nhờ Tungcẩu “giữ hộ” Hoàng Sa sau khi chúng chiếm đóng HS của VNCH vào năm 1974). Cái giá của thống nhất còn là hàng trăm nghìn người vô tội đã phải đi tù, và hàng triệu người khác phải bỏ xứ ra đi mà con số chết trên biển, bị hải tặc giết đã lên đến hàng mấy chục ngàn. Máu thịt của người dân VN rẻ rúng đến thế sao ? Thế thì có gì mà tự hào về cái sự thống nhất đó.
Và cho đến ngày nay, mấy chục năm sau ngày 30/04/1975 đau thương đó, vẫn chẳng có gì để “tự hào” cả. Bởi vì cái chiến thắng đó, cái sự thống nhất đó đã là bước đầu của sự lệ thuộc toàn vẹn vào Tàu+ như sự tiên liệu của ông Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Diệm trước khi mất. Kèm theo đó là biển đảo đã nằm gọn trong tay chúng. Đó là một sư đau lòng cho cả dân tộc VN.
Người ta đang tuyên truyền về một đất nước phát triển với nhà, xe, quán ăn khắp nơi. Nhưng họ đâu có biết rằng cả nước VN đang đi vay để mà xa hoa.
(Xin mở dấu ngoặc ở đây : vc trước đó bảo sự giàu có phát triển chỉ là phồn hoa giả tạo. Há, còn bây giờ ?)
Gánh nợ công đã lên tới hơn 40 triệu đồng một người dù là già sắp đi xa lẫn trẻ em mới chào đời. Giá mà ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư kiêm chủ tịch nước CHXHCN VN kia mà “Gánh” được thay cho dân VN thì mới tốt.
Nhưng chẳng có đảng nào gánh thay dân khi mà đảng đi vay về để xây nhà, cầu đường một phần, và tham nhũng nhiều phần còn lại. Cho nên đừng tự hào vì chung cư, xe cộ, ăn uống, quán bar vv…mà phải nhìn cái thực tế là một nước không có công nghiệp gì cả thì lấy đâu ra mà có giá trị thặng dư để phát triển và tự hào ?
Tự hào được không khi mà đảng CSVN vẫn coi “Xuất khẩu lao động” tức là bán sức lao động của thanh niên nam nữ làm nô lệ cho “tư bản” là nguồn thu ngoại tệ chủ yếu để đảng khoe khoang thành tích. Đấy, có đáng tự hào không các bạn ? Và cũng có đáng tự hào hay không khi mà hàng năm người Việt cứ được Nhật, Hàn, Thái vv… xướng tên thường xuyên vì tệ nạn trộm cắp hay làm “gái” nơi xứ người ?
Chỉ có những ai có đầu óc vô cảm và dốt nát mới không thấy xấu hổ về điều đó. Những cô dâu nơi xứ Tàu, Hàn, Đài chắc chắn không phải là niềm mong ước của người dân VN nếu như đó không phải là một cơ hội để con cái gửi tiền về trả nợ cho cha mẹ. Đó là tự hào ư ?
Người ta cũng nói rằng, VN bây giờ đã có những hãng máy bay của các công ty tư nhân như Vietjet hay Bamboo cho nên đó là sự tự hào. Nhưng các bạn nhầm đó, Bamboo thì vốn của Tàu, máy bay của Tàu cho nên bây giờ, sau một thời gian đứng tên, Quyết FLC đã bị đẩy ra. Còn Vietjet ư ? Hãy hỏi nếu không có cái bóng của tướng Nguyễn Chí Thanh và tướng Vịnh thì liệu có Vietjet hay không ? Chẳng có gì đáng tự hào cả khi mà những đồng tiền thuế của người dân đã được “chuyển hóa” thành vốn cho những tư bản đỏ xử dụng làm giàu cho cá nhân họ.
Người ta cũng nói rằng phải tự hào về Bphone hay Vinfast. Vâng, Bphone thì linh kiện Tàu cộng và lắp ráp tại Mỹ Đình. Vinfast thì là sự lai tạp giữa thiết kế Châu Âu, động cơ lỗi thời của BMW và linh kiện khác của “anh bạn vàng 4 tốt” cho nên việc Vinfast gẫy càng thường xuyên cũng chỉ là chuyện tất nhiên mà thôi.
Có tự hào được không khi mà nhân quyền ở cái đất nước nhỏ bé hình chữ S đã bị chà đạp bao năm qua ? Còn đó một ông lão thành cách mạng đã bị chính đảng mang súng bắn chết và xử tử con ông chỉ vì tranh chấp đất đai. Chưa cần biết ai đúng ai sai, thì việc một “Chính quyền” đem quân đội bắn dân vì đất đã thấy đó là một sự nhục nhã. Còn đó, biết bao câu chuyện đau thương của một dân tộc không hề được mở miệng nói thật thì lấy gì mà tự hào ? Các bạn cho rằng tôi “phản động” ư ? Vậy tôi đố các bạn dám phê phán công khai và vạch trần sự thật tham nhũng hay bán nước của Hồ Chí Minh, Lê Đức Anh, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng… đó ? Có đáng tự hào hay không ? Chắc chắn là không. Và càng không thể tự hào nổi khi mà đảng CSVN thích xây tượng đài nhiều hơn bệnh viện và trường học khiến cho trẻ em rất nhiều nơi chỉ biết ngắm tượng đài thay cơm và đu dây đến trường… xấu hổ lắm, đau thương lắm chứ tự hào nỗi gì các bạn ?
Còn rất nhiều điều mà trong một bài viết này tôi không thể nói hết. Nhưng có một sự thật không thể chối cãi đó là đất nước VN sau ngày 30/4 không hề có phát triển thực sự và toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất, tự do. Những điều dối trá tiếp tục diễn ra từ ngày này qua ngày khác. Chính vì thế, tôi thấy rằng chẳng có gì đáng tự hào về “Chiến thắng” đó cả. Những sự thật bẽ bàng đã nói lên bản chất của vấn đề :
Người dân VN đã hoàn toàn thất bại, đất nước VN đã hoàn toàn kiệt quệ và lệ thuộc kể từ ngày 30/04/1975.
Rất đau buồn, nhưng đó là sự thật không thể chối bỏ !
Và như vậy, mỗi chúng ta cần thấy được trách nhiệm của mình với dân tộc VN khi mà sự thật được nhìn nhận một cách thấu đáo nhất. Đừng ngủ vùi trong sự ảo tưởng về cái gọi là “Tự hào chiến thắng” mà phải nhìn nhận cho đúng thực tế để đứng lên Dựng lại VN !
Một cánh tay đưa lên ! Hằng ngàn cánh tay đưa lên... !!!
Đặng Chí Hùng.
30/03/2021
 
 
22. NHỚ LẠI NHỮNG NGÀY TRƯỚC KHI BỎ HUẾ CÁCH ĐÂY 47 năm 22/03/1975-22/03/2022
Khuong Saigon is feeling nostalgic with Anthony Hayward and
72 others 
 
Tôi là một Hiệu Thính Viên của đơn vị .
- Ngày 22/03/1975 tôi được biết người dân sống tại TP Huế đang lũ lượt di tản khỏi Huế vì hình ảnh tang thương của năm Mậu Thân 1968 và mùa hè đỏ lửa năm 1972 lại tái hiện . Gia đình vợ con tôi đang nóng lòng chờ tin tôi để cùng xuôi nam.
- Đêm 23/03/1975 nhận được sự vụ điện ( SVĐ ) từ hậu cứ đơn vị đóng ở căn cứ Sóng Thần Thủ Đức báo tin phu nhân *đại bàng Tiền Giang ( TĐT/Tiểu Đoàn 5/TQLC) về đến Saigon an toàn, 23h đêm tôi gõ cửa hầm trình Công Điện hàng ngày và SVD mà tôi vừa kể cho Thiếu tá Phạm văn Tiền Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Hắc Long TQLC . Thấy anh ấy vui tôi nhân cơ hội trình bày hoàn cảnh gia đình mình luôn, anh ấy bảo sáng mai nói Thiếu uý Thời SQTT *và Trung uý Ngành DDT/DDCH *lên báo cáo sự việc.
- Sáng 24/03/1975 tôi biết trưa hôm đó là có chuyến tiếp tế cho Tiểu Đoàn. Dù ngoài tuyến đang đụng địch ĐB Tiền Giang đang ở TOC điều quân khiển tướng, vì gia đình tôi cũng mạnh dạn lên trình diện ĐB để xin được ra hậu trạm đơn vị nhầm giúp đỡ cho gia đình ( trước đó SQTT và DDT/DDCH đã từ chối thỉnh nguyện của tôi )
 
- Trưa 24/03/1975 tôi cũng được theo xe tiếp tế ra Hậu Trạm đóng ở Mang Cá Nhỏ Huế sau khi ĐB Tiền Giang dùng khẩu Cold 45 bắn báo động cả đơn vị vì tôi đã làm phiền anh và sau khi Trung Uý Ngành và Thiếu uý Thời lên báo cáo sự việc.
- Huế vắng như “ chùa bà Đanh “ bà con đã di tản vô Đà Nẳng, TP như vừa qua cơn địa chấn nhà nhà cửa đóng then cài, đường Trần Hưng Đạo, chợ Đông Ba lác đác vài bóng người, đường phố vắng tanh …
- Chiều hôm đó mượn chiếc xe Dodge của đơn vị tôi về nhà trong niềm vui và sự chờ đợi mỏi mòn của Mệ và vợ tôi. Tôi gom hầu hết vật dụng trong nhà chất lên xe, Mệ và vợ tôi cũng theo tôi vào Hậu Trạm đơn vị chờ lệnh di tản.
- Đúng như tôi tiên đoán, 23h đêm 24/03/1975 cả Hậu Trạm các đơn vị TQLC được lệnh trực tiếp di chuyển xuống căn cứ Trần Ba ( căn cứ tiếp liệu của SĐTQLC) đóng ở ngay cửa Thuận An Huế.
- Đêm đó những trái đạn 122-130 ly của địch bắt đầu nả đạn vào TP Huế và các vùng phụ cận. Một không khí căng thẳng và lo Âu trên khuôn mặt của mọi người, giữa kho đạn dược ngổn ngang nếu 1 trái đạn của địch rớt vào đây kho đạn phát nổ, xăng dầu bùng cháy thì không biết sẽ ra sao !Không lệnh lạc, không có hướng nào để di tản…
- Sáng 25/03/1975 tôi cùng thằng bạn nối khố Vu Đại cùng ăn chung mâm ngủ chung giường bao lâu nay bàn nhau tìm cách vào Đà Nẳng bằng đường bộ. Sau khi thống nhất với một số anh em nữa, chúng tôi dùng chiếc GMC đã chở vật liệu gia đình tôi , Đại và một số gia đình anh em nữa chạy ngược lên Huế để theo QL1 vô Đà Nẳng với quyết tâm tới đâu hay tới đó. Khoảng 6h sáng là chiếc xe GMC của tôi đã lên đến Đập Đá , chạy gần đến cầu Tràng Tiền thì từ bên kia sông Hương , tôi đoán là từ chợ Đông Ba một quả rồi 2 quả B40 ngấm vào xe tôi ,hú hồn không trúng đạn nổ trong trường ĐHSP và trước đầu xe chúng tôi khoảng 50m. Quay đầu xe và chạy về hướng Thuận An.
- Trên đường về lại Thuận An ( xã Phú Thượng ) nhìn thấy nhiều chiếc ghe của ngư dân đang xuôi ngược dưới con rạch ven đường, gọi khan cổ họ vẫn phớt lờ nên cuối cùng chúng tôi phải dùng súng XM16 bắn thị uy mới có 2 chiếc ghe tấp vào. Chúng tôi yêu cầu giúp đỡ đưa chúng tôi khoảng 16 người ra cửa biển Thuận An với giá thỏa thuận là 1000đ/ người.
- Không thể về lại Huế rồi xuống Bao Vinh mới có ngõ ra Thuận An, chúng tôi thỏa thuận với họ là cứ theo con rạch xuôi về Chợ Nọ và vượt qua những con đập ngăn triều, tới đâu hay tới đó ( đến các con đập chúng tôi phải người dùng nón sắt tạt nước, người dùng nón sắt xẻng cá nhân đào thân đập rồi hè nhau đẩy ghe đi qua ).Trên đường đi có ghé rước thêm một số anh em đơn vị khác cùng “ ra biển “ .
- Khoảng 12h trưa 25/03/1975 chúng tôi cũng đã ra được cửa biển Thuận An, sau khi thanh toán tiền cho ngư dân chúng tôi được những chiếc LCM của Hải quân rước và đưa ra những chiếc Hải Vận hạm đang đậu ngoài xa. Từ trên cao những chiếc lưới được thả xuống và lần lượt chúng tôi được anh em Hải Quân kéo lên tàu. Khoảng 16h cùng ngày thì tàu bắt đầu đi chuyển vô Tiên Sa Đà Nẳng.
- Hành trình di tản bỏ Huế đầy gian nan và vất vã của chúng tôi được đền đáp xứng đáng với sự an toàn của 5-7 gia đình và chừng 30 Cọp Biển + hơn 20 anh em Thương binh của xác đơn vị khác.
- MỘT HÀNH TRÌNH KHÓ QUÊN !!
#Viết xong lúc 04h ngày 22/03/2022 Khuong Saigon
* Đại Bàng : danh xưng của các vị đơn vị trưởng cấp Tiểu Đoàn trở lên
* SQTT : Sĩ quan Truyền Tin
* DDT/DDCH : Đại Đội Trưởng đại đội chỉ huy.
* Thuận An- Bao Vinh - Phú Thượng-Chợ Nọ : những địa danh ở Huế.
 

23. Thành Tâm Vang Nài - Cung Phan
 
Ba Mươi Tháng Tư , vào Năm đó , 
Một , Chín , Bảy , lăm có khổ đau , 
Quân , Dân...gào , khóc với nhau... 
Miền NAM...bị " Mất "...lo , âu ...não nề!
Đồng Đội...chết , lê thê...di tản... 
Những cảnh bắt giữ...cản vượt biên... 
Chật người...trong một chiếc thuyền! 
Hiểm nguy, sóng gió...nhắm miền định cư... 
Lênh đênh...đói rét...đừ hết cả! 
Lắm ghe tan , nát...cá ...no... mồi .... 
Trại tù , cải tạo...được nhồi... 
Sĩ Quan , Linh Mục...sống "tồi" nhiều năm!
Tương lai Việt - Nam...tăm tối quá ! 
Ba-by-lon xưa...quả hiện hình , (ba-by-lon : nơi Dân Do Thái bị lưu đày...) 
Chúa ơi ! xin hãy thương tình.... 
Toàn Dân cả Nước...bất bình , khóc than,
Giáo Hội , nhiều Dân oan....mất đất ! 
Nhân Quyền , Tự Do ...vẫn cùm gông ! 
Ỷ quyền...bóp cổ , gài chông.... 
Chúng con ngửa mặt...cậy trông nơi Ngài...
Hoán cải...cho những ai lạc lối ... 
Cai trị đất Nước...bối cảnh này , 
Đem lại hạnh phúc...tràn đầy... 
Với Lòng Thương Xót...van nài thành tâm
(Pr.Khiêm Cung.)
 
CỜ TỔ QUỐC
Tiên, Tổ Nước ta, trải nhiều...THỜI.... 
Treo CỜ TỔ QUỐC...qua các ĐỜI... 
Nền VÀNG...biểu hiện...DA...gốc Việt... 
Dòng MÁU BA MIỀN...đồng quyết khơi...
Đau khổ...chiến tranh...vẫn rạng ngời...
Địch thù...ghen, ghét...đê hèn "chơi"! 
Đã lâu...không phất... trên Non Nước!
Thảm cảnh...Quân, Dân...nhìn tả tơi....
Người Việt...sầu, khổ...ở khắp nơi.... 
Nhớ luôn...cầu nguyện...với Ông Trời....
Giúp....cho đoàn tụ...thật mau "nhé"!.....
Cao...ngất...CỜ...bay....vui...sướng...cười
(Pr. Khiêm Cung.)
 
 
24. Hỡi ai thương nhớ quê hương
Ngô Minh Hằng
 
Xin nghe tôi kể chuyện buồn tháng Tư
Tháng Tư, trời đất mây mù
Lệnh hàng, buông súng, thiên thu còn buồn!
Nghẹn ngào, nhục tủi, đau thương
Oan khiên máu đỏ ngập đường lui quân
Thân người đổ xuống theo thân
Không làn đất phủ, không lần tiễn đưa !
Xác người bón gốc rừng thưa
Nước tôi có một Tháng Tư kinh hoàng !
Tháng Tư nghe lệnh đầu hàng
Bao người thương lá cờ vàng, quyên sinh!
Nước nguy, vị nước, quên mình
Mất thành, anh dũng cùng thành, chết theo!
Tháng Tư khói lửa ngặt nghèo
Vô danh quốc sử bao nhiêu anh hùng!
Tháng Tư vợ trẻ khóc chồng
Mẹ già chan chứa giọt hồng khóc con
Tháng Tư đại bác nổ giòn
Trẻ thơ chết thảm dưới cơn đạn thù
Tháng Tư rộng cửa lao tù
Nước tôi từ đấy đau nhừ nỗi đau
Núi rừng người nối chân nhau
Kiếp tù lạ nhất địa cầu, thảm chưa !
Trong tù, tù chết như mơ
Ngoài tù, dân chết bên bờ biển đông
Biển xanh pha đỏ máu hồng
Rừng xanh lệ đỏ từng dòng mồ hôi !
Tháng Tư ai biến nước tôi
Thành lò hỏa ngục thiêu người tang thương!
 

25. ANH ĐÂU - CÓ TỘI
 
Cuộc chiến tàn , Anh đâu có tội......
Ai bắt Anh , phải đội vành Tang......
Ai tuyên bố , bỏ súng đầu hàng.....
Khi vết thương Anh , còn đang rỉ máu....
Ai xua đuổi Anh , nhẫn tâm tàn bạo......
Lê lết thân què , máu chảy còn đau.....
Giải phóng của bây , tàn nhẫn vậy sao.....
Tụi bây thét gào , vui trên xương máu.....
Máu Đỏ , Da Vàng , nhẫn tâm tàn bạo....
Chỉ sau một ngày , bây tạo tang thương.....
Bao nhiêu Thương Binh , lê lết khỏi giường......
Họ phải rời đi , vết thương rỉ máu.....
Về đâu Anh hỡi , Quê Hương , giông bão.....
Tổ Quốc không còn , bạo ác lên ngôi.....
Số phận các Anh , theo vận nước nổi trôi.....
Đời Trai Oanh Liệt , hết rồi tàn phế.....
Các Anh sống đây , nhưng đời đã tế.....
Tế sống cuộc đời , giông bão Quê Hương......
Giải phóng (ư) sao cảnh tang thương....
Cả Miền Nam , đoạn trường thống khổ....
Người còn sống , cả người dưới mộ.....
Phải lao tù , dưới chế độ các ông....
Người còn sống , cỗ phải xiềng gông....
Người chết đi , cây trồng lên trên mộ....
Kẻ đi bộ , giải phóng , người đi xe.....
Thằng què quặt , giải phóng thằng to béo.....
30 - 4 , Miền Nam , mang vết sẹo.....
Vết sẹo chưa lành , khắp nẻo Quê Hương.....
Người Thương Phế Binh , vất vưởng ngoài đường.....
Quê Hương Anh đâu , tình thương Đất Mẹ.....
Đã hết , hết rồi , lặng lẽ ,hỏi đau thêm
Ác mộng kinh hoàng , sau chỉ một đêm....
Rời Tổng Y Bệnh , chân tê , chưa tiêm thuốc......
Thằng lết , thằng bò , rời nhanh bắt buộc......
Nước biển , đang còn , buộc phải rút kim......
Nỗi đau đó , có mấy ai tìm.....
Ngày tang tóc , một đêm Quốc hận.....

Ngày 1/5/1975 , chỉ sau một ngày mất Nước , Tổng Y Bệnh Cộng Hoà ,
Còn khoảng 700 Thương Bệnh Binh đang điều trị rất nặng , người cụt chân , người mù mắt , và rất nhiều vết thương trên cơ thể , nhưng chính quyền mới , bắt buộc phải rời khỏi Tổng Y Bệnh tức khắc , nếu không đi sẽ bắn bỏ ,
Các Thương Bệnh Binh , phải lê lết rời đi trong sự đau đớn về thể xác, cả tin thần ,
Có một dân tộc nào đối xử với dân tộc chính họ tàn nhẫn đến thế không????? ,
TG Lê Quang Lãm ,
FB Diễm Xuân chia sẻ
Lời bình VPT
Khi đọc bài, lệ từng giọt rớt rơi
Làm thân trai, vào thời buổi chinh chiến
Bảo vệ quê hương, tuy không cùng chiến tuyến
Trận chiến tàn, đối xử thế sao anh ?
Những Ông Cha Chú Bác và các Anh
Trong chiến tranh, trở thành người tàn phế
Không cùng phía, nhưng là người Việt đó
Nỡ lòng nào, đối xử thế sao anh ?
 

26. BÁN NỖI KINH HOÀNG - Nguyễn Văn Nhượng
 
Chợ đời mua bán xôn xao
Mỗi ngày lắm thứ mua vào bán ra
Người bán nước, lấy dollar
Cho con du học, tậu nhà bên tây
Người rao bán tấm thân gầy
Để mua cuộc sống lất lây khốn cùng
Người đem bán đạo hiếu trung
Để mong sắm sửa gấm nhung lụa là
Vì muốn vinh thân phì gia
Lòng tham vô đáy vậy là bán đi
Đạo đức, nhân phẩm, lương tri...
Bán cả Hỷ Xả, Từ Bi, Phật, Trời
án cả rừng thẳm, biển khơi
Đó đây rao bán ghế ngồi chức quan
Người đem bán cả giang san
Em đây bán 'nỗi kinh hoàng tháng tư'.
Vanbe Nguyen


27. NIỆM THÁNG TƯ
 
 

Tôi có người anh không chết trận
Tự xóa tên mình cuối tháng Tư
Sử sách lưu danh còn chi nữa
Cờ lau khát vọng đất Hoa Lư
Tôi có người cha giương súng lệnh
Chào lá Quốc Kỳ trước khi đi
Chỉa thẳng đầu mình viên đạn chót
Chết theo thành – Bia chẳng cần ghi
Tôi có người mẹ nhìn quanh mãi
Nhà mình còn chi đáng giá không
Trước cái tủ thờ bà cúi lạy
Tổ tiên tha thứ buổi gạo đong
Tôi có người chị từ dạo ấy
Bán tà áo cưới đi thăm nuôi
Thất thân giữa dậm trường Nam-Bắc
Lòng men sông Hát giải oan thôi
Tôi có đứa em ra đầu chợ
Chờ miếng cơm thừa bên quán ăn
Tay mời vé số cầu người trúng
Vĩa hè chiếu rách khóc Thiên Đàng
Tôi có người yêu đêm từ tạ
Khuya em lên tàu đi vượt biên
Máu trinh loang xuống vùng biển Thái
Trả giá Tự Do rồi hóa Điên
Tôi có thằng bạn đi trót lọt
Quay về kháng chiến giữa rừng hoang
Hoài bảo quê hương cao chất ngất
Tử hình- Tù ngục chẳng gian nan
Tôi có mình tôi rất ngậm ngùi
Bốn mươi bảy lần đếm tháng Tư rơi
Chén đắng sao ai mời uống mãi
Bên dòng bi sử dật dờ trôi.
PXT 
 
28. Nhớ Về Nước Việt Nam Cộng Hòa - Thien-hoang Chung
 
Tôi là con dân nước Việt Nam Cộng Hòa, quốc tịch Đan Mạch.
ngày còn trẻ tôi không có kiến thức về chính trị, nhưng tôi biết Mỹ bỏ rơi đồng minh của họ là VNCH và đây là một trong những lý do này mà miền Nam VN mất vào tay cộng sản. Khi tôi có cơ hội tìm hiểu tại sao Mỹ lại bỏ VNCH và cá nhân /đoàn thể nào tạo nên động lực này...
Mình trở lại những thập niên 60-70 của thế kỷ trước và tập trung vào chiến tranh VN và ảnh hưởng của thế giới trong cuộc chiến này, lúc bấy giờ thế giới chia ra hai phe, phe cộng sản do LIÊN XÔ cầm đầu và  phe tư bản tự do, với anh Cả là Mỷ đế. Phe tư bản tự do có hai đãng chủ lực, đãng dân chủ và đãng cộng hòa.
Những tác động trên thế giới.
-Chiến tranh Lạnh (1953-1962) và
-khủng hoảng năng lượng thế giới 1973
Hai vai trò này có ảnh hưởng rất lớn trong đường lối chính trị của Mỷ đế, cộng thêm làn sóng phản chiến(chiến tranh VN) của sinh viên thiên tả trên thế giới và tại nước Mỹ...
Người làm chính trị thường lợi dụng su hướng của xã hội(ý dân) với mong muốn được dân ủng hộ và thắng cữ nhiệm kỳ...ông Joe Biden cũng không ngoại lệ và ông rất nhiệt tình trong việc đề nghị loại bỏ viện trợ cho chiến tranh Việt Nam,  kết quả là quốc hội Mỹ giảm trợ cấp cho tới năm 1974 thì cúp hoàn toàn việc trợ cấp kinh tế cho nước VNCH..."cảm ơn Biden và đãng dân chủ"
cho tới 30 tháng 4 năm1975 thì miền Nam Việt Nam mất vào tay việt cộng,  lúc bấy giờ ông Joe Biden là một thành viên lớn đại diện cho đãng dân chủ lại không muốn chịu trách nhiệm về hậu chiến tranh tại miền Nam VN và là người đề xướng không nhận người tị nạn chiến tranh Việt Nam mà ông cho là gánh nặng của nước Mỹ, nhưng cũng may không phải tất cả người Mỹ đều giống Joe B.
năm 2020 Joe Biden đắc cử tổng thống Mỹ nhiệm kỳ 4 năm, trong đó có những lá phiếu của người tị nạn cộng sản Việt Nam...tôi rất khâm phục những người đã bỏ phiếu ủng hộ Joe B., vì họ có một tấm lòng vị tha mà tôi thì không bao giờ có.
Tình hình thế giới hiện tại 2022, nước Ukraine bầu một ông hề làm tổng thống còn nước Mỹ bầu một ông tổng thống đi làm hề. Nước Mỹ mất cái uy nghiêm của một đại cường quốc với sự lãnh đạo của ông Joe chỉ biết a-dua theo thiên hạ. Trung quốc đang là ngư ông hưởng lợi từ chiến tranh Nga và Ukraine và cũng gần thay thế chổ đứng của Mỷ đế.
trên đây là cảm nghỉ cá nhân của tiểu đệ lúc lên cơn khùng và em xin được miễn bàn hay dẫn chứng.
tp.08-04-2022

Những Anh Hùng Tí Hon của QLVNCH
Tháng Tư ai khóc ? ai cười?
riêng hồn lặng lẽ tủi hờn non sông
bao người tìm đến biển Đông
tự do hai chữ tử vong xá gì
ngày nay cơm áo đủ đầy
quên bao nghiệt ngã ơn này ĐÃNG cho
hồi hương lắm bạc nhiều tiền
thôi thì cứ nổ ông này ông kia
thật hư mình biết thật hư
Đói no cực khổ ai chia với mình
tháng tư lại nhớ chuyện xưa
bao giờ ĐÃNG chết thì tôi ăn mừng
tp.05-04-2022
 

29. Tháng Tư Đen (Tâm Sự Tù Binh) – Trương Duy Huy - Hoài Niệm
Posted by BIENXUA on APRIL 18, 2022
 
Lê Thy đánh máy từ sách in trước 1975 do TM gởi tặng
Trương Duy Huy
Tảng sáng ngày 14, khi mặt trời vừa ló trên đỉnh núi phía Đông, Đại-đội 21 và 22-của Tiểu-đoàn 2 Dù lại chạm súng mạnh với địch. Tiếng súng cối hòa lẫn với tiếng nổ của AK, M79, lựu đạn dòn dã vọng lại từ hai tiền đồng Đông Nam… Chúng tôi thi hành tức khắc yểm trợ cho hai Đại-đội nầy.
Mãi đến10g00 tiếng súng im bặt. Tôi qua BCH/TĐ2 Dù gặp Đại-úy Hạnh Trưởng ban 3, đang liên lạc máy. Đại-úy Hạnh cho biết kết quả sơ khởi do hai Đại-đội trên vừa tịch thu được:
– 4AK
– 1 thượng liên
– 16 Việt Cộng chết tại chỗ
– 1 Thượng-sĩ VC bị bắt làm tù binh.
Tôi ngồi tại đấy đấu láo với Đại-úy Hạnh trọn một tiếng đồng hồ chờ trực thăng đến chuyển vận chiến lợi phẩm và tù binh từ tiền đồn về.
… Tôi xin phép ra gặp Thượng-sĩ tù binh – cùng lúc, Trung-úy Trưởng Ban 2 đang lấy lời khai. Được biết Thượng-sĩ ấy tên là Thanh, khoảng 25, 26 tuổi, tuy bị thương, nhưng Thanh vẫn còn tỉnh táo, nói giọng Bắc nhỏ nhẹ.
Tôi chờ cho Trung-úy Ban 2 làm xong nhiệm vụ, tôi ghé hỏi vài câu… Đồng thời, chiến lợi phẩm được tiếp nhận đưa vào BCH/TĐ. Tôi liếc nhìn thấy có nhiều bi-đông và các binh sĩ Dù cho biết trên mỗi xác chết đều có hai bi-đông : 1 đựng rượu, 1 đựng chất nước đắng và 1 mặt nạ phòng hơi độc, hơi cay.
Tôi hỏi Thanh :
– Anh lên Thượng-sĩ bao lâu ? Do công trạng gì?
– Tôi mới mang cấp bậc Trung-sĩ vài tháng nay vì có công chuyển vận các tiếp liệu phẩm vào Nam Việt Nam và Campuchia.
– Tết vừa qua anh ăn Tết ở đâu ? Có được về với gia đình không ?
– Đã sáu năm nay đi công tác, chúng tôi nhớ gia đình lắm nhưng không được về thăm nhà vì công tác của nhân-dân giao phó nặng nhọc và liên tục.
Tôi sực nhớ mấy cái bi-đông lúc nãy, nên nhân tiện tôi hỏi tiếp :
-À! còn hai bi-đông mà binh sĩ các anh dùng, sao lại một cái đựng rượu, một cái đựng chất đắng ?
– Bi-đông đựng rượu kẻ có người không, ai thích rượu thì được cấp thêm cho, còn không thích rượu thì có thể dùng đựng nước suối uống. Riêng bi-đông đựng chất nước đắng, mỗi chúng tôi đều có, khi lâm chiến. Chúng tôi dùng nó để khỏe người và tăng thêm can đảm khi tấn công các anh.
– Anh có biết đơn vị chúng tôi đang hoạt động ở đây là đơn vị Nhảy-Dù thiện chiến không ? Và các anh đã dùng bao nhiêu quân tấn công vào tiền đồn của chúng tôi ?
– Chúng tôi biết lực lượng của các anh là lực lượng Dù do các vị chỉ huy tôi bảo thế. Vừa rồi, trước khi đi đánh các anh, cấp chỉ huy của chúng tôi cho biết các anh bị chúng tôi pháo kích bằng súng cối 82 ly, 57 ly mấy hôm nay đã chết gần hết. Bây giờ chỉ còn 5, 6 người trong đồn, nên lực lượng tấn công vào các anh sáng nay, chúng tôi chỉ dùng 1 K (bằng 1 Đại-đội).
– Quân số 1 K của anh bao nhiêu ?
– Khoảng 50 người, 47 hoặc 48.
– Anh nghĩ thế nào trước và trong khi chiến đấu ?
– Khi nhận lệnh, chúng tôi đều tin tưởng chiếm đồn các anh dễ dàng, nhất là được cấp chỉ huy cho biết số quân giữ đồn 5, 6 người đã mất hết tinh thần. Chúng tôi ra đi hăng hái lắm, cứ tính làm sao bê cho hết các chiến lợi phẩm về nạp cho BCH. Nhưng khi lâm chiến, chúng tôi vô cùng kinh ngạc ! Các anh đông và chiến đấu ác liệt quá !
Thoạt tiên, sau loạt đạn khai hỏa của bọn tôi, các anh vứt quả gì tròn tròn nổ chát tai, mảnh văng tung tóe, xong các anh bồi thêm cối vào chúng tôi Cối quá nhiều ! Chúng tôi chỉ nghe tiếng nổ khủng khiếp của hai loại vũ khí nầy chứ không nghe tiếng súng nhỏ tiểu liên.Vì vậy chúng tôi không biết các anh nấp ở hầm nào đánh chúng tôi, nên chúng tôi không còn kịp dùng B4O và 57 chống trả.
– Lúc đó, các anh có sợ lắm không ?
– Dạ sợ! Các anh cối liên tục, chúng tôi không ngóc đầu được. Lại cấn thế đất, vì chúng tôi dự định sau khi khai hỏa sẽ ào lên đồn, nhưng triền núi quanh đồn dốc quá, đành phải nằm lại chịu trận. Tôi nhìn quanh thấy các bạn đồng đội bị thương và chết gần hết. Kế đó, tôi cũng bị thương, không chạy lui được nữa. Tôi lết đến bụi cây nằm sát vào bực đất nghỉ đỡ. Quanh tôi vẫn không dứt tiếng nổ ầm ầm, lửa chớp, đất bụi tung khắp nơi… sau đấy, chờ cho tiếng súng im hẳn, tôi lắng tai nghe động tĩnh… chỉ có tiếng rên rỉ hấp hối của binh sĩ tôi làm cho tôi thêm sợ. Tôi không tin tôi có thể sống, nếu phải đợi đến tối bò về Bộ Chỉ-huy vì máu ở vết thương ra nhiều..
– Sao anh không lên tiếng đầu hàng khi bị thương ?
Anh ta nhếch mép cười :
– Đánh nhau làm sao xin đầu hàng được. Vả lại dù có xin đầu hàng cũng không thể sống được với đồng đội, họ sẽ xử tôi ngay. Nhưng may, sau đó các anh lục soát gần đến chỗ tôi nấp. Trong tích tắc, ý nghĩ đầu hàng hiện trong trí tôi. Tôi đánh liều lên tiếng xin các anh đừng giết tôi. Tôi được các anh vội vàng đến khiêng vào đồn, băng bó vết thương ngay. Thật tình tôi cảm động như chính các anh sinh ra tôi một lần nữa !
– Thế anh có hận gì cấp chỉ huy của anh không ?
Đăm chiêu và im lặng trong giây lát, anh chậm rãi trả lời :
– Chúng tôi đã bị lừa đối trước khi xuất quân. Bây giờ biết thì đã muộn rồi !
– Hỏa lực cá nhân của các anh mang theo nhiều không ?
– Chúng tôi mang theo đủ loại B40, 57, AK, thượng liên…
– Đạn dược dồi dào không ?
– Mỗi khẩu AK được phát 3 băng đạn. Chúng tôi cận chiến trang bị nhẹ vừa đủ xử dụng tấn công chớp nhoáng vào các anh thôi
Tôi lắc đầu, tiếp :
– Tội cho các anh thật! Chắc các anh không biết là các anh đã lầm lẫn một cách tai hại. Mỗi vị trí đóng quân của chúng tôi, chung quanh biết bao nhiêu mìn chống biển người. Còn đạn dược đối với các đồn cố định, có thể xử dụng suốt cả tháng cũng không hết thì với vài băng AK làm sao các anh tấn công nổi.
Anh ta gân cổ lên cãi:
– Tại BCH của chúng tôi nhận báo cáo sai về tình hình trong đồn các anh. Do đó kế hoạch tấn công không sát với thực tế, chứ từ trước đến nay chúng tôi thường xử dụng bằng ấy đạn để chiến đấu.
Một ý nghĩ thoáng nhanh trong trí tôi : Thật đáng hương cho số phận của các chiến binh Cộng Sản. Họ lợi dụng xương máu một cách trắng trợn. Ngay cả việc trang bị hỏa lực cho binh sĩ cũng thiếu sót quá đáng. Ấy vậy mà người lính chiến vẫn cảm thấy đầy đủ quá rồi !
Tôi giải thích cho anh ta :
– Khi nãy anh có bảo chúng tôi xử dụng cục tròn tròn và nhiều cối… Đó là lựu đạn và đạn của súng M79 bắn thẳng, chứ ở tiền đồn chúng tôi không mang theo súng cối nhiều như anh tưởng đâu!
Tội nghiệp cho anh ta ! Thật tình anh ta không biết các vũ khí đó chứ không phải anh ta giả vờ. Nhìn trên nét mặt ngơ ngẩn của anh lúc tôi giải thích các «cục tròn tròn» và «cối», tôi mới hiểu rằng có lẽ, trước đây anh ta chỉ công tác tại các đơn vị tiếp liệu, các trục giao liên, chứ chưa chiến đấu trực tiếp bao giờ (?). Đây quả là lần đầu anh tham chiến công đồn! Đối với anh, những quả «na» vỏ sắt, bên trên có cần làm bằng gỗ mới là lựu đạn. Ngoài ra lúc tấn công anh đã vào gần sát rào của tiền đồn thì súng cối với đạn đạo vòng các làm sao sát hại được hiệu quả như thế ? Vậy mà anh vẫn nghĩ rằng các bạn anh bị thương và chết vì đạn súng cối ! Chả trách các anh em Dù nhận xét « Cộng quân ở Hạ-Lào không kinh nghiệm bằng Cộng quân ở Tây-Ninh hoặc bất cứ nơi nào tại Nam Việt Nam mà chính anh em đã đụng độ». Phải chăng Miền Bắc đã vơ vét sạch các đơn vị yểm trợ như các ngành Tiếp-liệu, Quân-nhu… bổ sung cho đơn vị chiến đấu vì đã hao bụt quá nhiều quân số ?
Trước khi rời anh, tôi bảo :
– Thế là may cho anh lắm rồi. Giờ đây đương nhiên anh được săn sóc đầy đủ như một thương binh của chúng tôi. Trực thăng sẽ đến đưa anh về Quân-Y Viện để các Bác-sĩ tận tâm cứu chữa. Tôi hy vọng vết thương của anh chóng lành… ,
Các binh sĩ Dù quây quần lại hỏi han, kẻ cho thuốc hút, người cho thức ăn, nước uống. Có anh mời cả cà-phê, nhưng vì không quen dùng cà-phê, Thanh nhấm một tí rồi xin lỗi từ chối.
Bắt đầu từ đây, cá nhân tôi mang theo tất cả những hình ảnh vị tha đẹp đẽ nhất của anh em binh sĩ Dù.
Nhìn vào cử chỉ hào hiệp đó của Binh-sĩ Tiểu-đoàn 2 Dù, tôi cảm động hơn bao giờ hết. Bài học lúc còn ngồi ghế Trường Trung-học Phan-Châu-Trinh Đà Nẵng hiện lên rõ trong óc tôi :
…Con ơi ! Một ngày kia con sẽ đi lính. Nếu phải đi đánh giặc, thì con sẽ đánh thật hăng say. Và đó là nhiệm vụ của con, nhưng khi chiến trận chấm dứt, nếu kẻ thù của con bị thương, con nên coi họ chỉ là một người anh em khốn khổ… Con hãy thương xót họ, săn sóc họ, an ủi họ. Có lẽ còn sẽ xứng đáng nếu một ngày kia, con cũng bị thương mà được một kẻ thù săn sóc và an ủi con. Con ơi ! Đó là tình nhân loại vậy.
BERSOT
Chính Giáo-sư Trần Ngọc Quế bắt tôi dịch ra Việt văn trong bài :

30. Tưởng niệm Tháng Tư 
• BÀ NĂM TRẦU CỦA GIA ĐÌNH BÁC TÁM
Dù 47 năm đã trôi qua,nhưng phác thảo chung về một nông thôn miền Nam trù phú,đầm ấm vẫn còn hiện rõ trong tâm trí mọi người. 
 
"Gia Đình Bác Tám" không thể thiếu trong bối cảnh nông thôn miền nam thân ái ,ngọt ngào nầy.
 
Cứ mỗi hừng sáng sớm,bắt đầu ngày mới, trưa, và tôi trước giờ ngủ ,gần như gia đình ở nông thôn miền Nam nào cũng mở ra-dio nghe chương trình "Gia Đình bác Tám".
 
Cứ mỗi hừng sáng sớm,bắt đầu ngày mới, trưa, và tôi trước giờ ngủ, gần như gia đình ở nông thôn miền Nam nào cũng mở radio nghe chương trình "Gia Đình bác Tám".
 
Mỗi ngày là một đề tài, một câu chuyện xoay quanh tình làng nghĩa xóm với những chuyện nho nhỏ xảy ra hàng ngày. Nội dung rất thiết thực gần gũi, liên hệ tới đối sống của nông thôn miền Nam. "Gia Đình Bác Tàm" vượt nông thôn, người dân tại tỉnh thành, lẫn Sài Gòn vẫn thích nghe "Gia Đình Bác Tám". Nghe,để cùng hội tụ về một ngôi nhà chung Việt Nam, đó là quang cảnh nông thôn miền Nam đầm ấm,hiền hòa, ấm áp đầy tình người.
 
Chương trình “gia đình Bác Tám” với: Bà Năm Trầu: Kịch Sĩ Diễm Kiều ,Ông Chín Đờn Cò:Minh Khánh ,- Bà Tám:Kim Thương , Ông Tám:Lâm Hưng,Hiền: Thy Lan, Lành:Thanh Quang,cùng góp mặt của Tú Trinh, Phi Thoàn, Thanh Hoài, Khả Năng,Bà Năm Sadec.
 
Nhìn lại 2 nhân vật trong "Gia đình Bác Tám "là Bà Năm Trầu"Kịch Sĩ Diễm Kiều và "cậu Lành ", tức diễn viên Thanh Quang.
"Bà Năm Trầu" này đã 79 tuổi vẫn còn sống khỏe ở sài Gòn nhưng ít quan hệ bên ngoài,còn "Lành", Nghệ sĩ Thanh Quang đã mất năm 2014.
 
"Bà Năm Trầu" Kịch Sĩ Diễm Kiều cũng chính là "Bà Hội Đồng" trong kịch phẩm "Lá Sầu Riêng".
 
Câu chuyện nông thôn ngày nay không còn nghe thấy được những mẩu chuyện đầm ấm như xưa, mà thay bằng những câu chuyện thương tâm:Anh em chém nhau lòi ruột vì giành nhau cái bờ rào,vuông đất nhỏ. Nhậu nhẹt say rồi đánh nhau tơi tả,có cả cái đám nghiện xì ke ma túy từ đâu về tá túc, hay làng quê trống rỗng, vắng vẻ, chỉ còn lại những ông bà già héo hon vì thanh thiếu nữ trưởng thành đã lìa quê, tha phương kiếm sống hết rồi.
 
Biết đến bao giờ có lại được khung ảnh yên lành, đầm ấm ở nông thôn như trước 75....
 
TƯỞNG NIỆM THÁNG TƯ…..
Tại Dinh Độc lập trưa ngày 30 tháng Tư năm 75, Ông Nguyễn Văn Hảo , Phó Thủ tướng đặc trách về kinh tế - tài chính của Việt Nam Cộng Hòa lệ mệ đến bên cạnh Đại Tá Bắc Việt Bùi Tín,nói nhỏ.Nguyên nhân được ghi như sau:
 
"Thưa tôi là Nguyễn Văn Hảo, Phó Thủ tướng đặc trách về kinh tế - tài chính, có chuyện cần trình bày riêng với các ông...Chúng tôi vừa trao đổi với nhau, muốn nhờ ông báo ra ngoài đó là bọn nầy đã giữ lại hơn 16 tấn vàng không để họ mang đi, hiện để trong ngân khố, mong ngoài đó cho người vô nhận..Nếu các ông gửi ở các ngân hàng quốc tế lớn thì sau sẽ có thể thành 18 tấn, 20 tấn. Nếu cần, bọn nầy sẽ giúp".
 
Ông Nguyễn Văn Hảo sinh năm 1942, có 2 bằng tiến sĩ kinh tế tại trường đại học Harvard của Hoa Kỳ và Genève của Thụy Sĩ,về nước được trọng dụng,ông Hảo được coi là một kinh tế gia hàng đầu và được giao giữ chức đứng đầu kinh tế miền Nam trong khi chỉ 33 tuổi, ông đã đưa ra những dự án mỹ miều, làm nức lòng người dân về một viễn cảnh tốt đẹp, từ ảo tưởng về Hiệp định Ba Lê khi đất nước thanh bình.
 
Năm 1982, ông Hảo, được chính quyền Hà Nội cho rời khỏi VN, nơi trú ngụ đầu tiên là nước Pháp, sau đó, năm 1984 ,qua bảo lãnh của gia đình ông Hảo sang định cư tại Hoa Kỳ. Bang Texas. Không thấy tin ông xuất hiện hay có hoạt động gì trong cộng đồng người Việt tại đây.
 
Theo Bách khoa toàn thư ghi đến ngày 16 tháng 8 năm 2021 thì ông Nguyễn Văn Hảo trú tại quận 1, Thành Hồ là đồng Chủ tịch khách sạn Park Hyatt Sài Gòn.
 
Qua sự kiện 30 tháng Tư năm 1975,một nhận xét chung có thể rút kết rằng:
Những kẻ lật lọng trở cờ,bưng bô Vi xi thì cái mặt mâm của tên nào nhìn cũng bư bư, trân tráo giống nhau !
 
 THÁNG TƯ, NHỚ SÀI GÒN ĐÃ MẤT….!
 
Đây là khu vực trung tâm Quận 1 Sài Gòn, nhìn từ thương xá Tax. Xa xa là trụ sở Quốc hội, chung quanh là xe xích lô, xe đạp, người đi bộ, kios bán hoa trên đường nguyễn Huệ nhếch nhác.
 
Đó là bối cảnh chung của miền Nam,của Sài Gòn những ngày sau tháng Tư năm 75:Sự náo nhiệt, sung túc, tươm tất bỗng đột ngột biến mất dù khi đó chính quyền mới chưa"ra chiêu" của phe chiến thắng.
 
Anh bộ đội miền Bắc dừng xe gắn máy giữa đường,t ự nhiên như người Hà Nội trong cái trật từ đường phố văn minh tự nhiên không còn. Có thể xe hết xang, có thể không biết xử dụng xe, điều nầy chứng tỏ chiếc xe không thuộc sở hữu của anh, có thể là xe "tiếp thu' của một ai đó.
 
Không thấy có người đi đường Sài Gòn đến giúp anh. Anh ta đeo súng ngắn,chắc là sĩ quan lạc. Anh ta lõng cu ki, không giống như những gì mà các chiến binh đuoc tuyên truyền:"Khi vào sài Gòn sẽ có dân chúng ùa ra tiếp rước".
 
Một góc của những ngày Sài Gòn mới mất tên. Đất trời ảm đạm, buồn thiu...

31. KHÔNG NÊN GỌI 30/4 LÀ NGÀY GIẢI PHÓNG 
Tôi sinh ra và lớn lên sau ngày 30/04. Trong khi phần lớn đất nước chìm trong khó khăn, hết cuộc chiến này đến cuộc chiến khác, trong khi phần lớn người dân thiếu ăn, thiếu mặc, đói khổ trong giai đoạn 1980-1990, thì tôi đã sống một cuộc sống đầy đủ và sung túc, vì ông bà tôi là những đảng viên cao cấp của Đảng Cộng sản Việt Nam.
 
Ông tôi là một người chân thành và có niềm tin sâu sắc với lý tưởng cộng sản. Ông có một người chị ở phía bên kia, và sau này di tản sang Mỹ. Ông không bao giờ liên lạc với bà, và đó là nỗi ân hận lớn nhất trong những ngày cuối đời của ông.
Là một 'hạt giống đỏ" tôi lớn lên với niềm tin chân thành về những gì được dạy dỗ, về lý tưởng cộng sản với hình mẫu Pavel Korchagin - Hình mẫu chuẩn mực cho mọi thiếu niên lớn lên dưới mái trường XHCN khi đó.

40 năm rồi, bên chiến thắng vẫn ăn mừng, vẫn diễu binh, vẫn pháo hoa... Bên kia vẫn là ngày quốc hận, ngày mất nước. Vết thương dân tộc vẩn rỉ máu.
Vì vậy, sự kiện 30/04 đối với tôi và các bạn tôi khi đó là một cái gì đó rất đẹp, rất anh hùng, cũng rất vẻ vang. Với thế hệ chúng tôi, Việt Nam đã đánh bại siêu cường số 1 thế giới làm "chấn động năm châu, rung chuyển địa cầu".

Nhưng sau sự kiện bức tường Berlin, mẹ tôi trở về Việt Nam (vì là con của cán bộ cao cấp, mẹ tôi và các bác, cậu của tôi đều lần lượt học ở Đông Đức, Liên Xô, Bulgari...).
Với những gì đã được chứng kiến ở nước Đức và Đông Âu, mẹ tôi không tán đồng quan điểm với ông tôi. Mẹ tôi từng kể với tôi rằng, những người bạn Đức của bà nói rằng ''Mỹ là những người bạn tốt, cả thế giới muốn chơi với nó mà người Việt Nam mày lại đuổi nó đi''.

Bà kể cho tôi về những người Đức cộng sản và không cộng sản khi thống nhất đất nước đã ôm hôn nhau như thế nào. Bà kể về những người lính biên phòng Đông Đức đã tự sát chứ nhất định không bắn vào những người phía Đông muốn chạy sang phái Tây như thế nào.

Đó là bước ngoặt trong suy nghĩ của tôi! Mỹ mà tốt à? Tại sao người ở phía Đông lại chạy sang phía Tây chứ không phải ngược lại? Thế giới của tôi bắt đầu có nhiều màu sắc hơn, không còn chỉ có hai màu, cộng sản và phản động nữa.
Tôi bắt đầu tìm đọc những tác phẩm viết về ngày 30/04/1975. Đọc những tác phẩm bị coi là "phản động" ở Việt Nam. Các tác phẩm của Dương Thu Hương, Trần Độ, Nguyễn Gia Kiểng...

Thông tin từ những tác phẩm này đã khiến tôi mở to mắt. Ngày 30/04 làm gì còn người lĩnh Mỹ nào ở Sài Gòn. Vậy sao còn gọi là kháng chiến chống Mỹ? Sao có thể gọi là "giải phóng"?
Và tôi khóc thương cho số phận dân tộc Việt. Khóc thương cho hàng triệu người Việt ở cả hai phía đã ngã xuống trong cuộc chiến "huynh đệ tương tàn". Khóc thương cho cả triệu người Việt vĩnh viễn nằm lại gữa biển khơi.

Một ngày nào đó, 30/04 trở thành ngày thống nhất, một ngày lễ cho cả dân tộc. Tổ quốc treo cờ rủ quốc tang cho những người đã ngã xuống ở cả hai phía.

Và tôi khóc thương cho lòng yêu nước nhiệt tình nhưng ngây thơ của người Việt đã bị các cường quốc lợi dụng. Đất nước trở thành bãi chiến trường. Người Việt trở thành sỹ tốt xung phong. Việt Nam thành bàn cờ, nhưng người chơi là người Nga, người Trung Quốc và người Mỹ không phải là người Việt. Một bên chiến đấu để "giải phóng" và "nhuộm đỏ thế giới". Một bên chiến đấu để bảo vệ "thế giới tự do".
"Đại thắng mùa xuân" và "giải phóng miền Nam". Đất nước thành một đống đổ nát, hoang tàn. Trường Sơn thành một nghĩa trang khổng lồ.

Những người mẹ mất con. Khăn trắng trên đầu trẻ thơ. Và một hết thương hằn sâu trong lòng dân tộc. 40 năm rồi, bên chiến thắng vẫn ăn mừng, vẫn diễu binh, vẫn pháo hoa... Bên kia vẫn là ngày quốc hận, ngày mất nước... Vết thương dân tộc vẩn rỉ máu.

Một ngày nào đó, 30/04 trở thành ngày thống nhất, một ngày lễ cho cả dân tộc. Tổ quốc treo cờ rủ quốc tang cho những người đã ngã xuống ở cả hai phía.

Một tượng đài nhỏ thôi, giản dị thôi nhưng tinh xảo. Và một nghĩa trang của những người lính ở cả hai phía cho thế hệ trẻ có thể tỏ lòng thành kính cho những người đã ngã xuống vì dân tộc. Hy vọng là như thế!
Còn thống nhất lãnh thổ mà không thống nhất được lòng người thì có ích gì? Nhất là khi phương Bắc, kẻ thù truyền kiếp đang trỗi dậy. Bài học mất nước của Hồ Quý Ly còn đó.
NAM PHONG

32. Ngày 30/4 chỉ là ngày chiến thắng của CỘNG SẢN
 
Ngày 30/4  chỉ là ngày chiến thắng của CỘNG SẢN  chứ không phải của dân tộc Việt Nam bởi dân tộc này đã bị nhuộm máu của 5 triệu người con cả 2 miền chỉ để mở rộng biên giới CNXH, biên giới máu của CỘNG SẢN. Những người lính quốc gia Cộng Hoà không thua mà phải nói cả dân tộc Việt Nam đã thua trước sự bành trướng của Cộng Sản Liên Xô và Tàu Cộng !
30.4 không phải là ngày giải phóng miền Nam  thống nhất đất nước mà là ngày CNXH của CS khắc chế toàn VN, và thực tế ngày nay cho thấy: đó là một thảm họa chứ không phải là một điều may mắn.
Nếu bạn là người trẻ, thuộc " thế hệ VN về sau" : hãy cân nhắc về điều này nhé.

33. Tháng Tư Quốc Nạn (4/1975) 
Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 38 BĐQ Trần Đình Tự
“Ai đầu hàng, nhưng tao thì không!”
 
 
Hào Kiệt Phương Nam - Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 38 BĐQ Trần Đình Tự.Thiếu Tá Trần Đình Tự, sinh năm 1943 ở Hà Nội, thuở nhỏ học Tiểu Học Ngô Sĩ Liên (phố Hàm Long). Năm 1954 được 11 tuổi, Tự được cha mẹ đem vào Miền Nam theo cuộc di cư vĩ đại. Tại Sàigòn, Tự học Trung Học nơi ngôi trường có truyền thống giáo dục tốt đẹp và kỹ lưỡng vì trước đó trường thuộc hệ thống quản trị và chương trình dạy dỗ do Giáo Hội Công Giáo Việt Nam: Trường Hồ Ngọc Cẩn.
 
Tuy được hoãn dịch vì trong gia đình đã có hai người anh đang phục vụ trong những cơ quan trực thuộc quy chế quân đội; thế nhưng, Trần Đình Tự đã làm đơn, đem đến Bộ Quốc Phòng để nộp xin tình nguyện được gia nhập quân đội. Anh xin đi học Khoá 14 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức.
 
Mãn khoá, Trần Đình Tự được bổ sung tài nguyên sĩ quan cho Trung Tâm Huấn Luyện Chi Lăng ở miền Tây Nam Phần. Sau sáu tháng, anh làm đơn xin tình nguyện được phục vụ trong binh chủng Biệt Động Quân. Anh được toại nguyện và về Tiểu Đoàn 33 BĐQ ở Biên Hoà. (Sài Gòn trong tôi/BV)
Tháng 2-1971, trong cuộc hành quân trực thăng vận xuống căn cứ của sư đoàn 7 cộng sản, trong lúc giao tranh Tự bị trúng mảnh đạn pháo vào đầu, anh được chuyển về Tổng Y Viện Cộng Hoà, rời khỏi Tiểu Đoàn 33 BĐQ từ đó.
 
Mùa hè 1972, bọn lính đánh thuê tay sai của khối cộng sản quốc tế Trung Cộng – Liên Xô là cộng sản Bắc Việt ồ ạt dùng đại quân, đại pháo tấn công xâm lược miền Nam VN trên khắp các mặt trận, nặng nhất lúc đó là mặt trận Quảng Trị, hàng chục sư đoàn chính quy vượt sông Bến Hải, vượt biên giới Việt Lào, đồng loạt tấn công. Do đó, Bộ TTM/ QĐ VNCH đã điều động Liên Đoàn 5 BĐQ không vận ra tăng cường cho mặt trận Quân Khu 1.
 
Cũng lại tháng 2-1972, sư đoàn 308 tổng trừ bị của bọn cs, xe tăng, đại pháo tấn công điên cuồng LĐ 5 BĐQ, sự chênh lệch quá đáng về lực lượng đã khiến LĐ 5 BĐQ phải vừa đánh vừa lui dần về phía sau để chờ sự tăng viện, nhưng đến khu vực cầu Trường Phước, đoạn Quốc Lộ I cũ, LĐ 5 BĐQ bị lọt ổ phục kích của một trung đoàn VC tăng cường đơn vị pháo.
 
Tiểu Đoàn 38 BĐQ do Thiếu Tá Vũ Đình Khang chỉ huy, Trần Đình Tự – Sĩ Quan Hành Quân (Trưởng Ban 3) nhận lệnh của Trung Tá Liên Đoàn Trưởng Ngô Minh Hồng phải đánh cản hậu, bằng mọi cách phải chặn đứng sức tiến của địch để Liên Đoàn rút qua sông (gồm TĐ30, TĐ33 và BCH/ LĐ). (Sài Gòn trong tôi/BV)
 
Tiểu Đoàn 38 BĐQ đã hoàn thành nhiệm vụ, riêng hai vị sĩ quan đầu đàn của đơn vị cũng hoàn thành trách nhiệm là ở lại sau cùng để “con cái” qua sông an toàn và cuối cùng chính hai ông thẩm quyền: Vũ Đình Khang, Trần Đình Tự lọt vào tay giặc trở thành tù binh. Lý do lãng xẹt: cả hai không biết bơi, loay hoay cùng mấy người hộ tống đang “nghĩ kế” để vượt con rắn lục thì bị giặc đến bắt và “cõng” qua sông Bến Hải đem về giam tại trại tù Lạng Sơn.
 
Năm 1973 – Hiệp định Paris – ngưng bắn da beo, da cọp. Trao đổi tù binh, Trần Đình Tự lại trở về với gia đình Mũ Nâu, gắn bó đời mình với binh chủng BĐQ. Anh được thăng cấp Thiếu Tá và được cử làm Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 33 BĐQ thay thế vị chỉ huy cũ, được điều động đi chỉ huy một đơn vị khác.
 
Những ngày bão lửa, cuồng lưu của bom đạn đã qua. Hiệp định đình chiến đã ký kết, nhưng vẫn chưa có hoà bình. Giao tranh vẫn liên tục nơi này nơi kia. Liên đoàn 5 BĐQ đã cải danh thành LĐ32 BĐQ, cũng đã và đang cùng các LĐ/BĐQ khác bảo vệ tỉnh Bình Long. Mặt trận An Lộc, vẫn nặng nề trong âm mưu xâm lược của cộng sản.
 
Tháng 3-1975, trên toàn lãnh thổ VNCH tự nhiên vỡ ra từng mảng sau khi Ban Mê Thuột thất thủ. Hết nơi này “di tản chiến thuật” lại đến chỗ kia “tái phối trí”. LĐ 32 BĐQ lại một lần nữa theo lệnh, rời bỏ An Lộc để về tại phối trí, thiết lập tuyến phòng thủ bảo vệ tầm xa cho thủ đô Sàigòn, tuyến bố trí kéo dài một vòng cung từ Khiêm Hanh (Bầu Đồn) Tây Ninh kéo dài qua con Suối Cao - Gò Dầu, tạo thành một cái đê chặn đứng cơn nước lũ cộng sản từ các mật khu Dương Minh Châu, Bời Lời, Bến Cát (Tam Giác Sắt) không cho con lũ này chảy về Sàigòn.
 
Áp lực có nặng nề, cường độ giao tranh ngày càng cao, đạn pháo giã gạo trên đầu mỗi giờ mỗi tăng. Những người lính Mũ Nâu LĐ32BĐQ dưới sự chỉ huy điềm tĩnh và gan lì của Thuận Thiên (Trung Tá Lê Bảo Toàn) vẫn giữ vững phòng tuyến, chưa có khúc ruột nào bị cắt đứt hay chọc thủng và dĩ nhiên TĐ38 cùng các đơn vị bạn TĐ30, TĐ33, Đại Đội Trinh Sát 5 BĐQ. (Sài Gòn trong tôi/BV)
 
Thế nhưng vận nước đã đến lúc phải chịu đau thương, thân phận người lính VNCH có chiến đấu dũng mãnh như sư tử đến lúc bị bức tử, đành phải nhẫn nhục buông súng. Đến 11 giờ ngày 30 tháng 4. 1975 tại Trung Tâm Hành Quân của Liên Đoàn, Thuận Thiên nhận được lệnh từ cấp chỉ huy Quân Đoàn: ”Hãy ngưng bắn ngay lập tức, ở yên tại chỗ để đợi phía bên kia đến bàn giao khu vực”.
 
Trung Tá Lê Bảo Toàn chết sững, buông cái ống liên hợp máy truyền tin rớt xuống đầu người lính đang ngồi dưới chân. Ông đổ vật xuống chiếc ghế như cây chuối bị đốn ngang. Hai mươi năm phục vụ quân ngũ – 19 năm dong ruổi vào ra vùng đạn bom, 5 lần bị thương lần nào cũng thập tử nhất sinh, nhưng chưa bao giờ ông thấy đau như lúc này. Ông nghẹt thở, buốt trong óc tưởng như ai đang đóng ngập cái đinh 10 phân vào đầu, có lẽ lấy kéo cắt ruột cũng chỉ đau đến thế.
 
Ông lịm đi, người sĩ quan Hành quân phải gọi khẽ :”Trung Tá!” . Ông gượng đau để lấy lại bản lãnh. Sau cú “sốc”, Trung Tá Lê Bảo Toàn đã điềm tĩnh trở lại. Ông cầm máy gọi lần lượt từng Trưởng: TĐ 30 Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Khoản, TĐ 33 Thiếu Tá Đinh Trọng Cường, TĐ 38 Thiếu Tá Trần Đình Tự. Cả ba đã đáp nhận . Trung Tá Toàn chậm rãi, ông cố giữ cho tiếng nói của mình, với âm lượng đều đặn như mọi ngày:
- Các anh vặn nhỏ máy, tôi thông báo lệnh quan trọng.- Im lặng một giây, ông nói tiếp - Các anh ra lệnh cho “con cái” buông súng – Tổng Thống Dương Văn Minh đầu hàng rồi. Sẽ có đại diện của “phe họ” đến để bàn giao. Cám ơn các anh, các vị Tiểu Đoàn Trưởng, các Sĩ Quan trong Liên Đoàn. Tôi cũng đặc biệt cám ơn các anh em Hạ Sĩ Quan, binh sĩ. Chúng ta đã bấy lâu công tác, sống chết với nhau. Nay, nhiệm vụ của tôi kể như đã chấm dứt, tôi không còn trách nhiệm với Liên Đoàn nữa. Thân chào tất cả anh em trong Liên Đoàn, lời cuối cùng của tôi trong cương vị Liên Đoàn Trưởng là yêu cầu các anh bình tĩnh và chúc tất cả may mắn.
 
Lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trong đời Trần Đình Tự đã cưỡng lệnh cấp chỉ huy.
Sau khi nhận lệnh buông súng và lời chào của Trung Tá LĐT, anh quay qua Đại Úy Xường – Tiểu Đoàn Phó TĐ 38 BĐQ
- Anh Xường, tôi vừa nhận lệnh mình phải buông súng. Đây là lần chót, tôi yêu cầu và cũng là lệnh: anh nói lại cho các Đại Đội Trưởng và thay tôi dẫn đơn vị ra điểm tập trung. Tôi sẽ ở lại, đánh nữa, tôi không đầu hàng, anh hiểu cho. Tôi không khi nào để chịu lọt vào tay tụi nó lần nữa.
 
Tiếp đó, anh cho tập trung BCH, Trung Đội Thám Báo và nói với họ là đã có lệnh buông súng, các anh em sẽ theo lệnh Đại Úy Tiểu Đoàn Phó, còn ai muốn ở lại chiến đấu với anh đến giờ chót thì đứng riêng một bên. Lần lượt số người tách khỏi hàng được gần 40 chiến sĩ. Trần Đình Tự đưa tay chào Đại Úy Xường và các quân nhân dưới quyền, rồi dẫn những người quyết tử tiến vào khu vực vườn khoai mì để tiếp tục “ăn thua” với lũ cộng phỉ.
 
Kết cục, cuộc chiến đấu cũng phải chấm dứt. Thiếu Tá Tự và anh em hết đạn, bị bọn giặc cướp tràn ngập, bắt tất cả những người còn sống (12 người) giải về sân trường tiểu học Trung Lập Hạ gần đó.
Tên chỉ huy lũ cộng phỉ tiến về phía Thiếu Tá Tự lớn tiếng lăng nhục Quân Đội VNCH và chỉ ngay mặt Thiếu Tá Tự thoá mạ thậm tệ, rồi bắt anh cởi áo quần (lon Thiếu Tá may dính trên cổ áo). Tự đứng yên nhất định không chịu, tên cộng phỉ rít lên điên máu: “Đến lúc này mà mày còn bướng hả? Mày có làm theo lệnh của ông không thì bảo. Nhân danh cách mạng ông ra lệnh cho mày cởi áo quần ngụy và nằm xuống. Chúng mày đã đầu hàng, nghe rõ chưa!”
Thiếu Tá Tự cười ngạo mạn:
- Ai đầu hàng, nhưng tao thì không! Mày nghe đây, chúng mày mới là lũ ác ôn, chúng mày mới đích thực là lũ tay sai ngoại bang, lũ vong thân chó má. Bọn mày là những tên tội đồ của dân tộc VN, hiểu không? Một lũ đê tiện!
 
Tên cộng phỉ chỉ huy mắt nổi gân máu như một gã điên, tiến đến sát mặt Thiếu Tá Tự, giơ tay giật mạnh, bung hai hàng nút từ cổ xuống đến bụng. Tên giặc cộng rút luôn con dao găm Thiếu Tá Tự đeo bên hông. Nó đâm thật mạnh vào bụng Th/ Tá Trần Đình Tự, rọc mạnh xuống phía dưới. Ruột Th/ Tá Tự lòi tuột ra ngoài. Chưa hả cơn, nó còn ngoáy mạnh mũi dao vào tận trong bụng Th/ Tá Tự. Anh hét tiếng bi ai và nghẹn uất, đổ sụm xuống, oằn mình giật từng cơn trong vũng máu.
 
Đồng thời với hành động dã thú man rợ ấy, tên ác thú mặt người nghiêng đầu nhìn Th/Tá Tự rồi nói gọn: “Đem những thằng này bắn hết đi! Toàn là ác ôn cả đấy!” (Sài Gòn trong tôi/BV)
 
Những chiến sĩ BĐQ còn lại, bị bọn du kích thổ phỉ dẫn ra phía sau trường và bị bọn chúng bắn xối xả mấy loạt AK-47. Xác của các anh đã bị chúng dã man quăng xuống con mương gần trường tiểu học. Sau đó, bọn ác thú man rợ dẫn nhau bỏ đi.
Thiếu Tá Trần Đình Tự, bị giặc cộng mổ bụng chết được hơn một tuần, gia đình ở Sàigòn nhận được tin. Vợ anh tìm đến nơi anh bị hành hình để xin xác chồng. Đau đớn cho chị, xác chồng đã chẳng thấy, lại còn bị những tên cộng phỉ tại địa phương lớn tiếng sỉ nhục vong linh chồng mình. Chị đã quay về Sàigòn sau câu trả lời gọn lỏn của chúng: “Chồng chị là tên ngụy ác ôn, đàn áp bóc lột nhân dân, nợ máu quá nhiều, nhân dân nổi giận trừng trị. Cách mạng rất khoan dung không trả thù như vậy. Chị đi tìm nhân dân mà xin các anh ấy!”
 
Chưa hết. Sự trả thù đê hèn vẫn đeo đuổi theo từng cá nhân người lính VNCH, từng gia đình mỗi người. Năm 1985, tôi được thả về từ trại tù cs. Sau vài tháng tôi đến nhà Thiếu Tá Trần Đình Tự ở đường Dương Công Trừng (Thị Nghè) thăm ba mẹ Tự. Đến nơi được biết thân phụ anh phần uất hận, phần thương con – tất cả con trai của cụ, hai người anh Tự cũng bị tập trung vào trại tù cộng sản, Cụ đã lâm trọng bệnh qua đời năm 1975. Mẹ của Tự, bà cụ ở lại chịu đủ điều cay đắng, thương con Cụ lập bàn thờ Trần Đình Tự bên cạnh bàn thờ chồng. Tấm ảnh thờ Tự chụp lúc vừa được vinh thăng Thiếu Tá, nên anh mặc quân phục.
Chính vì tấm ảnh thờ mà cách vài ngày mấy tên cộng sản địa phưong như công an, ủy ban nhân dân lò mò đến để buông những lời lẽ mất dạy, vô luân, đốn mạt nhưng lại cao giọng đạo đức rẻ tiền.
- Cách mạng rất phân minh, rành rẽ mọi điều, tình tự dân tộc đều đâu ra đấy. Tội ai người ấy chịu. Bà thờ chồng, thờ con trai điều này đáng biểu dương, nhưng tấm ảnh tên ác ôn kia thì không được để đấy, bà phải cất đi, lấy ảnh khác mà để.
Thân mẫu Tự cố dằn cơn tức uất:
- Các ông thông cảm, Ở đâu thì theo đó, con tôi đã chết thảm, xác không có để mang về. Nó chẳng còn cái ảnh nào, chỉ có một, các ông để cho tôi thờ nó. Hàng ngày được nhìn thấy chồng, con vẫn ở bên mình.
Tên cộng phỉ trả lời:
- Nếu không có cái khác thì cất đi hoặc để linh động, cách mạng nhất trí cho bà để cái ảnh nhưng lấy mực bôi cái lon lá và bộ quần áo ngụy đi.
Mẹ Tự nhất định không chịu, cứ để tấm ảnh trên bàn thờ cho đến một lần, chúng nó đem bà cụ ra tổ dân phố để “đấu tranh xây dựng”. Bà cụ nổi doá nói tướng lên:
- “Cách mạng khoan hồng”, “Cách mạng độ lượng” cái gì ? Ông hồ có chỉ dạy các anh ép người dân đến mức này không? Hai năm liền chồng chết, con chết thảm, con đi tù, các ông muốn tôi phải thế nào hay là các ông giúp tôi chết phứt đi cho rồi. Tôi theo chồng theo con là khỏi khổ!”
 
Có lẽ vì thấy ép quá, không có lợi khi sự việc đã gây xầm xì trong khu vực, bọn cộng phỉ địa phương lờ dần đi, không ghé nhà Tự để mè nheo, quấy rầy bà cụ nữa. Tự được yên thân trên bàn thờ, nhưng mẹ mình laị vĩnh viễn không được thấy con, dù là nhìn tấm ảnh: Cụ đã bị mù loà, sống lủi thủi trong bóng đêm của quãng đời còn lại với mấy đứa cháu nội.
 
Cái chết anh hung của Cố Thiếu Tá Trần Đình Tự được kể lại bởi Đại Úy Xường, Tiểu Đoàn Phó TĐ 38 BĐQ, khi cùng ở Trại 8 Yên Bái năm 1977. Đại Úy Xường cũng đã bị cộng sản sát hại dã man trong trại tù cộng sản Nghệ Tĩnh năm 1979. Anh bị những tên cộng sản mặt người dạ thú bóp cổ chết trong ngục thất sau nhiều lần trốn trại anh bị bắt lại. Đại Úy Xường xuất thân Khoá 22A Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt.
 
Người thứ hai thuật lại những giờ phút sau cùng của Cố Thiếu Tá Trần Đình Tự chính là người lính Mũ Nâu mang máy truyền tin cho Th/Tá Tự. Cùng bị tàn sát sáng 30-4-1975 một lượt với Tự và các anh em khác. May mắn, Đức Trọc – tên anh ta – bị thương giả chết chờ cho bọn cộng phỉ đi xa rồi ráng bò vào nhà dân, được dấu diếm băng bó, rồi thuê xe lam chở về Sài Gòn. (Sài Gòn trong tôi/ BĐQ Thiên Lôi kể lại)
……..
Thông tin bổ sung về 12 chiến sĩ Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân VNCH, kể cả Thiếu Tá Trần Đình Tự, bị bọn việt cộng tàn sát dã man chiều ngày 30-4-1975 tại xã Trung Lập Hạ, Củ Chi.
*** Tiểu Đoàn 38 BĐQ, còn khoảng 40 người, khi từ Tây Ninh rút về đến vùng Trung Lập Hạ thì lọt vào vòng vây của bọn du kích thổ phỉ ở đây. Bọn du kích thổ phỉ phóng loa kêu gọi đầu hàng. Những chiến sĩ can trường của TĐ 38 BĐQ đã đáp trả lại chúng bằng những tiếng súng đầy căm phẫn. Trận đánh kéo dài từ 10g sáng đến khoảng 4g chiều mới kết thúc.
 
Rồi bỗng nhiên tiếng súng im bặt, không khí nặng nề, ngột ngạt với mùi khói súng nồng nặc khắp vùng, người chết của hai bên nằm la liệt khắp nơi….. Tiếp đó, bọn du kích tiếp tục kêu gọi đầu hàng và thông báo căn cứ Đồng Dù đã thất thủ nếu không đầu hàng, chúng sẽ gọi xe tăng đến yểm trợ chúng … Những chiến sĩ TĐ 38 BĐQ vẫn không đáp trả …
 
Thật sự, lúc đó, Tiểu Đoàn 38 BĐQ đã gần như kiệt quệ và hoàn toàn hết đạn từ lâu… Tất cả chỉ còn lại 12 người, bao gồm cả vị Tiểu Đoàn Trưởng, người chiến sĩ mang máy truyền tin, một sĩ quan Thiếu Úy đầu bạc, và 9 người lính còn lại…. Họ đang ngồi bên nhau bình thản cùng nhau hút những điếu thuốc Quân Tiếp Vụ cuối cùng. Tất cả đã hết đạn để chiến đấu nên đành thúc thủ và bị bọn cộng phỉ bắt trói dẫn về trường Tiểu Học Trung Lập Hạ gần đó.
 
Sau khi TĐ 38 BĐQ hết đạn, một tên du kích cộng phỉ tên là Cò Ráng – đã thóa mạ và mắng nhiếc những chiến sĩ can trường của Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân. Sau khi vào trong hội ý, chúng đã dẫn Thiếu Tá Trần Đình Tự ra cái đồng ớt gần đó nhục mạ và sát hại ông tại chỗ nhằm áp đảo tinh thần những anh em chiến sĩ còn lại. (Sài Gòn trong tôi/BV/ Theo Trần Đình Thế)
Sau đó, bọn cộng phỉ đã hèn hạ tàn sát tất cả những chiến sĩ còn lại của Tiểu Đoàn 38 BĐQ bên con mương gần Trường Tiểu Học Trung Lập Hạ và sau đó vất xác các anh xuống con mương.
 
Tiểu Đoàn 38, thuộc Liên Đoàn 32 Biệt Động Quân có lẽ là đơn vị BĐQ cuối cùng đã chiến đấu vào giờ thứ 25 của cuộc chiến. Các anh đã chiến đấu vô cùng dũng mãnh một trận cuối cùng của đời Chiến Sĩ VNCH, thật vinh quang nhưng cũng đầy cay đắng.
 
Các anh đã chọn cho mình một cái chết đau đớn nhưng đầy kiêu hãnh và oai hùng và muôn đời sau các anh sẽ còn được mọi người nhắc đến trong những trang sử hào hùng và vẻ vang trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tự Do, Công Bằng và Bác Ái cho Miền Nam Việt Nam, chống lại sự xâm lăng thô bạo của bọn giặc cướp từ phương bắc … (Sài Gòn trong tôi/BV/ Theo Trần Đình Thế)
Nguồn Brian Bui
 


May be an image of outdoors
34. NGƯỜI VIỆT CỦA TÔI. LÀM SAO MÀ QUÊN ĐƯỢC . . .
NGUYỄN KHẮP NƠI.
Bài Thứ Nhất - Andy Huu Nguyen
Ngày 30 Tháng Tư lại đến!
Những hình ảnh của ngày mất nước lúc nào cũng hiện hữu trong lòng người dân Việt, nhưng mỗi năm, đến ngày này, tháng này, người dân Việt của Miền Nam Việt Nam lại càng cảm thấy nỗi buồn mất nước lớn mạnh hơn bao giờ hết.
Cả một quốc gia vững mạnh, cả một quân đội kiêu hùng, cả một dân tộc tinh anh . . .
Tưởng chừng như muôn đời muôn kiếp . . .
Thế mà chỉ một ngày, chỉ trong một ngày 30 tháng Tư, tất cả đều biến mất.
Chỉ còn lại nhưng người không chịu nhục đầu hàng, không chịu sống dưới ách đô hộ của bọn Cộng Nô, bỏ xứ ra đi, mong một ngày quay trở lại dẹp tan bọn cộng phỉ.
Đã 46 năm trôi qua rồi, vẫn chưa thấy ngày bọn Việt Cộng tan rã.
Tuy nhiên,
Chưa thấy không có nghĩa là bọn Việt Cộng sẽ không tan rã.
Một ngày nào đó, với đủ thiên thời, địa lợi, nhân hòa,
Không cần có một điềm gì báo trước cả, đến đúng ngày, đúng tháng, đám Việt Cộng đó sẽ tự diệt vong.
Mỗi năm, cứ đến ngày 30 tháng Tư, chúng ta lại tập họp nhau lại, điểm danh xem ai còn ai mất? Nhớ lại ngày đó chúng ta đang làm gì?
Để rồi suy ngẫm, chúng ta đã làm gì sai, để ngày 30 tháng Tư xẩy ra?
Chúng ta sẽ làm gì để ngăn ngừa không cho ngày 30 tháng Tư đó xẩy ra nữa trong tương lai.
Đúng ngày Thứ Sáu 30 tháng Tư năm 2021 vừa qua, anh em chúng tôi: Hội Biệt Động Quân QLVNCH, Hội Tương Tế Cựu Quân Nhân và Bằng Hữu, cùng với một số Cựu Chiến Binh Úc tham chiến tại Việt Nam cùng với các cháu hậu duệ và một số anh em Cựu Quân Nhân và Đồng Hương khác của Tiểu bang Victoria, đã tụ họp tại Đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ Úc Việt Thành Phố Dandenong, để cùng làm lễ truy điệu Chiến Sĩ Trận vong trong Chiến Tranh Việt Nam.
Không diễn văn, không người chủ tọa, không có dàn loa phóng thanh . . .
Chỉ có tấm lòng thương nhớ các anh hùng Vị Quốc Vong Thân.
Hai hàng Quốc Kỳ Úc Đại Lợi và Việt Nam Cộng Hòa,
Một dàn Quốc Kỳ của những quốc gia đã cùng tham chiến hỗ trợ Việt Nam Cộng Hòa chống lại quân xâm lăng.
Chúng tôi làm lễ Thượng Kỳ và hát Quốc Ca Úc Đại Lợi và Việt Nam Cộng Hòa.
Một điều rất đặc biệt . . . Đám đông đã hát vang cả hai bài Quốc Ca.
Ở những buổi lễ trước đây, người Việt chúng ta ít thuộc Quốc Ca Úc Đại Lợi,
Dân Úc chính hiệu lại ít khi hát Quốc Ca Úc Đại Lợi . . .
Thế mà, trong buổi lễ tưởng niệm này, tất cả mọi người đều hát Quốc Ca Úc Đại Lợi một cách điêu luyện, thành thạo và nghiêm trang, oai hùng.
Quốc Ca Việt Nam Cộng Hòa thì đương nhiên là chúng ta đều thuộc, đều hát vang.
Một phút mặc niệm, không có tiếng kèn Chiêu Hồn Tử Sĩ . . . mà chỉ có tiếng gió thổi rì rào và nhưng giòng nước mắt tiếc thương Người Lính Vô Danh.
Vòng Hoa Tri Ân Tử Sĩ đã được đại diện các Hội Đoàn và các Cựu Quân Nhân Úc Việt và Đồng Hương đặt tại Đài Tưởng Niệm, cùng với nén hương thương tiếc bốc khói nghi ngút.
Ông John Wells, Cựu Quân Nhân Úc – Chủ Tịch Hội Cựu Quân Nhân Úc (RSL) tại Dandenong, đã được mời để kể lại thời gian ông tham chiến ở Việt Nam:
Tôi đã tham dự nhiều cuộc hành quân trong vùng Núi Đất. Những bụi tre xanh có gai rất nhọn đã đâm xuyên qua cả bộ quân phục của tôi, để lại nhiều vết xước rất đau và rất ngứa, thế nhưng đó cũng là một nơi ẩn nấp lý tưởng khi tiểu đội của tôi ngụy trang để phục kích bọn Việt Cộng. Lính Úc chú trọng nhiều đến việc an dân, nên chúng tôi đã tổ chức rất nhiều những toán hành quân phát thực phẩm, khám bệnh, chích ngừa . . . để từ đó, họ lấy tin tức tình báo và tổ chức những cuộc hành quân và phục kích bắt sống tù và hàng binh Việt Cộng.
Khi nghe tin Lính Úc sẽ rút quân khỏi Việt Nam, tôi đã rất buồn về quyết định này của chính phủ nước tôi. Vì, theo tôi, cuộc chiến chưa chấm dứt, Việt Cộng vẫn còn đang mở nhiều mặt trận để xâm lấn Miền Nam, lính Úc và đồng minh phải ở lại giúp chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cho tới khi đất nước này được hoàn toàn tự do.
Khi trở lại Úc, tôi đã tham gia vào Hội Cựu Quân Nhân Tham Chiến tại Việt Nam (Vietnam Veteran Association) và làm quen với những hội đoàn sinh viên Việt Nam Chống Cộng tại Melbourne. Một số cựu quân nhân khác đã tổ chức những toán tự nguyện đến các trường Trung và Tiểu Học để giải thích lý do Lính Úc tham chiến tại Việt Nam.
Khoảng cuối Tháng Tư, khi xem TV và nghe tin tức từ những đài phát thanh về tình hình chiến sự tại Việt Nam, tôi và các bạn đồng ngũ đều đã đoán biết được là sớm muộn gì Hoa Kỳ cũng bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa.
Cuối cùng, khi xem TV, thấy tận mắt Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng Việt Cộng, tôi đã cảm thấy rất thất vọng vì công sức chiến đấu của ông và sự hy sinh mạng sống của những người Lính Úc, nhất là của hai người bạn thân của ông tại Việt Nam, đã quá lãng phí, vì không đạt được mục đích bảo vệ Tự Do cho người dân Miền Nam Việt Nam.
Ông Nguyễn Hữu Nguyễn Hữu An - Khóa 1/72 Thủ Đức & 50 Rừng Núi Sinh Lầy, Trung đội trưởng Trung đội Thám Sát, Tiểu đoàn 90 Biệt Động Quân, đã cho biết:
Do thương tích, tôi đã được phân loại 2 và giải ngũ vào cuối năm 74 để về tập sự Luật Sư ở Sài Gòn. Những ngày cuối cùng của tháng 4, tôi đã đi vòng vòng thành phố, nhìn những người dân vẫn bình tĩnh làm việc, những người Lính vẫn vững chãi đứng gác giặc ở các căn cứ quân sự, tôi vẫn không nghĩ rằng Sài Gòn có thể thất thủ, mặc dù đã có nhiều tin xấu trong những ngày qua.
Sáng ngày 30 tháng Tư, từ nhà lái xe ra tới chân cầu Thị Nghè, tôi thấy rất nhiều xe tăng M41 của Lính Cộng Hòa đậu ở đó, súng đạn và lính tùng thiết vẫn còn ở chung quang, đang sửa soạn trận địa. Tôi theo đường Hồng Thập Tự, quẹo trái rồi quẹo phải vào Đại Lộ Thống Nhất. /Tới gần Nhà Thờ Đức Bà, tôi thấy rất nhiều xe tăng và xe chở bọn bộ đội mang cở Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam hùng hổ lao về phía Dinh Độc Lập. Tôi không ngờ rằng bọn này đã vào tới thành phố Sài Gòn nhanh như vậy. Hốt hoảng cũng vô ích, tôi rồ ga chạy theo xem chúng nó định làm gì? Tới Dinh Độc Lập, chúng đã ủi xập cổng Dinh để tiến chiếm nơi này.
Vận nước đã tàn!
Tôi phóng xe chạy trở về nhà. Tới cầu Thị Nghè thì nghe trên đài phát thanh, Tổng Thống Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng, yêu cầu anh em quân nhân buông súng chờ phía bên kia đến bàn giao.
Từ trong những chiếc xe tăng đã vào thế chiến đấu từ sáng sớm, tôi thấy những chiến sĩ thiết giáp từ pháo tháp nhẩy xuống, nước mắt họ chẩy dài trên má, họ hét lên những tiếng thét phẫn nộ rồi ôm lấy nhau mà khóc . . .
Tôi không dám nhìn họ lâu hơn nữa.
Nhìn thấy những tên bộ đội bèo nhèo, da thịt vàng nghệch vì bệnh sốt rét kinh niên chạy trên đường phố, miệng đang la hét những câu chiến thắng, nhìn lại những người Lính Thiết Giáp của tôi, họ vẫn hiên ngang chiến đấu, nhưng vì Tổng Thống của họ đã tuyên bố đầu hàng, họ đành buông súng, nhưng phong cách vẫn hiên ngang oai hùng, tôi đã phải thốt lên:
“Cỡ chúng mày như thế mà đòi giải phóng Miền Nam hay sao?
Thưa các chiến hữu và quý đồng hương, chúng ta thua là bị Hoa Kỳ đã không giúp đỡ đầy đủ súng đạn và đồ tiếp liệu, cố tình ép Tổng Thống Thiệu ký vào Hiệp Định Đình Chiến để chúng rút quân ra khỏi Việt Nam mà thôi,
Chứ với sức chiến đấu của Quân dân Miền Nam, với ý chí bảo vệ quê hương, chúng ta chắc chắn không bao giờ bị thua trận.”
Quay về phía ông John Wells, ông An đã nói với ông ta:
“Thưa ông John, sự chiến đấu của ông và sự hy sinh mạng sống của hai người bạn thân của ông và hơn năm trăm người Lính Úc đã rất có ý nghĩa đối với người dân Việt chúng tôi, bằng chứng là chúng ta đã cùng chung lưng xây nên Đài Tưởng Niệm này để nhớ ơn những người tử sĩ đó. Và chúng chính nhờ sự chiến đấu và hy sinh của những người Lính Úc đó mà chúng tôi còn được sống cho đến ngày hôm nay.”
Ông Nguyễn Văn Long – Khóa 26 Thủ Đức, Nhẩy Dù – đã kể lại đời Lính của ông như sau:
Ngày 8 tháng 2/1971, Lữ Đoàn 3 Nhẩy Dù do Đại Tá Nguyễn Văn Thọ chỉ huy, được lệnh tham dự cuộc hành quân Lam Sơn 719 tại Hạ Lào, với mục đích phá vỡ hệ thống tiếp vận và hậu cần của Việt Cộng và cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh tại ại căn cứ 604 (Tchepone) và căn cứ 611 (Tây Nam Khe Sanh, bên kia biên giới Lào).
Từ Làng Vây, Lữ Đoàn chia ra làm nhiều cánh quân:
*. Tiểu Đoàn 2, do trung tá Nguyễn Kim Thạch chỉ huy, đóng quân tại Căn Cứ Hỏa Lực 30.
*. Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 3 được đặt tại Căn Cứ Hỏa Lực 31, trong đó có tôi, Trung úy Nguyễn Văn Long, trưởng ban 2 của Lữ Đoàn.
*. Tiểu đoàn 3 do Trung tá Nguyễn Văn Phát chỉ huy, cũng đóng quân ở Căn Cứ Hỏa Lực 31 để bảo vệ Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn.
Căn Cứ Hỏa Lực 31 còn được bảo vệ bởi Tiểu đoàn 3 Pháo Binh, do Trung Tá Bùi Văn Châu chỉ huy. Pháo Đội B3 với Đại Úy Nguyễn Văn Đương làm pháo đội trưởng, với 6 khẩu đại bác cũng đóng quân tại đây.
*. Tiểu đoàn 6, do Trung tá Trương Vĩnh Phước chỉ huy, khi tới nơi, sẽ đóng quân ở Căn Cứ Hỏa Lực 32.
Mỗi ngày, Lữ đoàn đều cho các tiểu đoàn hành quân chung quanh phạm vi đóng quân của mình. Việt cộng cho xe tăng với tùng thiết là đám đặc công ở trần, mặc quần đùi, mang AK và lựu đạn. Khi tới tuyến phòng thủ của Nhẩy Dù, thì chúng liều mình chạy tới thẩy lựu đạn vào rồi chạy. Phòng tuyến của Nhẩy Dù dầy đặc những đại liên và các tay súng gan lì, nên đánh kiểu này, xe tăng và đám đặc công chết rất nhiều.
Ngày 14/02/1971, Tiểu đoàn 3 đi hành quân chung quanh căn cứ 31 đã khám phá ra một hầm tiếp tế rất lớn của Việt Cộng, với hơn 600 khẩu CKC, 12 khẩu Súng Cối 80 ly, 3 Thượng Liên và hơn 2 tấn lương khô do Trung Cộng sản xuất. Nguyên ngày hôm đó, toàn bộ chiến lợi phẩm đã được đưa về Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn và được trực thăng đưa về Bộ Chỉ Huy Chiến dịch 719.
NGUYỄN KHẮP NƠI.
Xin xem tiếp bài thứ hai.
 
35. Quốc Hận 30/04 - "Người Phi Công Liều Mạng!"

Nếu chỉ nhìn thoáng ông ta trong đám đông tối hôm đó, có thể người ta sẽ không bận tâm nhìn lại lần thứ hai.

Đó là một ông già gầy yếu ngồi xe lăn, đội mũ len đen, cổ đeo cà vạt đỏ sậm, cái áo khoác bằng vải thô mầu xám phủ bên ngoài một thân hình nặng chừng 140 lbs.
Nguyễn văn Ba không nói được và cử động khó khăn, một ông già nhỏ thó trong căn phòng chật cứng những cựu binh Mỹ đang đứng nhắc chuyện cũ với nhau - những mẩu chuyện thời chiến.
Nhưng nếu kéo ngược thời gian lùi lại 40 năm, thêm khẩu súng lục nằm trong bao đeo trễ bên vai, chừng 10 lbs vào các bắp thịt suông đuột, đặt ông ta vào ghế lái chiếc trực thăng gắn đại liên M-60, ta sẽ thấy được một con người khác.

Quá sức liều mạng
Ngày 29-4-1975, ông Nguyễn - giống như trong mẩu truyện được xé ra từ kịch bản quay một cuốn phim loại "Mission imposible" - đã cùng với vợ và ba đứa con tìm cách đào thoát trong khi quân Bắc Việt đang tiến qua những cửa ngõ vào Sài Gòn.
Sau 20 phút bay căng thẳng, chiếc trực thăng của Nguyễn lượn vòng trên biển Nam hải trong tình trạng một sống một chết, và những thủy thủ Hoa Kỳ trên chiếc tàu gần đó chỉ còn biết đứng ngó sửng.
"Không thể nào hiểu được anh ta đã làm cách nào. Đúng là một phù thủy Ấn Độ", lời của Hugh Doyle, sĩ quan trưởng cơ khí trên một tàu hải quân gần chỗ chiếc trực thăng của ông Nguyễn đang quần trên trời.

"Tôi biết thế nào cha tôi cũng tới"
Trong ngày 29-4-1975 đó, Nguyễn không phải là một anh hùng mà đang ở trong tình thế cực kỳ tuyệt vọng. Ông là một trong hàng ngàn người lính miền Nam đang cố tìm cách thoát ra khỏi nước trong khi đại quân Bắc Việt đang ào ạt tiến tới Sài Gòn.
Sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ đã chính thức chấm dứt từ 2 năm trước với hiệp định hòa bình ký tại Paris, nhưng vào thời điểm đó vẫn còn các nhân viên ngoại giao và dân sự Mỹ cần được di tản, đàng sau đó là đám thường dân Việt Nam cố bám theo để tìm đường thoát. Nhiều người trong số đó là quân nhân giống như Nguyễn - một thiếu tá Không quân VNCH - nếu kẹt lại, có thể họ sẽ lãnh án nặng và cả gia đình sẽ tan tác trong những trại tập trung chết người.

Nhưng Nguyễn đã có sẵn một kế hoạch. Ông cho vợ con về ở nhờ họ hàng bên vợ trong một khu dân cư Sài Gòn, và dặn vợ ông - bà Nho - chuẩn bị mọi thứ, ông sẽ lái chiếc Chinook CH-47 đến bốc đi - đó là một loại trực thăng cỡ lớn của Không quân VNCH mà tiếng động cơ không nhầm lẫn của nó có thể nhận ra được từ mấy cây số.
"Khi nghe được tiếng Chinook, phải sẵn sàng", Nguyễn dặn vợ như thế.
Miki, đứa con trai lớn, nằm dưới gầm giường để tránh đạn từ đêm trước. Suốt đêm nó nghe súng nổ ran khắp nơi lẫn tiếng rít hỏa tiễn. Quân cộng sản đã quá gần. Nhưng nó vẫn bình tĩnh và tin chắc cha nó thế nào cũng tới!

Miki nghe được tiếng động cơ Chinook vào lúc sáng sớm. Nó chụp vội túi quần áo, luôn cả bình sữa cho đứa em gái 10 tháng - Mina - cùng với cả gia đình lao nhanh ra chiếc Chinook, trên đó đã có sẵn vài người bạn của cha nó.
Lên được chiếc máy bay, nó nghe ông Nguyễn nói thấy có nhiều trực thăng Mỹ bay ra khơi, chắc chắn họ sẽ đáp xuống ở đâu đó.
"Coi thử ra sao", Nguyễn nói như thế trong khi đưa chiếc trực thăng hướng ra biển, vừa lúc đèn đỏ nhấp nháy báo bình xăng sắp cạn.

Ra tới biển, Nguyễn bật qua tần số cấp cứu và nghe được âm thanh trao đổi giữa các tàu Mỹ. Có người ngó xuống thấy một chiếc tàu đang ở ngay dưới bụng trực thăng. Đó là chiếc USS Kirk với một sân đáp nhỏ. Nguyễn cho trực thăng sà xuống.
Chỉ huy chiếc USS Kirk là Đại úy Paul Jacobs - thuộc cấp vẫn gọi ông ta là "Big Jake". Dân New England, cao 6.3 ft, bộc trực và thẳng tính, ông ta được lệnh bắn hạ bất cứ phi cơ nào không xác định được danh tính và nhắm mòi đe dọa đến cuộc di tản đang diễn ra ồ ạt từ Sài Gòn.

Lẽ ra Jacobs đã cho bắn rơi chiếc trực thăng của Nguyễn nhưng ông đã không làm như vậy. Ông ta độ chừng Nguyễn là một người lính miền Nam đang tìm đường thoát. Bầu trời ngày hôm đó dầy đặc những phi công Việt Nam đưa gia đình và đồng đội bay ra biển trên những chiếc trực thăng cuối cùng còn sót lại.

"Chỉ khi nào nó bắn xuống, không thì mình sẽ không khai hỏa trước", Jacobs ra lệnh.
Nguyễn liên lạc với chiếc Kirk. Tiếng Anh của ông ta chỉ tạm đủ, trên tàu cũng có một thủy thủ bập bẹ được chút ít tiếng Việt.
Sau nầy trong quyển The lucky few, tác giả Jan Herman đã tả lại nỗi thất vọng của Nguyễn. Ông ta bảo với những người dưới tàu rằng chiếc Chinook có chở theo đàn bà và con nít. Và máy bay ông ta sắp cạn xăng.

"Hoặc là tôi hạ cánh trên tàu hoặc sẽ rớt xuống biển", Nguyễn nói. "Hãy cứu chúng tôi!"
Nhưng đám thủy thủ trên chiếc USS Kirk giơ tay làm hiệu xua Nguyễn bay đi chỗ khác. Sân đáp quá nhỏ mà chiếc Chinook lại quá cồng kềnh. Nếu xuống thấp, cánh quạt có thể va đụng gây nguy hiểm cho đám hành khách, luôn cả đám thủy thủ trên tàu.

Nguyễn bỗng nảy ra một ý và lập tức cho dưới tàu biết. Ông sẽ lái chiếc Chinook quần trên boong. Vợ con ông ta sẽ liều mạng nhảy đại xuống đám người giăng tay chờ bên dưới...

Kent Chipman là một trong số những người đứng chờ sẵn dưới đó. Dân Texas, có một hàng ria quặp, được đồng đội gọi bằng cái tên "Chippy". Anh ta chỉ nặng có 130 lbs và đang đánh lô tô trong bụng. Biết đủ sức hứng đám người nhảy ra từ chiếc trực thăng hay không đây. Trong lúc căng hai tay chờ đợi, một ý nghĩ cứ quẩn quanh trong đầu anh chàng: "Chắc chết cả đám!"
Nguyễn lái chiếc Chinook tới phần đuôi của chiếc tàu, cố tránh không cho cánh quạt tới gần những chỗ quan trọng. Chỉ cần một luồng gió hay một sơ sẩy, chong chóng trực thăng sẽ chém trúng tàu, giết chết cả vợ con ông lẫn đám người dưới kia đang dang tay chờ đợi.

Người co-pilot mở cửa, ra hiệu cho vợ Nguyễn, "Nghe đây! Chị và mấy đứa nhỏ sẽ nhảy xuống trước!"
Miki nhảy ra. Kế đến là thằng em nó. Bà Nho bồng đứa con gái nhỏ, nhoài người thả nó xuống cho đám thủy thủ trước khi chính mình cũng nhảy xuống. Đám người chờ sẵn bên dưới hứng được hết.

Bây giờ trên chiếc Chinook chỉ còn lại một mình Nguyễn.
Làm cách nào đáp khối sắt 12 tấn nầy xuống chiếc tàu ? Ông ta chợt nghĩ ra cách khác - một cách chưa ai từng thử qua: Đâm xuống biển!
Ông ta bay ra xa chiếc tàu cách một khoảng an toàn và giữ cho chiếc trực thăng đứng yên chừng 10 phút với giàn bánh đáp nhấp nhô trên mặt sóng.
Chipman đứng chết lặng trên boong, ngó theo. "Cái thằng điên ! Nó đang cởi bộ đồ bay", Chipman nghĩ thầm, trong lúc mắt không rời chiếc trực thăng.
Nguyễn cởi bỏ cái áo bay và tháo dây súng trong khi vẫn giữ cần lái cho chiếc trực thăng đứng yên.

Một phi công trông thấy cảnh đó sau nầy đã nói rằng, không thể hiểu sao Nguyễn có thể trút bỏ bộ đồ bay trong khi vẫn kềm cho chiếc trực thăng đứng yên một chỗ.
Xong xuôi Nguyễn nhấc cánh quạt bay về phía bên phải, xa khỏi chiếc tàu.
Khi chiếc trực thăng vừa chạm mặt nước, ông ta nhảy ùm xuống biển.
Âm thanh cú va chạm nghe giống như cả một toa xe lửa bị lật. Mảnh vụn từ cánh quạt chiếc trực thăng bay veo véo qua chiếc USS Kirk. Chiếc trực thăng nằm lật ngửa trên mặt biển, mấy bánh xe chổng lên trời.

Một khoảng im lặng nghẹt thở khi cả bọn ngó xuống một vùng màu đỏ loang rộng ra chỗ Nguyễn nhảy xuống. Không ai thấy ông ta đâu. Đột nhiên một cái đầu nhô lên khỏi mặt biển. Nguyễn còn sống ! Ông ta đã cố lặn thật sâu khi chiếc Chinook vừa chạm mặt nước. Còn khoảng màu đỏ loang trên biển là dầu thủy điều của chiếc trực thăng.
Đám người trên chiếc Kirk òa vỡ trong niềm vui lẫn thán phục. Ai nấy huýt sáo vang lừng.

"Cừ quá !" một người hét to.
"Một cú tài tình", người khác phụ họa theo.
Chiếc Kirk cho xuồng máy vớt Nguyễn lên. Ông ta lên tới boong tàu chỉ mặc độc một quần đùi màu đỏ của vợ may và một sơ mi trắng in hình hoa hòe. Mấy miếng vàng nhét trong túi đã rớt đâu mất.
"Anh ta đòi được gặp vợ con ngay", Doyle cơ khí trưởng trên tàu sau nầy nhắc lại.

Chiếc USS Kirk sau đó đã vớt thêm nhiều đợt người tị nạn tả tơi đào thoát trên những tàu hải quân VNCH, tàu buôn và cả tàu đánh cá. Jacobs cùng thủy thủ đoàn đã vớt tổng cộng 30,000 người đào nạn từ Nam Việt Nam.

Sau nầy Jacobs nhắc lại rằng các thủy thủ của ông ta khá lành nghề nhưng đồng thời cũng rất may mắn. Biển Nam hải vốn có tiếng không hiền hòa, những đợt sóng cao 20 ft và gió giật rất mạnh là chuyện thường ngày. Vậy mà hôm đó mặt biển lại lặng yên.
"Thượng đế đã ngó xuống. Mấy ngày đó mặt biển phẳng lì như lưng con cá bơn", ông ta nói.

Còn Chipman không bao giờ quên được thái độ trầm tĩnh của Nguyễn trong tình thế cấp bách và nhớ rõ mình đã vui mừng thế nào khi hứng được đứa con gái nhỏ cùng người vợ của viên phi công.
"Một kết thúc tốt đẹp cho một cuộc chiến khốn nạn", anh ta nói.

"Ông ta khá khiêm tốn"
Đó cũng là một kết cục pha trộn giữa vui mừng và cay đắng cho Nguyễn. Ông ta cứu được vợ con nhưng mất hết mọi thứ khác - tiền bạc, sự nghiệp, thân bằng quyến thuộc và luôn cả tổ quốc.

Gia đình ông về sống ở Seattle, sau đó ông tìm được việc làm trong hãng Boeing. Ông ta đi tiếp cuộc đời mới, vẫn bằng sự bền bĩ tháo vát mà ông đã có lúc vội vã bay ra biển để tìm đường sống.

Một gia đình trong hội nhà thờ Lutheran bảo trợ cho gia đình ông. Ông chăm chỉ học thêm tiếng Anh. Ban đầu làm công việc lau dọn ban đêm và học thêm điện tử vào ban ngày. Sau khi được nhận vào làm cho hãng Boeing, ông thức dậy lúc 4 giờ sáng và rời nhà nửa tiếng sau đó.

Sáu tháng sau khi tới Mỹ, gia đình Nguyễn không cần tới sự trợ giúp của chính phủ nữa, ông bảo rằng xứ nầy là mảnh đất của rất nhiều cơ hội. Ông không muốn nhận, nhưng luôn luôn muốn cho. Ông bảo với vợ con, trong vòng 5 năm tới chúng ta sẽ phải là công dân Mỹ để được đóng thuế và đi bầu.

Đối với con cái, ông muốn chúng phải học thật giỏi, rằng đại học là ngưỡng cửa không gì thay thế được và ông sẽ giúp trả học phí nếu chúng học khá. Nhiều lúc, có thể nói, ông huấn luyện con cái giống như chúng là nhân viên phi hành của mình trên chiếc Chinook ngày nào.
Mỗi sáng chúa nhựt ông đánh thức các con, giao cho một bảng liệt kê các công việc phải làm. Nếu xong bài làm ở trường, chúng sẽ được cho thêm một số đề toán để... suy nghĩ tiếp!

"Nếu tụi cháu làm lộn một con số, ba cháu sẽ xóa cả bài và bắt làm lại từ đầu", Mina - đứa bé gái năm xưa được thả xuống từ chiếc trực thăng Chinook - nói như thế.
Ông đặc biệt chăm lo cho đứa con gái út giống như cái ngày ông đem cô theo trong chuyến bay vượt thoát. Khi Mina bắt đầu hẹn hò với một anh nhạc sĩ - người sau nầy sẽ trở thành chồng cô - ông đã lựa dịp để ngồi nói chuyện tay đôi với anh chàng.
"Cháu chưa bằng được con gái bác", ông nói với anh ta. "Sao cháu không có bằng tiến sĩ ? Con nhỏ nó có rồi đấy !"

Nhưng Nguyễn không phải là một người cứng nhắc. Ông thích vui đùa. Mấy đứa con ông thường bảo ông thích tận hưởng đời sống đến nơi đến chốn vì biết rằng đời ông đã được ban ơn lần thứ hai. Ông thích đi câu, chơi dương cầm và tụ tập bạn bè về nhà hát karaoke. Ông cũng nhảy đầm rất giỏi, giống như ngày xưa đã từng bay thật cừ. Ông thích nhất điệu rumba và cha cha cha.

Mỗi khi các con ông phàn nàn điều gì, chúng sẽ nghe được cả một bài thuyết trình: "Má tụi bây và ba khi tới đất Mỹ nầy trên người chỉ có độc cái quần lót... Nhìn lại mình bây giờ đi. Không giàu. Nhưng chúng ta không nghèo !"

Chuyến vượt thoát tới đất Mỹ của cả gia đình đã trở thành một cái gì gần như huyền thoại. Nó không còn là câu chuyện trao đổi trên bàn ăn mà đã được cô đọng lại thành những giá trị được hết thảy mọi người nâng niu gìn giữ. "Nó là câu chuyện về cái đảo Ellis của gia đình chúng tôi", Miki nói.

Sau khi ông thôi việc ở Boeing và về hưu năm 2000, Miki biết sẽ tặng cha mình món gì. Đó là một hộp kính thật đẹp bên trong có cái quần đùi màu đỏ mà ông đã mặc trong chuyến bay vượt thoát của gia đình.
Nguyễn nhận món quà đó với một thái độ nhẹ nhàng. Ông nhận nó mà không nói lời nào.

Có lần ông đã viết về chuyến hành trình gian nan của gia đình ông trên một tờ báo Việt ngữ nhưng bằng lời kể của ngôi thứ ba. Ông không nhận mình chính là người phi công đó.
"Ba tôi không thích khoe khoang", Miki nói. "Nhưng ông biết chắc ông đã làm một chuyện quá sức liều mạng"

Tháo mặt nạ để nhìn người anh hùng
Nhiều người khác cũng nghĩ thế, và họ quyết định tháo gỡ lớp vỏ bọc để thấy rõ mặt người anh hùng khiêm tốn nầy.
Suốt trong nhiều năm, viên chỉ huy tàu USS Kirk đã nhiều lần dò hỏi tung tích cái anh chàng pilot Việt Nam đã lái chiếc Chinook đâm xuống biển.

Câu hỏi lúc ban đầu dần trở nên một công cuộc tìm kiếm khá dai dẳng. Năm 2009, Jacobs xuất hiện trong một chương trình TV Việt ngữ, hỏi xem có ai biết gì về người phi công nầy.

Công việc dò tìm vẫn tiến hành với ít nhiều hi vọng vì cộng đồng Việt Nam trên đất Mỹ cũng chẳng to lớn gì.
Một ngày nọ, Miki nhận được một e-mail trong đó có lời rao của Jacobs. Anh trả lời: "Nếu ông đang tìm người phi công lái chiếc Chinook ấy, thì có thể đó là cha tôi"
Sau đó là những cú điện thoại gọi về tới tấp...

Jacobs và những thuộc cấp cũ của ông trên chiếc USS Kirk tổ chức một buổi họp mặt đoàn tụ vào ngày 10-7-2010 tại Springfield, Virginia, và họ đã gởi thư mời ông Nguyễn. Ông không còn là người phi công trực thăng ngày nào trong tháng 4 năm 1975. Ông đã mất đứa con trai giữa - Mika - chết vì xuất huyết não năm 2003. Phần ông thì mắc bệnh Alzheimer sau khi về hưu. Bây giờ ông ngồi trong xe lăn. Không nói chuyện được, chỉ ú ớ qua cổ họng.

Tới dự buổi họp mặt với thủy thủ đoàn chiếc tàu USS Kirk, lần nầy bà vợ đẩy xe cho ông. Chiếc xe lăn được đẩy vô phòng tiếp tân, có con trai và con gái cùng đi với cha mẹ. Người đầu tiên mà bà thấy trong hành lang là "Chippy" Chipman, anh chàng thủy thủ đã hứng được bà và cô bé gái con bà khi cả hai nhảy ra khỏi chiếc trực thăng mấy chục năm về trước.
Nguyễn cũng nhận ra Chipman. Mắt ông ứa những giọt lệ.

"Ông ấy ngó tôi và tôi cũng ngó ông ấy trân trân. Ông ấy nhận ra tôi, và tôi cũng thế", Chipman kể lại. Chipman tới bên Nguyễn đưa tay chào. Tự giới thiệu mình và nhắc lại chuyện xưa.

Anh ngó qua Miki, giờ đã là một gã trung niên. "Tôi là người đã chụp được cậu lúc cậu nhảy xuống tàu", anh nói bằng giọng Texas đặc sệt, trong lúc Miki không thốt được lời nào vì quá xúc động.

Đoạn anh ngó qua Mina. Trông cô tươi tắn như một bông hoa. Anh bảo với cô rằng lúc đó anh đã nhủ mình phải cố chụp cho được lúc cô rớt khỏi chiếc trực thăng cho dù phải đánh đổi bằng chính sinh mạng mình đi nữa...
"Tôi hãnh diện lắm", Chipman kể lại tâm trạng mình lúc gặp Mina. "Tôi không có con, nhưng có một cái gì giống như bất ngờ mình gặp lại đứa con gái thất lạc đã lâu, nay gặp lại lúc nó khôn lớn. Cô ấy đã trưởng thành một cách hết sức tốt đẹp"
Buổi họp mặt biến thành buổi tuyên dương ông Nguyễn. Người ta chiếu lại khúc phim màu ghi lại những pha gian nan của chiếc Chinook. Nhiều thủy thủ trên tàu ngày hôm đó đã chụp ảnh và quay được cảnh tượng xảy ra trên mặt biển.

Mina nhìn vào tấm hình lúc cô đang dán khuôn mặt bé thơ của mình lên lớp kính chiếc Chinook khi nó bay vòng trên chiếc tàu. Cô cũng thấy được tấm hình lúc cô rớt xuống đôi tay của Chipman. "Tôi lạnh cả sống lưng", cô nói.
Cô cũng được xem lại khúc phim cha cô nhào ra khỏi trực thăng lúc đâm xuống biển.

"Giống như Tom Cruise", cô bảo. "Nghĩ rằng người đó là cha tôi. Nghĩ rằng đó là cảnh gia đình tôi đang nhảy khỏi máy bay từng người một. Những ý nghĩ đó làm tôi choáng cả người"

Còn Miki có ý nghĩ riêng của anh. Trong nhiều năm, anh vẫn thán phục cha mình ở cái tính khiêm tốn của ông. Anh có thể hiểu được thái độ đó. Nhiều người tị nạn Việt Nam chỉ muốn quên đi những đau đớn trong quá khứ. Họ đã mất đi bao nhiêu thứ, thân phận, địa vị, gia đình, tiền của... Họ chỉ muốn nhắm vào tương lai. Kết quả là những người nầy có nguy cơ đánh mất quá khứ. Lũ con rồi đây khôn lớn sẽ không biết gì về chuyện vượt thoát tìm tự do của cha mẹ. Và mọi chuyện sẽ nhạt nhòa dần khi thế hệ của những bậc cha mẹ lần lượt mất hút.

"Chỉ có một điều khác nhau giữa gia đình chúng tôi và những gia đình khác, đó là những tấm hình và những khúc phim nầy", Miki nói. "Mỗi người tị nạn Việt Nam tới xứ sở nầy đều có hàng vạn những câu chuyện đáng được kể ra, và chắc chắn có những câu chuyện còn gian nan hơn nhiều"

Miki ngó Jacobs khi ông nầy tới trước đám quan khách trong phòng tiếp tân.
"Chúng tôi dành phần sau chót cho điều đáng kể nhất", ông ta vừa nói vừa nhìn ông Nguyễn.
Jacobs đọc một đoạn tuyên dương Nguyễn về hành động gan dạ của người sĩ quan phi hành.
"Với tài ba của một phi công, thái độ trầm tĩnh trong lúc nguy cấp, hành động của ông Nguyễn đã mang về một hình ảnh tốt đẹp cho đất nước ông và đã nói lên được một truyền thống cao đẹp nhất của Hải quân Hoa Kỳ"

Nguyễn không nói được lời nào khi ngồi yên ngó lên từ chiếc xe lăn. Một sĩ quan Hải quân cúi xuống gắn huy chương Không quân biểu dương lòng can đảm lên ve áo của ông.
Trong chiếc xe lăn Nguyễn vặn vẹo cử động thân mình.
Miki, đứng sau ông, không hiểu cha mình muốn gì.

Ông cựa quậy hai chân, rồi thẳng người lên trong cái áo khoác màu xám tro. Ông nhìn thẳng vào Jacobs. Và, ông chào bằng cách run rẩy đưa bàn tay mặt của mình lên trán...

Nguyễn qua đời vì bệnh Alzheimer 3 năm sau ở cái tuổi 73, ông đã vĩnh viễn ngủ luôn một giấc dài vào một đêm mùa hè. Nhưng trong cái buổi họp mặt đáng ghi nhớ đó, lúc thời gian quay ngược trở về một ngày khó quên của tháng 4, 1975, Miki đã thấy cha mình phác một cử chỉ dường như để nhắc với anh rằng, "Dù thân thể ông không thể cử động được nữa, nhưng ông - người cha mà anh đã tin chắc thế nào cũng tới để đưa anh và cả gia đình ra đi - ông vẫn mãi còn đó..."

Crew members of the USS Kirk try to wave off a CH-47 Chinook carrying South Vietnamese refugees on April 29, 1975. But the helicopter's pilot, Ba Nguyen, was determined to unload his passengers, who included his wife and three young children.
Craig Compiano
 
36. THÁNG TƯ ĐEN LẠI VỀ - Phieu Le
 
Đã 47 năm đi qua 47 lần gợi nhớ, tháng tư đen năm 1975 ập đến, như một cơn bão lửa nhuộm đỏ cả miền Nam, đốt cháy bao tinh hoa, tình tuý của một nền văn hoá, văn mình nhân bản nhân ái, hủy diệt tận gốc rễ mọi tài năng trong độ tuổi thanh xuân, đang đóng góp tích cực cho sự phát triển của xã hội trên mọi lãnh vực, đặc biệt là nền giáo dục, y tế, văn hoá, tất cả đều bị đảo ngược, những tác giả và tác phẩm để đời đã đi vào hồn người, thấm sâu vảo lòng đất mẹ mà mãi tới hôm nay vẫn còn vang vọng điệu nhạc bolero khắp mọi nơi, khắp cả nước cho dù trước đây không lâu tất cả đã bị tròng vào cổ cái thòng lọng gọi là đồi trụy tàn dư của chế độ “ ngụy” và đã khiến biết bao tài năng thiên phú xuất chúng, bao người dân vô tội đã bị tù đày nghiệt ngã, chết lần mòn tức tưởi trong tăm tối, trong cái thòng lọng xhcn quái gở mất nhân tính kia, và thay vì sám hối người ta vẫn tiếp tục “ tự sướng” reo hò chiến thắng trên sự chết chóc đau khổ tang thương. Những bản tay từng nhuốm máu đồng bào vẫn cứ dương cao cờ đỏ sao vàng mà nay chân đang bước đi trên con đường chủ nghĩa tư bản, thị trường tự do để sống còn. Vậy thì nếu bảo rằng hằng mấy triệu người đã không hy sinh một cách oan uổng cho lý tưởng cọng sản lổi thời, lạc hậu mà các nước trên thể giới ngay cả Liền Sô cũng đã cáo chung thì là gì đây !? các bạn trẻ nên suy gẫm!
 
Nhớ lại thời còn niên thiếu, mỗi buổi trưa tôi thường nghe radIo nói về những câu chuyện bên kia bức mản sắt tôi chỉ hiểu lờ mờ, sau 1975! Bức màn đó đã thật sự được vén lên để cho thấy một miền Bắc tụt hậu, thua kém xa so với Sài Gòn miền Nam vừa bị cái gọi là  “giải phóng” vả tội nghiệp thay cho người dân miễn Bắc từ lâu nay bị tuyên truyền  bịt mắt chắng hề hay biết nên đã vội vã mang từng cái bát tróc sơn, vải lon gạo nhịn nhiều bửa mới có, mấy bộ áo quần vải thô sờn vai vô Nam để tiếp ứng cho người thân bao nhiêu năm bị Mỹ Ngụy kềm kẹp đói rách! đến khi nhận ra sự thật thì như một đàn chuột sa hủ hếp, nhỏ vơ vét theo nhỏ, cấp côi vét theo cấp côi, từng đoàn xe ô tô, gắn máy Honda chở đầy đồ đạc tới tấp trãi  dài đường trường sơn hướng ra Bắc, những bộ mặt rừng rú hớn hở thấy mà dợm mửa ! Mang danh nghĩa quân giải phóng mà đi tới đâu thiên hạ khiếp vía chạy tới đó, tháng tư đen năm 75 cả rừng người trên bộ dưới biển tìm cách vượt tháo, thà chết còn hơn sống với cọng sản, từng đoàn xe tiến vào thảnh phố, những chiếc nón cối xa lạ ngơ ngáo giữa đường phố SG , dân chúng miền Nam buồn bã đứng trông theo ngán ngẫm hụt hẩng như nhìn một đàn thú hoang ... ôi! giải phóng là cởi trói là cứu vớt mà như thế này ư !?

37. TƯỞNG NIỆM!Phieu Le
 
Cứ mỗi 30-4 đến, chúng tôi thường không hẹn mà gặp nhau ở nhà anh Nguyễn Cường Việt cựu trung uý Hải Quân VNCH, là em ruột của trung uý phi công A 37 Nguyễn Mạnh Dũng để đốt những nén nhang tưởng nhớ !
 
Trưa ngày 30-4-1975 sau khi yểm trợ quân bạn , tham dự trận chiến Xuân Lộc , vẫn đơn độc thả những trái bom căm hờn cuối cùng xuống đầu quân thù, rồi anh vể đáp phi trường Bình Thủy Cần Thơ và nghe tin tướng DVM đầu hảng vô điều kiện, anh lại lên phi cờ của mình , tiếp tục cất cánh dù biết rằng lượng xăng còn rất ít, không đủ để bay qua Utapao Thailand. Vậy anh đã bay đi đâu , về vùng Trời nào mà không để lại một dấu vết , một lời từ biệt!?
Thân xác anh đã tự nguyện vùi chôn xuống lòng biển cả, hay cắm sâu vào lòng đất mẹ miền Nam mà 47 năm qua rồi tất bạn bè chiến hữu cuả anh không ai hay biết , toàn dân miền Nam không biết, nhưng luôn ghi nhớ công ơn . đúng là khí tiết người phi công khu trục
Anh hùng tử, khí hùng bất tử!
 
THÁNG TƯ ĐEN LẠI VỀ VỚI BAO GỢI NHỚ!... 
vô cùng thương tiếc một người bạn ! Tr/uý phi công A37 NGUYỄN MẠNH DŨNG Phi Hổ 516.
 
Hồn thiêng sông núi miền Nam vẫn còn mãi ghi nhớ và bạn bè luôn nhắc đến tên anh...Một cánh bay kiên cường bất khuất !
Vào xế trưa ngày 30-4-75 giờ định mệnh an bài, đã đưa xác thân anh cùng con tàu chìm vào biển cả hay nằm sâu trong lòng đất mẹ chẵng ai biết được. Nhưng linh hồn anh mãi sống cùng sông núi, mãi sống trong lòng người dân miền Nam thân yêu và tôi tin chắc rẳng đó là con đường cuối cùng duy nhất của đời trai thời chiến mà anh đã tự chọn để trả nợ non sông, anh chưa đền đáp trọn vẹn cho Đất nước và Tổ Quốc Không gian.
 
Sau khi hoàn tất xuất sắc phi xuất đánh bom ngăn chặn quân cs tiến công vào ven đô Sài Gòn, anh trở về đáp căn cứ Bình Thủy Cần Thơ và nghe tin tướng DVM đầu hàng kêu gọi binh sĩ buông súng, với lượng xăng ít ỏi còn lại anh tiếp tục cất cánh, không để lại một dấu tích, một lời nói từ biệt và đây là phi vụ cuối cùng của người phi công chiến đấu hào hùng bất khuất, anh đã vĩnh viễn ra đi... và đã 45 năm rồi không tìm thấy xác rơi!...
 
Tháng bảy năm 1972 tôi trình diện đơn vị phi đoàn Phi Hồ 516 lừng danh ở Đà Nẵng, toàn những hoa tiêu kỳ cựu gan dạ, các anh còn rất trẻ trung thân thiện dù gần một nửa là những khuôn mặt “ râu ria” đến phát sợ! chỉ thấy anh Nguyễn mạnh Dũng là nhẵn nhụi, ít nói cười hoài, cười cả bằng mắt, có cái răng khểnh rất dễ thương cởi mở, hút thuốc liên tục, không hút cũng cắn điếu thuốc trên môi, thấy tôi cứ đứng lớ ngớ mặt non choẹt như học trò đang chờ trả bài, trung úy Dũng đã tới bắt chuyện trước với thẳng em, tôi xưng hô cấp bậc, anh chỉ tay vào vai tôi “ tớ với cậu cho thân mật! ai cũng có bông mai hết “ cái giọng Bắc nhừa nhựa đi đôi với nụ cười kéo theo đuôi mắt đã hớp hồn tôi ngay. rồi anh nhìn vô bảng tên trên ngực áo tôi và nhẹ giọng như chỉ muốn một mình tôi nghe “ Phiếu! trưa tui chở đi ăn cơm”. vậy là hai anh em thân nhau từ đó, anh lớn hơn tôi chừng vài tuồi càng về sau tôi càng nhận ra, bên trong mấy cái túi áo bay đầy huy hiệu nổi tiếng hào hoa phong nhã, nhưng thực tế ít anh nào còn đủ tiền lương tiêu tới cuối tháng, đã vậy còn thích xài sang ghiền đánh bài, cà phê phải có người đẹp và gắn máy lạnh chẵng thà hết tiền thì ăn cơm tay cầm (gặm bánh mì) v.v anh Dũng cũng không ngoại lệ có khi còn tệ hơn. Một kỷ niệm nhớ suốt đời với tôi và anh Dũng, hôm đó Trời đã chiều anh đến phòng tôi mặt thiểu não, nẳn nì nhờ tôi đi cầm chiểc máy ảnh Yasica đắt tiền mua bên Mỹ lúc du học ( tôi có tật ghiền bài nên rành lắm) tưởng có gì quan trọng tôi hơi lo, thì ra anh ghiền ăn thịt cầy, anh hí hửng dẫn tôi đi ra tiệm giới thiệu đủ món mà tôi đâu có “ hảo” thứ nầy, lẩn đầu tiên nếm mùi hơi nhợn, nhưng cũng phải tỏ ra hí hửng kẻo anh mất vui !
 
ôi! Thật đáng yêu Đời phi công nhất là chiến đấu mang tiếng hào hoa bay bướm và bao phen làm khiểp vía quân thù với những đường bay ném bom lả lướt chính xác! mà lại nghèo mạt rệp, chúng tôi hầu hết chỉ giàu tình yêu Quê hương, sẵn sàng xã thân hy sinh dù bạc tiền ai cũng nghèo lắm, vẫn luôn tươi cười, đặc biệt là niên trưởng Nguyễn mạnh Dũng của tôi, anh hăng say chiến đấu, có mặt trên bầu Trời chiến trường cổ thành Quãng Trị hầu như mỗi ngày... chỉ trong vòng hơn ba tháng được ở bên anh Dũng và cùng các anh, vừa đánh vừa học hỏi kinh nghiệm từ chiến trường, tôi đã chứng kiến ba niên trưởng đã ra đi không trở về, có anh đã hy sinh mà như vẫn còn để lại nụ cười tươi đang nở trên môi, đại uý Trịnh Đức Tự trước đó không tới 15 phút SQ trực vô gọi đi bay, anh hí hửng vừa đi vừa bỏ tiền mới thắng “ bài” vô túi áo bay, và rồi chỉ 15 phút sau HQCC (hành quân chiển cuộc) thông báo, máy bay anh đã rơi trên chiến trường Quế Sơn, không nhảy dù kịp..đúng một tuần lễ sau đến lược đại uý Cao minh Rạng, Diêm Vương gọi hồn trong một phi vụ không hành, luân phiên đi phép vô SG bằng A37, Lúc trở về anh nghiên cánh liệng sát sông Long An chào từ giã người yêu và chử “ tình “ đã kéo luôn thân xác anh cùng con tàu xuống vực sâu...
 
Đến giữa tháng 10 cùng năm, tôi được đề nghị chuyển tiếp xuyên huấn F5 ở Biên Hòa theo yêu cầu phát triễn KQ, không còn được ở cùng các anh Phi Hổ và nghe đâu về sau này tôi đọc một bài viết của Bùi huy Sơn K4/69 KQ được biết tr/u Nguyễn mạnh Dũng đã từng một lần phi cơ A37 của anh bị SA 7bắn hạ , anh đã kịp nhảy dù và được TQLC cứu thoát, trong lúc phục quân nổ lực tái chiếm cổ thành Quãng Trị
Sau biến cố oan nghiệt 19 75, tôi bị kẹt lại tại Đà Nẵng và đi tù 7 năm bị đưa ra Bắc một thời gian, cuối 93 thì được qua Mỹ diện HO, phải mất nhiều năm tìm kiểm, cuối cùng biểt tin anh đã mất đúng ngày cuối cùng 30-4 Sài Gòn rơi vào tay cọng sản.
Từ lúc biết tin anh không còn nữa...sau này, cứ đến ngày 30-4 chúng tôi một số thân hữu không hẹn vẫn đến gặp nhau cùng gia đình là em ruột của anh Dũng, một cựu tr/u HQ Nguyễn cường Việt ở Seattle để thắp nén nhang tưởng nhớ! đặc biệt Trời đã ban cho là hai anh em giống nhau như khuôn đúc từ phong cách, tính nết giọng nói, tiếng cười. Chuyện trò với Việt, chúng tôi cãm thấy anh Dũng như đang bên cạnh, cũng an ủi và vơi bớt phần nào sự mất mát nhớ thương...
Lê Phiếu Hồng Tiễn 538.
*****
Tháng Tư lại đến lòng tê tái
Phi bào cánh sắt chẳng phôi phai
Một thời chinh chiến xưa ngang dọc
Tổ Quốc ghi lòng đau xót thay!
Ánh mắt anh cười hình năm cũ
Như mơ trong xa thẵm cuộc đời
Thoáng thấy hồn anh trong đáy rượu
Rượu tình chiến hữu đẹp thiên thu!
🌹🌹🌹💖 ( thơ cảm tác của đọc giả)
Hương Lê

38. NIỆM THÁNG TƯ - Phieu Le
 
 
Tôi có người anh không chết trận
Tự xóa tên mình cuối tháng Tư
Sử sách lưu danh còn chi nữa
Cờ lau khát vọng đất Hoa Lư
Tôi có người cha giương súng lệnh
Chào lá Quốc Kỳ trước khi đi
Chỉa thẳng đầu mình viên đạn chót
Chết theo thành – Bia chẳng cần ghi
Tôi có người mẹ nhìn quanh mãi
Nhà mình còn chi đáng giá không
Trước cái tủ thờ bà cúi lạy
Tổ tiên tha thứ buổi gạo đong
Tôi có người chị từ dạo ấy
Bán tà áo cưới đi thăm nuôi
Thất thân giữa dậm trường Nam-Bắc
Lòng men sông Hát giải oan thôi
Tôi có đứa em ra đầu chợ
Chờ miếng cơm thừa bên quán ăn
Tay mời vé số cầu người trúng
Vĩa hè chiếu rách khóc Thiên Đàng
Tôi có người yêu đêm từ tạ
Khuya em lên tàu đi vượt biên
Máu trinh loang xuống vùng biển Thái
Trả giá Tự Do rồi hóa Điên
Tôi có thằng bạn đi trót lọt
Quay về kháng chiến giữa rừng hoang
Hoài bảo quê hương cao chất ngất
Tử hình- Tù ngục chẳng gian nan
Tôi có mình tôi rất ngậm ngùi
Bốn mươi bảy lần đếm tháng Tư rơi
Chén đắng sao ai mời uống mãi
Bên dòng bi sử dật dờ trôi.
PXT
 
 
40. NGÀY NÀY CUẢ 47 NĂM VỀ TRƯỚC Phieu Le (Lê Phiếu Hồng Tiễn 538)
29-3-1975 Đà Nẵng thất thủ …

    Đến khoảng 2 giờ khuya thì tiếng đạn pháo thưa dần,tôi thấy anh em F-5 lần lược cất cánh từng chiếc một..tiếng gầm rú của động cơ phản lực vang dội cả một vùng, át cả tiếng đạn pháo kích . Tiếu bạn tôi đã may mắn bay chiếc  F-5D cất cánh từ hồi chiều, chở theo một đ/u kỷ thuật, cùng bay hợp đoản với Tiếu còn có Trần lưu Úy, sau này vượt ngục và bị bắn chết. Cũng trong đêm đó, một A37 crashed trên phi đạo,đ/u Đỗ Thạnh tử thương tại chổ . Ngay sau khi chiếc F-5 cuối cùng rời phi đạo, tôi lái xe tới khu trực alert pad , chạy thẳng vô ụ đậu, tôi còn nhớ số phi cơ 273. Tr/u Thành trưởng toán phi đạo, từ trong chổ tối sau bức màn chống pháo kích, lớn tiếng giọng bắc kỳ năm-tư “Ai?” Nhận ra tôi anh dịu giọng “tất cả bay hết rồi..chỉ còn mình Hồng-Tiễn..mau lên! Tôi đi kêu tụi nó nổ máy,VC sắp pháo nữa đó”. Tôi nhìn con tàu, rồi quay lưng nhìn bà xã với cái bụng bầu ngồi yên lặng như pho tượng trên chiếc xe jeep giữa đêm khuya thanh vắng.. Thường ngày vợ tôi rất ủy mị, tôi nhớ lúc tiễn tôi vô biên hòa học F-5E đã oà khóc như một đứa trẻ,đến nổi tôi phải xin tr/tá Anh trở ra.Nhưng vào lúc này đây, biết tôi đi sẽ không bao giờ trở về.. nàng lại hối thúc “đi!…đi anh !..anh ơi !”. và tôi cứ tưởng bà xã tôi yếu đuối lắm, nhưng không… nàng đã chuẩn bị sẳn cho đứa con trong bụng một cái tên dù trai hay gái khi sanh ra  “Lê anh Phiếu”  nếu lúc đó tôi cất cánh…(bà xả tôi đã tâm sự khi bồng con lên trại tù ở trên núi thăm tôi lần đầu). Và tôi đã lắc đầu..Thấy vậy , Thành xẳng giọng và dùng từ cấp bậc đối với tôi “ thôi được , vậy thì trung úy về nhà đi..”
    Tôi thẩn thờ như người mất hồn, thấy phòng trực alert pad, đèn vẫn còn sáng. Tôi dừng xe bước vào..máy lạnh vẫn chạy đều, mấy ly cà phê đang uống dở,nước đá còn chưa tan..khoảng nửa giờ trước đây ,anh em còn đang sinh hoạt, bây giờ đã ở một thế giới khác..thế giới của tự do, còn tôi thì sắp đối mặt với kẻ thù khát máu…Đang miên man, bổng nghe có tiếng động nhỏ, một bóng người ngồi yên lặng trong góc tối ,đầu cúi gầm, mặt quay vô tường, tôi bước lại gần nhìn kỷ mới   nhận ra đại tá Thái Bá Đệ, không biết đại tá lúc đó đang nghỉ gì mà hai bờ vai rung lên từng hồi.. tôi chưa kịp hỏi và ông không quay lại mà vẫn biết là tôi “người nhà đâu rồi, sao không đi.. !?” tôi không trả lời, chỉ đứng yên đưa  tay chào mà  nước mắt muốn rơi!....Một hình ảnh đại tá Đệ ( đã mất) vui tươi bên cạnh tr/tá Lê Xuân Lan ( hiện đang ở Pháp) vừa đi vừa briefing, như đôi chim gìa dặn hướng về chiếc F-5D cách đây chỉ mới hai tuần… đâu mất rồi!. Hôm đó, tôi hân hạnh được bay wingman với hai xếp lớn và không ngờ rằng, đó cũng là phi vụ cuối cùng trong cuộc đời bay bỗng của mình. Và lần gặp hôm nay, trong tình huống bi thương này cũng là lần cuối với vị đại tá mà tôi hằng kính mến!.
( trích hồi ký những khúc quanh đen tối )

 41. Máu Cọp Biển Và … Nỗi Buồn
 
Tháng Tư về đôi mắt buồn vẫn ướt  
Đậm nỗi sầu lòng người lính Mũ Xanh
Đã ngã xuống khắp nẽo đường đất nước
Mang bình an cho quê mẹ một thời
Hôm nay đây mùa đại tang về lại  
Cúi nghiêng mình để tưởng nhớ các anh
Đã vị quốc từ tuyến đầu khói lửa  
Biển 
* An Dương ai oán bỏ thân mình
Quân lệnh đến rồi lui binh lần nữa
Trong vội vàng máu lại đổ *Tiên Sa   
Cũng xương máu và xác thân Cọp Biển
Trôi vật vờ … tàu cứ mịt mù xa …
Thôi Cọp Biển xác thân về cùng biển
Máu các anh thành nước mắt quê hương
Thân trả đất … hồn theo về Mẹ Việt     
Dẫu tủi hờn … thôi thời thế đành cam
Giờ phút cuối vẫn hiên ngang hùng dũng   
Xác rã rời nhưng chẳng ngại gian lao
Rừng cao su tạm moi hầm đào hố
Đem xác thân làm dậu cản bước thù
Rừng Long Thành những nắm mồ nghiệt ngã  
Của các anh dù năm tháng trôi qua
Những dấu tích rừng cao su ngày trước
Vẫn còn đây không nhang khói thật buồn
Các anh chết bao Anh Hùng đã mất
Mẹ Việt Nam cùng lịch sử lưu danh
Trong chiến trận … trăm lần các anh thắng
Bại một lần … lịch sử đã sang trang…
Làng 
*An Dương cửa Tư Hiền (Thuận An), 
*Bãi Tiên Sa (Đà Nẵng) trong những ngày cuối cùng của tháng “Ba Gẫy Súng” là nơi những người TQLC đã bỏ mình oan uổng mà chẳng biết lý do...
Thuyền Qua Lối Cũ
Tuấn TT.  04-26-2022

42. Ly Rượu Cho Mày (Ly Rượu dở dang)
 
Rượu cho mày hôm nay ly rượu đỏ
Thẩm một màu cũng đỏ tựa năm xưa
Khi vương vãi chỉ đôi chân còn lại
Khói mờ dần ơi hỡi nửa phần trên
Rượu tao rót trong ly dòng huyết quản
Tựa máu mày dù khuất nẻo thời gian
Tao vẫn nhớ và tao luôn vẫn nhớ
Uống đi mày uống hết tao châm thêm
 
Tao không hiểu khi đêm nằm trăn trở
Cứ mùa này đôi mắt chẳng nằm yên
Chuyện xưa cũ chuyện mày tao Thành Cổ
Nhói buồn tim chuyện xưa cũ lại về
Tao xin mày hãy để yên tao ngủ
Trước sau gì tao cũng đến mà thôi
Đừng hối thúc tao còn bầy con cháu
Sẽ từ từ kể chúng chuyện xa xưa
Thôi tao hứa trước sau tao cũng đến
Nếu còn chờ hai đứa sẽ nắm tay
Xin Mẹ Việt cho cả hai cùng xuống
Lại làm người … người Cọp Biển Miền Nam
Nỗi Buồn hậu tháng tư đen
Thuyền Qua lối Cũ
T.TT 04-19-2022
 
43. CHIA TAY CHẲNG NÓI 
 
Tháng tư ngày cuối vội ra đi
Lặng lẽ chia tay chẳng nói gì
Bảo táp phong ba đầy sóng gió
Quê hương bỏ lại ôi sầu bi
Người đã xa người tất tả đi
Làm sao quên được phút chia ly
Mong là tránh được cơn bảo táp
Để luống ngậm ngùi biết nói chi
Con tàu rời bến xa thật xa
Nhìn lại quê hương bóng xế tà
Mất hút chân trời xa tít mãi
Chợt lòng xao xuyến bao xót xa
Có phải thật là ta khởi đầu
Hành trình sang nửa quả địa cầu
Để rồi vĩnh biệt quê yêu dấu
Giọt lệ âm thầm rơi biển sâu...
Sa Việt 220411
 

44. Tháng Tư Nhắc Lại Một Chuyện Buồn
 Ngọc Ánh (link
Tango Bui)
 
Hình tác giả và con trai - Switzerland-2015


Tôi gặp anh cũng tinh cờ như một định mệnh dung rủi, anh là em trai của chị bạn hàng xóm ở Sóc Trăng, trong một lần gặp chị ở Sài Gòn đầu năm 1976, chị mời đến nhà chơi mới biết nhà chị lại rất gần với nhà tôi, anh hiện đang sống với bà Nội trong căn nhà vắng vẻ ở góc đường. Rồi những lần qua lại thăm hỏi, dần dần chúng tôi thân nhau hơn trong những buổi lang thang trên các con đường Sài Gòn, chia sẻ với nhau về mọi thảm trạng của xã hội Miền Nam sau 1975, anh không nói nhiều về lai lịch quá khứ nhưng tôi biết anh là một người lính VNCH và hiện nay anh đang có nhiều kế hoạch cho việc thành lập nhóm kháng chiến lấy tên Lực Lượng Việt Nam Tự Do, chống lại Cộng Sản trong khu vực Núi Bể (Hàm Tân). Tôi có vào đó vài lần, để giữ an toàn cho anh em nên tôi cũng tránh không gặp nhiều người, công việc của tôi là cung cấp giấy tờ giả cho mọi người đi lại dễ dàng (vì thời đó sự đi lại phải có giấy giới thiệu của cơ quan địa phương).

Mọi việc đang tiến hành thì tổ chức của chúng tôi bị nội phản, công an vào căn cứ vây bắt, một số người chạy thoát, lúc đó vợ chồng tôi đang ở Sài Gòn, một anh trong nhóm đã đạp xe suốt đêm từ Hàm Tân về tới nhà tôi ở Sài Gòn để báo tin lúc 9 giờ sáng, đến 3 giờ chiều thì công an Bình Thuận và công an Sài Gòn tiến hành xét nhà, nhưng là người thủ lãnh của nhóm, anh Trần Thắng Tài đã không thoát thân bỏ mặc anh em đang bị bắt, dù thời gian còn kịp cho chúng tôi xuống Rạch Giá ra khơi trên con tàu đã được anh em chuẩn bị sẵn.Là một người vợ hết lòng với đại cuộc của chồng, tôi cũng không thể bỏ anh ở lại một mình dù anh đã khuyên hai mẹ con tôi nên chạy trốn càng nhanh càng tốt .Chúng tôi có một buổi trưa ăn cơm cùng nhau, chơi với con trên căn gác chật hẹp, anh cố bình thản để nói cười vui vẻ , nhưng tôi biết cả hai chúng tôi đều lo lắng một điều gì đó không yên ổn sắp xảy ra, một biến cố lớn trong cuộc đời Vậy là chúng tôi bị bắt vào ngày 21/3/1979. Đó là lần cuối cùng con trai tôi được anh bồng bế trên tay, mãi mãi cho tới ngày anh mất đi không bao giờ gặp lại, hôm ra tòa gặp anh lần cuối, tôi có trao anh tấm hình thằng bé lồng trong tấm card nhựa, sau này tôi tìm thấy tấm card bị một vết đạn xuyên thủng trong lúc bốc hài cốt anh, tôi nghĩ rằng tấm hình đó đã nằm trong túi áo trên ngực anh và kẻ giết người đã bắn trúng trái tim anh...

Cho tới bây giờ nhắc lại chuyện dùng dằng trước khi bị bắt, tôi không biết mình đã quyết định đúng hay sai khi cương quyết ở lại cùng anh chịu cảnh tù tội, nhưng tôi tôn trọng chí khí của anh, người lãnh đạo công cuộc kháng chiến chống Cộng Sản, dù thất bại nhưng nhất định anh không bỏ mặc anh em, cũng như tôi không thể để anh ấy ở lại một mình. Sau này nghe nói vụ án chúng tôi mở đầu cho hàng loạt vụ án chống Cộng khác của nhiều tổ chức trong thời điểm đó.

-Suốt thời gian hơn 10 năm tù, chưa bao giờ tôi hối hận về những gì mình đã làm, nhưng có điều khổ tâm ray rứt nhất là khi nhìn con mình bị tật nguyền đói khổ trong cảnh lao tù, may mắn là giờ chót con tôi được tổ chức Terre Des Hommes bên Thụy Sĩ giúp ra khỏi trại giam và đưa cháu sang đó, nhưng do thời gian của bệnh tật quá lâu nên cháu khó phục hồi được, có điều biết cháu được sống trong môi trường chăm sóc tốt nhất tại Thụy Sĩ thì tôi rất yên tâm, dù thật lòng không biết khi nào hai mẹ con mới gặp lại nhau với mức án tù còn dài thăm thẳm của tôi.Nhưng vẫn hy vọng có một ngày tôi trở về, sẽ tìm cơ hội qua thăm con, chúng tôi không thể lạc mất nhau, như chúng ta đã từng lạc mất anh ấy. Sự hy vọng đã giúp tôi vượt qua mọi khó khăn gian khổ để nuôi dưỡng niềm hy vọng đó. Rồi ngày ra tù, tôi nhờ người quen làm trong hội thiện nguyện phi chính phủ giúp tôi tìm được thằng bé, lá thư đầu tiên nó viết cho tôi bằng thứ tiếng Việt ngô nghê nhưng đầy vui nhộn như bản tính trước đây của nó,nó kể cho tôi nghe chuyện nơi nó ở, chuyện học hành...
 
Và điều tuyệt vời nhất mà tôi mong đợi bấy lâu nay là nó vẫn còn nhớ đến tôi, nó biết là nó có một người Mẹ ở Việt Nam nhưng không biết làm sao để gặp lại, nó gởi cho tôi những tấm hình của nó ngồi trên xe lăn, gương mặt nó có vẻ chững chạc tự tin, từ đó chúng tôi giữ liên lạc với nhau Năm 2001  nó viết thư cho tôi báo tin là nó sẽ về Sài Gòn thăm tôi, cùng đi với nó có 2 người bạn.Tôi vui mừng nhưng cũng có thoáng lo lắng, làm sao tôi có thể chăm sóc một lúc 3 đứa trẻ cùng ngồi xe lăn như nó? Ngày ra phi trường, tôi mang theo tấm bảng thật to viết tên nó để giương cao lên cho nó thấy,nhưng khi nhìn chiếc xe lăn bên cạnh 2 người Thụy Sĩ cao to là tôi ném tấm bảng không cần thiết xuống đất, Mẹ con chúng tôi đã nhận ra nhau sau 15 năm xa cách. Không thể tả nổi giây phút trùng phùng đầy cảm xúc của hai mẹ con, nó nhỏ bé gầy gò như đứa trẻ lên 10, nhưng gương mặt thì già hơn chàng  thanh niên 25 tuổi.

-Thời gian ra tù, để tránh sự soi mói của chính quyền địa phương, tôi cũng muốn vượt biên nhưng tôi không có tiền bạc gì cả. Tôi bỏ Sài Gòn qua thành phố khác sinh sống, tôi muốn dấu chuyện tù tội của mình, nhưng khi đi xin việc tôi cũng gặp nhiều khó khăn vì lý lịch nên cuối cùng tôi làm công nhân trong một công ty Đài Loan. Mọi việc có vẻ êm xuôi cho đến mấy năm sau, thì công an nơi tôi ở phát hiện ra thân thế của tôi, họ gọi lên phường tra vấn lại lý lịch, tôi đã thẳng thắn nói rõ về mình, tôi muốn có cuộc sống bình thường như mọi người. Họ nói như răn đe” đừng giao du với kẻ xấu hay cấu kết với bọn phản động, nếu chị muốn làm người công dân yên ổn”.Lại một lần nữa tôi chỉ muốn bỏ nước ra đi.

- Năm 2003 tôi gặp lại người Thầy cũ, và ông bạn của Thầy, người mà năm 1975 chúng tôi đã có dịp gặp nhau, bây giờ anh ấy đang sống ở Mỹ, đã nghĩ hưu và sống một mình, sau khi biết được hoàn cảnh của tôi, anh ấy rất yêu quý và muốn kết hôn.Chúng tôi cưới nhau ở Sài Gòn năm 2005 và tôi sang Mỹ năm 2007, nhưng mãi đến  mấy năm sau đó tôi mới có dịp qua Thụy Sĩ thăm con, hiện nay tôi vẫn liên lạc với con qua Facebook, may mắn là nó vẫn sống yên lành dưới sự chăm sóc của cơ quan thiện nguyện Thụy Sĩ.

- Bây giờ tôi đang sống hạnh phúc với gia đình và có cuộc sống ổn định. Câu chuyện buồn đã qua lâu rồi, nhưng lòng tôi vẫn chưa nguôi ngoai khi nhớ về quá khứ, với sự khuyến khích của chồng, tôi viết lại câu chuyện của mình để mong nổi buồn được chia sẻ, cuốn sách” Ngày Tháng Buồn Hiu”  được in ra để tặng bạn bè thân quen và tôi nhận được nhiều an ủi đồng cảm của mọi người. Nghĩ lại thấy mình cũng bình an hơn so với những người còn ở lại Việt Nam và câu chuyện buồn đau của mình vẫn không so sánh được với những kinh hoàng của hàng triệu đồng bào đã ra khơi tìm Tự Do, một số họ đã chết thê thảm và ai sống sót được tới bến bờ cũng luôn có những ám ảnh hãi hùng. Tôi thấy lòng thanh thản khi tha thứ cho những người Cộng Sản đã gây ra tan nát cho gia đình nhỏ của tôi, nhưng tôi sẽ không tha thứ trước những áp bức bất công khắc nghiệt của chế độ Cộng Sản khi chúng còn cai trị trên quê hương Việt Nam.

Ngọc Ánh
Dù áo thư sinh có bạc màu
Cuối trời lưu lạc vẫn tìm nhau

cva NHP
 

45. Vị tiểu đoàn trưởng cuối cùng của tiểu đoàn 1 Quái Điểu
Mũ Xanh Nguyễn Minh Châu (fb Steven Lam, fb Hong Doan)
 

9 giờ 30 sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, TÐ/TQLC di chuyển bộ từ Long Bình về hậu cứ tiểu đoàn nằm trong căn cứ Sóng Thần. Ðứng trước cổng trại Phạm Khắc Dật, Thiếu Tá Dương Văn Hưng ra lệnh cho tôi (Tr/U Châu) tái trang bị các Ðại Ðội. Quay sang Ð/U Bùi Bồn, TÐP, ông nói:
– Anh cho bố trí con cái thật cẩn thận, đây là vị trí sống chết cuối cùng của chúng ta.
Bộ chỉ huy hành quân tạm đặt phía sau văn phòng tiểu đoàn hậu cứ. Trong lúc ông đang ra lệng cho Trưởng ban 3 lo bố trí hầm hố cho BCH/TÐ, thì điện thoại ở cổng chính gọi vào báo có một đơn vị Bộ Binh do một Trung Tá chỉ huy đang đứng ngoài cổng, ông Tr/Tá muốn xin gặp TT/TÐT. Tôi trình Th/Tá Hưng, ông nói:
– Anh ra mời và hướng dẫn Tr/Tá vào gặp tôi.
Gặp ông, ông tự giới thiệu:
– Tôi là TÐT Tiểu Ðoàn Ðịa Phương Quân này.
Nhìn đơn vị của ông thật là nghiêm chỉnh và trật tự. Trên cánh tay phải mỗi quân nhân đều mang miếng vải màu vàng. Họ đang đúng hút thuốc, nói chuyện cười đùa vui vẻ với những người lính TÐ1/TQLC. Tôi mời ông theo tôi gặp Th/Tá Hưng (rất tiếc vì thời gian tiếp xúc quá ngắn ngủi nên tôi không nhớ tên và đơn vị của ông ta).
Tại BCH/TÐ, vị Tr/Tá BB cho Th/Tá Hưng biết đơn vị của ông đóng tại Củ Chi. Sau khi Củ Chi thất thủ, ông đưa TÐ về căn cứ Sóng Thần và đến thẳng TÐ1/TQLC. Ông xin Th/Tá Hưng cho ông hợp tác để cùng chiến đấu. Th/Tá Hưng đồng ý lời đề nghị này. Sau đó hai ông bàn thảo kế hoạch. Doanh trại TÐ1 đã trở thành căn cứ cuối cùng của hai đơn vị BB và TQLC vào ngày 30/4/75.
10 giờ 30, lệnh đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh được phát ra từ đài phát thanh Sài-Gòn làm tất cả mọi người bàng hoàng sững sốt. Trong căn phòng dùng làm BCH/HQ hoàn toàn không một tiếng động. Thế là hết! Chúng ta không còn gì nữa cả!!!
Ð/U Bùi Bồn từ bên ngoài bước vào, với vọng nói sang sảng của anh đã phá tan sự ngột ngạt của căn phòng. Anh mời hai vị TÐT cùng tất cả Sĩ Quan BCH tiểu đoàn ra nhà anh kiếm chút gì để uống và chờ xem tình hình sẽ ra sao! Th/Tá Hưng chẳng nói tiếng nào, ông đúng lên cùng vị Tr/Tá BB ra xe, chúng tôi cùng đi theo ông. Nhà của Ð/U Bùi Bồn nằm cạnh cổng sau căn cứ Sóng Thần, kế bên là nhà của Thượng Sĩ 1 Rít, trưởng ban quân lương TÐ và đối diện là quán nhậu của Thương Sĩ Tuân, trung tâm huấn luyện.
Th/T Hưng ngừng xe trước nhà Ð/U Bồn, nhưng khi bước xuống ông lại đi vào nhà T/S 1 Rít vì trước sân nhà anh Rít đã có sẵn một cái bàn lớn. T/S 1 Rít mang ra 2 chai whisky mời chúng tôi. Mọi người ngồi uống, hút thuốc nhưng chẳng ai nói lời nào. Tôi không biết Th/Tá Hưng đang nghĩ gì? Vị Tr/Tá BB và mọi người đang nghĩ gì trong đầu họ? Riêng tôi chẳng nghĩ gì cả, đầu óc tôi trống rỗng. Sự việc xãy ra quá bất ngờ, quá đột ngột, đã làm tôi không còn gì để nghĩ.
Trong lúc mọi người đang im lặng, cái im lặng thật nặng nề khó chịu! Bỗng nổi lên những tiếng hò hét, kêu gọi nhau hòa với những bước chân chạy rầm rập, gây nên cảnh thật náo loạn tại cổng sau căn cứ. Chúng tôi thấy khoảng trên 100 người ở trần, mặc quần xà lỏn, đi chân đất đang chạy về hướng chúng tôi. Thật sự lúc bấy giờ, tôi không nghĩ họ là những người lính. Vâng! vì tôi chưa một lần gặp hoặc nhìn thấy cảnh này bao giờ. Th/Tá Hưng đứng bật dậy như chiếc lò xo, ông với tay cầm khẩu XM16 bên cạnh, lên đạn và chạy thẳng ra đường. Phản xạ tự nhiên, chúng tôi cũng đứng bật dậy và chạy theo ông. Tôi chẳng hiểu việc gì xảy ra. Với nét mặt giận dữ, ông hét lớn:
– Ðứng lại
Khẩu XM16 trên tay, ông chỉa thẳng vào toán người đó, nói như hét với họ.
– Làm gì phải cởi quần áo như vậy? Không biết nhục hả?
Tất cả đám người đó đều im lặng, không ai dám trả lời và cũng chẳng ai dám nhúc nhích. Họ nhìn ông, rồi nhìn chúng tôi. Sự sợ hãi của họ cũng giảm đi phần nào khi nhìn thấy TT Hưng và toàn thể SQ TÐ1/TQLC vẫn mặc quân phục và mang vũ khí. Th/Tá Hưng ra lệnh cho họ quay trở vào căn cứ và mặc lại quân phục. Ông nói:
– Nếu tôi còn thấy một người nào ở trần đi ngang qua đây, tôi sẽ bắn ngay.
Toán người đó răm rấp tuân lệnh quay trở về căn cứ. Sau đó, tôi chỉ thấy một số ít anh em mặc quân phục trở ra đường cũ, còn đa số tìm đường khác cho an toàn hơn.
Hành động vừa rồi của Th/Tá Hưng đã làm cho những người dân xã Tam Bình lo sợ giùm cho ông, nhưng tôi biết chắc một điều là họ rất kính phục ông. Ðồng thời cũng nhắc chúng tôi nhớ tới Danh Dự của người lính, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải giữ gìn. Ðiều thứ nhất trong 7 Ðiều Giáo Lệnh của QLVNCH mà tất cả chúng ta phải học khi mới bước chân vào quân trường là: Luôn luôn nêu cao DANH DỰ của Quân Ðội. Hy sinh vì DÂN TỘC, TRUNG THÀNH với TỔ QUỐC.
Gần 12 giờ trưa ngày 30 tháng 4/75, một chiếc xe Jeep mui trần của TQLC chạy từ căn cứ Sóng Thần ra ngừng ngay trước chỗ chúng tôi đang ngồi, bước xuống xe là một tên thượng uý vc, hắn mặc bộ đồ màu nâu còn mới tinh, bộ quần áo hơi rộng so với hắn, do đó hắn phải xăn hai ống quần lên tận mắc cá và đi chân đất. Th/Tá Hưng, vị Tr/Tá BB và Ð/U Bùi Bồn bước ra gặp hắn. Hắn tự giới thiệu:
– Tôi thượng uý…(tôi không nhớ tên, nhưng chắc Ð/U Bồn nhớ rất kỹ, vì sau này chính hắn đã chiếm căn nhà của Ð/U Bồn).
Th/Tá Hưng cũng tự giới thiệu:
– Tôi là Th/Tá Hưng, TÐT/TÐ1/TQLC.
Tên vc nói:
– Thôi bây giờ tôi gọi anh bằng anh đi, không gọi cấp bậc nữa được không?
Th/Tá Hưng:
– Bây gìờ anh muốn gọi tôi là gì cũng được, vì chúng tôi là kẻ chiến bại mà!
Hắn tiếp tục hỏi:
– Anh là người chỉ huy căn cứ này phải không?
– Không. Tôi chỉ là TÐT của một TÐ nằm trong căn cứ này thôi.
Hắn yêu cầu Th/Tá Hưng tập họp tất cả binh sĩ trong căn cứ lại.
– Không thể được, vì bây giờ tôi không còn quyền hạn gì nữa. Th/Tá Hưng đáp.
Sau một chút suy nghĩ, Th/Tá Hưng nói tiếp:
– Tuy nhiên tôi có thể dùng tình cảm để làm điều đó. Nhưng sau khi tập họp được họ rồi lấy gì tôi nuôi ăn họ? Anh có thể làm được không?
Tên vc im lặng không trả lời. Sau đó hắn lên xe trở vào căn cứ. Chuyện thật đau lòng và cũng thật là nhục nhã vì tên tài xế cho hắn lại là một ông chuẩn úy già TQLC. Một việc xãy ra trong lúc Th/Tá Hưng đang nói chuyện với tên vc. HS Phước, người mang máy truyền tin cho Ð/U Bồn, vừa khóc, vừa đâm bổ vào tên thượng úy. Th/Tá Hưng thấy vậy, ông vội la lên:
– Ð/U Bồn, anh giữ Phước lại và mang đi chỗ khác cho tôi.
Ð/U Bồn ôm anh lính truyền tin của mình và đưa ra xa. Vị Tr/Tá BB thấy HS Phước khóc và làm dữ quá, ông đi tới vỗ vai Phước và nói:
– Anh biết các em là những người lính có tinh thần cao, nhưng rất tiếc chúng ta không có người lãnh đạo đúng đắn. Anh rất phục các em.
Trở lại chỗ ngồi, Th/Tá Hưng khóc. Ông khóc vì uất hận, ông khóc vì ông đã không làm được những gì ông muốn. Ông khóc vì sự tan rã của QLVNCH. Hạ sĩ Phước tiến lại gần ông mếu máo:
– Ðại Bàng đừng đầu hàng tụi nó. Hãy ra lệnh cho tụi em đánh đi. Tụi em sẽ đánh tới cùng.
Những lời van nài thiết tha của người lính TQLC xin lệnh đánh đã làm mọi người có mặt hôm đó thật xúc động, không ngăn được nước mắt. Th/Tá Hưng không nói gì cả, ông chỉ đưa tay phẩy phẩy (ý muốn nói thôi anh đừng nói nữa. Anh đừng làm tôi điên tiết lên bây giờ). Ông quay sang nói với chúng tôi:
– Thôi bây giờ các anh người nào muốn về với gia đình thì về đi. Riêng tôi, tôi sẽ ở lại đây.
Ông nói với Th/S 1 Rít, ban quân lương TÐ:
– Anh còn giữ một số tiền gì đó, hãy mang ra phát cho mỗi người 50 ngàn đồng để họ làm lộ phí.
Sau khi mọi người nhận tiền, ông bắt tay từ giã vị Tr/Tá BB cùng tất cả sĩ quan tham mưu của ông. Mọi người đi hết rồi, giờ chỉ còn lại ông, Ð/U Bồn, Th/S 1 Rít và tôi. Chúng tôi lại ngồi xuống uống rượu. Từ sáng đến giờ, chúng tôi chưa ai ăn gì cả, nhưng không ai cảm thấy đói. Tôi đề nghị với Th/Tá Hưng:
– Chúng ta nên cởi quân phục và thay đồ dân sự.
Ông nhìn tôi và nói hơi gắt gỏng.
– Việc gì phải thay đồ. Anh sợ hả? Nếu sợ anh cứ việc thay. Tôi thì không.
Thấy ông gắt gỏng như vậy tôi không dám nói gì thêm nữa. Ông không chịu cởi quân phục thì Ð/U Bồn và tôi làm sao cởi bỏ được, đành thôi.
6 giờ chiều ngày 30 tháng 4/75, Th/Tá Hưng nói với tôi:
– Anh có thể lái xe đưa tôi về nhà một chút được không?
Một lần nữa tôi lại đề nghị với ông:
– Trình Ðại Bàng, tôi và Ð/U Bồn lúc nào cũng sẵn sàng, nhưng với điều kiện Ðại Bàng phải thay đồ civil. Nếu không, chúng ta sẽ bị bắn ngay khi ra tới ngã tư Gò Dưa.
Cuối cùng ông đồng ý. Chúng tôi cởi bỏ quân phục vào lúc 6 giờ chiều ngày 30 tháng 4/75. Tôi lái chiếc xe Jeep của ông cùng với Bồn để đưa ông về Sài Gòn. Trên đường đi, chúng tôi nhìn cảnh tượng thật đau lòng! Quần áo lính, súng ống, nón sắt, ba lô vất ngổn ngang đầy đường. Dọc xa lộ Ðại Hàn, dân chúng kéo nhau ra xem tăng vc và cũng để nhìn những tên lính vc. Tôi cho xe chạy từ từ vì đường quá đông người. Tôi hơi yên tâm vì chẳng thấy ai hỏi han gì cả? Nhưng khi xe tới ngã tư Bình Phước thì một toán vc chận lại lấy xe. Th/Tá Hưng nói với Bồn và tôi:
– Thôi các anh quay về đi, tôi đi bộ về Sài Gòn cũng được.
Chúng tôi đứng nghiêm chào ông. Bắt tay chúng tôi, ông nói:
– Sáng mai, tôi trở lên hậu cứ sớm.
Trên đường trở về nhà Bồn, tôi suy nghĩ mãi về câu nói của ông. Ông trở lên hậu cứ để làm gì? Còn gì nữa đâu mà lên? Sự thật tôi không nghĩ ra!
Sáng ngày 1 tháng 5/75, khoảng 8 giờ sáng, giữ đúng lời hứa, ông đã trở lại hậu cứ. Tại phòng khách nhà Ð/U Bồn, ông nói với chúng tôi:
– Theo tôi biết, lính TÐ1 còn kẹt rất đông trong căn cứ, vì những người này không có nhà cửa ở Sài Gòn. Hiện họ đang tá túc trong các trại gia binh, nhất là trại gia binh TÐ1. Vậy chúng ta làm sao để giúp họ? Ða số là không có tiền để về xe, rồi họ lấy gì để ăn trong những ngày này?
Th/Tá Hưng nói với Ð/U Bồn thử vào liên lạc với tên chỉ huy đơn vị vc chiếm đóng trong căn cứ Sóng Thần. Yêu cầu hắn cho mở kho gạo của TTHL TQLC để phân phối cho anh em và gia đình của họ. Nhận lệnh của Th/Tá Hưng, Ð/U Bồn vào căn cứ gặp tên chỉ huy. Bồn còn đe dọa, nếu anh em không có gì ăn chắc sẽ làm bậy. Tên chỉ huy có vẻ hơi run nên hắn đã đồng ý những đề nghị của Th/Tá Hưng do Ð/U Bồn chuyển đạt. Mọi việc ổn thỏa, tôi vào trại gia binh thông báo cho anh em quân nhân TQLC và gia đình. Và mọi người ra tập họp tại sân cờ TÐ1 theo lệnh của Th/Tá Hưng. Chỉ trong vòng không đầy 15 phút, sân cờ TÐ1 đã đầy ấp. Không riêng gì quân nhân TÐ1 mà còn đông anh em ở TÐ khác trong căn cứ Sóng Thần, Bộ Binh, Ðịa Phương Quân. Chúng tôi đã cắt cử người và dùng một xe Dodge để đi lấy gạo về phân phối cho anh em.
Ðây là lần thứ hai mà tôi được chứng kiến nỗi lo lắng của một đơn vị trưởng đối với thuộc cấp. Lần đầu, khi mới về nhận chức TÐT/TÐ1, ông đã tập họp TÐ để nói chuyện. Ông cho họ biết những quyền lợi mà họ được hưởng như: thực phẩm tươi, lương khô, thực phẩm phụ trội cũng như tiền ăn của họ trong thời gian đi phép. Ông đã nói rằng “Nếu những người nào không được hưởng như ông nói thì cứ lên gặp trực tiếp ông. Ông sẽ giải quyết”.
Công việc phân phối gạo cho anh em binh sĩ và gia đình họ trong căn cứ kéo dài được 5 ngày. Sáng ngày 5/5/75, cũng như thường lệ Th/Tá Hưng đang phân phối gạo cho anh em thì một toán du kích xã Tam Bình kéo vào với súng ống đầy đủ. Họ đã chĩa súng vào Th/Tá Hưng và chúng tôi. Họ yêu cầu phải ngưng ngay việc làm này và giải tán khỏi sân cờ TÐ1 (mặc dù có sự đồng ý của tên chỉ huy căn cứ bộ đội vc, nhưng du kích lúc bấy giờ có quyền hành hơn).
Ðứng trước sân cờ TÐ1/TQLC, Th/Tá Hưng chào tạm biệt những thuộc cấp mình. Ông khuyên anh em nên tìm phương tiện để trở về quê quán, ông chúc họ và gia đình gặp nhiều may mắn. Mọi người điều xúc động với những lời nhắn nhủ và lo lắng của ông đối với họ.
Cũng cần mở ngoặc ở đây:
Một tuần trước khi TÐ1 di chuyển từ Biên Hòa về căn cứ Sóng Thần, người anh ruột của Th/Tá Hưng, ông Dương Văn Thịnh đã đến BCH/TÐ/HQ nhắc ông rằng: “Gia đình đang đợi ông về Sài Gòn đi Mỹ, hiện tại không còn tia hy vọng nào cả?” Th/Tá Hưng đã chỉ các quân nhân TÐ và nói:
– Lính tráng của tôi còn đó, tôi bỏ đi thế nào được!
Sau bao nhiêu năm ở tù, cũng chính gia đình người anh này bảo trợ ông sang Mỹ.
Kính chào Ðại Bàng Dương Văn Hưng, vị Tiểu Ðoàn Trưởng cuối cùng của TÐ1 Quái Ðiểu TQLC. Ông thực sự chấm dứt nhiệm vụ của mình vào sáng ngày 5/5/75.
Iowa ngày 5/5/99
Mũ Xanh Nguyễn Minh Châu
 

46. CHIẾC LÁ BAY XA

Tháng ba lại về, trong lúc cuộc chiến giữa Ukraine và Nga đang ở vào thời điểm khốc liệt nhất giữa xâm lược và tự vệ. Cuộc chiến này làm tôi nhớ lại cuộc chiến hai miền Nam-Bắc, được thực hiện bởi nhà cầm quyền Hà Nội. Và hôm nay tôi đăng lại bài này để một lần nữa tưởng niệm và vinh danh những người đã nằm xuống vì tự do. Phục Hưng
 
Phong được nghỉ phép một tuần về thăm mẹ bệnh ở Nha trang. Hôm ấy một buỗi chiều mùa hè, gío biển thổi vào thành phố, nên khí hậu ở đây trở nên êm diu hơn. Ra khỏi phi trường, Phong ngồi xe Lam về nhà. Con đường Độc lập nhộn nhịp xe cộ, hai bên đường phố người đi càng lúc càng tấp nập khi thành phố bắt đầu lên đèn.
Xuống xe Phong đi bộ về, vì nhà Phong chỉ cách vài căn nhà từ đầu con hẻm. Ánh đèn từ chiếc xe Honda ngược chiều làm Phong chóa mắt, anh tránh sang một bên, nhưng không kịp nữa, chiếc xe Honda tránh ổ gà mất thăng bằng đã đâm thẳng vào Phong và hất anh ngã trên mặt đường. Người thanh niên lái xe Honda vội vã đỡ Phong ngồi dậy.
- Xin lỗi anh, tôi bất cẩn quá, anh có sao không?
- Tôi không sao, tai nạn nhỏ thôi, anh đi được rồi.
Người thanh niên đỡ chiếc xe Honda lên và hỏi Phong
- Nhà anh ở đâu, tôi đưa anh về?
- Cảm ơn anh, nhà tôi gần đây thôi, nếu có dịp mình sẽ gặp lại.
Phong không thể ngờ câu từ giã anh vừa nói ra lại là một định mệnh cho cả anh và cho người thanh niên xa lạ kia. Tiếng máy xe Honda xa dần. Phong đưa tay gõ nhẹ cửa. Mọi người trong nhà mừng rỡ khi thấy Phong về, nhất là mẹ Phong, bà ngồi bật dậy như người không hề bị bệnh. Đó là bản năng tự nhiên của người mẹ, bản năng thiên bẩm, luôn quên mình vì con. Đêm đó Phong thấy mẹ ngủ ngon, anh vui mừng tự hứa sẽ về thăm mẹ thường xuyên hơn. Nghĩ tới đây, bất chợt Phong cảm thấy mắt mình cay cay, thương mẹ quá.
Phong mở cửa sổ, ánh nắng đầu ngày ấm áp tràn vào nhà, không khí buổi sáng của thành phố biển làm Phong cảm thấy thoải mái hơn. Anh thấy thèm một ly café. Phong rón rén mở cửa đi bộ ra đầu con hẻm. Quán café bình dân của bác Tâm đã mở cửa từ lúc bốn giờ sáng. Các anh xich lô ngồi tán đủ thứ chuyện trên đời. Sôi nổi nhất là câu chuyện hoà đàm Paris, giành dân lấn đất. Bác Tâm ngạc nhiên khi nhìn thấy Phong.
- Con về hồi nào?
- Con về tối qua, thưa bác, bác khỏe không?
Bác Tâm đưa ly café cho Phong vừa mỉm cười vừa nói:
- Bác là chứng nhân của cái thành phố này, không khoẻ làm sao được.
- À, mẹ con ra sao rồi?
- Thưa bác mẹ con khoẻ lại rồi, cảm ơn bác.
Bác Tâm hạ thấp giọng:
- Thời buổi chiến tranh người mẹ nào không lo buồn cho những đứa con đang lao mình ngoài mặt trận. Con được về thăm mẹ là bác mừng cho gia đình con còn có ngày mẹ con đoàn tụ. Cứ như bác đây, từ ngày anh Thân của con bỏ mình ở hạ Lào, bác như con ngựa gìa cô đơn trên con đường vắng. Nếu không có mấy chú xích lô hằng ngày tới lui trò chuyện, bác nghĩ làm sao bác có thể sống nổi cho đến ngày hôm nay.
Phong chào bác Tâm quay về vừa tới nhà, anh nhìn thấy người thanh niên lái chiếc xe Honda tối qua chờ Phong trước cửa. Người thanh niên tên Phương, nhà anh ta ở đường Võ Tánh. Phong cũng giới thiệu tên mình, hai người chỉ nói với nhau vài câu, Phương rồ máy xe Honda mất hút cuối con hẻm, chỉ để lại môt lớp bụi mờ.
Phong vào nhà cho mẹ ăn cháo và uống thuốc. Mẹ Phong hôm nay trông rất tươi khỏe. Bà dặn Phong:
- Con có ra ngoài nhớ mua cho mẹ ít trái cây để mẹ tạ ơn ông bà tổ tiên.
Phong vào thay quần áo đi đến chỗ hẹn với Phương. Hôm nay trời đẹp quá, nắng trải dài trên con đường Duy Tân, nắng đong đưa trên những cành dương liễu, nắng nhẹ nhàng vuốt ve những con sóng trườn mình trên bãi cát mịn, và nắng đưa Phong về với những kỷ niệm thời ấu thơ.
Gia đình Phong về sống nơi thành phố biển này từ ngày chia đôi đất nước. Cũng giống như hàng triệu người dân miền Bắc đã phải rời xa quê cha đất tổ vào Nam tìm tự do. Cuộc sống yên bình ở miền Nam chưa được bao lâu, chiến tranh lại bắt đầu. Núp dưới chiêu bài ‘Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam”, Hà nội đã xua quân vào Nam cho tham vọng đỏ hóa vùng Đông Nam Á, bất chấp sinh mạng người dân hai miền Nam Bắc, bất chấp miền Bắc phải gánh đạn bom của Mỹ, thanh thiếu niên miền Bắc phải chịu cảnh sinh Bắc tử Nam và dân miền Nam đã bị họ tiêu diệt hàng loạt bằng trăm ngàn loại súng đạn Nga-Tàu, qua các biến cố Tết Mậu Thân 1968, Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 và chiến cuộc tiếp diễn ngày đêm đau thương ngút ngàn vô tận.
Phong gặp Phương, hai người bắt tay nhau, họ thả bộ dài theo bờ biển nơi những con dã tràng bị sóng đuổi chui vội vào những hang sâu bỏ lại phía sau chúng những bong bóng nước, và dấu chân hai người bị phả bằng bỡi những làn sóng đua nhau trườn mình trên bờ cát trắng. Tuy mới quen, nhưng hai người rất tâm đắc, bỡi vì hai người họ đều là lính pháo binh. Phương là Trung úy pháo binh sư đoàn 23 Bộ Binh, còn Phong là Trung úy pháo binh 175 chiến thuật Quân Đoàn II. Đơn vị họ đều đóng quân ở gần căn cứ Hàm Rồng Pleiku. Họ trở thành đôi bạn thân sau vài giờ trò chuyện.
Phương về phép dự tiệc mừng cô em gái anh ta vừa tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Sài gòn và được về dạy tại trường trung học Võ Tánh Nha trang vào đầu niên học năm nay. Phương ngỏ ý mời Phong tối mai ghé nhà chung vui với gia đình anh ta. Không dám hứa trước, Phong bảo:
- Nếu không gì trở ngại tối mai tôi sẽ đến.
Hai người tiếp tục trò chuyện, vài phút sau họ chia tay nhau.
Khách tham dự tiệc mừng hầu hết là bạn thân của Vân em gái Phương. Họ vui vẻ hồn nhiên như những cô cậu học trò trung học ngày nào. Chỉ có Phương và Phong có vẻ già dặn hơn, mặc dù họ không chênh lệch tuổi tác nhau mấy. Một vài cô tinh nghịch tìm cách chọc hai ông lính trẻ, làm cho Phương và Phong càng lúng túng hơn. Phong nhìn tổng quát tất cả những cô gái, chỉ có Vân, em gái Phương là người ăn khách nhất. Nàng có thân hình cân đối, khuôn mặt chữ điền đẹp nhẹ nhàng phúc hậu, đường mũi thẳng, đôi mắt và nụ cười chứa đựng cả một trời thơ. Qua ý nghĩ, Phong mỉm cười một mình, khe khẽ đọc mấy câu thơ:
Em cười như nắng sớm
Như nụ hồng ngất ngây
Ấm nồng hơn men rượu
Ngây ngất lòng ta say
Phương và Phong trở lại đơn vị cùng ngày. Hôm đó Vân cùng một cô bạn tiễn hai người ở phi trường Nha trang. Họ nhìn nhau không nói một lời. Cho đến khi máy bay cất cánh. Hai cô gái quay về, Vân thẩn thờ chậm bước và nghe có chút hoang vắng trong lòng.
Phong về tới doanh trại lập tức viết thư về nhà ngay, nhưng địa chỉ thư đến ngoài phong bì không phải nhà mình mà là nhà của Vân. Phong nghĩ thế nào Vân cũng sẽ mang thư đến cho mẹ anh. Đây là cách giới thiệu gián tiếp Vân với mẹ mình, và để hai người có dịp gặp gỡ quen biết nhau.
Đúng như anh dự đoán, hai tuần sau Phong nhận được thư nhà, trong thư mẹ Phong rất ưng ý cô gái tên Vân và bà ước ao Vân sẽ trở thành đứa con dâu quí mến của gia đình họ Phạm. Phong và Vân tiếp tục thư thăm hỏi nhau, dần dần những bức thư thăm hỏi kia biến thành những bức thư tình đầy thương nhớ.
Lần về phép thứ nhì, hai người hò hẹn quấn quít bên nhau. Lần phép thứ ba họ đính hôn và đầu năm 1975 họ tổ chức đám cưới, đám cưới đầu xuân. Mẹ Phong vui mừng hơn bao giờ hết vì bà có được đứa con dâu vừa ý. Phong và Vân thì khỏi nói, họ vui vẻ hạnh phúc bên nhau giống như cõi đời này chỉ dành cho hai người họ.
Ngày vui nào cũng qua mau, khi Phong trở về đơn vị thì cuộc chiến bắt đầu khốc liệt. Phong đau buồn nhận được tin một số bạn bè cùng khóa VBQG Đà Lạt đã anh dũng hy sinh trên khắp các chiến trường.
Căn cứ hỏa lực của Phong cũng bị địch pháo kích nhiều lần. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II bắt đầu đưa ra những kế hoạch nhằm thích nghi với tình hình chiến sự mới. Đơn vị pháo binh 175 của Phong ngày đêm tác xạ vào những tữ giác điều quân cấp sư đoàn của địch. Nhiều Liên đoàn Biệt Động Quân Tổng Trừ Bị được tăng phái đến Kontum và Pleiku. Một lữ đoàn Dù sẽ được điều động đến Đơn Dương phía Đông Ban Mê Thuột.
Nhiều sư đoàn quân chính qui Bắc Việt đang mở những mũi tiến quân cấp tập. Sư đoàn 320 của địch xuất hiện ở Thuận mẫn, một vị trí chiến lược, vì từ đây địch có thể cắt đứt Quốc Lộ 14, cô lập và tiến chiếm Ban Mê Thuột. Nhiều đơn vị cấp trung đoàn của địch mở mặt trận nghi binh và cầm chân Sư đoàn 22 Bộ Binh ta ở đèo An Khê, trên Quốc lộ 19 nối liền Pleiku –Qui Nhơn phía tây tỉnh Bình Định. Đồng thời địch dàn quân trên tỉnh lộ 7B để đánh chận đại quân triệt thoái của Quân Đoàn II về Phú Bổn và Phú Yên.
Tất cả những diễn tiến xảy ra gần như dự đoán của Phòng 2 Quân Đoàn và một số Sĩ Quan chỉ huy mặt trận thuộc Quân Đoàn II. Nhưng nội bộ ta bắt đầu bất ổn, làm cho cao nguyên bị rơi vào tay địch một cách tức tưởi.
Phong theo đơn vị di tản đến Phú Bổn, anh bị thương nhẹ, rồi bị địch bắt làm tù binh tại trại tạm giam Tống Binh tháng 3 năm 1975.
Phong và một số anh em bị nhiễm bệnh sốt ác tính, đã gục ngã giữa cảnh tù đày rừng đen nước độc.
Mấy tuần sau vợ Phong đến thăm, hai người bạn cùng khóa đã đưa Vân đến bên phần mộ chồng. Nàng ngất lịm vì qúa đau thương. Trong cơn mê bất tỉnh Vân đã nhìn thấy Phong vẫy tay và từ từ rời xa nàng.
Khi tỉnh dậy, trong lòng bàn tay Vân tấm thẻ bài và những giọt nước mắt. Vân ôm vào lòng kỷ vật yêu thương của người chồng vắn số và nghe đâu đây tiếng Phong từ trong gió vọng về:
 
Khi em đến anh không còn nữa
Người yêu ơi dịu bớt cơn đau
Tấm thẻ bài anh xin gửi lại
Kỷ vật cho em hẹn kiếp sau
Mộ phần anh bên bờ con suối
Cổ quan tài những chiếc lá rừng
Tấm mộ bia một cành cây gãy
Hai thằng cùng khóa mắt rưng rưng
Anh sung sướng chết trên tay bạn
Anh đau buồn vận nước đảo điên
Anh thương em giờ thành góa phụ
Giữa cảnh đời đen tối triền miên
Thôi vĩnh biệt nhau em phải sống
Đau thương nào rồi cũng phôi pha
Tình son sắc nhưng tình không vẹn
Anh giờ như chiếc lá bay xa

Vân đưa mắt nhìn cảnh rừng núi bao quanh trùng điệp, nơi có những chiếc lá âm thầm lìa cành, và một chiếc lá bị gió cuốn bay đi càng lúc càng xa…


47. Cuộc Gặp Gỡ Kỳ Diệu
(Taberd75 (FB Victor Đoàn) - Tango Bui chuyển)
 
 
 
 LGT: Bài viết vô cùng cảm động sau đây của quả phụ một sĩ quan QLVNCH, kể về một mối tình có thật thời chiến tranh Việt Nam giữa chị ruột của tác giả với một người lính Mỹ, đã hy sinh trong cuộc chiến. Hơn ba mươi năm sau, tưởng nhớ công ơn người anh rể đã hy sinh cho quê hương, tác giả ghé thăm bức tường đá đen ghi danh 58,000 tử sĩ Mỹ trong chiến tranh Việt Nam… Không ngờ, tại đây, bà tình cờ gặp bố mẹ của người anh rể cũng đến viếng thăm con, và qua câu chuyện, tác giả đã giúp ông bà nội người Mỹ tìm thấy người con dâu Việt và đứa cháu nội chưa từng biết mặt…. Trong niềm bồi hồi xúc động đến rưng rưng lệ khi đọc, chắc chắn quý độc giả không thể không biết ơn những người lính VNCH, Mỹ, Úc… đã đổ máu bảo vệ Miền Nam trước làn sóng xâm lăng của cộng sản trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam….


 Tháng tư thường cho tôi nhiều nỗi buồn và nhớ. Buồn vì từ đó ta làm thân mất nước không nhà và nhớ vì trước đó có quá nhiều kỷ niệm không bao giờ còn tìm lại được. Giữa lúc lòng tôi đang chơi vơi thì chị bạn rủ theo đoàn người về thủ đô Hoa thịnh Đốn để coi hoa Anh Đào nở và nhất là đi thăm bức tường đá đen, ghi lại tên tuổi của hơn năm mươi tám ngàn tử sĩ Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, đã bỏ mình để bảo vệ tự do của miền Nam xưa. Với tôi đó là một dịp may đến thật tình cờ.

Tôi vẫn thường nghe nói về vườn hoa Anh Đào mà vương quốc Nhật tặng cho nhân dân Mỹ khi xưa ở thủ đô, đang khoe sắc mỗi độ xuân về. Thật như thỏa tấm lòng vì cả hai, được nhìn những cành hoa mà cả một thời tuổi trẻ ước mơ và đến tận nơi bức tường đá đen để tìm tên một người đã là điều tôi mong muốn từ lâu. Thế nên tôi thu xếp hành trang vội vã đi ngay. Hơn hai mươi bốn giờ ngồi trên xe theo nhóm người du ngoạn đã đưa tôi từ miền Texas xa xôi về tới thủ đô. Con đường Ohio chạy dọc theo bờ sông Potomac hoa Anh đào đã nở rực rỡ một màu hồng phơn phớt trắng. Hơi lạnh đầy trong không khí của một mùa đông dài còn sót lại, vương qua mùa xuân, đọng trên những cánh hoa dọc theo con đường Constitution dẫn đến bức tường đá đen nằm kia, trầm mặc u buồn.

Tháng Tư, hoa đã nở từ lâu. Xác hoa rơi lả tả làm hồng cả một khoảng không gian quanh những con đường chạy dọc theo công viên. Hoa Anh Đào thật đây rồi, những cánh hoa mà tươi xinh ngày xưa tôi chỉ được nhìn thấy trong phim ảnh rồi thầm cảm mến những kiếm sĩ của xứ Phù tang, cô đơn vung đường gươm, để hoa rơi trong tuyết lạnh, thì hôm nay đang rực rỡ khoe sắc trước mắt tôi đây. Tôi tách ra khỏi nhóm người đi bộ một mình dưới những tàn cây. Tôi vẫn thích đưọc đi một mình để nhớ về những ngày tháng đã dần qua.

Ngày xưa chưa mất miền Nam gia đình tôi đã có một cuộc sống ấm êm hạnh phúc. Chồng tôi, một người lính trận, mỗi lần về phép thường hay cùng đi với một quân nhân Mỹ, cố vấn trong đơn vị. Hai người cùng làm việc, cùng chung sở thích và ý nguyện nên rất thân nhau.

Thuở ấy tôi không biết nhiều về đất Mỹ như bây giờ nhưng qua lời anh diễn tả, cũng đủ hiểu rằng người lính Mỹ ấy đến từ một vùng quê xa xôi miền trung bắc Hoa Kỳ. Ngoài cái vẻ bên ngoài rất tài tử, râu ria xồm xoàm vì những ngày tháng lăn lóc trong chiến trận chưa kịp cắt tiả thì Mike Wright thật nhân hậu và hiền lành. Tôi cũng ngạc nhiên với tấm lòng rộng lượng hồn nhiên của người Mỹ. Họ đã mang biết bao nhiêu tài sản, cả sinh mạng khi đến giúp đất nước tôi, hòa nhập vào đời sống người dân bản xứ, tươi vui trong cuộc sống. Bởi thế, anh chàng râu ria xồm xoàm Mike chiếm được cảm tình của gia đình, nhất là bà chị lớn chưa chồng của chúng tôi ngay. Chuyện tình của một người lính viễn chinh từ một đất nước xa xôi với người con gái Việt Nam còn nguyên nề nếp gia phong diễn ra thật êm đềm hạnh phúc với một đám cưới đậm chất phương Đông. Chị tôi khăn đóng, áo dài bên cạnh anh Mike cũng áo dài khăn đóng. Trông họ cũng thật vừa đôi.

Từ đó tôi không còn cô đơn trông ngóng hằng đêm mà có cả chị tôi là kẻ đồng tình, đồng cảnh. Chúng tôi đã có những ngày đợi chờ trong lo lắng, đã có những ngày đoàn viên trong hạnh phúc. Những tháng tươi vui của một thời son trẻ tưởng như không bao giờ dứt cho đến một ngày kia. Tôi không quên được cái ngày người chỉ huy hậu cứ tiểu đoàn đích thân đến báo cho tôi biết là chồng tôi và đơn vị của chàng không về nữa. Cả người cố vấn Mỹ dễ thương đang là anh rể của tôi cũng cùng chung số phận. Một đơn vị oai hùng, thiện chiến, tưởng như là không bao giờ thua trận đã nằm lại đâu đó trên vùng đất Hạ Lào của mùa hè khói lửa. Tôi và người chị, ngày ấy thực sự bị cuốn vào những cơn ác mộng, nhất là khi chị tôi biết được rằng mình vừa khó ở, chưa thông báo cho Mike biết về đứa con vừa thành hình trong bụng chị

Sau khi miền Nam lọt vào tay phương Bắc là một quãng đời địa ngục trần gian đến với chúng tôi. Nhất là chị với đứa con lai đã hứng chịu trăm đắng ngàn cay bởi vì sự dè bỉu, khinh khi cũng như phân biệt đối xử của người cai trị mới. Chị tôi bị hành hạ, bị lăng nhục, bị đe dọa đưa vào cái trại gọi là phục hồi nhân phẩm mà thực chất là tước đoạt hết nhân phẩm con người. Chịu đựng bao nhiêu đắng cay khổ sở nhưng chị tôi vẫn cắn răng làm việc nuôi dạy con khôn lớn nên người. Có một điều làm tôi lạ lùng là tình yêu của chị dành cho anh hơn hẳn những thường tình. Chị luôn nhắc tới anh với những lời yêu thương trang trọng, với sự bùi ngùi thương tiếc của một người góa phụ tưởng nhớ thương chồng. Chị không đòi hỏi gì ở anh cũng như đất nước anh. Khi chương trình tái định cư những người con lai bắt đầu, tôi cũng tưởng chị vui sướng lắm. Nhưng không, chị từ chối ra đi chỉ vì còn nặng lòng với mảnh đất được sinh ra và đứa cháu tôi cũng vui vẻ vâng theo lời mẹ. Tôi không giống và cũng không chịu đựng được như chị. Tôi chọn ra đi để đưa các con tôi về với tự do. Khi con thuyền mong manh đưa chúng tôi ra biển, tôi đã thầm cầu nguyện ơn trên cho chúng tôi vượt sóng được bình an. Tôi đã chọn tự do hay là chết và chân thành cầu xin đó là một sự chọn lựa đúng đắn và may mắn nhất trong đời….

Cứ mải suy nghĩ và đi theo con đường hoa, tôi đến trước bức tường đá đen tự bao giờ. Con đường dần xuống thấp để những dòng tên trắng hiện ra. Một cặp vợ chồng người Mỹ trắng đã già lắm, run rẩy dắt tay nhau bước lên bực thang. Mắt người đàn bà còn ướt đỏ. Tôi đoán rằng bà vừa mới khóc.
Gặp nhau trên bực thang đầu tiên, tôi vui vẻ chào hai người rồi hỏi lớn:
– Ông bà từ đâu tới.
– Chúng tôi từ Ohio, còn cô.
– Thưa ông bà tôi từ Texas.

Người đàn ông râu dài nhưng cắt tỉa gọn gàng, dáng vẻ hiền từ thân thiện. Ông ta mỉm cười hỏi lại.
– Tôi muốn hỏi cô người nước nào. Phi, Tàu, Nhật hay Thái lan.
– Thưa ông tôi là người Việt Nam.

Bỗng nhiên tôi thấy gương mặt người đàn bà dường như đổi sắc. Hình như một sự giận dữ bất ngờ chợt làm bà ta vùng vằng cố bước lên bậc thang ngắn tiến về phía trước. Tôi ngạc nhiên nhìn ông già chờ đợi một lời giải thích về cử chỉ bất thường của bà. Chắc có một điều gì không ổn vì tôi biết đa số người Mỹ thường lịch sự, ít ai bày tỏ ngay những điều khó chịu trong lòng. Như đoán được ý nghĩ của tôi ông buồn rầu giải thích.
– Cô đừng buồn với thái độ của vợ tôi. Bà ấy đang buồn rầu. Chúng tôi mất đứa con trai duy nhất ở Việt Nam, nên mỗi khi thấy người Việt Nam vợ tôi lại xúc động, không ngăn được cảm xúc nên có những cử chỉ bất thường.

Tôi nhìn bà già đã ngồi xuống chiếc ghế đá bên lối đi, đang run rẩy cố chống hai tay lên đùi, mắt vô hồn nhìn vào quãng không gian phía trước. Nếu tôi mất con cho một cái xứ sở xa lạ nào chắc gì tôi còn giữ được bình tĩnh như bà. Lòng tôi rạt rào niềm thương xót để nói với ông rằng tôi thông cảm tâm tình của những bà mẹ mất con cho một dân tộc họ không hề mảy may biết tới.
Trong lúc xúc động tôi cũng nói với ông là chính tôi và gia đình tôi cũng mất mát rất nhiều trong cuộc chiến chống cộng sản xâm lăng đó. Và đau đớn hơn thế nữa, chúng tôi đã mất cả quê hương, tổ quốc. Ông già Mỹ luôn luôn lập đi lập lại rằng tôi biết, chúng tôi biết, rồi xin phép tôi chạy đến săn sóc cho bà đã ngồi xuống ghế đá cách đó không xa lắm. Ông nói lớn, chào từ giã khi tôi đi lần xuống phía dưới để dò tìm những hàng chữ mang tên người anh rể ngoại chủng năm xưa đã nằm xuống ở Việt Nam.
Tôi biết vần W sẽ nằm ở hàng cuối cùng nhưng cũng mất một lúc lâu mới tìm thấy cái tên Mikes Wright, tên người anh rể tôi năm kia, khiêm nhường giữa tên của bao nhiêu người. Nhỏ bé và đơn giản trong một không gian bao la, nhưng thật hào hùng độ lượng như cuộc đời anh và đất nước đang cưu mang chúng tôi đây.
Tôi lặng chìm trong những giấc mơ xưa về một gia đình hạnh phúc mà nhớ đến chồng tôi. Tên của Mikes người ta còn nhớ chứ tên của chồng tôi kẻ thù đã xóa đi. Ngay cả miếng đất nhỏ bé mà chồng tôi an nghỉ người ta cũng đang toan tính cướp mất của anh. Tôi nhớ đến nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Nhớ đến giây phút vật vã khóc lóc nhìn thi hài anh được gắn lon giữa hai hàng nến. Nhớ đến những khuôn mặt lầm lỳ, chai sạn vì gió bụi của những người lính bồng súng chào chồng tôi lần cuối khi đưa chàng về với đất mẹ năm xưa.
Giữa lúc lặng yên tưởng nhớ thì mấy bà bạn tôi xuất hiện. Các bà gọi la tên tôi ơi ới, trách tôi xé lẻ tìm vui một mình. Cả bọn trầm trồ, chỉ trỏ reo vui với những cái tên lạ, nói cười vui vẻ như không cần biết gì về những niềm đau. Ôi nhân thế thường mau quên để sống, chỉ có mình tôi hay đi ngược thời gian về những dòng sông cũ. Chúng tôi lại rủ nhau đi thăm viện bảo tàng không gian gần đó. Một đoàn người vừa đi vừa cười, vừa hỏi thăm đường rộn vui lên góc phố. Ở đây người ta quen mắt với những cái lố lăng của du khách từ khắp mọi miền trên thế giới nên chẳng thấy phiền hà.

Đến trưa lúc sắp ra về tôi lại gặp cặp vợ chồng người Mỹ ban sáng. Lạ một điều là tôi thấy ông già có nét gì rất quen. Lần này bà có vẻ vui hơn, mỉm cười khi tôi chào gặp lại. Chắc ông đã giải thích cho bà biết rằng ai cũng có những nỗi buồn, những mất mát khác nhau chứ không phải riêng bà. Chúng tôi đứng ngoài hành lang nói chuyện. Ông bà cho tôi biết sẽ về lại Ohio chiều mai, một nông trại xa xôi nằm sát biên giới tiểu bang Indiana. Ông nói thế nhưng tôi chẳng hình dung được gì ngoài những con số mà tôi đoán rằng đất đai chắc là rộng lớn. Tôi cũng cho ông biết chúng tôi còn ở đây thêm vài ngày, đi thăm một vài nơi nữa rồi chào từ giã theo dòng người thăm viếng.
Buổi sáng hôm sau tôi có thói quen thức dậy thật sớm trong lúc mọi người còn say trong giấc ngủ. Tôi mở cửa bước ra ngoài, đi bộ theo con đường Ohio dọc theo bờ sông, rồi tình cờ bước dần về phía bức tường đá đen. Trời còn sớm quá nhưng tôi thấy dưới chân bức tường thấp thoáng bóng người. Bước tới gần hơn tôi bất ngờ nhận ra ông bà già Mỹ hôm qua đang ở đó tự bao giờ. Bà ngồi hẳn xuống đưa tay sờ lên những hàng tên như vuốt ve một vật gì quý giá.
Gặp lại nhau tôi lên tiếng:
– Chào ông bà. Ông bà ra đây sớm quá. Tôi cứ tưởng chỉ mình tôi đi bộ trong khu này…
Ông ôn tồn giải thích:
– Chiều nay chúng tôi trở về lại Ohio rồi nên thu xếp thời gian thăm lại nơi đây lần nữa. 


 Bà vẫn không nói, đưa tay sờ lên phiến đá. Tôi chắc bà thương yêu người con và đau đớn lắm khi nhìn lên hàng chữ có tên con mình. Mắt tôi tò mò nhìn theo và ngạc nhiên thấy tay bà đang đặt trên hàng chữ của vần W. Như có một linh tính báo trước chuyện lạ lùng tôi buột miệng hỏi ông:
– Con trai của ông bà tên là gì nhỉ. Anh ấy mất ở Việt nam năm nào?
– Con trai tôi tên là Mikes Wright, tử trận ở Việt nam năm 1972. Tên nó đây, ngay đây này…

Vừa nói ông vừa chỉ về phía tay bà đang xoa xoa che khuất cái tên mà trước đây tôi đã đặt tay vào. Chính đó là tên anh rể của tôi. Cha của đứa cháu mồ côi mà chị tôi yêu quý như báu vật của cuộc đời mình. Tôi đứng lặng người nhìn ông rồi lại nhìn bà. Sao cuộc đời lại có sự tình cờ kỳ diệu đến thế này. Để chắc chắn mình không nằm mơ tôi hỏi lại những chi tiết rất chung chung mà tôi còn nhớ về anh.
– Anh Mikes của ông bà rất nhiều râu và vui tính lắm phải không.
– Cô nói gì tôi không hiểu. Dĩ nhiên ngày ấy Mikes còn trẻ lắm nên râu ria mọc là thường.

Tôi nhìn lại ông và mơ hồ thấy nét quen thuộc mà tôi chợt khám phá ra hôm qua, là ông trông rất giống Mikes ở cái cằm vuông vức và bộ râu rậm dài. Ông già bùi ngùi nói tiếp.
– Vợ tôi buồn một điều là đáng lẽ ra Mikes đã hết hạn phục vụ ở Việt nam trở về Mỹ nhưng vì yêu thương một người con gái bản xứ nên tình nguyện phục vụ thêm một thời hạn nữa và cái thời hạn đó không bao giờ chấm dứt…
– Thế ông bà có biết tin tức gì về người con gái ấy không.
– Mikes có gởi cho chúng tôi một tấm hình, thông báo là đã thành hôn. Lâu quá rồi nhưng chúng tôi còn giữ tấm hình ấy trong tập ảnh gia đình ở Ohio. Chỉ có thế mà thôi.

Tôi muốn nói với ông chính tôi là em người con gái Việt Nam ấy nhưng sợ rằng mình nhận lầm, vì biết đâu có một anh Mikes nào khác nữa nên chỉ nói với ông:
– Hơn ba mươi năm trước đây tôi cũng có một người anh rể tên là Mikes Wright, quê quán ở miền trung bắc Mỹ. Tôi chỉ biết thế không biết có phải là anh Mikes con của ông bà không. Tôi từ Texas lên đây chơi nhưng chính là để nhìn thấy tên anh Mikes Wright một lần trên tấm bia đá này.

Ông mở mắt nhìn tôi kinh ngạc rồi kéo bà lên, nói với bà tin tức quan trọng đó. Ông luống cuống, mời tôi ngồi xuống tấm ghế đá trong khi bà cứ há miệng ra thẫn thờ chờ đợi. Rồi ông dồn dập hỏi.
– Tôi chắc là đúng rồi. Đấy cô coi có cái tên Mikes Wright nào khác đâu. Thế chị cô bây giờ ở đâu. Tôi muốn hỏi thăm tin tức về Mikes trong những ngày cuối cùng.
– Thưa ông bà, chị tôi vẫn còn ở Việt Nam. Chắc rằng chị tôi cũng chẳng biết gì hơn ông bà.

Như chính tôi đây chẳng biết gì hơn tin tức cuối cùng của chồng tôi và Mikes. Đầu tiên người ta chỉ thông báo cho chúng tôi là hai người đã mất tích sau một đợt tấn công của địch và cả tuần lễ sau mới tìm thấy xác mang về.
– Thế thì đúng như cô nói, chắc đúng là Mikes rồi. Khi chúng tôi đến nhận xác Mikes thì đã không mở ra được nữa vì những điều kiện vệ sinh.
– Nhưng tôi có một tin quan trọng về anh Mikes, không biết ông bà có muốn nghe không?
– Tin gì vậy, thưa cô. Chúng tôi không còn gì trên đời này ngoài hình ảnh của Mikes và những gì liên quan đến đứa con yêu thương của chúng tôi.
– Chị tôi có một người con với anh Mikes. Chính anh Mikes cũng không biết vì lúc vừa mới có thai, chưa kịp thông báo thì anh Mikes và chồng tôi đã không về nữa.

Ông bà liên tục kêu lên những lời thống thiết, không rõ là lời đau khổ hay mừng vui.
– Chúa ơi, thật thế sao! Chúa ơi! Chúa ơi!
– Thật thế thưa ông bà. Cháu giống Mikes lắm. Nếu ông bà thấy cháu là nhận ra ngay thôi.
– Thế bây giờ cháu ở đâu thưa cô.
– Cháu vẫn còn ở Việt nam. Vì thương mẹ nên cháu không về Mỹ theo chính sách trở về quê cha của những đứa con lai.

Tôi và ông bà Wright cùng bước đi như trong cơn mơ vì sự gặp gỡ bất ngờ. Tôi cho ông bà địa chỉ, số điện thoại của tôi và nhận lại địa chỉ số điện thoại của ông bà ở Ohio để tiện bề liên lạc. Những thông tin ban đầu mặc dù đã chính xác, nhưng tôi muốn biết chắc tấm ảnh ngày xưa có phải là của chị tôi hay không.

Chiều hôm đó ông bà Wright về lại Ohio. Tôi đoán ông bà vui vẻ lắm. Mất một đứa con cho cái xứ Việt Nam xa xôi nhưng ông bà sẽ được nhận lại một đứa cháu ngoan ngoãn và đứa con dâu còn giữ đúng truyền thống Việt Nam. Tôi biết chị tôi là một người đàn bà Việt Nam hiền thục. Tôi đã đoán không sai vì ba hôm sau khi tôi còn ở khách sạn thì tiếng điện thoại lại reo. Lần này ông bà Wright theo xe trở lên, mang cả gia đình đứa con gái gồm con rể và hai đứa cháu. Họ lái một chiếc xe van lớn mang theo cả tấm ảnh ngày xưa.
Gặp nhau tại công viên ông bà đưa tôi tấm ảnh và giải thích:
– Vội quá nên chúng tôi không book được vé máy bay. Vả lại Nathalie, em gái của Mikes và chồng con nó ở gần đó cũng muốn đi nên chúng tôi lái xe cho tiện.

Tấm ảnh chụp cách đây hơn ba mươi năm giờ đã ố vàng. Màu sắc phai theo thời gian nhưng vẫn còn sắc nét. Tôi cầm tấm ảnh như đưa tay chạm vào một phần quá khứ xa xăm. Trong ảnh, chị tôi người con dâu đất Mỹ, e ấp đứng bên người chồng râu ria xồm xoàm, đang đưa cánh tay khỏe mạnh ôm vòng lấy người con gái như ôm ấp chính cuộc đời cô.
– Đúng là chị tôi rồi.

Ông bà Wright mừng vui như mở hội. Bà như trẻ trung hẳn lên. Bao nhiêu bệnh tật gần như tan biến. Mấy người đi theo cũng lộ nét mừng vui hớn hở.
Bà hỏi tôi những chuyến bay về Việt Nam với những dự định đi thăm viếng đứa cháu, con của người con tưởng như đã mất, bỗng dưng còn để lại trong cuộc đời này cả một phần huyết nhục. Tôi thưa với ông bà rằng tôi đã nói chuyện với chị tôi qua điện thoại. Chị cũng rất vui mừng về sự gặp gỡ này. Chị sẵn sàng cho cháu về quê nội cũng như chính chị sẵn sàng về làm dâu ông bà, chăm sóc cho ông bà trong lúc tuổi già đúng như truyền thống của người Việt Nam. Tôi đã biết tình yêu của chị dành cho Mikes nên không ngạc nhiên với quyết định này. Ông bà chăm chú nghe tôi giải thích phong tục Việt Nam là người vợ phải làm dâu phụng dưỡng cha mẹ chồng. Ông kêu Chúa ôi liên tục sau mỗi câu nói làm tôi có cảm tưởng như đang kể cho ông bà nghe về chuyện phong thần, nhưng tôi biết bây giờ đối với ông bà, đất trời là cả một mùa xuân.

Sau đó một thời gian dài, tôi lại bận bịu vì phải lo lắng dẫn ông bà Wright về lại Việt Nam. Bận bịu nhưng lòng tôi sung sướng. Tôi không giấu được xúc động khi nhìn thấy ông bà lần đầu tiên gặp lại đứa cháu nội sau hơn ba mươi năm thương nhớ người con đã khuất. Ông bà cứ kêu lên những lời vui mừng vang một góc sân và làm ngạc nhiên những người hàng xóm Việt Nam vốn không thiếu sự tò mò.
– Oh my God! He just looks like his father! Oh my God!

Bây giờ chị tôi, một người con gái Việt Nam về làm dâu muộn màng trên đất Mỹ, đang thay cha mẹ chồng cai quản một nông trại trồng bắp ở Ohio với đứa con duy nhất của một cuộc tình nở vội trong cuộc chiến Việt Nam.
Taberd75 (FB Victor Đoàn)
***

48. 39 năm nhìn lại
Ngô Đình Châu (fb Meo Hoang)
Anh ạ! tháng tư mềm nắng lụa
Hoa táo hoa lê nở trắng vườn
Quê nhà thăm thẳm sau trùng núi
Em mở lòng xem lại vết thương
Anh ạ! tháng tư sương mỏng lắm
Sao em nhìn mãi chẳng thấy quê
Hay sương thành lệ tra vào mắt
Mờ khuất trong em mọi nẻo về.


Đọc bài thơ này của Nhà thơ Trần Mộng Tú, trong lòng tôi chợt cảm thấy bàng hoàng. Đã bao lần tháng Tư trôi qua, bao nhiêu nước đã qua cầu, nhưng vết thương trong lòng tôi vẫn còn âm ỉ, tôi nghĩ nó sẽ chẳng bao giờ lành cho tới ngày tôi nhắm mắt.
Thời ấy, đám sĩ quan trẻ chúng tôi chỉ mới ngoài 20, đến nay đầu đã chớm bạc, "cùng một lứa, bên trời lận đận", sau cơn Đại hồng thủy tháng tư năm 1975, lũ chúng tôi tản mác khắp bốn phương trời: "... thằng thì đang còng lưng trong các shop may tại Santa Ana, thằng đang làm bồi bàn ở Paris, thằng đang chăn cừu ở New Zealand, có thằng đang cắt cỏ ở Texas, và cũng có thằng đang đạp xích lô ở Sài Gòn..." (trích). Mỗi năm đến ngày 30-4, tất cả chúng tôi đều bần thần ngơ ngác như kẻ mất hồn. Không còn ai trách cứ chúng tôi hết, chỉ có chúng tôi tự trách mình. Chúng tôi đã làm được gì cho Tổ Quốc?
Trước năm 1975, tôi là người lính trong Quân đội Miền Nam, với cấp bậc Sĩ quan thấp nhất là Thiếu úy, với chức vụ nhỏ nhất là Trung đội trưởng. Ngoài số lương đủ sống mà tôi được lãnh hàng tháng, tôi không hề nhận được bất cứ bổng lộc nào từ phía "triều đình". Tôi chỉ là một người lính vô danh tầm thường như trăm ngàn người lính khác, ngoài cuộc sống cực kỳ gian khổ và hiểm nguy, chúng tôi không có gì hết, kể cả hạnh phúc riêng tư của chính mình. Cho nên tôi không hề có mơ tưởng nào về một hào quang của ngày tháng cũ.
Khi nhìn lại mình, tôi viết như thắp một nén hương tưởng niệm, những đồng đội của tôi đã nằm xuống cho tôi được sống, rộng lớn hơn hàng trăm ngàn người đã chết để chúng ta có cuộc sống ngày hôm nay, tại hải ngoại này.
*
Mùa Hè năm 1972, người Miền Nam thủa ấy gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa, mượn cái tên từ tập bút ký chiến trường rất nổi tiếng cùa Nhà văn Phan Nhật Nam. Mùa hè đỏ lửa năm 72, là năm quân đội của hai miền Nam Bắc dốc sức đánh một trận chiến sanh tử, bên nào kiệt lực bên đó sẽ bại vong.
Niên khóa năm 71-72, tôi là sinh viên Đại học Văn Khoa Sai Gòn, năm đó tôi đi học trong một tâm trạng bồn chồn không sao tả được, và tôi cũng không còn tâm trí đâu để mà học hành. Tin tức chiến sự từ các mặt trận dồn dập gửi về, lúc đó bạn bè lính tráng của tôi, lớp chết lớp bị thương, lũ lượt kéo nhau về. Sau này ngẫm nghĩ lại, tôi thấy Miền Nam lúc đó không còn sinh khí nữa.
Chính quyền Miền Nam sau đó ra lịnh Tổng Động Viên, tất cả nam sinh viên đều phải nhập ngũ, trừ một số trường hợp đặc biệt.
Giã từ Văn Khoa với đại giảng đường 2 bát ngát, giã từ những bài giảng rất lôi cuốn của Linh Mục Thanh Lãng, của Giáo sư Nguyễn Thế Anh... giã từ hết những ước vọng của thời mới lớn, tôi trình diện Khóa 4/72 tại Trường Bộ Binh Thủ Đức. Năm đó quân trường Thủ Đức chứa không xuể các thanh niên nhập ngũ, nên đã đưa một số sinh viên ra thụ huấn tại Trường Đồng Đế Nha Trang, toàn bộ tinh hoa của tuổi trẻ miền Nam đã tập trung vào hai quân trường này. Miền Nam đã vét cạn tài nguyên nhân lực để đưa vào cuộc chiến.
Vào quân trường, khóa 4/72 toàn là sinh viên các trường Đại học tụ về, chúng tôi cùng làng xàng tuổi nhau nên đùa vui như Tết. Tuổi trẻ mà, lúc nào cũng vui cũng phơi phới yêu đời, chuyện ngày mai đã có trời tính. Thời gian 6 tháng quân trường gian khổ sao kể xiết, bởi vì huấn luyện nhằm biến đổi một con người dân sự, thành một người lính thật thụ là điều không đơn giản. Không phải chỉ có các kiến thức về quân sự, mà còn tạo dựng nên một cơ thể gan thép, rèn luyện gian khổ bất kể ngày đêm, bất kể nắng nóng nung người hay mưa dầm bão táp.
Trong 5 tuần lễ đầu tiên bước vào trường, gọi là giai đoạn huấn nhục, đây là giai đoạn kinh hãi nhất trong đời lính mới của chúng tôi. Hằng ngày chúng tôi phải tuân phục sự chỉ huy điều động của các Huynh trưởng khóa đàn anh, khi ra lịnh họ hét lên nghe kinh hồn bạt vía, họ nghĩ ra đủ loại hình phạt để phạt chúng tôi bò lê bò càng, trong giai đoạn này chỉ có chạy, không được đi... các Huynh trưởng quần chúng tôi từ sáng sớm đến chiều tối, buông ra là chúng tôi ngất lịm, ngủ vùi không còn biết gì nữa hết. Sau 5 tuần Huấn nhục, ai vượt qua được sẽ tham dự Lễ gắn Alpha, chính thức trở thành Sinh viên Sĩ quan.
Ngày quì xuống Vũ đình trường, để nhận cái lon Alpha vào vai áo, chúng tôi cảm thấy rất tự hào, vì đã lập được một kỳ công, đã tự chiến thắng mình để trở thành một người lính đúng nghĩa, không còn hèn yếu bạc nhược như xưa nữa. Khi chúng tôi quá quen thuộc với các bãi tập như: bãi Cây Đa, đồi 30, bãi Nhà xập, đồi Bác sĩ Tín... cũng là lúc sắp đến ngày ra trường. Gần tới cuối khóa, chúng tôi còn phải vượt qua những bài học cam go như bài Đại đội Vượt sông, Đại đội Tùng thiết, Đại đội Di hành dã trại....
Cuối cùng, điều mà chúng tôi monh đợi từ lâu, đó là ngày Lễ ra Trường. Tất cả trong quân phục đại lễ, xếp hàng ngay ngắn tại Vũ Đình Trường. Rồi một tiếng thét lồng lộng của Sinh viên sĩ quan chỉ huy buổi lễ:" Quì xuống các Sinh viên sĩ quan" Chúng tôi đọc lời tuyên thệ: Danh dự, Tổ quốc, Trách nhiệm. Sau đó được gắn lon Chuẩn úy lên cầu vai. Tiếng thét lồng lộng lại cất lên:
"Đứng lên các Tân Sĩ Quan". Trong số chúng tôi, có người ứa nước mắt, cái lon mới được gắn lên vai, đã được đánh đổi bởi biết bao mồ hôi gian khổ.
Ngày hôm sau, chúng tôi tụ họp lên Hội trường để chọn đơn vị. Tới phiên tôi được xướng danh lên bảng chọn, có một chuyện làm tôi nhớ mãi. Đứng trước tấm bảng phân chia về các đơn vị, tôi định chọn về Sư đoàn 7 cho gần Sài Gòn, bỗng cái ông Thượng sĩ đứng phụ trách tấm bảng, bèn đưa ra lời bàn:" Chuẩn úy nên chọn về Sư đoàn 9 vì có vùng trách nhiệm nhẹ hơn, Sư đoàn 7 trách nhiệm vùng Cai Lậy- Cái Bè rất nặng nề". Oái oăm thay, ngày lội hành quân của tôi lại là vùng Cái Bè, vì đơn vị tôi tăng phái cho Sư đoàn 7.
Tôi trình diện Bộ Tư Lịnh Sư đoàn 9 tại Vĩnh Long, được phân bổ về Trung đoàn 14, lúc đó Trung đoàn đang hành quân vùng Cái Bè. Từ Sài Gòn, qua Ngả Ba Trung Lương, chạy thêm một đoạn xa nữa thì tới Cai Lậy, rồi tới Cái Bè, xong quẹo mặt chạy tít mù vào sâu bên trong khoảng 20 cây số, tới cuối đường lộ thì gặp một cái xã mang tên Hậu Mỹ, nơi đây chính là cái ruột của Đồng Tháp Mười, lính tráng hành quân vùng này nghe đến Hậu Mỹ là đủ ớn xương sống. Không hiểu sao nơi giửa Đồng Tháp Mười lại có một nơi dân cư sinh sống bắng nghề nông rất trù phú.
Đám Tân Chuẩn úy chúng tôi, sau khi trình diện, được giử lại Ban Chỉ Huy vài hôm để tìm hiểu về cách làm việc của các phòng ban nơi này. Sau đó Ban Quân số phân chia chúng tôi về các đơn vị. Vị Sĩ quan phụ trách hỏi có Chuẩn úy nào tình nguyện về Đại Đội Trinh Sát hay không? Tôi đáp nhận, nói theo kiểu Cao Xuân Huy trong Tháng Ba Gẫy Súng, tôi chọn về đơn vị tác chiến thứ thiệt này, mà trong lòng không có một chút oán thù nào với phía bên kia, mà chỉ vì cái máu ngông nghênh tuổi trẻ, và kế đó là bị kích thích bởi cảm giác mạnh của chiến trường.
Một Trung đoàn Bộ binh có 3 Tiểu đoàn và một Đại đội Trinh sát, đám chúng tôi có 12 thằng, được phân chia về các Tiểu đoàn, chỉ có mình tôi về Trinh sát. Sau khi chia tay ở sân cờ xong, chúng tôi ra đi biền biệt, hầu như không còn mấy khi gặp nhau nữa. ĐĐTS cho người lên dẫn tôi về trình diện Đại đội trưởng, lúc đó đơn vị đóng ngoài căn cứ của Ban Chỉ huy Trung đoàn. Trung úy ĐĐ Trưởng có biệt danh là Đại bàng, dáng người cao to trông rất dử dằn, cặp mắt ti hí luôn luôn nhìn chằm chằm tóe lửa, giọng nói gầm gừ trong cổ họng, tất cả toát lên một nét uy phong làm khiếp sợ người đối diện ( trong đó có tôi nữa). Tôi đứng nghiêm chào trình diện theo đúng quân kỷ:" Chuẩn Úy NĐC, số quân 72/150181, trình diện Trung Úy". Ông nhướng mắt lên nhìn tôi, trên gương mặt hình như có nét thất vọng (mãi sau này tôi biết điều đó đúng như vậy). Nhìn tôi một hồi, rồi phán cho tôi một câu: "Anh về làm Trung đội phó viễn thám!". Trời đất! tôi thầm nghĩ cái bằng tốt nghiệp của tôi là Trung đội trưởng, mà giao cho tôi làm Trung đội phó là sao nhỉ? Lúc đó, tôi chớ hề biết rằng làm Trung đội phó là còn may mắn, các sĩ quan về sau có khi còn làm Trưởng toán Viễn thám, thiệt là chết dở.
Đại đội TS lúc đó có khoảng trên trăm người lính, được chia làm hai Trung đội Trinh sát và một Trung đội Viễn thám. Các Sĩ quan Trung đội trưởng ra trường trước tôi vài khóa mà trông rất "ngầu", uống rượu như điên, nói năng bạt mạng. Còn lính tráng nữa chứ, tôi nhìn họ mà sợ lắm, họ được tuyển chọn từ các nơi khác về đây, nên trông rất khiếp hồn. Phần lớn họ thuộc gốc nhà nông, chỉ biết đọc biết viết là nhiều. Lạ một điều, những người lính này đối với tôi rất lễ độ, có lẽ phát xuất từ kỷ luật của quân đội. Sau một thời gian sống gần gủi với họ, tôi thấy họ là những người rất đáng mến, thật thà chất phát, coi trọng nghĩa tình, một khi họ quí trọng một cấp chỉ huy nào thì họ sẵn sàng xả thân, và họ không dể sợ như tôi nghĩ lúc ban đầu.
Vài hôm sau, gặp bữa ĐĐ tề tựu đông đủ, Đại bàng đưa tôi ra giới thiệu trước hàng quân, rồi ông bảo tôi phát biểu. Trời đất ơi! tôi run quá, hai đầu gối cứ run lẩy bẩy, tôi có bao giờ nói chuyện trước một đám đông trông khiếp vía như thế này bao giờ đâu. Cho nên tôi ngượng nghịu lắm, vừa nói vừa ngó xuống đất, không dám ngó mặt ai, bẽn lẽn như cô dâu mới về nhà chồng. Bây giờ nghĩ lại, tôi không còn nhớ tôi nói cái gì nữa, nhưng tôi vẫn nhớ tiếng chắt lưỡi bực mình của Đại bàng đứng sau lưng tôi, nói được chừng 10 phút thì tôi hụt hơi hết sức, Đại bàng phải ra lịnh giải tán đám đông. Ông giận dữ kéo tôi ra chỗ vắng, rồi hất hàm hỏi tôi: "Chuẩn úy tốt nghiệp Trường Sĩ quan nào vậy?" Tôi biết ngay là có chuyện không ổn, mỗi khi xếp gọi mình bằng cấp bậc là tai họa đến nơi rồi. Tôi đứng nghiêm, trả lời: "Dạ tôi tốt nghiệp từ Trường Bộ Binh Thủ Đức". Ông ta bèn xán cho tôi một câu nhớ đời: "Vậy mà tôi tưởng Chuẩn úy tốt nghiệp từ Trường Nữ Quân Nhân!" Tôi nghe mà choáng váng mặt mày, ông đã điểm trúng tử huyệt của tôi, vì hồi còn là sinh viên sĩ quan trong trường Bộ binh, chúng tôi thường coi là điều sỉ nhục khi bị cấp trên mắng là Nữ quân nhân. Tối hôm đó khi đi ngủ tôi lặng lẽ ứa nước mắt.
Tôi về làm Trung đội phó cho Chuẩn Úy Vương Hoàng Thắng, khóa 3/72, anh ta là người trí thức có bằng Cử nhân Chính trị Kinh doanh. Thấy tôi cà ngơ cà ngáo, anh thương tình kêu đệ tử giúp đỡ cho tôi mọi chuyện. Chiều hôm đó, tôi lại gặp một chuyện khôi hài, dở khóc dở cười, không sao quên được.
Thường thường chiều đến, lính tráng kéo ra bờ sông tắm giặt, tôi cũng đi tắm như họ. Thay vì nhảy ào xuống sông bơi lội như mọi người, tôi lại rất sợ đỉa nên đứng trên bờ cầm nón sắt múc nước sông dội lên người. Tắm một hồi, tôi cảm thấy có cái gì đó là lạ, nhìn quanh thấy mọi người chăm chú nhìn tôi, rồi còn xầm xì bàn tán gì đó. Bỗng nhiên cả đám cười rộ lên, có anh lính lên tiếng: "Sao Chuẩn úy không xuống tắm với tụi tôi mà đứng chi trên bờ, ý trời ơi! sao nước da của Chuẩn úy trắng nõn như da con gái vậy"
Tôi ngượng điếng người, cảm thấy máu chạy rần rần trên mặt, muốn chui xuống đất mà trốn cho đỡ xấu hổ. Vậy mà đã hết đâu, cái ông Thượng sĩ già đứng gần đó còn đớp thêm một câu:" Ý cha! cái bàn chân của Chuẩn úy đẹp như bàn chân của các tiểu thơ, bàn chân này chắc sẽ có số sướng lắm đây!" Thật là khổ cho cái thân học trò, hết là Nữ quân nhân, bây giờ lại giống con gái, thiệt chán.
Miền Tây là vùng đất nổi danh sình lầy, Hậu Mỹ là nơi tiếp đón tôi trong những ngày đầu về đơn vị và cũng là nơi sình lầy ghê khiếp. Dân trong xã người ta cất nhà dọc kinh Tổng đốc Lộc, ra khỏi mí vườn là ruộng lúa xạ ngút ngàn. Sáng sớm, lính tráng lo cơm nước xong xuôi, là bắt đầu nai nịt lên đường, để tham dự cuộc hành quân lục soát hàng ngày. Bước ra khỏi mí vườn là bắt đầu lội ruộng, trước tiên nước đến ngang đầu gối, rồi khi vượt qua những trãng sâu, nước cao tới ngực, và cứ thế chúng tôi ướt sũng từ sáng tới chiều, cho nên quần áo chúng tôi nhuộm phèn vàng chạch, trông rất kỳ quái.
Hậu Mỹ là vùng lúa xạ nên rất ít bờ ruộng, khi đã đặt chân xuống ruộng là phải đi một mạch cho tới bờ bên kia cách xa vài cây số, không ngừng giữa đường được. Đất ruộng người dân cày xới lên, thành từng tảng đất to như trái dừa lớn, ngổn ngang kín mít mặt ruộng và nước thì lấp xấp. Tôi vừa đi vừa lựa thế đặt chân xuống, sình lầy bám chặt nên khi rút bàn chân lên thật khó nhọc. Mặt trời rọi ánh nắng gay gắt khiến mồ hôi tuôn ra đầm đìa, lúc đầu tôi còn lấy tay áo gạt mồ hôi, sau cứ để mặc, mồ hôi nhỏ lăn tăn lên mặt ruộng. Đó là tôi mang ba lô rất nhẹ, chỉ có quần áo đồ đạc cá nhân, còn lương thực lều võng đã có người lính đệ tử mang vác phụ. Tôi ngó qua những người lính đi chung quanh, thấy họ mang vác rất nhọc nhằn, phải oằn lưng mang lều võng, súng đạn, mìn bẫy, gạo, cá khô, đồ hộp, mắm muối, xẽng, dao... người thì đeo trên ba lô cái nồi, người thì mang cái chảo, họ lặng lẽ bước đi, tôi không nghe một lời than van nào, họ cắn răng lại mà cam chịu, bởi vì có than van cũng chẳng ai nghe. Khi đi tới bờ kinh ở tít đằng xa, áo tôi ướt sũng mồ hôi, cho đến nỗi, tôi cởi áo vắt mồ hôi chảy ra ròng ròng. Tôi mệt muốn đứt thở, bèn nằm vật ra đất, tôi mặc kệ hết mọi điều, không còn biết trời trăng gì nữa hết. Lúc đó tôi nghĩ có ai bắn cho tôi một phát súng ân huệ, chắc còn sướng hơn là sống, đời lính sao mà khổ quá!
Theo Đặc san Cư An Tư Nguy, phát hành tại San Diego, thì Trường Bộ Binh Thủ Đức đã đào tạo 55 ngàn Sĩ quan, trong số đó có 15 ngàn Sĩ quan đã tử trận và không dưới 10 ngàn người đã trở thành Phế binh.
Trung đội trưởng là chức vụ đầu tiên của Sĩ quan mới ra trường và là chức vụ duy nhất chỉ huy bằng miệng (các cấp cao hơn thì chỉ huy qua máy truyền tin). Khi xung phong chiếm mục tiêu, Sĩ quan Trung đội trưởng cũng ôm súng chạy ngang hàng với lính. Khi đóng quân phòng thủ đêm, Trung đội trưởng cũng nằm ngang với lính. Trước mặt Trung đội trưởng Trinh sát không có bạn nữa mà chỉ có phía địch quân. Cho nên lính dễ chết thì Trung đội trưởng cũng dễ chết y như nhau, súng đạn thì vô tình nên không phân biệt ai với ai, quan với lính đều bình đẳng trước cái chết. Đó là lý do giải thích tại sao Chuẩn úy mới ra trường chết như rạ là vì thế.
Có một bữa, tôi lội hành quân với đơn vị, đang bì bõm lội sình, thì tiếng súng nở rộ lên phía trước, Trung đội tản ra, tôi cùng Chuẩn úy Thắng và đám đệ tử tấp vào một lùm chuối khá lớn. Tôi đứng đó nhìn trời hiu quạnh, trong khi Chuẩn úy Thắng chuyện trò với Đại bàng qua máy truyền tin. Sau đó im lìm không nghe thấy lịnh lạc gì cả. Bỗng tay lính truyền tin nói với Ch/U Thắng: "Đại bàng kêu Ch/U lên trình diện gấp." Anh Thắng bỏ đi một hồi, thì lính truyền tin lại bảo tôi: "Đại bàng muốn gặp Ch/U Châu"
Tôi mới vừa cầm ống nghe áp vào tay, thì nghe chửi xối xả, giọng ông lồng lộng một cách giận dữ, té ra là do Ch/U Thắng quá sợ nên không dám xua quân tấn công. Đại bàng gầm lên bảo tôi: "Nè! Ch/U Châu, tôi giao Trung đội lại cho ông, ông có dám dẫn quân lên đánh mục tiêu trước mặt hay không? Tôi nghe lịnh mà sợ muốn "té đái trong quần", run lập cà lập cập rồi trả lời tuân lịnh. Tôi tháo ba lô quăng lên bờ ruộng cho nhẹ người, rồi cầm khẩu súng tiểu liên M16, miệng chỉ kịp kêu lớn: "Tất cả theo tôi". Lúc đó tôi "quíu" quá, nên không còn nhớ đến bài bản chiến thuật nào từng học ở quân trườn.
Tôi xông lên, vừa chạy vừa bắn vừa la (không biết la cái gì nữa!) Cả trung đội hoảng hốt sợ tôi bị bắn chết, nên cũng vùng dậy chạy theo. Phía bên kia, thấy tôi chạy dẫn đầu rất hung hãn, chắc tưởng sau tôi là đại quân ghê gớm, bèn lập tức tháo lui. Trong lúc vội vàng họ còn bỏ lại mấy cây súng AK nữa chứ. Tôi thanh toán mục tiêu chỉ đâu chừng 10 phút. Ai cũng tưởng tôi gan dạ chứ đâu có biết rằng tôi làm được như thế vì quá "rét" ông xếp dữ dằn.
Sau đó Đại bàng kéo quân lên, ông nhìn tôi gườm gườm, có lẽ ông chưa thấy một Sĩ quan nào lại lập chiến công "khùng điên ba trợn" như tôi. Hết cơn giận, ông trả quyền chỉ huy trung đội lại cho Ch/U Thắng, tôi trở về vị trí cũ.
Sau “chiến công đầu tiên”, tôi được điều qua các Trung đội khác, xử lý công việc tạm thời cho các Trung đội trưởng đi phép hay bị thương. Một điều may mắn, (hay Trời đãi kẻ khù khờ!) khi nắm quyền tạm thời đó, với những trận đánh mà tôi tham dự, tôi đều hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt đẹp. Đại bàng đã nhìn tôi bằng cặp mắt đỡ aí ngại hơn ngày đầu mới gặp tôi.
Ông Đại bàng này sau đó thuyên chuyển qua đơn vị khác. Đại bàng mới đến thay thế cũng mang cấp bậc Trung Úy, nhưng dáng dấp thư sinh, ăn nói hiền lành hơn ông trước. Trong bữa nhậu bàn giao chức vụ, ông cũ giới thiệu các sĩ quan trong đơn vị cho ông mới. Sau khi điểm mặt 3 Trung đội trưởng, cuối cùng ông ta chỉ tôi là một Trung đội phó, rồi đưa ra nhận xét làm sửng sốt mọi người: "... đây là một sĩ quan xuất sắc, một tay chơi tới bến của đơn vị..." Hai người sửng sốt nhất hôm đó là tôi và ông Đại bàng mới. Đối với tôi, tôi chỉ cố gắng làm tròn nhiệm vụ của mình. Với Đại bàng mới, ông ta lấy làm lạ vì ông cứ ngỡ sĩ quan xuất sắc nhất phải là mấy ông Trung đội trưởng kia, sao lại là cái tay Trung đội phó trông hết sức ngớ ngẩn này. Có lẽ vì cái nhận xét này, chỉ một thời gian ngắn sau đó, tôi được Đại bàng mới cất nhắc lên làm Trung đội trưởng thật thụ.
Tham dự hết trận đánh này đến trận đánh khác, để sống còn, không còn con đường nào khác, tôi phải tận lực lo công việc của mình. Càng ngày tôi càng đạt được sự tin cậy cao nơi cấp chỉ huy, chính điều đó đã đẩy trung đội tôi vào chốn hung hiểm. Khi Đại đội tiến quân vào nơi tử địa, trung đội tôi được lịnh đi đầu, khi rút quân từ nơi đó ra, chúng tôi bao chót. Khi tấn công vào mục tiêu, chúng tôi được giao nơi khó gặm nhất, và khi phòng thủ thì chúng tôi nằm nơi dễ chết nhất.
Người ta thường nói: "Nhất tướng công thành, vạn cốt khô", tôi không phải là tướng, chỉ là một sĩ quan có cấp bậc và chức vụ thấp nhất, nhưng lính tráng dưới quyền tôi đã chết la liệt, có khi chết nhiều và nhanh chóng đến nỗi tôi chưa kịp nhớ mặt người lính của mình nữa. Bởi sự tin cậy của Đại bàng dành cho tôi mà trung đội tôi phải chịu những tai ương này.
Ông ta rất quí mến tôi, chưa hề quát mắng tôi một tiếng nặng lời nào, có món ăn ngon, ông sai đệ tử đến mời tôi dùng cơm với ông, có huy chương nào quí giá ông đều ưu tiên dành cho tôi. Ông qúi tôi như vậy vì ông biết rằng, nếu cứ xử dụng tôi như thế thì trước sau gì tôi cũng chết. Làm sao tôi sống thọ, khi đi hết chiến trường này đến chiến trường khác, mà lại toàn là những nơi "đầu sóng ngọn gió". Vậy mà điều là lùng là tôi vẫn sống.
Khi về đơn vị Trinh sát này, tôi có được một điều may mắn, là được phục vụ trong một đơn vị lưu động khắp miền Tây. Khởi đầu của tôi là tại Cái Bè- Cai Lậy với các địa danh nổi tiếng như Hậu Mỹ, Mỹ Phước Tây, Bà Bèo, Láng Biển...
Từ Cai Lậy đi về hướng Bắc khoảng 60 cây số là tới Mộc Hóa, rẽ trái đi thêm một đoạn xa nữa, tới một nơi tận cùng gọi là Bình Thạnh Thôn, còn có tên là Long Khốt, đây là một trong những chiến trường ác liệt nhất của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Từ nơi này, chúng tôi ngồi xe Thiết giáp băng ngang qua Đồng Tháp Mười để tới Hồng ngự, chính cái lúc băng ngang này đây, tôi mới biết rõ về Đồng Tháp Mười, đây là một vùng đầm lầy kinh hãi nhất. Đi suốt một ngày với Thiết giáp, tôi không hề thấy có một loài cây nào sống nổi, ngoại trừ loại cỏ bàng (dùng để dệt chiếu), không có một bóng chim, không có một con cá, nước phèn màu vàng sậm. Tóm lại không có một sinh vật nào sống nổi huống chi là con người, vùng đầm lầy chạy dài ngút mắt đến chân trời, khung cảnh im lìm ghê rợn.
Rồi có khi, chúng tôi rời Mỹ Tho xuôi Nam, băng qua sông Tiền bởi Phà Mỹ Thuận, rồi băng qua sông Hậu với Phà Cần Thơ, xuôi theo lộ cái tới Cái Răng- Phụng Hiệp, rồi rẽ vào Phong Điền - Cầu Nhím. Nơi đây tôi ngạc nhiên với vùng giàu có tột bực này. Ở đây người dân sinh sống bằng vườn cây ăn trái, sáng sớm ghe chở trái cây chạy lền trên mặt sông, để đến điểm tập trung giao hàng chở đi các nơi khác. Nhà cửa của họ ở miệt vườn mà trông rất bề thế như biệt thự ở thành phố chứ không phải thường.
Rồi chúng tôi đến Phong Phú- Ô Môn, tiến sâu vào bên trong chúng tôi đến Thới Lai- Cờ Đỏ, sự trù phú không sao tả xiết. Có khi chúng tôi ngồi tắt ráng đi từ Thới Lai đến Cờ Đỏ, hai bên bờ kinh nhà cửa nguy nga tráng lệ theo kiểu miệt vườn, không hề có cảnh nhà tranh vách đất nào cả, nhà nào cũng bề thế có xe máy cày đậu bên hông. Tuy nhiên càng vào sâu hơn nữa, chúng tôi gặp những vùng hoang vu như Bà Đầm- Thát Lác, vì giặc giã dân chúng tản cư đi hết, nhà cửa bỏ hoang phế trông rất âm u rợn người.
Trong tất cả những vùng mà tôi đã đi qua, có một vùng đất hết sức lạ lùng, và là một nơi đối với tôi đầy ắp kỷ niệm,vừa thích thú vừa buồn rầu đau đớn. Mùa Khô năm 1974, Đại đội chúng tôi được trực thăng bốc từ phi trường Cao Lãnh, đổ xuống một cánh đồng bát ngát nằm cạnh biên giới Campuchia. Trung đội tôi nhảy líp đầu, khi xuống tới đất tôi hết sức ngạc nhiên về vùng đất xa lạ này. Cánh đồng khô khốc và phẳng lì, không hề có một bờ ruộng nào cả, trên cánh đồng có nhiều gò đất nổi lúp xúp ở khắp nơi. Khi trung đội rời khỏi trực thăng, tôi lập tức ra lịnh tiến quân theo thế chân vạc thiệt nhanh nhằm chiếm một gò nổi trước mặt, khi cách gò chừng một trăm thước, tôi cho dừng quân lại, dàn hàng ngang nằm yểm trợ cho một toán khinh binh vào lục soát.
Sau một hồi, thấy không có gì lạ, khinh binh khoát tay cho trung đội tiến vào. Khi vào tới nơi, tôi tung các toán ra canh gác chung quanh gò. Trên gò có thật nhiều cây xanh che bóng mát và có vài đìa cá, lính tráng người nào không mắc phiên gác thì ùa xuống tát đìa. Khi đìa cạn, cá lộ ra bò lúc nhúc đặc lền như bánh canh.
Một lát sau cả Đại đội theo trực thăng đổ xuống, kéo vào gò trú ẩn vị trí cũng vừa đủ. Đêm tới, chờ cho trời tối hẳn, Đại bàng ra lịnh kéo quân đi đến một vị trí khác để đóng quân, vì vị trí ban ngày đã bị lộ. Chúng tôi kéo qua một cái gò khác, đêm đó chẳng ai ngủ được, vì lũ chuột đồng ở đâu kéo tới, chúng bò ngang dọc lùng sục khắp nơi, lại còn chui tọt vào mùng gặm nhắm chân tay của chúng tôi nữa chứ. Tờ mờ sáng hôm sau, có một đàn xe bò đông đảo khoảng mười mấy chiếc kéo ngang chỗ đóng quân, lính tráng hỏi họ đi đâu, họ nói kéo nhau đi tát đìa, trời đất! Tát đìa mà kéo một đàn xe bò như thế này ư?. Không biết họ đi đến đâu, chiều đến họ kéo về, xe nào cũng đầy ắp cá chứa lủ khủ trong thùng chậu lớn. Sau đó họ đi đến bờ sông giao cho ghe hàng chờ sẵn, chở cá về Hồng ngự.
Hôm sau chúng tôi kéo vào xóm nhà cất dọc theo hai bên bờ rạch có tên là Rạch Cái Cái. Vì người dân sống trong vùng nước nổi nên nhà cửa họ cất cao lêu nghêu theo kiểu nhà sàn. Nơi đây đúng là cùng trời cuối đất mà tiếng bình dân gọi là Hóc bà tó. Đây là vùng tranh chấp giữa hai bên nên chiến trận nổ ra liên miên, người dân họ sống rất là tạm bợ, cả xã có vài ngàn người, vậy mà số người biết đọc biết viết chỉ đếm trên đầu ngón tay. Họ thông thương với bên ngoài bằng các ghe hàng tạp hóa hay ghe hàng bông (rau quả) được chở tới từ Hồng ngự. Tôi hỏi họ sao cánh đồng này kỳ lạ, phẳng lì như sa mạc, tôi chưa từng thấy bao giờ. Họ nói, tới mùa lũ tràn về, không có bờ ruộng nào chịu nổi trước sức nước, nên họ để mặc như thế, ruộng của ai người đó biết, họ đã quen từ nhiều đời như thế rồi.
Nhà nào cũng có một lu mắm cá, có nhà còn có lu mắm chuột đồng, đó là thức ăn phòng hờ cho mùa nước nổi. Ghé vào bất cứ nhà ai, chủ nhà nào cũng rất hiếu khách và xởi lởi, bưng ngay ra một chai rượu đế, rồi hối người nhà xé mắm sống trộn dấm tỏi ớt đường, bưng ra mời chúng tôi, ăn với khoai lang hay bắp luộc. Lúc đầu thấy mắm sống tôi sợ lắm không dám ăn, sau vì nhiều người ép quá nên tôi cũng nếm được. Còn mắm chuột đồng thì cho tôi xá, nhìn thấy đã "hãi" nói chi tới ăn. Đám lính chúng tôi đang lội sình "mệt nghỉ", nay được đưa về nơi khô ráo, lại đầy ắp thức ăn, thiệt là "đã đời", chúng tôi hành quân mà như đi picnic. Nhưng trong lòng tôi linh cảm có cái gì đó không ổn, đơn vị chúng tôi luôn luôn được tung vào nơi hiểm địa, chớ đâu phải đi chơi như thế này.
Sau một thời gian hoạt động đơn độc, chúng tôi được tăng cường một Chi đoàn Thiết giáp, có khoảng 12 xe bọc sắt M113. Với sự phối hợp này, vùng hoạt động của chúng tôi rộng lớn hơn. Hàng ngày chúng tôi hành quân tùng thiết với thiết giáp, đi lục soát nơi này nơi khác, vẫn bình yên không hề có tiếng súng.
Rồi cuối cùng cái ngày giông bão đó đã đến. Hôm đó bình thường như mọi ngày, chúng tôi lên xe đi hành quân, đi đến các điểm đã chỉ định sẵn trên bản đồ. Tới một điểm bất chợt, đoàn xe dừng lại dàn hàng ngang yểm trợ vì sình lầy nên không tiến sâu được. Lính Trinh sat chúng tôi được lịnh xuống xe tiến vào bờ vườn. Trung đội tôi đi cánh trái của đội hình Đại đội. Đang đi tôi bỗng lên tiếng:
"Tất cả tản thưa ra, đi túm tụm lại như vầy dễ ăn đạn lắm" Không ngờ lời nói của tôi "linh như miễu", đạn phát nổ vang trời dậy đất. Tôi bị trúng đạn, bật người ngã xuống đất, máu không biết ở đâu chảy xuống mặt thành dòng. Tôi ra lịnh bắn lại xối xả, nếu không phía bên kia thừa thắng xông lên thì thật là nguy khốn. Súng nổ một chập thì im bặt, lúc đó tôi mới có thời gian để xem xét, coi mình bị thương ở đâu.
Sau đó tôi giật mình, hết sức king ngạc vì tôi bị bắn trúng một lượt hai viên đạn AK, một viên bắn trúng vào đầu mũi súng colt tôi nhét trước bụng, viên đạn bể ra văng miễng tứ tán, ghim lên mặt khiến máu chảy thành dòng là vì thế, phần còn lại của viên đạn chui tọt vào đùi máu ra chút ít không nghiêm trọng. Viên đạn thứ hai mới ghê, nó ghim vào cái bóp tôi để trên ngực áo trái phía trước trái tim, viên đạn đã quậy nát cái bóp, trong đó tôi để rất nhiều tiền vì mới lãnh lương, tiền và giấy tờ đã cuốn viên đạn nằm yên trong đó, có lẽ tầm đạn bắn quá gần khiến viên đạn không đủ sức xuyên phá để đâm vào trái tim của tôi. Lúc đó tôi sợ lắm và cũng nghĩ đến một quyền lực thiêng liêng nào đó đã che chở cho tôi. Chứ trên đời này đâu có ai bị bắn trúng một lúc hai viên đạn mà còn sống sót như tôi.
Kế đó, tôi chợt nghe một tiếng rên yếu ớt của người lính đệ tử của tôi: "Thiếu úy ơi! Cứu em!" Tôi nghe xong mà sợ điếng hồn, té ra nãy giờ đệ tử của tôi bị trúng đạn mà tôi không hay biết, bởi vì cỏ cao che khuất nên tôi không thấy anh ta nằm trước tôi khoảng dăm ba thước. Thông thường, mỗi sĩ quan Trung đội trưởng có hai người lính đệ tử, hai anh chàng này có nhiệm vụ lo mang vác đồ đạc và lo chỗ ăn chỗ ngủ cho ông thầy. Những người đệ tử của tôi thường đồi xử với tôi rất chí tình, họ sẵn sàng sống chết với tôi mà không hề so đo tính toán. Khi tôi dẫn trung đội xung trận, hai người lính này theo sát để bảo vệ tôi.
Hôm ấy, một trong hai đệ tử đã hứng đạn cho tôi, khi ngã xuống đã kêu lên lời cầu cứu đến tôi. Ít lâu sau thì anh ta chết, tiếng kêu thảm sầu của anh ta đã xoáy vào lòng tôi, và ở yên trong đó mãi cho đến tận bây giờ. Vậy mà 39 năm trôi qua tôi chớ có một lần nào về đứng trước mộ anh, để đốt một nén nhanh nói lên lời cảm tạ. Anh ta là Hạ sĩ Nguyễn văn Đồng, một cái tên bình thường vô danh, nằm lẩn khuất đâu đó trong hàng triệu người đã nằm xuống trong cuộc chiến tức tưởi này.
Sau khi bị thương, tôi giao trung đội lại cho Trung đội phó là Chuẩn úy Nguyễn Thọ Tường. Tôi ra ngoài cho y tá băng bó vết thương, rồi leo lên xe Thiết giáp ngồi nghỉ và quan sát trận địa, tôi chợt thấy Chuẩn úy Tường dàn đội hình trung đội hàng ngang xung phong vô mục tiêu, tôi kêu lên thảng thốt: "Đừng làm thế, Tường ơi!" Sau đó trung đội tôi bị bắn tan tác, Chuẩn úy Tường trúng đạn vô bụng chết tại mặt trận, mắt vẫn mở trừng trừng, có lẽ anh ta không biết sao mình lại chết như vầy. Trung đội tôi coi như tan hàng xóa sổ. " Tường ơi! Vĩnh biệt!".
Không biết sao Đại đội tôi đóng quân bên bờ Rạch Cái Cái trong một thời gian rất dài. Cho tới ngày Mùa Nước Nổi kéo về, nước chảy ào ào một chiều duy nhất, không còn cảnh nước ròng nước lớn gì nữa hết. Nước dâng cao mỗi ngày cả gang tay, đến lúc đó mới thấy lúa xạ là loại lúa kỳ diệu, nước dâng tới đâu thì lúa dâng tới đó, nước sâu 5-6 mét thì lúa cũng dài ra 5-6 mét, tôi chưa thấy nơi nào lại có cây lúa kỳ lạ như vậy.
Rồi đến lượt cá Linh kéo về, cá nhiều đến nổi không biết cơ man nào kể cho xiết, có khi tôi thấy cá Linh nổi lền cả một khúc sông, và thêm một điều kỳ lạ nữa là người dân ở đây họ không ăn cá Linh. Sao lạ vậy? Họ nói, họ thấy cá Linh cả đời nên đâm ra ngán tới cổ.
Ô! nước cứ dâng lên mãi, khiến chúng tôi kiếm chỗ đóng quân khá vất vả, chúng tôi rút lên gò cao, thì rắn với chuột cũng kéo lên gò, ban đêm chúng cứ bò xục xạo trong mùng rất ghê khiếp. Cả đơn vị phải chẻ nhỏ ra thành từng toán. Có hôm, toán của Thầy trò chúng tôi kéo lên một cái gò còn khô ráo, đêm đó như thường lệ tôi nằm ngủ dưới một mái lều.
Tới nửa đêm tôi đang ngủ mê mệt, thì cảm thấy có ai đang khều khều đầu mình, ở chốn trận tiền ai ngủ cũng phải thật nhạy thức. Tôi cũng vậy, tôi tưởng đâu lính gác báo động nên vội vàng ngồi dậy, tôi ngó ra ngoài lều thì thấy dưới bóng trăng sáng vằng vặc, một em bé gái chừng 12-13 tuổi đang đứng nhìn tôi và mỉm cười thật tươi tắn. Tôi trố mắt nhìn ngẩn ngơ một hồi, rồi mới biết đó là hồn ma, tôi sợ quá vội nằm xuống kéo mền trùm kín đầu, nhưng không ngủ được nữa.
Sáng ra, tôi thấy chỗ tôi ngủ đêm qua nằm kề bên một cái trang thờ xiêu vẹo mục nát. Tôi bèn rảo bước đi vào làng hỏi thăm về cái trang thờ trên gò nhỏ này. Người dân cho biết, trước kia có một em bé nhà nghèo lắm, hàng ngày em chèo xuồng ra đồng nhổ bông súng đi bán dạo, rồi một hôm em ra đồng như thường lệ, một lát sau thì súng đạn hai bên nổ rang, em bị đạn lạc chết trên gò. Em chết trẻ hồn thiêng không siêu thoát, đêm đêm em hiện về khóc lóc thảm thiết. Dân làng thấy vậy bèn làm cho em một cái trang thờ để nhang khói cho em. Câu chuyện của em thật tội nghiệp.
Trong đời lính của tôi, tôi sợ nhất là phải đi báo tin tử trận hoặc thăm viếng những gia đình có người thân chết trận. Vậy mà có lần tôi phải làm chuyện này một cách bất đắc dĩ.
Chuẩn úy Nguyễn Mạnh Hà ra trường sau tôi gần một năm, lúc đó anh ta mới 19 tuổi, còn đặc sệt nét con nít. Mặt Hà đầy mụn trứng cá, suốt ngày chỉ thích ăn kẹo, có ai rủ nhậu, nể lắm anh ta mới uống một ly, vừa uống vừa chắt lưỡi hít hà như uống thuốc độc. Điều đặc biệt nhất của Hà là anh ta rất sợ tiếng nổ, khi nghe tiếng đại bác anh ta nhắm chặt mắt lại, bịt kín lỗ tai và mặt mày tái mét. Lúc đầu anh ta về làm phó cho tôi, làm giọng "chảnh" tôi hỏi anh ta một cách xách mé: "Sao ông nhát hít như vầy mà sao lại xin về Trinh sát?" Anh ta bèn phân trần, đâu có xin xỏ gì, Ban Quân số thấy không có ai tình nguyện về TS nên bèn chỉ định bừa, ai dè trúng ngay anh ta. Khi đụng trận tôi lo cuống cuồng đủ mọi chuyện, vậy mà còn phải ngó chừng cho anh ta nữa, vì Hà có biết cái gì đâu, thiệt khổ.



Càng về sau, các sĩ quan càng rơi rụng dần, Chuẩn úy Hà cà ngáo cũng được đưa lên làm Trung đội trưởng. Cái ngày định mệnh dành cho Hà là tại mặt trận Mộc Hóa. Hôm đó cả Đại đội được lịnh tấn công vào mục tiêu. Trung đội của Hà và một Trung đội nữa vỗ vào mặt chính, còn Trung đội tôi thọc vào cạnh sườn. Hà dẫn tổ đại liên chạy đến ẩn nấp vào một gò mả bằng đá ong, ngay lúc ấy phía bên kia phóng ra một trái B40, trúng ngay gò mả, viên đạn nổ tạt ra trúng vào Hà, tội nghiệp quá Hà chết nát bét không toàn thây.
Lúc Hà còn sống, mỗi khi tôi về phép, Hà thường nhờ tôi ghé qua nhà ở Sài gòn, để nhờ mang quà của gia đình xuống cho Hà, vì thế tôi khá thân thuộc với gia đình này. Hà mất chừng một tháng thì tôi xin được cái phép 6 ngày về thăm gia đình. Tôi ghé qua nhà Hà nhằm nói lời chia buồn với gia đình. Tôi vừa tới, Ba Má của Hà chạy ùa ra nắm lấy tay tôi rồi hỏi dồn dập: "Sao cái hôm em Hà nó chết mà sao cháu không về đưa đám tang cho em?" Tôi lúng túng trả lời:" Thưa lúc đó chúng cháu đánh nhau chí chết ngoài mặt trận, cho nên cháu không thể bỏ đơn vị mà về được!".
Thế là vừa ngồi xuống ghế, hai ông bà khóc ngằn ngặt, nước mắt tuôn ra xối xả làm ướt đầm cả ngực áo. Ông bà vừa khóc vừa kể lể tiếc thương cho đứa con không sao kể xiết. Nghe ông bà kêu khóc thảm thiết một hồi, tôi không chịu đựng nỗi nữa và tôi cũng không nói được một lời chia buồn nào, bởi vì lời nói nào cho đủ trước một mất mát quá lớn lao này.
Sau cùng, tôi lảo đảo đứng dậy từ giã hai ông bà để ra về. Trên đường về tôi ghé vào một quán cóc, ngồi uống rượu một mình. Tối hôm đó tôi về đến nhà khá muộn, cả nhà chờ cơm tôi khá lâu nên đã dùng trước. Tôi ngồi vào bàn, Mẹ tôi bày thức ăn la liệt trên bàn cho tôi ăn. Vừa ăn tôi vừa nghĩ, mai kia nếu mình có chết, Mẹ cũng bày đồ cúng cho mình như thế này. Tôi vừa ăn vừa lặng lẽ chảy nước mắt.
Cuối tháng 2 năm 1975, tôi bị thương một lần nữa cũng tại Mộc Hóa. Tôi được đưa về điều trị tại Bịnh xá Sư Đoàn tại Vĩnh Long. Tại bịnh xá tôi theo dõi tình hình chiến sự trên cả nước, khi mất Ban Mê Thuột tôi linh cảm điều gì đó không lành. Đến ngày 30-4-1975, khi nghe lịnh buông súng đầu hàng, trong lòng tôi nát bấy.
Sáng ngày 1-5, tôi bước ra khỏi bịnh xá, đứng trên Quốc lộ 4 nhìn về hướng Cần Thơ thấy mặt trời lên đỏ rực, báo hiệu một ngày mới. Lúc đó tôi chớ hề biết rằng, đó là cái ngày đầu tiên cho một hành trình bi thảm khác có tên là "Mạt Lộ".
Ngô Đình Châu


49. 30/4/2022 - fb Thiện Mỹ
Chị Mình Hằng quý mến ,
Chỉ còn 9 ngày nữa tháng tư buồn (30/4/1975) về lại trong lòng người Việt quốc gia Hải ngoại , có nhiều người Thiện Mỹ quen biết nói rằng :” Thôi mình hãy quên quá khứ đi mà sống vui vẻ vì tôi cũng là người linh VNCH, Thiện Mỹ cũng cố nghĩ vậy Đức Thích Ca Mâu Ni cũng dạy các con Phật là Quá khứ không truy tìm mà phải sống với hiện tại và lời cầu nguyện của Thiện Mỹ mỗi ngày “ Lạy Chúa xin cho con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm “nhưng  chị ạ, khi nhìn thấy hình ảnh những Anh  Hùng Vì Quốc Vong Thân làm sao người Việt Hãi Ngoại quên được ngày 30/4/1975 và những ngày sau 30/4/75 với mây mù giăng lối.
         Thiện Mỹ xin phép chị cho Thiện Mỹ viết lại bài thơ CHUYỆN BUỒN THÁNG 4 của chị như bằng chứng lịch sử của nước VNCH đã bị CS miền Bắc cưỡng chiếm Tháng Tư 1975
Hỡi ai thương nhớ quê hương
Xin nghe tôi kể chuyện buồn tháng tư
Tháng tư trời đất mây mù
Lệnh hàng buông súng thiên thu còn buồn !
Nghẹn ngào , nhục tủi đau thương
Oan khiên máu 🩸 đỏ ngập đường lui quân
Thân người đỗ xuống theo thân
Không làn đất phù , không lần tiễn đưa !
Xác người bốn gốc rừng thưa
Nước tôi có một tháng tư kinh hoàng
Tháng tư nghe lệnh đầu hàng
Bao người thương lá cờ vàng, quyên sinh !
Nước nguy vì nước quên mình
Mất thành, anh dũng cùng thành, chết theo !
Tháng tư khói lửa ngặt nghèo
Vô danh quốc sử bao nhiêu anh hùng
Tháng tư vợ trẻ khóc chồng
Mẹ già chan chứa giọt Hồng khóc con
Tháng tư đại bác nổ giòn
Trẻ thơ chết thảm dưới cơn đạn thù
Tháng tư rộng mở lao tù
Nước tôi từ đấy đau nhừ nỗi đau
Núi rừng người nối chân nhau
Kiếp tù lạ nhất địa cầu thảm chưa
Trong tù, tù chết như mơ
Ngoài tù , dân chết bên bờ biển đông
Biển xanh pha đỏ máu hồng
Rừng xanh lệ đỏ từng dòng mồ hôi
Tháng tư ai biến nước tôi
Thành lò hỏa ngục thiêu người tang thương !
HỞI AI CÒN NHỚ QUÊ HƯƠNG
LẮNG NGHE TÔI KỂ CHUYỆN BUỒN THÁNG TƯ
Seattle 21 tháng 4 năm 2022
 


 50. THÁNG TƯ ĐEN NHÌN LẠI  
(fb Jimmy Vu Nhân - Triều Phong)
NGƯỜI LÍNH CHẾT SAU CÙNG TẠI NGÃ NĂM BÌNH HÒA, GIA ĐỊNH SÀI GÒN.
Những người chết sau cùng trong cuộc chiến
Triều Phong - Charleston, South Carolina
“Tác giả ghi lại những gì diễn ra trước mắt mình, ngay trước nhà mình, ngay trong khu phố mình sống, những giờ phút cuối cùng của miền Nam.
Ngày ấy, tác giả vừa tròn 15 tuổi.
Viết cho ngày 30 Tháng Tư năm ấy.
Viết cho những người lính cấp bậc nhỏ, nhưng hy sinh lớn.
Viết cho những người lính vô danh,
Vị quốc vong thân lúc thành mất nước tan.
Ai cũng sống cả một đời, nhưng chết chỉ một lần.
Các anh, những người lính nhỏ,
Các anh, những người lính vô danh, nhưng hy sinh vĩ đại!

Suốt 40 năm qua, tôi đã đọc, đã nghe và cũng đã xem nhiều về những hy sinh của các tướng lãnh, sĩ quan cao cấp Việt Nam Cộng Hòa khi nước mất nhà tan vào tay Cộng Sản trong ngày 30 Tháng Tư đau buồn của năm 1975. Lúc ấy tôi được 15 tuổi, chưa trưởng thành, chưa đủ khôn và đủ hiểu biết chuyện đời, nhất là chuyện thời cuộc. Ở tuổi này, tuy chưa đủ lớn, ký ức mình cũng đủ “già dặn” để không quên điều xảy ra. Và trong ý nghĩ đó, có một câu chuyện cho đến giây phút này vẫn còn in đậm trong ký ức của tôi.

Mấy mươi năm qua, tôi cho đó là “chuyện nhỏ.” Sau này, tôi chợt nhận thức, rằng chuyện nhỏ này lại có ý nghĩa vô cùng to lớn mà hôm nay tôi muốn ghi lại và chia sẻ với những ai quý tự do, yêu độc lập và chuộng hòa bình.

Lúc ấy là 09 giờ sáng ngày 30 Tháng Tư, 1975!” (Tín Võ)
Nhiều tiếng khóc sụt sùi vỡ ra bởi lời lẽ chân thành của bà già. Cảm thấy quá đau lòng trước thảm cảnh thương tâm ấy, tôi thẫn thờ bước ra, chợt trông thấy người lính trẻ còn đang đứng dựa cột nơi quán cơm tháng của Dì Mười, khóc rấm rức như trẻ thơ. Ôi, còn đâu người chiến sĩ anh dũng ngày nào! Ôi, còn đâu bộ đồ trận kiêu hùng một thuở! Ðôi vai run run theo tiếng nấc của anh làm tôi bùi ngùi…

Thời khắc ấy cách đây đúng 40 năm, trong cảnh hỗn mang của ngày tàn cuộc chiến, trong xóm tôi ở Ngã Năm Bình Hòa-Gia Ðịnh, bỗng xuất hiện bốn năm người lính Nhảy Dù. Họ chạy lúp xúp men theo vách tường nhà Dì Sáu của tôi rồi dừng lại trước nhà tôi. Tất cả đều còn rất trẻ và người họ mang đầy súng ống đạn dược. Áo quần họ bám đầy bụi đỏ. Chỉ cần nhìn thoáng qua, ai cũng biết những người lính này mấy ngày trước đây đã từng xông pha trận mạc. Họ đứng trước khoảng đất trống, ngó dáo dác một đỗi, thì người lính có mang một bông mai trên cổ áo nói, như
ra lệnh:
– Anh em đào ở đây đi.
– Tuân lệnh thiếu úy!
Một người trong họ trả lời. Thế là các anh tháo gỡ trên vai xuống mấy cái xẻng cá nhân. Với thao tác nhanh lẹ, phút chốc họ đã biến chúng thành những cái cuốc và bắt đầu đào hố cá nhân.

Trong nhà, má tôi lo lắng ra mặt. Bà đang phân vân chẳng biết có nên di tản không và nếu đi thì chưa biết phải đi đâu. Bất ngờ, bây giờ thấy lính tráng chuẩn bị hầm hố chiến đấu trước cửa nhà, bà thêm hoảng sợ.
Tuổi thiếu niên đang lớn, hiếu kỳ, tôi tò mò bước ra sân, tiến gần đến khoảng đất trống ngồi chồm hổm xem mấy người lính làm việc. Lâu lâu có tiếng đại bác vọng về, tiếng súng bắn lẻ tẻ vang lên đây đó làm cho bầu không khí chết chóc thêm ngột ngạt, hình ảnh chiến tranh thêm rõ nét.

Dân trong xóm tôi nhốn nháo chạy tới chạy lui, mặt mày ai nấy đều lấm la lấm lét khi đi ngang qua nơi mấy người lính đang làm việc. Bộ mặt của thành phố Sài Gòn lúc đó như người bệnh nặng sắp mất.
Ðộ chừng nửa tiếng sau, khi hố được đào khá sâu, một người lính đứng lên, mồ hôi nhễ nhại trên mặt. Anh đưa cánh tay lên cao, quẹt lấy mớ tóc bê bết trên trán để lộ một cái sẹo thật to nơi đuôi mắt phải, đoạn nhìn tôi:
– Em trai chạy vô nhà lấy cho anh xin miếng nước uống đi em.

Tôi đứng dậy co giò phóng vào nhà. Ít phút sau tôi mang ra cho các anh một ca nước đá bự, một cái ly và một ít kẹo đậu phọng với bánh in mà má tôi đưa thêm. Họ ăn, họ uống, họ nói cười vui vẻ, cơ hồ như không có chuyện gì xảy ra. Chỉ có người thiếu úy là không ăn uống gì cả.

Người thiếu úy này cũng còn trẻ và đẹp trai như Tây lai nhưng dáng dấp rất phong trần, uy dũng. Tôi đoán chừng tuổi đời anh chỉ khoảng 23, 24 gì thôi. Anh có vẻ như đang lo lắng trước tình hình chiến sự lan rộng nên nét mặt luôn phủ một lớp sương mờ căng thẳng.
Nắng lên khá cao…

Bỗng một tiếng nổ lớn từ đâu dội lại rung chuyển cả mặt đất. Tôi hoảng hốt. Mấy người lính ngưng đào, ngẩng đầu nhìn quanh. Viên thiếu úy ngó về cuối xóm một thoáng rồi nói với đồng đội:
– Anh em cứ tiếp tục đi, để tôi xuống dưới này xem sao.

War of Vietnam. The last soldiers of the just Sout
Người thiếu úy xốc khẩu M-16 đang mang trên vai lên cao và bỏ đi trong tư thế sẵn sàng tác chiến. Bên trong, má tôi gọi tôi vào và không cho ra khỏi nhà, vì sợ đạn lạc. Xế trưa, lúc ông Dương Văn Minh ra lệnh cho binh sĩ buông vũ khí và đầu hàng vô điều kiện thì má tôi vội vã kêu tôi cầm cái radio-casette hiệu Sanyo ra cho những người lính bên ngoài nghe. Trong khi họ còn sững sờ thì viên thiếu úy từ dưới đang vội vã đi lên. Một anh lính trẻ giơ chiếc radio về viên sĩ quan, hớt hải, nghẹn ngào. Anh nói như sắp khóc:
– Thiếu úy, thiếu úy, ông Minh đầu hàng rồi. Mình thua rồi!

Viên sĩ quan khựng lại một lúc rồi chăm chú nhìn vào cái radio trong im lặng não nề. Tiếng ông Minh kêu gọi đầu hàng cứ được lập đi lập lại hoài khiến người sĩ quan trẻ nổi cáu:
– Ð.m. sao chưa đánh đấm gì đã lo đầu hàng?
Người thiếu úy giận dữ quát tháo, gương mặt đan xen nỗi đau và buồn.
Sau một đỗi phân vân, cuối cùng thiếu úy hạ giọng:
– Thôi đi.
Thế là họ bỏ chiến hào đang đào dang dở và hấp tấp chạy trở ra đường.

Ðộ chừng một tiếng đồng hồ sau, người ta nghe nhiều tiếng súng AK-47 nổ giòn giã rồi tiếng M-16 bắn liên thanh đáp trả. Lẫn lộn trong đó thỉnh thoảng có cả tiếng súng M-79 đệm vào. Ðứng trong sân nhà nhìn ra, tôi thấy có vài cột khói đen bốc lên cao.

Từ bên ngoài, vài người trong xóm tôi tất tả chạy về. Gặp má tôi đang đứng lấp ló nơi cửa, họ báo:
– Ðang đánh nhau ở ngoài Ngã Năm dữ lắm cô Ba.
Ngã Năm Bình Hòa là giao điểm của năm con đường từ năm hướng khác nhau. Năm Mậu Thân 1968, nhiều trận đánh đã diễn ra ở đây khi Lực Lựợng Bảo Vệ Biệt Khu Thủ Ðô của quân đội VNCH ngăn chặn các mũi tiến công của cộng quân từ bên ngoài đổ về qua mấy cửa ngỏ như Gò Vấp, Cầu Bình Lợi, Lò Vôi hay Ðồng Ông Cộ… nên nó trở thành một trọng điểm chiến lược vì là một trong những lộ chính tiến vô thủ đô Saigon.
Chiều cùng ngày, khi lịch sử đã an bài, dân chúng bắt đầu túa ra đường phố. Lớp thì đón quân “Giải Phóng,” lớp khác lại mừng đất nước “Ðộc Lập,” trong khi tôi thì tò mò theo người cậu họ ra xem tình hình ngoài ngõ. Nghe thiên hạ bàn tán xôn xao có lính chết ở chỗ Ngã Năm Bình Hòa, cậu cháu tôi lần bước tới quan sát. Một đám đông đang vây quanh trước Nhà Thuốc Tây Tiến Thành, là nhà thuốc của má thằng bạn tôi. Cố gắng chui vào đám người hiếu kỳ ấy và luồn lách một tí, tôi tới được bên trong. Giữa vòng người nọ là xác một người lính nhảy dù nằm chết cứng. Ngực thủng một lỗ lớn, chiến bào loang đầy máu và đã chuyển sang nâu sậm nhưng đôi mắt anh vẫn mở trừng trừng. Nhìn kỹ, tôi chợt giật mình: người đó chính là viên thiếu úy ban sáng!

Ðang còn ngỡ ngàng, tôi bỗng thấy có một thanh niên vẹt đám đông bước lại gần xác người thiếu úy. Anh mặc một chiếc quần tây đen ngắn củn và áo thì rộng lùng thùng như đồ của ai cho chớ không phải của anh vậy.

Anh khom người xuống, giơ tay vuốt nhẹ nhàng lấy khuôn mặt lạnh vô hồn kia. Ðôi mắt từ từ nhắm lại và nơi khóe miệng một dòng máu nhỏ rỉ ra bên mép. Dường như chàng thanh niên lâm râm khấn vái điều gì đó nho nhỏ, đoạn anh đứng lên, bước ra với đôi mắt đẫm lệ. Tôi nhận ra ngay anh chính là người lính xin nước tôi lúc sáng, nhờ vết sẹo to nơi đuôi mắt.
Thiên hạ bàn tán sôi nổi khi dòng máu tươi nơi khóe miệng của thi hài đã lâu kia rỉ ra. Người miền Nam vốn duy tâm, thiên hạ tin rằng đấy là một điều linh thiêng vì vị sĩ quan này có lẽ còn có chuyện chi oan ức.

Ðột nhiên, chị Bảy bán tạp hóa sau lưng tôi lên tiếng kể lể với những người xung quanh:
– Ông thiếu úy này và mấy người lính của ông ta nấp ở vách tường bên kia kìa. Ðứng trông cửa sổ nhà nhìn qua, tui thấy mấy ổng bắn xuống phía mấy ông “Việt Cộng” ở dưới Ðồng Ông Cộ quá trời. Cuối cùng chắc thấy không xong, ổng biểu mấy người lính của ổng chạy đi còn ổng thì vẫn ở lại. Rồi hình như ổng bị thương sao đó nên bò sang nấp vô Cổng Ðình Thần Bình Hòa này nè. Hai bên còn bắn nhau một lúc lâu nữa và khi không còn nghe tiếng súng thì tui dòm ra thấy ổng lết tới đây rồi chết luôn.
– Hết chiến tranh rồi mà chết, tội nghiệp quá! Không biết có gia đình vợ con gì không? Thân nhân mà hay được chắc là buồn lắm.

Ông già bên cạnh chị Bảy nói theo làm mọi người mủi lòng trước sự hy sinh oai hùng của viên thiếu úy. Chợt một bà cụ cầm tấm chăn, không biết từ đâu, tách đám đông bước vô phủ trùm lên xác người thiếu úy và mếu máo:
– Dù con không có họ hàng gì với bà nhưng bà thấy con chết thảm bà thương quá. Tội nghiệp, con cái nhà ai vậy không biết nữa. Thôi con chết rồi, con hãy thanh thản ra đi và nếu hồn con có thiêng thì phù hộ cho bà con nơi đây được nhiều an lành nha con!
Nhiều tiếng khóc sụt sùi vỡ ra bởi lời lẽ chân thành của bà già. Cảm thấy quá đau lòng trước thảm cảnh thương tâm ấy, tôi thẫn thờ bước ra, chợt trông thấy người lính trẻ còn đang đứng dựa cột nơi quán cơm tháng của Dì Mười khóc rấm rức như trẻ thơ. Ôi, còn đâu người chiến sĩ anh dũng ngày nào! Ôi, còn đâu bộ đồ trận kiêu hùng một thuở! Ðôi vai run run theo tiếng nấc của anh làm tôi bùi ngùi. Ngẩng mặt lên bắt gặp tôi đang nhìn anh trân trối, anh vụt bỏ đi.

Ngó cho đến khi bóng dáng xiêu vẹo của anh khuất nơi cuối chợ, tôi thấy lòng nao nao buồn. Cảm khái trước một nỗi niềm mất mát bao la của tình đồng đội thiêng liêng cao quý lẫn tiếc nuối cuộc đời binh nghiệp nữa đường gãy đổ, tâm hồn tôi tràn ngập cả một sự chua chát to lớn.

Nhưng tôi đâu biết rằng, đó chỉ là khởi điểm của một trang sử đau thương cho dân tộc, cho hàng vạn sinh linh sau này.

 

51. NGƯỜI VỀ TỪ CUỘC CHIẾN
NGUYỄN THÁI VIỆT kbc 4906 Bình Long, An Lộc 1986
Bốn mươi sáu năm nhìn lại một chặng đường
Sau cuộc chiến chúng tôi người ở lại
Trên quê hương tay, cuốc lẫn tay cày
Mùa THU về ngày tháng lạnh lùng xoay
Cuộc sống đó theo lá vàng tơi tả
Áo vẫn rách chất chồng thêm miếng vá
Quần vẫn bươm kim chỉ mỏi tay người
Quanh bốn mùa Ngô, Sắn bụng đầy vơi
Thoi thóp đứng ôm linh hồn Tổ quốc
Dòng đời đó cuốn chúng tôi xuôi ngược
Hết năm năm rồi trở lại năm năm
Mảnh Tự do vá víu chỗ ai nằm
Khoảng hạnh phúc chắt chiu đời chẳng đủ
Sau cuộc chiến chúng tôi như thác lũ
Bỏ Miền xuôi về Núi định cư đời
Thế hệ cuồng quá khứ lỏng tay rơi
Ba nhát cuốc chôn đi thời hiển đạt
Vai gồng gánh những giáo điều to tác
Người ra đi còn giữ chút màu son
Từng bạn đường chưa đến đỉnh Vinh quang
Lần lượt Chết mắt trừng theo No Ấm
Thiên đường đến ngút ngàn xa xa thẳm
Cạn Áo Cơm ai đứng ngẩn ngơ buồn
Bóng ngã Chiều vạch lối rẽ qua truông
Rừng Chật quá đời ơi! Chim tắt tiếng
Đêm giục giã Hồn rung theo tiếng kiểng
Ngày chát tai quanh tiếng gọi Anh hùng
Đánh dấu một thời con cháu LẠC LONG QUÂN
Đi tìm Mẹ giữa rừng CHÂN LÝ ĐÓ

52. ĐÊM BÊN THỀM NỖI NHỚ
Nguyễn Thái Việt KBC 4906
Người đi lưu dấu chân buồn
Hồn tôi năm tháng tiếc thương vẫn còn
Với người, nửa trái tim son
Đôi chim liền cánh, núi non điệp trùng
Cái thời nước mắt rưng rưng
Nắm cơm manh áo ngập ngừng xẻ chia
Đêm ngồi cùng ngắm trăng khuya
Về đâu? Mai mốt bên kia chợ người
Nhìn nhau mù mịt trùng khơi
Rừng sâu, nước độc, vẽ vời tương lai
Trong em nghẹn tiếng thở dài
Trong tôi sức kiệt, phôi phai kiếp này
Bụi trần vướng sợi tóc mây
Phất phơ lác đác một vài giọt sương
Bao nhiêu năm, cõi vô thường
Hồn phơi vết chém nỗi buồn nhân duyên
Lại nhìn nửa mảnh trăng nghiêng
Đêm hiu hắt sáng giữa triền hư không
Đò ngang con nước ngược dòng
Mù tăm biết chở nỗi lòng về đâu ?
 
MẤT MÁT
Nguyễn Thái Việt kbc 4906
Lên đường tuổi mới hai hai
Trong tim ngày đó bóng ai theo cùng
Chiến trường sông nước CỮU LONG
Đầm lầy, lau sậy, thư mong mỗi ngày
Nguyện cầu tình ấy không phai
Ngày tan chinh chiến sẽ quay trở về
Mẹ già nét chữ từ quê
Người con yêu dấu câu thề đã quên
Chân trời, góc bể buồn tênh
Tình người lính trận đáp đền vậy sao?
Lục bình theo nước dâng cao
Con chim Bìm bịp thét gào hoàng hôn

GỐC MAI GIÀ HIU QUẠNH
Nguyễn Thái Việt
Một mình cũng chỉ một mình
Đầy vơi cũng mỗi cuộc tình xa xưa
Trời buồn sa mấy giọt mưa
Vẫn trông, vẫn đợi, vẫn chưa quên người?
Nhớ ai? Giòn giã tiếng cười
Của hình bóng nhỏ cả đời khắc sâu
 Áo xưa ngần ấy bạc màu
Tình không duyên phận, trước sau lỡ làng?
Dư âm quá khứ bẽ bàng
Đợi chờ, bến cũ lá vàng rụng rơi
Dòng sông, năm lở, năm bồi
Tình tôi, muôn thuở,khung trời quạnh hiu
Bến mơ, ngày ấy tiêu điều
Xác xơ cánh Vạc tiếng kêu não nùng
Mai vàng lá rụng ven sông
Mang theo mộng mị, hoàng hôn cuối mùa

VIẾT CHO EM TRAI CHƯA VỀ
Nguyễn Thái Việt sđ 7 bb
(30/4/1976)

Hòa bình rồi sao chưa về vậy em
Anh trố mắt nhin lên hàng cờ xanh đỏ
Phất phới bay giữa tiếng hoan hô
Hòa bình rồi, Việt Nam thống nhất
Dân Việt Nam dũng cảm muôn đời
Máy phóng thanh vang lời ca ngợi
Sự thành công vĩ đại hôm nay?
Sự thành công của người Việt Nam
Ba mươi năm trường kỳ kháng chiến
Ba mươi năm rồi, lăn xả gian nan
Giặc đã khoanh tay, hàng không điều kiện?
Anh cũng khoanh tay như người thánh thiện
Tên tù binh giam lỏng quê nhà
Tên tù binh suốt đời kín miệng
Mỗi một lời cân nhắc, so đo
Mỗi một lời đem lên bàn mổ
Đã thành thương, thành tật trong lòng
Hòa bình rồi sao chưa về vậy em
Anh bất chợt nhìn lên
Trời mây đen nghịt
Lằn roi nào nỗi mận trong anh
Lằn roi nào nỗi mận trong em
Những lằn roi cho người bỏ cuộc
Được người đời xát muối trên thân
Ôi! Lịch sử đến bao giờ hiểu được
Những thằng con không chút hận thù
Những thằng một thời chung cuộc
Phơi những lằn oan nghiệt thiên thu



53. NGƯỜI KHÁCH ĐI XE
Tác giả Thảo Lan
Thành viên Tu Hoang chuyển đăng
 
Trung chạy xích lô cũng hơn ba năm nay. Thời buổi khó khăn, gốc là lính Quốc Gia nên chỉ có chạy xích lô là dễ dàng cho Trung kiếm tiền phụ giúp gia đình nhất. Trung cũng không đủ tiền vốn để mua một chiếc xích lô mà phải mướn xe chạy từng ngày. Thường Trung chạy từ sáng sớm đến tối mịt mới đem trả xe. Hôm nay cuốc xe cuối của Trung là đưa một người khách về một con hẻm ở gần cổng xe lửa số 6. Con hẻm khá hẹp mà một bên là dãy nhà gạch còn một bên là khu nghĩa trang hoang vắng. Khi quay trở ra thì có một người đàn ông đứng ở ven đường vẫy tay gọi xe. Mặc dù đã mệt mỏi vì cả ngày chạy bao nhiêu cuốc xe rồi nhưng sẵn có khách gọi nên Trung cũng ghé lại hỏi:
- Đi về đâu vậy anh?
Người thanh niên cũng cỡ trạc tuổi Trung có gương mặt khắc khổ và hơi xanh xao dưới ánh đèn yếu ớt từ các ngôi nhà gần đó chiếu ra không đủ soi rõ mặt. Người thanh niên cất tiếng.
- Anh chở tôi ra xa cảng miền Tây được không?
Từ đây đến đó khá xa nhưng dù sao cũng tiện hướng đi về nhà Trung nên anh nhận lời. Sau khi hai bên đồng ý giá cả thì người thanh niên lên xe cho Trung chở. Trung ngạc nhiên vì người thanh niên tướng tá cũng cao ráo tuy có hơi gầy nhưng không ngờ lại nhẹ như vậy. Mặc dù đã là cuối ngày nhưng Trung vẫn đạp xe băng băng như không hề chở ai đằng trước. Suốt thời gian lên xe người khách không hề lên tiếng và cứ ngồi yên lặng gần như không cử động. Lúc này Trung cũng mệt nên cảm thấy như thế cũng may khỏi phải bắt chuyện với khách. Thật sự khi chạy những cuốc đường dài gặp khách vui vẻ nói chuyện rôm rả cũng khiến Trung cảm thấy con đường được rút ngắn đi nhiều. Tuy nhiên đôi khi gặp khách nhiều chuyện nói huyên thuyên nhiều quá thì Trung cũng không thích lắm.

Đến nơi người khách xuống xe trả tiền rồi bỏ đi. Đến lúc này Trung tự dưng thấy ớn lạnh trong người. Anh nghĩ có lẽ mình lao lực quá sức nên muốn cảm nên cố gắng đạp xe thật nhanh về trả xe cho chủ rồi về nhà ăn uống qua loa, tắm rửa rồi đi nằm. Ngày hôm sau, sau khi ngủ qua một giấc thì Trung cảm thấy khỏe khoắn như bình thường. Trước khi rời nhà để đi lấy xe, anh sực nhớ nên móc ví đưa gần hết số tiền chạy được ngày hôm qua cho mẹ để làm tiền chợ. Trung chỉ giữ lại một ít để dằn túi cũng như để phòng xa phải thối tiền lại cho khách.

Sáng chạy vài vòng các đường phố trên Sài Gòn Trung mới gặp được người khách mở hàng kêu anh chở vào Phú Nhuận. Khi móc tiền ra để thối lại cho khách Trung mới chợt nhận thấy trong mớ tiền trong ví của mình có một tờ tiền vàng mã. Trung ngạc nhiên lắm. Tối đó khi về nhà anh hỏi mẹ xem trong mớ tiền mình đưa ban sáng có thêm tờ tiền vàng mã nào không. Bao lâu nay tiền Trung đưa về thỉnh thoảng có ngày mẹ anh vẫn cất để dành chứ không đụng đến nếu trong nhà không thiếu hụt. Mỗi ngày mẹ Trung vẫn ngồi lê la vài tiếng ngoài chợ bán quần áo cũ để kiếm thêm chút đỉnh. Hơn nữa em gái Trung làm công nhân dệt nên cũng ít nhiều phụ giúp được gia đình. Tiền Trung chạy xích lô mẹ anh thường hay cất giữ để dành sau này có việc gì trọng đại, như cưới vợ cho anh chẳng hạn, thì còn có món để chi tiêu.

Khi nghe Trung hỏi lúc đó mẹ anh mới mở tủ ra kiểm lại chỗ tiền anh đưa hồi sáng. Bên trong mớ tiền đó cũng có vài tờ tiền vàng mã. Hai mẹ con thẫn thờ chưa hiểu chuyện gì thì Trung đã lên tiếng.
- Vậy là hôm qua có đứa nào nó lừa đưa tiền vàng mã cho con rồi. Thiệt tình cái thời buổi gì mà cứ lừa lọc người ta tùm lum. Riết rồi không ai dám tin ai nữa.
Mấy hôm sau trong một cuốc xe cuối ngày chở khách về xa cảng miền Tây, Trung gặp lại người khách hôm trước. Lúc đó Trung đang trên đường dự tính về trả xe thì có người thanh niên đứng dưới gốc cây sao lớn bên vệ đường vẫy. Trung tắp xe vô lề hỏi:
- Đi về đâu anh Hai?
- Cho tôi về đường Thiệu Trị khúc cổng xe lửa số 6.
Đến lúc này thì Trung mới nhận ra người khách mà anh chở cách đây mấy hôm từ khu cổng xe lửa số 6 về đây. Một phần người thanh niên ban đầu đứng dưới gốc cây lớn nên ánh đèn đường không chiếu tới. Mãi khi người thanh niên lên tiếng anh mới nhận ra cái giọng khàn khàn nhất là cũng vẫn bộ quần áo lính cũ sờn rách mà rất ít người dám mặc nguyên bộ vào thời đó. Như Trung cũng vẫn còn giữ vài bộ đồ lính ngày xưa của mình nhưng thường trong lúc đạp xích lô anh chỉ mặc hoặc quần hoặc áo chứ ít khi mặc nguyên bộ.
Cũng vẫn như lần trước khi lên xe người thanh niên cứ yên lặng không nói năng gì. Và cũng từa tựa lần trước, chở người khách này Trung cảm thấy nhẹ tênh như chở một đứa nhỏ. Đạp được một quãng Trung lên tiếng hỏi:
- Thấy bộ đồ anh mặc tui đoán anh cũng là lính mình ngày xưa. Tui cũng vậy. Dân sư đoàn 18 nè. Còn anh đơn vị nào?
Mãi vài giây sau người thanh niên mới cất giọng khàn khàn:
- Tôi cũng sư đoàn 18 thuộc trung đoàn 43 của đại tá Hiếu.
Trung mừng quá nói huyên thuyên.
- Tui thuộc trung đoàn 52 nè. Trời vậy là gặp chiến hữu mà không hay. À quên xin lỗi không hỏi anh cấp bậc gì để dễ xưng hô. Tui chỉ là hạ sĩ quèn thôi nên nhờ vậy giờ mới đạp xích lô chứ không thôi cũng đang mút mùa ở trại tù nào rồi.

Người thanh niên ậm ừ một lát rồi nói bâng quơ.
- Thôi chuyện qua rồi đừng nhắc nữa anh.
Trung bỗng cụt hứng không muốn hỏi han gì thêm nữa. Vừa đạp xe Trung vừa ngẫm nghĩ, “có khi nào anh chàng này ba xạo nói bừa không ta”, “hay cũng có thể anh ta sợ không tin tưởng mình”. Nghĩ như vậy Trung đỡ cảm thấy bực bội trong lòng như trước đây vài giây. Anh nghĩ thêm, “chắc không phải xạo rồi vì nếu không làm sao anh ta biết được trung đoàn 43 của đại tá Hiếu chứ?”. Mặc dù không nằm dưới đơn vị của đại tá Hiếu nhưng anh cũng biết tên các vị chỉ huy khác của sư đoàn.

Cả hai im lặng cho đến khi xe rẽ vô con hẻm nhỏ mà một bên là nhà và bên kia là nghĩa trang. Người thanh niên dơ tay làm hiệu cho Trung dừng lại. Anh bước xuống và dúi vào tay Trung một nắm tiền giấy. Trung tính trả lại vì anh muốn giúp đỡ cho người chiến hữu sát cánh trong lửa đạn cùng đơn vị với mình ngày xưa nhưng người thanh niên đã đi băng băng vào hướng nghĩa trang. Trung nhét tiền vô túi và hơi ngạc nhiên vì trước giờ cứ ngỡ nhà anh ta phải ở phía bên này thay vì đi sâu vô khu nghĩa trang tăm tối đó.

Về đến nhà, như mọi bữa Trung lấy tiền trong ví ra đưa cho mẹ. Khi mẹ anh chìa tay ra đón thì cả hai bỗng giật mình vì trong mớ tiền đó lại có vài tờ tiền vàng mã. Đến lúc này thì Trung bỗng cảm thấy lạnh xương sống khi nghĩ ngay đến người thanh niên vừa rồi. Hèn gì mà lần nào chở anh ta cũng nhẹ tênh. Trung kể đầu đuôi cho mẹ mình nghe về người khách mà anh đã chở hai lần giữa nghĩa trang và Xa cảng miền Tây. Mẹ anh trầm ngâm suy nghĩ một lát rồi nói:
- Mẹ nghĩ hồn anh ta còn có điều gì khúc mắc nên chưa siêu thoát. Hơn nữa có thể anh ta và con cũng có một chút duyên nên mới hai lần cho con gặp mặt. Mẹ nghĩ có lẽ mộ anh ta nằm ở nghĩa trang đó. Khi nào rảnh mẹ con mình ghé đó xem sao. Con có nhớ mặt anh ta chứ.
- Hy vọng xem hình trên bia mộ thì con sẽ nhận ra chứ giờ bảo nhớ thì con cũng không dám chắc vì cả hai lần anh ta đều đón xe trong bóng tối và sau đó thì đi rất nhanh.

Ngày hôm sau, sau khi chạy được vài cuốc xe kiếm đủ sở hụi tiền mướn xe Trung quay về nhà chở mẹ đến khu nghĩa trang ở khu cổng xe lửa số 6 để tìm môt cách hú họa. Nghĩa trang tuy nhỏ nhưng đi tìm kiếm ở từng ngôi mộ thì cũng không phải dễ dàng. Hơn nữa có những chỗ chật hẹp xe xích lô không vào được, Trung phải chờ bên ngoài để một mình mẹ anh đi vào tìm kiếm. Sau hơn một tiếng rà soát, hai mẹ con tính bỏ cuộc quay ra thì bỗng dưng ngay trước mặt Trung là một tấm bia không hình ảnh. Đó là lý do tại sao ban đầu hai mẹ con không để ý tới. Trên tấm bia ghi rõ:
Thiếu Úy Nguyễn Văn Ngọc
Mất ngày 30-4-1975

Tấm bia không ghi ngày sinh mà chỉ có ngày mất. Tự dưng Trung có linh tính đây chính là người lính cùng sư đoàn mà anh đã chở hai lần trước đây. Anh đón lấy bó nhang mẹ anh đem theo và đốt lên cắm xuống ngôi mộ và bắt đầu khấn.
- Xin lỗi thiếu úy. Hai lần chạm mặt mà không biết thiếu úy là cấp trên của em. Lòng thành chỉ có nén nhang này thắp cho thiếu úy. Xin thiếu úy cho phép em gọi thiếu úy là ông thầy cho thân mật. Ông thầy có sống khôn thác thiêng xin báo cho thằng em này biết để có điều gì có thể làm được thì thằng em này sẽ làm cho ông thầy.

Trước khi ra về, Trung đốt một điếu thuốc và cắm xuống bát nhang của ngôi mộ rồi đứng nghiêm chào đúng phong cách một người lính chào cấp trên của mình. Mấy hôm sau đó Trung cố tình né không chạy xe về khu cổng xe lửa số 6 cũng như Xa cảng miền Tây vào những khi tối trời vì cứ nghĩ nếu ông thiếu úy đó ra đón xe nữa thì không biết Trung sẽ sử xự ra sao. Một mặt đã khấn trước mộ người ta là có điều gì thì sẵn sàng làm giúp. Một mặt cứ nghĩ đến nếu giáp mặt với hồn ma lần nữa thì Trung cứ thấy lạnh xương sống.

Chả mấy chốc mà Tết đã gần kề. Mặc dù khi ấy ai nấy đều nhem nhuốc khổ sở nhưng vẫn cố gắng tạo nên một cái không khí Tết cho vui vẻ. Chợ búa cũng nhộn nhịp hơn bình thuờng. Nhìn những bó hoa vạn thọ bày bán khắp nơi Trung bỗng nhớ đến ngôi mộ của thiếu úy Ngọc. Anh ghé vào mua một bó cúc vạn thọ và bó nhang rồi đạp xe đến nghĩa trang. Từ xa Trung đã ngạc nhiên khi thấy trên mộ của thiếu úy Ngọc có ba nén hương còn nghi ngút khói và có cả đĩa trái cây. Nhìn quanh gần đó chỉ có một người đàn bà trạc tuổi mẹ Trung đang lom khom cắm nhang vào các ngôi mộ xung quanh. Trung lên tiếng hỏi.
- Thím Hai ơi. Có phải thím là người nhà của thiếu úy Ngọc nằm ở đây không?
Người đàn bà đang chăm chú cắm nhang bỗng giật mình ngẩng lên nhìn Trung rồi trả lời:
- Không phải.
Rồi bà ta đổi qua nét mặt có vẻ mừng rỡ và hỏi lại Trung:
- Vậy cậu là người nhà của người nằm nơi đây hả?
- Dạ không phải.
Đến đây thì cả hai cùng chưng hửng ngượng ngập không biết nói gì thêm. Một lát sau Trung hỏi:
- Vậy có phải đĩa trái cây này của thím Hai không? Thím Hai không quen biết mà sao đem trái cây đến ngôi mộ này cúng vậy?
Người đàn bà nhìn bó cúc vạn thọ và bó nhang trên tay Trung rồi hỏi ngược lại:
- Còn cậu hình như cũng đem hương hoa đến viếng ngôi mộ này đúng không? Cậu quen biết ra sao với người mất mà lại làm vậy?
Đến đây Trung quyết định kể cho người đàn bà nghe về câu chuyện của mình mặc dù không biết người ta sẽ tin hay không. Người đàn bà trầm ngâm một lát rồi nói với Trung.
- Chuyện dài dòng lắm. Nhà tôi cũng gần đây thôi, cậu nếu rảnh ghé qua tôi sẽ kể đầu đuôi cho nghe.
Trung dạ rồi đốt vội ba nén hương, cắm bó vạn thọ xuống ngôi mộ rồi lễ cẩn thận. Trước khi đi anh cũng không quên đốt một điếu thuốc mời người thiếu úy dưới mồ.
Sẵn xe xích lô Trung chở người đàn bà về nhà chỉ cách đó chừng trăm thước. Tại đây anh được người đàn bà đưa cho tấm thẻ bài mang tên Nguyễn Văn Ngọc và kể cho nghe câu chuyện bi tráng của những giây phút cuối đời của người lính này. Theo người đàn bà thì trưa ngày 30 tháng 4 thiếu úy Ngọc theo dòng người chạy loạn đi ngang qua khu nhà bà. Đến đây có lẽ do quá mệt mỏi và thất vọng khi nghe tin đã có lệnh buông súng đầu hàng, thiếu úy Ngọc đã tự sát bằng một phát đạn vào thái dương. Giấy tờ tùy thân trên người không có nên không ai có thể biết để liên lạc với gia đình của người mất. Trong lúc hỗn loạn đó, vợ chồng bà cùng vài người hàng xóm đã đứng ra chôn cất cho anh ta ở ngay khu nghĩa trang gần nhà. Bia mộ thì viết dựa theo tên trên tấm thẻ bài và cấp bậc căn cứ vào bông mai trên cổ áo của bộ quân phục anh mặc lúc đó. Từ đó vợ chồng bà cùng những người hàng xóm năm xưa vẫn thuờng xuyên ghé thăm và chăm sóc cho ngôi mộ này. Sau cùng người đàn bà nói:
-  Tôi nghĩ cậu và anh ta có duyên với nhau nên anh ta mới xui khiến để cậu gặp hai lần. Thôi tôi giao cho cậu tấm thẻ bài này. Cậu ráng giúp tìm xem gia đình anh ta ở đâu để báo tin cho người ta biết.

Trung nhận tấm thẻ bài từ tay người đàn bà và tự nhủ trong lòng sẽ cố gắng giúp người thiếu úy quá cố tìm ra người thân của anh ta để báo tin. Dựa vào hai lần đón xe, một đi từ nghĩa trang đến xa cảng miền Tây và một đi theo hướng ngược lại Trung đoán có lẽ anh ta có người thân ở quanh khu đó. Khổ nỗi xa cảng miền Tây thì rộng mênh mông bát ngát biết đâu mà tìm. Suy nghĩ một lát Trung bỗng nhớ ra cả hai lần đưa và đón người khách đi xe luôn đứng ở dưới gốc cây sao lớn trước một ngõ hẻm. Như thế có lẽ nhà người thân anh ta chỉ ở quanh quẩn đâu đó. Trung đạp xe ngay đến đó và bắt đầu gõ cửa từng căn nhà trong con hẻm để hỏi thăm về tung tích người thiếu úy tên Ngọc. Những căn nhà đầu tiên anh hỏi thăm đều là những gia đình mới dọn về sau này nên không ai có thể cho anh thêm thông tin gì. Đến căn nhà ở quãng giữa con hẻm có một người thiếu nữ trạc tuổi Trung đã cho anh một chi tiết quan trọng.

- Anh hỏi thăm thử căn nhà có trồng cây bông giấy trước sân đó xem. Ngày xưa tôi biết gia đình đó có một người con trai cũng cỡ tuổi tôi làm sĩ quan nhưng sau ngày 30 tháng 4 thì không thấy nữa. Hàng xóm đoán là có thể anh ta đã di tản hoặc trốn cải tạo ở đâu đó nên không ai dám hỏi.

Trung cám ơn cô ta rồi đến thẳng căn nhà có cây bông giấy bấm chuông. Một người đàn bà lớn tuổi đi ra. Trung cất tiếng:
- Dạ chào bác. Con kiếm nhà anh Nguyễn Văn Ngọc.
Trung tính nói thêm “ngày xưa là sĩ quan sư đoàn 18” nhưng anh chợt dừng lại vì vào thời điểm đó ai cũng sợ liên lụy, Trung không muốn chủ nhà nghi ngại. Người đàn bà ngần ngừ một lát rồi hỏi lại:
- Cậu quen sao với thằng Ngọc nhà tôi?
Đến đây thì Trung không còn lo ngại nữa nên trả lời người đàn bà.
- Dạ cháu là lính cùng sư đoàn 18 với ảnh.
- Cậu vào nhà chơi uống miếng nước cái đã.
Trung bước vào nhà và để ý ngay đến cái bàn thờ ở nhà trong mà trên đó có treo bức hình chân dung một người sĩ quan có khuôn mặt khắc khổ. Không thể lẫn vào đâu được, chính là người khách đi xe của anh trước đây. Người đàn bà rót nước trà mời Trung rồi lên tiếng.
- Cậu có tin tức gì của con tôi không? Cậu thấy đó, tôi lập bàn thờ cho nó vì tin rằng nó đã mất. Lần cuối tôi được biết tin tức về nó là khi đơn vị của nó đóng ở Xuân Lộc. Lúc ấy qua tin tức thì trận đánh ở đó khốc liệt lắm. Sau đó không còn tin tức gì. Vợ chồng tôi không biết nó bị bắt, bị tử trận, hay đã trốn thoát được ở nơi nào đó. Đến đêm ngày 30 tháng 4 tôi bỗng nằm mơ thấy nó mặt mũi bê bết máu. Giấc mơ chỉ thoáng qua thật nhanh và tôi chưa kịp hỏi han thì đã giật mình tỉnh dậy. Sau đó không có tin tức gì của nó nữa và tôi cũng không còn mơ thấy nó lần nào. Vợ chồng tôi cũng đi dò hỏi ở nhà những người bạn cũ của nó thì không ai hay biết gì. Bạn thân trong đơn vị của nó thì không ai ở Sài Gòn. Sau một thời gian bặt tin tức và căn cứ theo giấc mơ ngắn ngủi, chúng tôi đã lập bàn thờ cho nó và lấy ngày 30 tháng 4 làm ngày giỗ. Tôi mong là cậu có thể cho chúng tôi biết được tin tức của nó. 

Đến đây thì Trung lần lượt kể cho người đàn bà nghe về hai lần có duyên được gặp mặt thiếu úy Ngọc. Anh kể cho bà ta nghe về những người tốt bụng đã chôn cất thiếu úy Ngọc tử tế và vẫn thường xuyên chăm sóc mộ phần anh cho đến tận bây giờ. Cuối cùng anh móc trong túi ra tấm thẻ bài như một kỷ vật để trao lại cho người mẹ đau khổ nhưng hạnh phúc vì cuối cùng cũng biết được con mình bấy lâu nay vẫn được hương khói và mồ yên mả đẹp. Sau đó Trung đạp xe chở mẹ Ngọc đến mộ phần của anh và sau đó ghé thăm nhà của những người ngày xưa đã chôn cất Ngọc. Những cuộc gặp gỡ tràn ngập nước mắt nhưng đó là những giọt nước mắt hạnh phúc cho một cái kết phần nào có hậu. Trung đã đứng trước mộ phần thiếu úy Ngọc và khấn thầm trong miệng. “Em đã làm được việc tìm ra gia đình của ông thầy. Từ đây mong ông thầy yên nghỉ”. 

Khi Trung chở mẹ Ngọc về, người đàn bà đã giữ anh ở lại ăn bữa tối. Hôm đó cũng là ngày tiễn ông Táo về trời. Ở nhà người chị gái của thiếu úy Ngọc đã chuẩn bị mâm cơm cúng tươm tất. Sau bữa cơm Trung cám ơn và cáo từ gia đình Ngọc để ra về. Khi đạp xe ra khỏi cổng con hẻm bên gốc cây sao, Trung bỗng giật mình khi thấy người đón xe xích lô hôm trước, thiếu úy Ngọc, đang đứng giơ tay lên chào mình. Đang đà xe chạy nên Trung không kịp dừng, anh chỉ kịp ngoái đầu lại thì chỉ còn thấy gốc cây sao trống trơn. Lật đật thắng xe lại, Trung đứng vội xuống đất sửa quần áo cho chỉnh tề rồi đứng nghiêm hướng về gốc cây sao chào theo đúng phong cách cấp dưới chào cấp trên trước khi leo lại lên xe để đạp về nhà.


 

*********************
Số Thứ Tự:
30/4/1975 - Mother's Day
the Vietnamese Mother's Day 
58. MÙA XUÂN NÀO EM CÒN NHỚ ? Trần Công Đài K16/TVBQGVN
57. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 - fb An Hòa Võ Ngọc
56. CÀ PHÊ ĐẮNG TRỞ LẠI -  Người Lính Võ Bị Năm Xưa - (Trần Công Đài K16/TVBQGVN) 
55. GÃY SÚNG - fb Dai Tran
54. Phan Rang, Nỗi Hờn Di Tản – Lạc Long Huỳnh Quốc Phú - fb Cao H Sơn (Cao Hoài Sơn)
--------------- 
1. Tháng Tư buồn - Kim Châu
2. Bao Tháng Tư Rồi? Kimnga Lêthi 27B
3. Ngày này Tháng Này Của Năm Xưa - Quan Duong (Benjamin Nguyen)
 
4. Tháng Tư Ngó Lên Mái Tóc
5. Tháng Ba: Lệ Châu
6. Một Ngày Đáng Nhớ của Miền Nam Việt Nam-Tiet Dang (Đặng Minh Tâm)
7. Tình Khúc Tháng 3 Buồn - Thế Lộc
8. Nắng Qua Vườn Cũ - Thế Lộc
9. Chuyện Ngày Xưa - Vo Lan
10. Thiếu Úy Già Của Em - Lê Kim Nga 27B
11. Ngoại tôi - Thuyphuong Lam
12. Lỡ duyên - Thuyphuong Lam
13. CHÂN LÝ NĂM XƯA Hoàng Nhật Thơ
 
14. NGÀY MỌI RỪNG “GIẢI PHÓNG” Hoàng Nhật Thơ
15. Tháng Tư Gọi Hồn - Người Lính Già Tqlc 
16. Gió Ngày Cũ - Người Lính Già Tqlc 
17. Bốn Bảy (47) Năm - Người Lính Già Tqlc
18. CHUYỆN THÁNG 4/1975 - Vũ Đăng Khoa Nguồn fb Liên Trà
 
19. NGÀY NẦY, NĂM 1975 - Tiểu Tử
20. Nắng tháng 4 - Dương Công Khánh
21. 30/4, lấy gì để tự hào? Trung Son Nguyen
22. Nhớ Lại Những Ngày Trước Khi Bỏ Huế Cách Đây 47 năm 22/03/1975-22/03/2022 - Khuong Saigon
23. Thành Tâm Vang Nài - Cờ Tổ Quốc - Cung Phan
24. Hỡi ai thương nhớ quê hương - Ngô Minh Hằng
25. ANH ĐÂU CÓ TỘI - QUÊ HƯƠNG - VPT
26. BÁN NỖI KINH HOÀNG - Nguyễn Văn Nhượng 
27. NIỆM THÁNG TƯ - Phieu Le Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa
28. Nhớ Về Nước Việt Nam Cộng Hòa - Thien-hoang Chung
29. Tháng Tư Đen (Tâm Sự Tù Binh) – Trương Duy Huy - Hoài Niệm
30. Tưởng niệm Tháng Tư - Nguyen Anh-Vu 
31. Không Nên gọi 30/4 là ngày Giải Phóng - Nguyễn Nam Phương - (Binh Pham)
32. Ngày 30/4  chỉ là ngày chiến thắng của CỘNG SẢN - Khanh Lam Nguyen 
33. Tháng Tư Quốc Nạn (4/1975) - Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 38 BĐQ Trần Đình Tự 
34. Người Việt của Tôi. Làm Sao Quên Được - Nguyễn Khắp Nơi
35. Quốc Hận 30/04 - "Người Phi Công Liều Mạng!" by Tango Bui
36. THÁNG TƯ ĐEN LẠI VỀ - Phieu Le
37. TƯỞNG NIỆM!… Phieu Le 
38. NIỆM THÁNG TƯ  - Phieu Le 
39.
40. Ngày Này của 47 Năm Về Trước - Phieu Le (Lê Phiếu Hồng Tiễn 538)
41. Máu Cọp Biển Và … Nỗi Buồn - Hoài Niệm
42. Ly Rượu Cho Mày (Ly Rượu dở dang) - Hoài Niệm
43. Chia Tay Chẳng Nói - Thanh Q Tran 
44. Tháng Tư Nhắc Lại Một Chuyện Buồn - Ngọc Ánh (Tango Bui) 
45. Vị tiểu đoàn trưởng cuối cùng của tiểu đoàn 1 Quái Điểu -Mũ Xanh Nguyễn Minh Châu (fb Steven Lam) 
46. CHIẾC LÁ BAY XA (fb Phục Hưng)
47. Cuộc Gặp Gỡ Kỳ Diệu - (Taberd75 (FB Victor Đoàn) - Tango Bui chuyển)
48. 39 năm nhìn lại - Ngô Đình Châu (fb Meo Hoang) 
49. 30/4/2022 - fb Thiện Mỹ 
50. THÁNG TƯ ĐEN NHÌN LẠI (fb Jimmy Vu Nhân - Triều Phong)     
51. NGƯỜI VỀ TỪ CUỘC CHIẾN - Nguyễn Thái Việt
52. ĐÊM BÊN THỀM NỖI NHỚ - Nguyễn Thái Việt 
53. NGƯỜI KHÁCH ĐI XE (Thảo Lan - Thành viên Tu Hoang chuyển) 
 
Nỗi Đoạn Trường:
* Nhat Tan Huynh
Tháng Tư mất nước, tan nhà
Tay buông súng trận nhạt nhòa lệ rơi !
* Nhat Tan Huynh
Một ngày tang tốc kinh hoàng
Miền Nam tan tác vạn ngàn đớn đau
Người người lũ lượt xuống tàu
Rời xa quê mẹ đớn đau tận cùng !
* Bi Nguyen
Tháng Tư tổ quốc màu tang, 
dân tộc đau thương oán hận tràn …
nhớ mãi tháng Tư.
* Bưởi Nguyễn
Làm sao có thể quên được vào ngày này có trăm người vui thì lại có triệu người buồn ... buồn từ trong gia đình cho đến cả một dân tộc đau thương ngậm ngùi ... chỉ có những người con miền nam việt nam mới thấu tận tim gan .....
* Nguyễnhông Sơn
Tháng 4 đến lại một lần đau, thơ hay quá anh
* Khanh Cao
Quên sao được.
Muôn đời thương tiếc.
* Thuyphuong Lam
Bài thơ hay mà buồn vì đã nói đúng hoàn cảnh lúc bây giờ. Thương nước, thương dân mình và thương những người lính mình bị giam cầm đày đoạ bởi bọn cộng sản cướp nước hại người.
 
 
More:
QUỐC HẬN 30/4/1975

No comments: