Tôi
không phải là một nhà văn, mà tôi chỉ là một người lính, lính tác chiến
đúng nghĩa của danh từ, và những điều tôi viết trong quyển sách này chỉ
là một câu chuyện, câu chuyện thật một trăm phần trăm được kể lại bằng
chữ. Tôi viết những điều mà những thằng lính chúng tôi đã trực tiếp tham
dự nhưng không ai viết lại, trong khi nhiều người đã viết về những
chuyện chiến trường thì hình như chẳng có ai dự.
----------------- ----------------
Trong lứa tuổi của tôi, lứa tuổi dưới mười khi theo gia đình di cư từ Bắc vào Nam, ngoại trừ những người có thân nhân ruột thịt bị giết bởi Việt Cộng, còn hầu hết, có bao nhiêu người thực sự căm thù Việt Cộng đâu, vì rõ rệt một điều là từ lứa tuổi tôi trở xuống, có đứa nào biết Việt Cộng là cái gì đâu. Cũng y như lứa tuổi dưới mười khi theo cha mẹ qua Mỹ từ năm 1975 ở đây bây giờ. Cũng thù ghét Việt Cộng vậy, nhưng chỉ là cái thù gia truyền, cha mẹ thù ghét thì mình cũng thù ghét theo thế thôi, chứ chẳng có gì là sâu đậm cả. Cho đến khi lớn lên, đầu óc đã tạm đủ để suy xét thì khổ một nỗi, hệ thống tuyên truyền của Việt Nam Cộng Hòa lại có giá trị phản tuyên truyền nhiều hơn là tuyên truyền. Cho nên khi vào quân đội, tôi tình nguyện vào đơn vị tác chiến thứ thiệt vì căm thù kẻ địch thì ít mà vì cái máu ngông nghênh của tuổi trẻ, vì bị kích thích bởi những cảm giác mạnh của chiến trường thì nhiều.
Tuy nhiên, vì ở một đơn vị thường xuyên tác chiến, cùng gian nguy, cùng sống chết với nhau nên tôi đã gắn bó với bạn bè, đồng đội trong đơn vị như với anh em ruột thịt. Tôi yêu đơn vị tôi, tôi yêu màu mũ, màu áo tôi, tôi yêu thuộc cấp tôi và tôi kính trọng thượng cấp tôi. Tôi bình thản chấp nhận mọi thói hư tật xấu của thượng cấp và thuộc cấp, và chính tôi cũng có quá nhiều thói hư tật xấu.
Nhưng, khi hai ông xếp lớn của tôi là đại tá Lữ đoàn trưởng và trung tá Lữ đoàn phó bỏ Lữ đoàn gồm bốn Tiểu đoàn tác chiến và các đơn vị phụ thuộc tổng cộng vào khoảng trên dưới bốn ngàn người trong cơn quẫn bách để chạy lấy thân thì lòng căm hận của tôi đột nhiên bùng dậy. Tôi giết Việt Cộng không gớm tay nhưng không bởi lòng căm thù vì giữa chúng tôi và Việt Cộng đã có lằn ranh rõ rệt, hai bên chiến tuyến hẳn hòi, hễ cứ thấy mặt nhau là giết, dùng mọi mưu mọi cách để giết nhau. Còn đằng này, vừa mất niềm tin vừa tủi nhục vì những người mình vừa kính trọng vừa phải tuân lệnh một cách tuyệt đối.
Làm thuyền trưởng thì phải sống chết theo tàu, làm đơn vị trưởng thì phải sống chết theo đơn vị. Tôi muốn nói đến tinh thần trách nhiệm của người chỉ huy. Người có quyền hành mà không có trách nhiệm nào có khác gì kẻ phản bội. Chúng ta thua không phải vì kẻ địch mạnh mà vì trong hàng ngũ chúng ta có quá nhiều kẻ phản bội và hèn nhát. Chính vì lòng thù hận sự hèn nhát và vô trách nhiệm của cấp chỉ huy nên hình ảnh và diễn tiến những ngày cuối cùng trước khi cả Lữ đoàn tan rã và bị bắt bởi khoảng hơn một đại đội du kích Việt Cộng vào nửa cuối tháng Ba năm 1975 đã như một cuốn phim nằm in trong trí nhớ của tôi, chỉ cần một cái ấn nút là được chiếu lại một cách rõ nét với đầy đủ những suy nghĩ và phản ứng của tôi, với từng diễn tiến nhỏ mà tôi đã phải trải qua.
Tôi ôm cái kỷ niệm đau đớn và tủi nhục này cả chục năm nay, qua những năm tù đày, qua những ngày tháng lang thang ở trại tỵ nạn, qua đến Mỹ, tôi đọc được lời tuyên bố của một ông tướng cũ nào đó trên báo đại khái “Ðể mất nước là tội chung của mọi người, làm lớn thì tội lớn, làm bé thì tội bé”. Tôi nghĩ ngay đến một điều là những thằng đâm sau lưng chiến sĩ có tội, và những thằng chiến sĩ đưa lưng cho xếp của mình đâm cũng có tội luôn. Ðiều này đã là cái ấn nút để tôi kể lại câu chuyện này.
Ðiều tôi muốn nói trong quyển sách này là không ai là không quay lại nhìn chỗ mình vừa ngã, và cũng không ai là không quay lại nhìn đống phân mình vừa thải. Ngã là lỗi của chính mình, và phân có thối cũng là phân của mình, vậy mà tại sao cả chục năm nay vẫn không thấy ai dám quay nhìn lại cái lỗi đã làm cho mình ngã lên ngay trên đống phân của mình, mà chỉ có toàn những lời chửi bới và đổ lỗi cho người khác, can đảm lắm cũng chỉ dám nhận một cái lỗi chung chung “lớn lỗi lớn, bé lỗi bé” đúng theo cái kiểu “Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách”. Thằng thất phu còn có lỗi thì còn ai mà không có lỗi, tôi cũng đành có lỗi vậy.
Tôi không nhớ câu này của ai: “Cái đám quân thần của triều đình cũ chẳng có gì phải ngại cả, vì khi có quân có quyền trong tay họ còn chẳng làm được trò trống gì, thì bây giờ, chỉ còn trơ lại có mỗi cái thân giá áo túi cơm, hỏi rằng họ sẽ làm được gì hơn ngoài cái giá và cái túi”.
Ðâu phải đất nước ta là một bàn cờ để hễ đánh thua ván này, xóa đi xếp quân làm lại bàn khác mà tướng vẫn là tướng, quân vẫn là quân. Ðâu phải những con xe, con mã, con chốt đã chết đi đều có thể dựng đầu dậy để làm lại một trận mới.
Trí đã không mà dũng cũng không, chỉ có mỗi cái tài dở dở ương ương là sử dụng một cách bừa bãi cái dũng của người khác đến nỗi phải bỏ cả đất nước mà chạy, đánh lừa để bỏ hàng triệu thằng dám chiến đấu tới cùng vào trong những trại tù đỏ, vậy mà vẫn còn dám chường mặt ra đòi tiếp tục làm cha mẹ dân thì quả là quá lắm lắm. Cái dĩ vãng thối tha và hèn nhát thì dù cho người đương thời có thể bỏ qua, nhưng lịch sử đâu có tha thứ. Vẫn cái chính danh là chống Cộng nhưng cái ngôn của các ông trước kia làm xếp lớn đã không thuận rồi, bây giờ phải để cho lớp người mới. Với tư thế mới, họ mới là những người thuận ngôn. Danh chính ngôn thuận mới có thể thắng được Việt Cộng, khôi phục lại được đất nước. Những con chốt thấp cổ bé miệng, những thằng bị đè đầu sai khiến ngày xưa và những người mới lớn bây giờ mới có quyền nói và mới là người có tư cách làm.
Quyển sách này không hề là một tiểu thuyết mà là một hồi ký. Bởi vì tôi chưa từng là một người cầm bút và tôi cũng không biết cách sắp xếp câu chuyện như thế nào. Tháng Ba thì mọi người đã rõ, còn Gãy Súng, tôi muốn nói lên một điều đau lòng cho những thằng lính cầm súng, khẩu súng mà không có đạn thì giá trị không bằng một khúc củi mục, chính tôi đã dẫn đại đội xung phong lên chiếm mục tiêu mà chỉ bắn bằng mồm. Súng của chúng tôi có phải là đã bị bẻ gãy không khi mà vẫn có thể tiếp tế đạn cho chúng tôi để chúng tôi chiến đấu? Ai đã bẻ gãy súng của chúng tôi? Tôi đặt chữ Gãy Súng cho quyển sách này là như vậy.
Và tôi gọi Tháng Ba Gãy Súng là hồi ký vì tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm về những điều tôi viết, tất cả những địa danh, những tên người, tên đơn vị, tất cả những diễn tiến đều là thật, thật một trăm phần trăm. Tôi không lồng vào đấy bất cứ một hư cấu nhỏ nào, chắc chắn là tôi đã quên khá nhiều chi tiết, và với cấp bậc và chức vụ thấp kém của tôi, chắc chắn là có rất nhiều dữ kiện mà tôi đã không được biết. Tôi viết lại hoàn toàn sự thật những điều mắt thấy, tai nghe, những điều tôi đã nhận lệnh và đã thi hành.
Nếu Tháng Ba Gãy Súng là tiểu thuyết thì tôi lại phải thêm một câu màu mè đại khái “những nhân vật và những sự việc đều do sự tưởng tượng của tác giả, mọi sự trùng hợp chỉ là ngẫu nhiên ngoài ý muốn...”, trong khi tôi chỉ có một điều ngoài ý muốn là tôi đã không đủ khả năng để viết tất cả những điều tôi phải viết.
Ông Gẫy Súng đã “lên tàu” - Tác giả: T. Vấn
Hồi Ký, Bút Ký, Sử Ký VNCH $ VC
Hồi Ký, Bút Ký, Sử Ký VNCH $ VC
Tâm tình một nẻo quê chung
Người về cố quận muôn trùng ta đi(Huy Cận)
Như
vậy là ông Gẫy Súng đã lên tàu về quê... Lần này thì súng của ông bị bẻ
gẫy chẳng bởi tại người, hay bởi vận nước, mà bởi cái lẽ sinh lão bịnh
tử mà không một ai thóat ra khỏi được vòng cương tỏa của nó.
Trước khi bước chân lên tàu, ông đã chiến đấu rất dũng mãnh và can trường, không kém gì trận chiến năm xưa dù sau đó súng của ông (và của rất nhiều những chiến hữu của ông) đã bị bẻ gẫy. Súng gẫy thì vất súng, ông cầm bút. Mấy chục năm nay lưu vong nơi xứ người, với cây bút trên tay ông đã làm được nhiều việc mà không phải ai cũng làm được. Cho đến giây phút ông không còn sức để cầm bút nữa, không một ai có thể bẻ gẫy được ngòi bút của ông. Và ông vẫn là một chiến sĩ cho đến giây phút cuối cùng. Một con Kình Ngư không hề biết sợ sóng, sợ gió.
Nay thì con Kình ngư sẽ về nằm yên nghỉ giữa biển cả mênh mông, ngày đêm nghe tiếng sóng vỗ rì rào như lời mẹ ru đón con ra khỏi cuộc đời, thay cho những tiếng thét đau đớn uất hận ngày nào trên bãi biển Thuận An (Huế).
Những người bạn chiến đấu của ông, những người nằm lại trên bãi biển Thuận An từ dạo tháng Ba năm ấy, hẳn sẽ vui mừng chào đón ông, như chào đón một chiến binh quả cảm đã dũng mãnh tiếp tục cuộc chiến, dù không cân sức, thay cho những đồng đội của mình bị lọai khỏi vòng chiến một cách tức tưởi.
Tôi hình dung ra chuyến tàu “suốt” vừa ngừng lại đón ông Gẫy Súng, đang từ từ tiến vào trạm cuối cùng. Trên sân ga, lố nhố những bóng người quen thuộc của bãi biển Thuận An năm nào. Người bạn chiến đấu năm xưa đã trở về, thể xác tuy mệt mỏi nhưng thần thái ung dung. Họ lại tiếp tục ngồi bên nhau uống rượu, hút thuốc lá, chửi thề, nhắc lại cho nhau những kẻ còn, người mất (trong thế giới của những người lính gẫy súng ở giờ thứ hai mươi lăm, kẻ còn tức người đã chết và người mất, tức những kẻ còn nặng nợ trần gian, chưa mãn hạn để có thể thảnh thơi bước lên tàu). Và chắc chắn, ông Gẫy Súng có rất nhiều điều để nói cùng bạn hữu. Bạn bè ông, ngoài nỗi vui gặp lại bạn cũ, hẳn còn nỗi vui khác lớn hơn.Ít nhất, thằng Tháng Ba Gẫy Súng đã nói lên được cho họ nỗi uất ức đến chết không thể nhắm mắt của một ngày tháng Ba năm 1975.
Chỉ với một tác phẩm, quyển hồi ký “Tháng Ba gẫy sung”, ông đã làm tròn vai trò một chứng nhân lịch sử, làm tròn sứ mạng thiêng liêng của một người cầm bút. Với người cùng thời, những người đã từng sát cánh với ông ở một bên chiến tuyến, ông là hiện thân của lương tâm, của sự dũng cảm, của những khát vọng được sống một cuộc sống bình thường như một con người bình thường. Với những người đã từng một thời cầm súng đứng ở bên chiến tuyến đối nghịch với ông và những bạn bè của ông, ông là ngọn gió thổi tan đi lớp sương mù ngộ nhận, gây ra bởi một guồng máy tuyên truyền vô nhân tính chỉ nhằm gieo cấy lòng thù hận giữa những người cùng một dòng máu đỏ da vàng. Với những thế hệ chưa một ngày sống qua chiến tranh, ông là ngọn đèn soi cho họ thấysự thảm khốc cùng cực của chiến tranh, sự vô nghĩa của thân phận con người trong lửa đạn, sự độc ác vô luân của những tham vọng áp đặt chủ thuyết này, ý thức hệ nọ lên quốc gia dân tộc.
Tất cả những thành tựu không nhỏ ấy, lại là kết quả từ một tập sách mỏng, của một người vốn trước đó không phải là nhà văn. Theo lời một vị thầy của tôi (nhà văn Nguyễn Xuân Hòang), ông không phải là một nhà văn, nhưng đã viết nên “những trang văn xuôi lương thiện và giản dị về con người”.
Tôi nhớ có người nào đó bảo rằng con người ta ai cũng có hai lần chết. Lần chết thứ nhất là khi thân xác được bỏ vào quan tài. Lần chết thứ hai là khi không còn ai nhắc đến tên mình nữa.
Nếu quả đúng như vậy thì ông Gẫy Súng của tôi chỉ chết có một lần... Bao lâu người ta còn nhắc đến, còn bàn luận về cuộc chiến tranh tương tàn khốc liệt giữa những người Việt ở hai miền Nam Bắc thì ngày ấy người ta còn phải nhắc đến tên ông, nhắc đến những ngày cuối cùng bi thảm của cuộc chiến.
Hơn 25 năm nay, tiếng kêu bi phẫn của ông Gẫy Súng đã được nhiều người lắng nghe. Mỗi người, ở vị trí của mình – trong và sau cuộc chiến – đều mang một tâm trạng khác nhau khi đọc ông. Người ta có thể phản bác ông, nhưng tôi tin rằng, không một ai – dù là người ở bên kia chiến tuyến với ông – có thể nghi ngờ tính nhân bản phủ đầy những trang viết của Tháng ba Gẫy Súng, kể cả những trang mô tả sự tàn nhẫn khốc liệt nhất, kể cả ở những câu đối thọai độc ác nhất, kiểu “Đụ mẹ, đánh giặc đã quá ông thầy!”
Khi tôi viết những dòng này, hẳn đôi mắt ông Gãy Súng đã nhắm lại (tôi tin như vậy, vì ông có quá nhiều lý do để thanh thản ra đi). Ông có mãn nguyện không? tôi không thể quả quyết. Nhưng nếu tôi là ông, tôi sẽ mãn nguyện. Những gì cần phải làm cho người chết với tư cách kẻ sống sót, ông đã hòan thành xuất sắc.
Ông ra đi, những vẫn còn lại những trang viết, những “trang văn xuôi lương thiện và giản dị về con người”. Vì chúng lương thiện và giản dị, nên chắc chắn chúng sẽ bất tử.
Cụ Tiên Điền Nguyễn Du đã từng kêu lên: Bất tri tam bách dư niên hậu. Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như? Giả như ba trăm năm sau ngày cụ Nguyễn Du lên tàu “ suốt “, vẫn còn có người khóc cụ thì phỏng có ích gì cho cụ không khi thân xác cụ đã chỉ còn là nắm đất vụn. Điều quan trọng là những câu lục bát của cụ vẫn còn được lưu truyền không chỉ ba trăm năm, mà sẽ là ba ngàn năm, ba triệu năm nữa.
Còn ông Gẫy Súng của chúng tôi? Ông có cần phải thắc mắc rằng ba trăm năm sau liệu có còn ai nhớ đến ông không? Tôi không tin ông bận tâm về điều đó. Vì những trang viết lương thiện và giản dị của ông, không phải chỉ cho ông, mà còn cho một thế hệ tuổi trẻ (ở cả hai miền Nam Bắc) Việt Nam tội nghiệp. Nếu ba trăm năm sau, có kẻ hậu thế nào đó – nhờ đọc được Tháng Ba Gẫy Súng của ông – đã làm hết sức mình để tránh cho lịch sử của ba trăm năm trước lập lại, thế cũng đã quá đủ một đời phong ba rồi, phải không ông?
Mấy hôm trước, nghe tin ông đang ngấp nghé bên bờ tử sinh, tôi đã nhờ người quen kẻ biết nhắn với ông rằng “Chừng nào tới giờ lên tàu, ông cứ thanh thản lên tàu. Đừng lo cho chúng tôi. Thế nào cũng còn chỗ cho kẻ đến sau, chứ không phải như tháng Ba gẫy súng năm nào mà phải giành nhau đâu, ông Cao Xuân Huy ạ!”.
Đường đời muôn vạn nẻo, nhưng chỉ có một nẻo đích thực để trở về cố hương. Đó là lối nhỏ đi qua những tấm lòng bằng hữu, với hành trang trên vai là lòng thương yêu của những người thân kẻ thuộc trong gia đình.
Ông Gẫy Súng của tôi ơi! lối nhỏ bằng hữu đang hân hoan đón chào ông, hành trang thương yêu của gia đình đang sẵn sàng chờ ông ghé vai đỡ lấy. Chúc người về cố quận thượng lộ bình an!
Tác giả: T.Vấn
---------------------
* Ông Cao Xuân Huy thở hơi cuối cùng vào lúc khỏang 4 giờ 53 chiều (giờ Cali) ngày thứ Sáu 12 tháng 11 năm 2010. Nhận được tin do một người anh em trong gia đình TQLC của CXH cho hay qua e-mail lúc 8 giờ tối (giờ Wichita, KS đi trước Cali 2 tiếng), tôi bỏ hết mọi công việc hàng ngày, vì không thể làm được gì khác, ngòai việc ngồi vào bàn viết. Đó là bài phóng bút khi tôi vừa đọc được tin ông Huy đang ở vào những ngày cuối cuộc đời.
Đọc lại những hàng chữ cũ. Chuyện của nhiều năm trước như hiển hiện trước mặt. Tươi rói như mới vừa xẩy ra hôm qua. Rồi bỗng nhiên biến mất và tối đen như màn hình chiếc Ti Vi bị mất điện. Ông già trong hình ảnh cặp vợ chồng già ngồi lặng lẽ giữa buổi chiều thu vàng (của Ân tình tháng mười một), – thở dài thườn thượt khi nhìn thấy con gà trống nhảy lên lưng con gà mái miệng kêu cục cục,- vừa mới lên chuyến xe cuối cùng về hư vô hôm tuần trước. 86 tuổi mới chết thì cũng chẳng có gì tiếc nuối. Buổi tiễn đưa ông, tôi đứng trước quan tài, nhìn khuôn mặt người bạn già (vong niên) bình thản, bỗng thấy lòng mình cũng bình thản lạ lùng. Không gian tràn đầy tiếng hát của ông (thu âm từ những ngày ông còn là một ca nhạc sĩ tài tử), nghe ấm áp và an ủi. Một buổi lễ đưa tang không đượm chút u buồn. Một cảm giác nghỉ ngơi, nhẹ nhõm khiến mọi người trở nên thư giãn. Đây là hình ảnh lý tưởng của cái chết, của sự chia ly. Có ích gì đâu mà phải khóc lóc nỉ non níu chân người đi. Ai rồi cũng được một lần lên đường. Hãy tìm lại cái háo hức thời tuổi trẻ làm hành trang, đừng ôm đồm mang theo làm gì những kỷ niệm, chúng chỉ khiến người đi nặng xác nặng lòng.
Cũng cuối tuần trước, một chiều thu rất điển hình của thu – không gian im ắng, lá rơi xào xạc, cơn gió vừa đủ cho cảm tưởng cần một chiếc áo khóac nhẹ – những người bạn của chiều thu năm nào lại hẹn hò gặp nhau ở Oklahoma. Tuy không đủ mặt, nhưng có còn hơn không. Thay vì những tiếng đàn, tiếng hát của năm nào thì nay chỉ còn những câu chuyện, kể về... chiều thu năm ấy. Rồi ngậm ngùi nhìn nhau. Rồi chép miệng than van : thời gian như chim bay, như gió thổi. Thóang chốc đã 5 năm. Thóang chốc đã kẻ ra đi, người ở lại.
Và sáng nay, trong lúc nhấm nháp ngụm cà phê thơm phức đầu ngày, ngụm cà phê quen thuộc cho cảm giác mình vẫn còn sống, còn thở, chiếc màn hình cái laptop trước mặt chập chờn hàng chữ:
Nhà văn Cao Xuân Huy tác giả của tác phẩm Tháng 3 Gãy Súng, là một cây viết được nhiều người yêu mến và cũng là một ký giả từng cộng tác với nhiều tờ báo Việt ngữ tại miền Nam California, ông cũng là một cựu sĩ quan thuộc Tiểu đoàn 4 Kình Ngư Thủy Quân Lục Chiến, sau một thời gian vật lộn với căn bệnh Ung thu Gan, hiện nay ông đang mấp mé những ngày cuối đời, thời gian chỉ tính bằng ngày hoặc ráng lắm thì bằng tuần mà thôi...
Ngụm cà phê trong miệng bỗng nhạt thếch. Thêm một con nhạn là đà... sắp rụng. Cao Xuân Huy hơn tôi độ 1 hay 2 tuổi. Tôi chẳng quen ông, và ông cũng không biết (không nhớ) tôi là ai. Ngày mới qua Mỹ, quyển sách đầu tiên tôi đọc là quyển Tháng Ba gẫy súng, tình cờ tìm thấy nơi thư viện thành phố. Sau đó, tôi đã nhiều lần đọc lại, mỗi lần đọc là mỗi lần muốn chửi thề như tác giả đã chửi thề trong sách.
Ông nhà văn Hòang Khởi Phong, tác gỉa “Ngày N, Giờ G”, người mà trước khi vui vẻ nhận tôi vào vai em, đã cùng tôi “chỏang nhau” ra trò nhân một bài viết của tôi ông lấy từ trang Talawas về đăng trên tờ Người Việt ở Nam Cali (hồi đó HKP còn là chủ bút của tờ báo). Ông bảo, Cao Xuân Huy là em kết nghĩa của ông, ông cũng sẽ coi tôi như Cao Xuân Huy, vì chúng tôi cùng độ tuổi, cùng tính tình ngang bướng (sic). Dầu vậy, tôi vẫn không quen Cao Xuân Huy.
Một thời gian sau, bỗng một hôm tôi nhận được bức e-mail chuyển lại từ Talawas của Phạm thị Hòai. Tác giả là ông Cao Xuân Huy. Ông muốn tôi đồng ý cho ông đăng trên tạp Chí Văn Học (CXH là Tổng Thơ Ký), một bài viết của tôi vừa lên mạng Talawas, đề tài về thành phố New Orleans trong cơn bão Katrina. Tất nhiên là tôi hoan hỉ bằng lòng. Sau đó, CXH gởi cho tôi một gói to tướng những số báo Văn Học, mới cũng như cũ (thay cho nhuận bút, có lẽ! Nhưng có bao giờ tôi đòi hỏi nhuận bút đâu, nhất là với ông CXH, người dạy tôi chửi thề.). Dầu vậy, tôi vẫn không quen Cao Xuân Huy.
Mới đây, ông Cao Xuân Huy có in một quyển sách, nhan đề “Vài mẩu chuyện”, ra mắt độc giả ở hội trường báo Việt Herald. Đến phần tác gỉa phát biểu, ông nói: “ Đây không phải là ra mắt sách. Thực ra, đây chỉ là giới thiệu cuốn sách vừa mới ra của tôi với anh em” Ông chỉ nói thế thôi rồi đi xuống. Buổi ra mắt sách, theo lời tường thuật của Việt Herald (nhờ vậy mà tôi được biết chuyện này), có sự tham dự của nhiều giới, trong đó có 2 vị cựu lính Thủy Quân Lục Chiến (cấp chỉ huy trong binh chủng của ông Cao Xuân Huy) là cụ Trường Can Đòan Trọng Cảo và cụ Phila Tô Văn Cấp. Hai vị này vốn là “bạn học” nhiều năm của tôi từ hồi chúng tôi còn dùi mài cầy cuốc ở Đại-Hộc-Máu (chữ của cụ Phila). Hai cụ, trong buổi ra mắt sách ấy, khen rằng ông Cao Xuân Huy dám nói những điều mà ít người dám nói. Liều mạng cỡ như cụ Phila mà còn phải khen cái “liều” của ông Cao Xuân Huy thì quả ông Cao Xuân Huy “ngon” thật. Không “ngon” sao được khi mà ngay lần đầu tiên cầm bút viết quyển “Tháng ba gẫy súng” ông đã lừng lững đi vào văn học sử... hải ngọai. Trong suốt 25 năm nay, nhiều người đọc thuộc nhiều giới từ trong nước đến ngòai nước, vẫn còn nhắc tới “Tháng Ba gẫy sung”. Có người bảo cái tên CXH bây giờ đã trở thành “Cao Xuân Huy Tháng Ba gẫy súng”. Cũng phải thôi, vì ông không viết nhiều, vì “Tháng Ba gẫy sung” có một số phận gắn liền với số phận cá nhân ông, số phận những người cùng lứa tuổi với ông (trong đó có tôi).
Giờ đây, ông Cao Xuân Huy đang nằm thoi thóp chờ chết. Có “quậy” cỡ nào thì cũng đến lúc này. Tháng 3 năm nào ông chờ tàu hải quân vào rước ở cửa biển Thuận An, nhưng không có tàu. Tháng 3 năm đó, ông gẫy súng. Mấy chục năm sau, ông lại chờ tàu nữa. Lần này, không phải tháng 3 mà là tháng 11 (tháng của những chuyến tàu suốt chạy liên lỉ ngày đêm phục vụ khách lữ hành đã mãn hợp đồng trần gian), nên có lẽ cái huông lỡ tàu không đến nỗi đeo đuổi ông. Bị ung thư gan thì chắc chắn sẽ có tàu lại đón, chỉ còn vấn đề sớm muộn thôi. Một khi đã được lên tàu thì gẫy súng hay không gẫy súng cũng chẳng còn gì để bàn cãi, phải không ông Cao Xuân Huy, người tôi chưa bao giờ quen, chỉ biết mà thôi!
Cái tin không vui về ông khiến tôi bần thần cả buổi. Không gian mùa thu vốn chỉ làm tâm hồn con người cảm hòai, nay trước cuộc sắp-sửa-chia-tay của ông Cao Xuân Huy với trần gian, mối cảm hòai ấy lại càng thêm đậm đặc. Tôi giở ra đọc lần nữa Tháng Ba gẫy súng. Lại chửi thề!
Cám ơn ông nhé, người đã dạy tôi chửi thề (nhờ thế mà đỡ phát điên). Chừng nào tới giờ lên tàu, ông cứ thanh thản lên tàu. Đừng lo cho chúng tôi. Thế nào cũng còn chỗ cho kẻ đến sau, chứ không phải như tháng Ba gẫy súng năm nào mà phải giành nhau đâu, ông Cao Xuân Huy ạ!
Tạm biệt ông nhé, người không quen! Nhưng có lẽ sẽ quen khi tôi gặp lại ông ở đâu đó. Nơi một cõi trên hoặc cõi dưới. Khi ấy, gẫy súng còn chẳng bận tâm huống hồ cõi trên hay cõi dưới! Phải không ông Tháng Ba gẫy súng?
Xin ông thứ lỗi, lúc này đây, một góc hồn cải lương của tôi bỗng bật câu hát nho nhỏ... Thôi về đi! đường trần đâu có gì...
Hốt nhiên, ngồi trong nhà, mà tôi tưởng như mình đang đi giữa cơn mưa thu ngọt ngào.
No comments:
Post a Comment