Saturday, April 29, 2023

Anh/(qúy vị) ở đâu vào giờ phút cuối - ngày 30/4/1975? Nguyễn Văn Thành

Anh/
(qúy vị) ở đâu vào giờ phút cuối - ngày 30/4/1975?
Nguyễn Văn Thành
 tôi giữ an ninh tại phía nam đầu cầu Bình Triệu. Anh/(qúy vị) ở đâu?
-------------------
* Người Khách Đi Xe (Thảo Lan) - Tài Nguyễn Diễn Đọc
 
 
 
Ngày nầy 48 năm trước, đại đội 151/Lữ Đoàn 4/Nhảy Dù của tôi giữ an ninh tại phía nam đầu cầu Bình Triệu (ngày 29/4, xem số 1, ngày 30/4 tại số 2)
Số 1 và 2 là vị trí của trung đội của tôi trấn giữ. Gồm 28 người lính Nhảy Dù; cả lính lẫn quan. Tại vị trí số 2, sáng ngày 30/4/1975. 
NẾU. NẾU...
 
Nếu 1 ai trong đoàn người di tản; nhìn đến tận chân trời, mà trước mặt tôi phần nhiều là binh sĩ của chúng ta, bước qua
RÀO CẤM của tôi, thì có lẽ giờ này tôi không có cơ hội viết đoạn văn này cho qúy vị đọc. Bỡi vì, quân lệnh tôi nhận được lúc ấy là:"CHẬN HỌ LẠI" hay nói khác hơn "NGỌAI BẤT NHẬP". Tôi đã ra lệnh cho binh sĩ Nhảy Dù BẮN cả tôi, nếu ai bước qua hàng rào kẽm gai của lính Nhảy Dù chúng tôi. 

Bây giờ đây, viết lại đoạn văn này, tôi
không khỏi "Rùng Mình" bỡi lẽ chỉ cần 1 người bước qua hàng rào kẽm gai, thì trung đội của tôi sẽ NỔ SÚNG. Dĩ nhiên, máu của tôi sẽ đổ xuống đầu tiên vì tôi đứng trên đường đạn đạo đi đến đoàn người DI TẢN.
Sự việc ngiêm trọng thế nào?
MÁU, và MÁU....,

27 người lính Dù của tôi với cấp số đạn đầy đủ. Có người dấu thêm đạn và lựu đạn trong ba lô, ngoài cấp số đạn bình thường. Quý vị có thể tưởng tượng, nếu tôi ngã xuống, thì binh sĩ của tôi sẽ làm gì? Họ điên lên ra sao? 

Nếu điều ấy xảy ra (chỉ cần 1 người; bất kể là ai bước qua hàng rào kẽm gai của chúng tôi), thì lịch sử sau này sẽ viết thế nào?
* Chúng tôi là
anh hùng, tử sĩ vào giờ thứ 25??? hay
* Chúng tôi, trung đội 1, đại đội 1, tiểu đoàn 15, lữ đoàn 4 Nhảy Dù là
TỘI NHÂN THIÊN CỔ???

Tôi xin cảm tạ sự hiểu biết của qúy vị sĩ quan và anh em binh sĩ VNCH của chúng ta năm xưa, có mặt tại phía Nam cầu Bình Triệu vào sáng ngày 30/4/1975, đã dừng lại theo lệnh cấm của tôi. Và quân ta không tắm MÁU quân mình.

Chúc qúy vị và gia đình an vui, khỏe mạnh.

Nguyễn Văn Thành,
Trung đội 1/Đại Đội 1/Tiểu Đoàn 15/Lữ Đoàn 4/Nhảy Dù/QLVNCH - USA ngày 29/4/2023

--------------

  ------------------------

* Phao Thu TrinhT-Hiep
Sáng 30-04-1975, đài Quan sát Pháo Binh tại cầu Bình Triệu báo cho Trung tâm Phối hợp Hỏa Lực Biệt Khu Thủ Đô là chiến xa Cộng Sản Bắc Việt xuất hiện bên kia cầu Bình Triệu. Đại đội của anh có thấy không? Nếu thấy thì anh đã làm gì để đối phó?
 
-
Thanh Nguyen
Phao Thu TrinhT-Hiep; rất tiếc. Tôi không biết tin này. Điều mà tôi cần đối phó là thi hành lệnh:"NGOẠI BẤT NHẬP". Không cần biết là ai, cũng không được đi qua hàng rào kém gai của lính Nhảy Dù chúng tôi, nếu tôi không cho phép. VC ở bên kia và có chiến xa? Có sao đâu. Lính Nhảy Dù của tôi, mỗi người đều có M72. Và họ rất thích ĐÁNH CẬN CHIẾN
 
* Phao Thu TrinhT-Hiep
Thanh Nguyen Cám ơn anh. Tôi chỉ muốn biết là đơn vị anh có biết Cộng Sản Bắc Việt ở bên kia cầu và có chuẩn bị gì để đối phó hay không, nhưng có lẽ đơn vị anh chỉ làm nút chặn dòng người di tản bên này cầu, nên rất có thể không biết tình hình bên kia cầu. Pháo Binh/Biệt Khu Thủ Đô có 10 đài Quan sát, các đài Radar Địa sát, các đơn vị pháo quanh Sài Gòn còn làm việc đến giờ phút cuối cùng, cũng phối hợp với Trung tâm Hành quân Biệt Khu Thủ Đô nên biết tình hình khá rõ trước lệnh buông súng!
 
- Thanh Nguyen
Phao Thu TrinhT-Hiep Cảm ơn anh. Vấn đề đối phó với T54 tôi không biết được vì tôi chỉ là cấp Trung Đội Trưởng, nhưng tôi biết được phía sau lưng tôi; khỏang chừng trên dưới 100 thước có 2 chiếc xe Jeep của Tiểu Đoàn 15/Lữ Đoàn 4/Nhảy Dù có sẵn 2 khẩu 106ly. Trung đội tôi làm nút chắn đoàn người di tản tại phía Nam cầu Bình Triệu, cũng là phòng tuyến ngoài cùng chặn đứng sự tiến quân của VC vào Sài Gòn. May mắn cho tôi, và tôi rất tự tin về sự chiến đấu của binh sĩ của mình. Phần lớn binh sĩ trong trung đội của tôi là những chiến sĩ anh dũng, và họ là những người lính Nhảy Dù sống sót sau những trận chiến ác liệt, đẫm máu của nhiều năm trước, và họ cũng đã vừa trải qua trận Thường Đức ngoài miền Trung. Số còn lại, họ đã trải qua nhiều sắc lính, như TQLC, BĐQ,... Họ cũng là những chiến sĩ đã từng vào sinh ra tử. Điều đáng nói ở đây là tôi. Chỉ có 1 mình tôi là chưa có 1 chút kinh nghiệm chiến trường nào cả. Nhưng không sao. Tôi tin là tôi có thể điều khiển những chiến sĩ Nhảy Dù gan dạ kia chiến đấu. Tiểu Đoàn 15/Lữ Đoàn 4/Nhảy Dù ở vào ngày 30/4/1975, súng đạn rất đầy đủ, và chưa dùng bao nhiêu. Và nữa, binh sĩ của tôi rất thích đánh CẬN CHIẾN vì tất cả họ đã được ông đại đội trưởng của tôi, đại đội 1/Tiểu Đoàn 15/Lữ Đoàn 4/Nhảy Dù đã huấn luyện võ thuật cho họ rất thường xuyên. Đến nỗi, tôi vừa ra trường, vừa nhận đơn vị, nhưng họ vẫn không ngần ngại yêu cầu tôi dạy võ thuật cho họ một cách tích cực và chỉnh tề tại phòng tuyến ngoài cùng của Sài Gòn. Trung đội của tôi, có thừa đạn trên 1 cấp số. Lựu đạn lại có thừa, M72 không thiếu. Tôi nghĩ, nếu không có lệnh đầu hàng của tên hèn tướng họ Dương, thì VC muốn vượt qua trung đội của tôi là MỘT VẤN NẠN LỚN CHO CHÚNG, vì muốn đạp lên xác chúng tôi; VC chỉ có 1 độc đạo; ấy là phải vượt qua cầu Bình Triệu. 
 
Nếu chúng dám vượt qua, tôi tin là tôi có thể xử dụng những binh sĩ của chúng ta ở trước mặt tôi, và giúp chúng tôi chiến đấu. 
- Trước tiên, tôi đã tìm và sát nhập những sĩ quan thuộc Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam vào đơn vị Nhảy Dù của chúng tôi tại vị trí này. Họ là các niên trưởng của tôi (những sĩ quan có nhiều kinh nghiệm trận mạc, và coi cái chết nhẹ tợ lông hồng của các khóa 23,... 24,..26,... 27);
- Kế đến,  tôi đã nhờ 1 ông Tr.Úy trưởng xa của chiếc GMC quay đầu khẩu đại liên về phía sau, sẵn sàn cho việc chạm súng. 
- Và tôi cũng tin tất cả những binh sĩ của chúng ta ở trươc mặt tôi sẽ nghe lệnh của tôi khi cần chiến đấu để sống còn, cả lính lẫn quan, dù rằng một số sĩ quan có cấp bậc cao hơn tôi. 
 
Nhưng sự việc xảy ra ngoài ý muốn. Và bây giờ, chúng ta nói với nhau điều không xảy ra.
 
* Phao Thu TrinhT-Hiep
Thanh Nguyen Thật ra quân đội VNCH không phải ai cũng có cơ hội chiến đấu đến ngày 30-04-75. Nhiều đơn vị miền Nam (vùng 1 & 2) đã bị rã ngũ từ tháng 3/1975 vì không còn sức kháng cự trước địch quân đông gấp 5-7 lần, lại bị hết đạn, mất liên lạc với đơn vị cấp cao, bị bắt làm tù binh. Như vậy coi như anh em đó đã hoàn thành trách nhiệm rồi!. Một số cũng vào được vùng 3 trình diện để tái bổ sung. Như Tiểu Đoàn 46/Pháo Binh, đơn vị tôi, cũng nhận một số sĩ quan của các đơn vị Pháo Binh thuộc Sư Đoàn 22, Sư Đoàn 23.. Nói chung họ không bỏ ngũ là quý lắm rồi!
 
Vậy vấn đề là họ không cần phải giữ trách nhiệm gì quan trọng, cũng không nhất thiết phải chiến đấu đến ngày 3-04-1975, bởi lẽ hoàn cảnh không cho phép.
Đơn vị tôi (Tiểu Đoàn 46/Pháo Binh) 155mm trực thuộc Pháo Binh/Quân Đoàn 3 đi hành quân khắp lãnh thổ vùng 3, chiến trường Cambodia, cũng đóng vị trí với Pháo Binh Dù (1970) tại Tây Ninh để yểm trợ cho Dù, vì 155mm bắn xa hơn Pháo Binh Dù, Tuy nhiên 46 Pháo Binh luôn luôn có 1 Pháo đội đóng tăng cường cho Pháo Binh/Tiểu Khu Gia Định ở ven đô để bảo vệ Sài Gòn.
 
Tôi làm việc tại Trung tâm Phối hợp Hỏa lực Pháo Binh/Biệt Khu Thủ Đô với chức vụ Sĩ Quan Liên lạc/46 và cũng điều hành hỏa lực tại đây. Mấy Pháo đội Dù, Biệt Động Quân tại Sân Vận động Cộng Hòa, Trường đua Phú Thọ vào ngày cuối tháng 04/1975 cũng phải vào hệ thống liên lạc của Pháo Binh/Biệt Khu Thủ Đô. Họ chiến đấu đến ngày cuối.
 
Sáng 30-04-1975 Trung đội 2C thuộc 46 Pháo Binh đóng tại vị trí Bà Hom (Bình Chánh) bị cộng quân tràn ngập. Trung úy Thảo Trung đội trưởng 46/Pháo Binh tử trận, coi như chết theo đại bác vào giờ thứ 25!
 
Chúng tôi biết lệnh buông súng của Dương Văn Minh nhưng chỉ tan hàng khi có chỉ thị trực tiếp từ Chỉ huy trưởng Pháo Binh/Biệt Khu Thủ Đô.
Vài hàng gửi anh. Chúc anh khỏe!
 
-
Thanh Nguyen
Phao Thu TrinhT-Hiep Chào. Cảm ơn anh;
Sau 48 năm thất thế, nhưng chúng ta có cơ hội bàn luận về những điều không mong muốn năm xưa, quả là chúng ta còn diễm phúc. Chỉ mong anh và gia đình an vui, khỏe mạnh là tôi vui rồi. Ở tuổi này, điều có thể làm được thì tôi làm. 
 
Ngày ngày, tôi cố gắng tìm đọc và ghi lại những tài liệu có gia ́ trị lịch sử; hầu giúp cho các thế hệ mai sau hiểu được cái ƯU và KHUYẾT ĐIỂM của thế hệ chúng ta trong việc GIỮ NƯỚC. Hy vọng sẽ giúp ích cho họ. Còn việc, có ích hay không?, không phải là việc của chúng ta.
Mong anh giữ gìn sức khỏe.
Chào anh.
 
* Nguyen Van
30-4-75 đơn vị tôi giữ QL4 và 9 giờ tối rút về Quận Châu Thành Vĩnh Long. Sáng1-5 tôi được lệnh Tr Tá Tr ĐT 16/lái xe ra ra Cầu Đôi đưa vẹm vào bàn giao …rồi tôi tìm cách giọt…
* Nguyễn Thế
28, 29 ra trường. Còn lại 30,31 . Thường trú Trường BB Thủ Đức cách QL1 2km . ABCD,EFGH 30,31 .. lúc 9giờ 30 chiếc TANK T54 VeChai Was Burn at Camp’s gate . 10h00 . Big Minh : shut down.
-------------- 

Mac Phi Hoang
Thiên Thần Mủ Đỏ
Họ tức tưởi buông súng
Như kẻ tín đồ buông cây thánh giá
Vào giờ phút cuối cùng
Khi tình thế đã hoàn toàn tuyệt vọng
Khi bạn đồng minh đã trở mặt cuốn cờ
Khi chủ tướng đã đầu hàng tháo chạy
Giữa Sài Gòn tơi bời hoảng loạn
Những thiên thần gãy cánh bơ vơ.
Họ đau đớn trong niềm đau mất nước
Đầu ngẩng cao nhìn quân thù thách thức
Mắt lộ hào quang loé niềm u uất
Bàn tay mắm chặt nộ khí xung thiên
Tại sao?
Cả một cơ đồ hoa gấm vạn niên

Một đạo quân oai hùng bách thắng
Bỗng nhiên
Sụp đổ tan tành
Trong niềm cay đắng.
Họ buông súng nhưng không hề chiến bại
Khi kẻ thù còn bàng hoàng kinh hãi
Và thế giới năm châu ngưỡng mộ cúi đầu
Nghìn năm sau

Trong quân sử Việt nam
Còn vang dội chiến công
Và lòng quả cảm
Của những thiên thần mủ đỏ
Người lính nhảy dù
Những đứa con ưu tú
Của nòi giống Rồng Tiên.
https://fdfvn.wordpress.com
------------
 
 
-------------- 
 
*
Tran Quang Thoai
KÝ GIẢ LARTEGUY (phóng viên người Pháp) đã ghi trong cuốn sách VĨNH BIỆT SAION của ông rằng :
Tôi đã thấy tận mắt các sinh viên trường Võ Bị Đà Lạt , khoảng 1 tiểu đoàn sinh viên sĩ quan, lực lượng trừ bị chót của QLVNCH , tiền ra trận địa tại giao lộ Thủ Đức -Saigon.
 
Tiểu đoàn sĩ quan trong những bộ đồng phục mới , giày chùi bóng láng, súng trường cá nhân tiến ra chiến trường. Chỉ còn thiếu cái mũ diễn hành và đôi bao tay trắng.
 
Một đồng nghiệp của tôi là RAOUL Coutard đã thu được cảnh xuất quân bi tráng ngay vào máy quay phim và cố nén xúc động để hỏi 1 thiếu úy sinh viên sĩ quan :
- Các anh có biết là sắp bị giết chết ngoài kia không ?
Thiếu úy trả lời :
- Chúng tôi biết chứ !
- Vì sao ?
- Nhiệm vụ chúng tôi bảo vệ đồng bào và Tự Do cho miền nam
Họ tiến lên phía trước , tiếng súng nổ vang trong bóng đêm , không ai biết số phận của hơn trăm sĩ quan ra sao vào sáng 30/4/75

------------------------

 

 ------------------------

Yến Ngọc Hải Âu

HUYẾT LỆ SỬ
Trang tình sử ngàn năm khóc hận
Đỏ rực trời xém tận chân mây
Thù vây quanh tứ bề thọ địch
Nước điêu linh nhuộm đỏ kinh thành
Mành tang phủ một màu u ám
Nước Việt buồn ảm đạm màu tang
Bờ cõi nguy nan giặc đã tràn
Giang san đổi lấy trang huyết lệ
Tiếng kệ lời kinh tính hung tàn
Mang gieo tang trắng sầu ai oán
Sử lại sang trang ngàn tiếng oan
Bẽ bàng cớ sự cũng lỡ làng
Phận làm nô lệ kiếp đeo mang
Gông xiềng ngày tàn một dân tộc
Bỗng chốc quy hàng trước nguy nan
Giang san nhuộm đỏ trang tình sử
Hoàng_Sa sóng dữ đang thét gào
Trường_Sa nuốt lệ khóc thương đau
Vật báu cha ông ngày đánh mất
Nước mắt niềm đau uất nghẹn ngào .
----Y. N. HẢI ÂU
 --------------
 
-------------

Nguyen Anh-Vu
Người Chết Ở Giờ Thứ 25:
THƯỢNG SĨ NGUYỄN NGỌC ÁNH
Là người quân nhân, trong cuộc đời lính chiến của mình, ai không một lần được chứng kiến những chiến công hiển hách của đơn vị hoặc một sự hy sinh anh dũng của đồng đội mình. Bởi vậy, suốt hơn 5 năm sống trong quân ngũ, tôi đã được chứng kiến khá nhiều gương hy sinh của cấp chỉ huy, bạn bè và những thuộc cấp của mình. Nhưng có lẽ ấn tượng sâu sắc nhất vẫn mãi mãi in đậm trong tâm hồn tôi cho đến bây giờ, chính là cái chết của Thượng Sĩ Ánh, người trung đội trưởng trẻ tuổi và tài năng của Đại Đội tôi…
Thượng Sĩ Nguyễn Ngọc Ánh, 21 tuổi, Trung Đội trưởng Trung Đội 2, Đại Đội 4, Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 15, Sư Đoàn 9 Bộ Binh có lẽ là một Thượng Sĩ trẻ nhất của QL/VNCH.
 
Gặp và biết được Ánh, khi tôi được thuyên chuyển về Tiểu Đoàn 3/15, và được Tiểu Đoàn đưa xuống làm đại đội trưởng Đại Đội 4, thay thế cho vị ĐĐT tiền nhiệm vừa thuyên chuyển nhận công tác khác.
 
Cũng như các đơn vị trưởng khác, trước khi tiếp xúc với anh em binh sĩ trong đại đội, tôi cho mời tất cả các cấp chỉ huy từ Tiểu Đội trưởng trở lên, để làm quen và tìm hiểu tâm tình của anh em binh sĩ trong đại đội. Ấn tượng in đậm trong tâm hồn tôi mạnh nhất là hình ảnh một anh lính rất sữa: nhỏ con, dáng dấp trắng trẻo như một thư sinh, rụt rè, bẽn lẽn khi phải tự giới thiệu về mình: 
- E…m, em Trung Sĩ Nhất Nguyễn Ngọc Ánh, số quân…
 
Trong lúc cậu ta đang tự giới thiệu về mình, Thiếu Úy Quang (ĐĐ phó) nói nhỏ vào tai tôi:
– Nó thì lúc nào cũng như con gái vậy, nhưng trung úy coi chừng lầm chết… mỗi lần đụng địch là tự nhiên nó lì lợm và dữ như cọp vậy.
 
Từ ấn tượng ban đầu tốt đẹp đó, dần dần tình cảm tôi dành cho Ánh không còn đơn thuần là tình cảm của một cấp chỉ huy đối với một thuộc cấp, mà tôi coi nó như một người em ruột của mình. Ngược lại, Ánh cũng rất qúi trọng và không hề giấu diếm tôi điều gì về cuộc đời và gia đình Ánh:
– Trung úy biết không?…
Tôi ngắt ngang:
– Lại Trung úy, em quên những điều anh dặn rồi à?
– Dạ, em nhớ, nhưng tại em quen miệng… Thưa anh, ba em bị Việt Cộng giết chết (vì ông là Phó Xã trưởng An Ninh) lúc em mới 16 tuổi, mỗi lần nghĩ đến cái chết của ổng là em không sao học được nữa. Anh biết không, bọn nó tàn ác lắm, nó đập đầu ổng chết rồi còn tàn nhẫn moi óc ra ngoài… 
 
Sau khi chôn cất ba em xong, em đã tình nguyện nhập ngũ 3 lần, nhưng không ai nhận em cả vì họ cho rằng em còn quá nhỏ, và họ khuyên em lên về nhà tiếp tục đi học. Đằng đẳng 2 năm, nói là đi học chứ thật ra đầu óc em lúc nào cũng chỉ ẩn hiện những hình ảnh về cái chết thương tâm của người cha, và những căm thù món nợ máu phải trả cho ông già. 18 tuổi, em tình nguyện ngay vào sư đoàn 9, và được cho đi học khóa Hạ Sĩ Quan tại TTHL/Đồng Đế Nha Trang. Ra trường em may mắn được đổi về Tiểu đoàn này cho đến ngày nay…
 
Ánh không kể về những chiến công của mình, về sự gan dạ và cái lon Trung Sĩ Nhất đặc cách được gắn tại mặt trận của mình, chỉ sau một năm có mặt tại đơn vị. Càng gần gũi Ánh, càng chứng kiến sự gan dạ, khôn ngoan và tài lãnh đạo chỉ huy của Ánh, tôi càng khâm phục và thương nó nhiều hơn. Có nhiều lúc, chứng kiến những hành động quá hăng say của Ánh trong chiến đấu, tôi đã phải kêu máy dzũa cậu ta một cách thậm tệ. Cũng vì cậu ta vì quá hăng say chiến đấu, đôi lúc đã quên mình là cấp chỉ huy, lao lên tuyến đầu làm nhiệm vụ của một người lính khinh binh. Bất luận lúc nào, khi nghe tiếng súng nổ là cậu ta như con hổ dữ lao lên phía trước với hai trái lựu đạn trong tay, nhào vào những dãy hố phòng thủ của địch, mặc cho lưới đạn đan kín tứ bề. Chỉ tội cho cậu hiệu thính viên, vừa phải khó nhọc bám theo Ánh truyền và nhận lệnh, vừa phải nghe những lời la hét giận dữ của tôi… và lần nào cũng như lần ấy, điệp khúc: Xin Alfa thông cảm, em thấy mục tiêu ngon quá, phải tấn công nhanh mới kịp…
 
Có một điều khá lạ lùng là, như có một phép mầu nào đó che chở: chẳng có một viên đạn nào thèm đụng đến cậu ta. Và một lần nữa, TSI Nguyễn Ngọc Ánh nhận cấp Thượng Sĩ đặc cách tại mặt trận sau một trận đánh giải tỏa tỉnh lộ từ quận Cai Lậy (Định Tường) vào tỉnh Kiến Tường, với thành tích: Tiêu diệt trọn vẹn một trung đội súng nặng của Việt Cộng. Tịch thu hàng chục cây súng, trong đó có 1 súng cối 82 ly, 1 Đại liên 12 ly 8, 2 B.40… trong lúc cậu ta vừa tròn 21 tuổi.
 
Khi tiếng súng đã im bặt, Ánh lại trở về thế giới rụt rè, e lệ cố hữu. Nếu ai chưa từng chứng kiến những hành động gan dạ và dũng cảm của Ánh ngoài mặt trận, khó có ai lại tin được rằng cậu bé với dáng dấp thư sinh đó, lại là một cấp chỉ huy khôn ngoan, dạn dày kinh nghiệm, đã gây ra không biết bao nhiêu thiệt hại đáng kể cho bọn Cộng Sản xâm lăng…
 
Nếu tất cả chỉ muốn viết những hành động gan lỳ, những chiến công và tài lãnh đạo của một HSQ trẻ của quân đội, và nếu cuộc chiến vẫn còn tiếp diễn, ngày quốc hận 30/4/75 không xảy đến cho dân tộc Việt Nam thì tôi không viết bài này. Bởi, tôi không thích ca tụng người còn sống, kinh nghiệm đã cho ta thấy: có biết bao nhiêu những vị tướng, tá… khi còn quyền thế trong tay thì tha hồ khua môi, múa mỏ. Đến lúc quốc biến thì co vòi, rút cổ, cao bay xa chạy bỏ mặc bạn bè, thuộc hạ sống chết mặc bay… Trong tù thì xum xoe, bợ đỡ nịnh hót kẻ thù, qua được nước thứ ba thì lại bắt đầu giở thói kẻ trên người trước…
 
Thượng Sĩ Nguyễn Ngọc Ánh, tuổi đời còn quá trẻ và cấp bậc thì quá nhỏ nhoi trong quân đội. Thế nhưng, anh có đủ tư cách, phẩm chất của một người lính chân chính. Hành động của anh thật xứng đáng là hành động của một anh hùng: 
 
Anh đã dùng súng
tự kết liễu đời mình, sau khi nhận được lệnh tùy nghi của Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng, do tôi ban lại. Anh đã hành xử đúng phẩm cách của một cấp chỉ huy: thà tự xử mình, chứ không để kẻ thù xử mình.
 
Tiếng súng đã nổ lúc 10 giờ 25 phút, ngày 1/5/1975 tại phi trường Mộc Hóa, tỉnh Kiến Tường của cố Thượng Sĩ Nguyễn Ngọc Ánh đã để lại ấn tượng không phai trong tâm hồn tôi, và là bài học nhắc tôi luôn nhớ: 
là chiến sĩ QL/VNCH, tôi phải luôn luôn sống xứng đáng với tâm niệm Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm.
Đông Phương
-------------
 
Nguyen Anh-Vu
NỒI GÀ KHO GỪNG….
Sáng 30 tháng 4 năm 1975, tất cả đã đi hết rồi, những người lính cận kề bên TL, người lo cơm nước, người phục vụ cá nhân, người cận vệ, chính tôi là người mang máy PRC25 theo trực thăng đưa họ về căn cứ Sóng Thần vào ngày 29 tháng 4 năm 1975, bởi bên cạnh cấp Chỉ huy và đồng đội, những người Quân nhân ấy còn có gia đình, còn vợ con nên các anh ấy đã được Tư Lệnh cho quyền tự quyết định. Ngoài Đại úy Nguyễn quang Đan, chánh văn phòng TL, Trung úy Tạ Hạnh tùy viên, là 2 Sĩ quan luôn luôn sát cánh bên Ông thì còn có tôi, người lính ATV độc thân nên quyết định chọn lựa đi theo Tư Lệnh dù không biết sẽ đi đâu ?
 
Sáng sớm hôm đó, tôi còn nhớ như in, “Đại Dương” Đại Úy Nguyễn Quang Đan, chánh văn phòng Tư Lệnh đưa cho tôi một số tiền và bảo:
- Tiểu Cần, chú đi chợ mua vài thức ăn để lo cơm cho TL hôm nay .
- Trời ....
 
Tôi kêu thầm nhưng vẫn đưa tay nhận số tiền và lên xe đi thẳng ra chợ Vũng Tàu. Trên đường đi tôi miên man thầm nghĩ và lo lắng, tôi chỉ là một ATV không hơn không kém, còn chuyện nấu nướng này có vẽ lạc tông xa tít rồi, đành rằng tôi cũng có nấu nướng nhưng tôi nấu cho tôi ăn, ngon hay dở cũng mình tôi mà thôi, đàng này hôm nay tôi sẽ nấu cho TL ăn ! Chuyện khó tin nhưng có thật, một vị TL nghiêm nghị ít nói, hiếm cười, mà cả thời gian hơn 2 năm làm việc cận kề bên ông không được thân thiện lắm thì thử hỏi làm sao tránh khỏi sự lo lắng trong đầu. Thôi thì một liều hai củng phải liều “Lính mũ xanh trở ngại nào cũng vượt qua”, tất cả bằng một tấm lòng. Tôi chọn mua một con gà cở trung, một củ gừng “Gà kho gừng” thì tuyệt lắm đây, chỉ là ý nghĩ thôi, còn nấu có tuyệt hay không thì hảy chờ xem. Tôi mua thêm vài trái dưa leo và một bó rau muống “Người Bắc thích rau muống” tôi nghĩ vậy.
 
10h 55 sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, trong lúc đang trông nồi thịt gà kho gừng sắp sửa xong thì Đại Dương từ văn phòng TL chạy xuống gọi tôi :
- Tiểu Cần mang máy ra trực thăng ngay, Tổng Thống ban lệnh đầu hàng rồi.
- Nhận Đại Dương 5/5, tôi sẽ ra ngay.
 
Mang chiếc máy PRC25 lên lưng, khẩu tiểu liên Tiệp Khắc vào hông, tôi còn đang phân vân không biết mang cái gì giữa nồi thịt gà kho gừng hay chiếc ba lô cá nhân ? Trong lúc thời gian khẩn cấp, “Bên trọng, bên khinh” làm sao đây ?
- Quyết định ngay đi Tiểu Cần ơi, mi không có thời gian nữa...
 
Quý đọc giả có đóan được là tôi chọn món nào không?
Thưa nồi thịt gà kho gừng, còn gia tài của một người lính tôi bỏ lại. 
 
Thật tình mà nói, sau bao năm ngồi đây ghi lại nhưng ký ức này tôi cũng không hiểu tại sao tôi chọn nồi thịt gà kho gừng, nếu bảo rằng tôi cố tình khoe cái tài nấu nướng của mình thì hoàn toàn sai vì đó không phải là cái nghề chính, cuộc đời người lính chiếc ba lô là cả một gia tài. Trong lúc tranh sáng, tranh tối chỉ phản ứng theo sự nhạy cảm, có thể trong cái nhạy cảm đó bắt nguồn từ sáng sớm chuyện nấu cơm cho TL mà đây là lần đầu cũng là lần cuối nên tôi đả bỏ quên cái gia tài của tôi.
 
Khoảng 2 giờ trưa, tàu đang lênh đênh ngoài cửa biển Vũng Tàu, thấy TL ngồi bó gối vẻ mặt buồn hắt hiu hướng nhìn vào đất liền, tôi đến gần khẽ hỏi :
- Thưa Tư Lệnh có đói không ?
 
Tư Lệnh vẫn nhìn ra biển khơi, không thèm quay lại nhìn tôi mà vẫn im lặng, chúng tôi cùng buồn, tuy nỗi buồn của mội ngừơi có khác nhau. Tôi đứng lặng yên bên cạnh ông, không dám hé môi, ngước mắt lên trời xanh, những con chim hải âu đang đảo lên đảo xuống, tôi ước gì đó là những cánh chim sắt dội bom lên đầu địch... tôi nhận lệnh và truyền lệnh của Tư Lệnh đến các đơn vị... Tôi đang thả hồn về quá khứ.. chợt giật mình dù tiếng hỏi như nghẹn trong cổ họng :
- Thế chú có gì ăn không ?
- Dạ, tôi có nồi thịt gà kho gừng, để tôi đi xin Hải Quân một ít cơm..
 
Đời tỵ nạn….
Trong căn lều dã chiến của trại tỵ nạn PENDLETON California, chỉ có Ông và tôi, hai người lính thất trận trong nghiệt ngã, phải làm kiếp lưu vong, một trung niên 43 tuổi, một thanh niên 25 tuổi nằm trên chiếc ghế bố, cách nhau chừng 3 Feet tuy gần mà xa, vì kỷ luật của Quân Đội hãy còn trong máu, trong tim của tôi đâu dể gì một ngày, một buổi xóa tan tuy rằng hiện tại ông không còn là Tướng, là TL nữa, nhưng đối với tôi, nét hào quang một vị TL của một Binh chủng hào hùng bách chiến bách thắng mà không biết bao nhiêu xương máu của những Cọp Biển anh hùng dựng nên cái hào quang đó, cho nên dù ở đâu, thời gian nào tôi luôn luôn kính trọng như đang kính trọng các Anh, những chiến sĩ “Vị Quốc vong thân”. Ngày ngày thầy trò chúng tôi trao đổi với nhau không quá mười lời, Ông theo đuổi ý nghĩ có trong Ông, còn tôi theo đuổi ý nghĩ riêng tư của tôi. Với tôi, niềm thương nỗi nhớ quê hương, cha mẹ, người em trai, và thấm thía hơn nữa đồng đội, là chiến hữu của tôi ! Mới ngày nào còn chung bước quân hành nay kẻ một nơi người một ngả, nước mất nhà tan, đau lòng hồn thiêng sông núi...
Trung tuần tháng 6 năm 1975, Tư Lệnh được xuất trại tỵ nạn vì có người bảo lãnh, Ông gọi tôi lại ngồi gần ông và ông nhìn thẳng vào mắt tôi :
- Chú có biết tại sao tôi luôn luôn nghiêm nghị và ít nói không ?
- Dạ thưa Tư Lệnh không.
- Sư Đoàn của chúng ta trên 15,000 quân nhân, với cương vị chỉ huy tôi phải làm như vậy mà thôi.
Ngưng đôi phút rồi Ông tiếp :
- Chứ thật lòng tôi là con người có nhiều tình cảm sâu thẳm trong tim ít ai biết được.
- Cám ơn Tư Lệnh đã bộc lộ tâm tình với tôi dù thật ngắn gọn nhưng tôi đã hiểu tình cảm của “Ông thầy” từ lâu và sẽ hiểu nhiều thêm nữa mãi mãi về sau.
Ông đặt tay lên vai tôi bóp nhè nhè, đây là lần đầu tiên trong đời ATV bị Tư Lệnh chạm vào người, nhưng không phải trừng phạt mà là có ý truyền thêm can đảm cho tôi. Ngần ngừ giây lâu như có điều khó nói và cuối cùng Ông nhỏ nhẹ :
- Chút nữa đây, tôi sẻ rời khỏi nơi này, trước sau gì chúng ta cũng đều phải như thế, chú ở lại, anh sẽ cố gắng tìm người bảo trợ cho chú hay chính chú có người nhận bảo trợ thì nhận ngay để ra khỏi những căn lều tù túng này càng sớm càng tốt và sau này sẽ tìm cách liên lạc với nhau.
- Thưa TL tôi sẽ cố gắng tìm cách liên lạc khi ổn định ngoài kia.
- Chú giữ chiếc đồng hồ này (TL cởi ra từ trên tay) tôi tặng chú để làm kỷ niệm tình thầy trò và 100 Dollars phòng khi hữu sự.
- Cám ơn TL, kính chúc Thầy đi bình yên và đoàn tụ với gia đình.
 
Trưa hôm đó TL đi rồi chỉ còn lại một mình tôi trong căn liều dã chiến, cái cô đơn lạc lõng tưởng chừng như trên hành tinh này chỉ có một mình tôi trơ trọi. Ngồi thừ trên chiếc ghế bố, hai tay áp lên thái dương, mắt mở lớn mà tôi chẳng trông thấy gì ngoài màn sương nước mắt và vải lều màu xám xịt. Trong lúc này tôi thấy nhớ đến các anh, những Đồng đội, Chiến hữu của tôi, vì tôi đang lẻ loi một mình….!
Tiểu Cần Nguyển Thế Thụy
-------------

Anthony Hayward
Hôm nay tôi đọc được câu này thấy có lí, chẳng biết đúng sai nhưng quả thật đêm 28 tháng 4 năm 1975 khi địch quân tiến gần đến phòng tuyến của trung đội tôi đang trấn giữ. Tôi là chỉ huy nên không phải gác nhưng tôi không ngủ được nên cứ ngắm trăng mờ mờ ảo ảo, hết nằm sấp rồi lại nằm ngửa nhìn trăng ... 
 
Đột nhiên tôi thấy 1 tốp lính tiến đến gần theo con đường xe be lên đỉnh đồi chỗ trung đội tôi đang phòng thủ. Tim tôi bắt đầu đập nhanh, đầu óc tôi làm việc tối đa để xử lý tình huống. Mình phải làm gì nếu đó là quân bạn, mình phải làm gì nếu đó là quân địch??? rồi họ càng đến gần, tôi càng lo sao lính của tôi đâu, ngủ hết rồi hay sao mà không thấy động tĩnh gì cả. Rồi tốp lính đó cũng đến nơi và họ dừng lại, tôi nghe rõ tiếng nói "C mấy mà giờ này còn nằm đây ngủ". Tôi quyết định bóp cò cây M16 tôi đã cầm lên và mở khóa an toàn để qua AUTO (bắn liên thanh). 
 
Người lính truyền tin của tôi lúc đó vẫn nằm bên tôi ngủ ngon lành.
Tôi lia cây súng từ trái qua phải vào tốp lính đó. Tiếng súng của tôi phát ra liên thanh và hết nguyên một băng đạn. Tôi đặt cây súng xuống và lăn xuống hố cá nhân. Người lính truyền tin lăn xuống bên cạnh đè cả lên người tôi. Rồi tiếng đạn nổ vang một góc trời. Tôi với tay lấy cây súng để thay băng đạn và nhìn lên đạn lửa bay ngang trên đầu như sao xẹt... Mọi chuyện xảy ra nhanh không thể tưởng tượng và xảy ra cùng một lúc.
 
Sau chừng vài chục giây đồng hồ, tất cả đều im bặt. Không một tiếng côn trùng kêu đêm. Im đến nỗi tiếng tim tôi đập nghe còn mạnh hơn tiếng trống mê linh. Người truyền tin của tôi đã ôm cái PRC-25 tự lúc nào tôi cầm ống liên hợp lên vừa run run vừa nói thì thào "34. 34. Đây 63".
 
34 là ám số truyền tin của người Đại Đội Trưởng(ĐĐT) của tôi. 63 là ám số truyền tin của tôi. Tiếng người ĐĐT vang lên trong máy.
- "Bình tĩnh, báo cáo."
Tôi vẫn còn run và trả lời giọng run run "V+ tràn ngập tuyến của tôi rồi".
 
Một câu nói thật ngớ ngẩn của 1 SQ miệng còn thơm mùi sữa tươi vừa rời trường Mẹ. Tôi nói xong câu đó, tự trách mình sao không bình tĩnh mà để lộ cái sợ hãi của mình ra trước người chỉ huy. 
 
Thế rồi tôi bình tĩnh lại. Tôi tự nhủ chết có là gì, tại sao phải sợ. Và từ lúc đó, tôi không còn sợ nữa. Nếu còn chiến trận, chưa chắc tôi lì thua ai đau. Nỗi sợ hãi là một trong những bản tính của con người. Khi mình khắc phục được nó rồi, thì trở thành người SQ gan dạ thôi. Có lẽ đàn anh tôi cũng đã từng sợ hãi khi mới ra trường.
-------------

Son H Cao
LỤC LẠI MỘT CHÚT HỒI ỨC
Phan Xuân Sinh
Sáng 30-4-75, tôi dựng xe honda ở bờ sông Sài Gòn, đứng nhìn một chiếc tàu hải quân cuối cùng rời bến. Người ta bỏ lại xe hơi, xe honda chạy xuống tàu vội vã như một chuyến đi du lịch. Trong đầu tôi không có một chút xíu nào nghĩ rằng đó là lần đi vĩnh viễn của họ rời đất nước. Thế nhưng không hiểu sao tôi lại đứng như trời trồng, không làm theo như họ. Làm một cuộc viễn du cũng thích thú lắm chứ. Nếu như đất nước sau nầy tốt, đối xử tử tế thì mình lại trở về, có sao đâu. Cái ân hận nầy làm cho tôi ray rứt mãi, nhất là những ngày đói khát, thất tha thất thểu ở Sài gòn…
 
Những đêm tập trung nhân dân ra phường hội họp, ngồi dưới đất nghe những người thắng trận trong rừng mới ra, mang dép râu, đội nón tai bèo, xối xả chửi vào mặt những người ngồi nghe là thứ bán nước, theo chân đế quốc, “ngụy” tặc. Thấm đau cho cái ngu si không biết chọn lựa của mình, để bây giờ phải lỡ khóc lỡ cười. Tôi lên xe chạy qua Khánh Hội, người ta đang mở kho vơ vét. Tôi dừng xe ngồi nhìn. Một tay thuộc loại “anh chị” khiêng bao gạo 50 kí-lô trên vai hỏi tôi có cần mua gạo không? Tôi gật đầu. Anh ta ném bao gạo trên yên sau xe honda của tôi, không cần biết tôi đưa bao nhiêu tiền, anh trở vào kho vác bao khác ra ngoài, đứng dáo dác không có ai mua, anh cho tôi thêm một bao nữa để phía trước xe của tôi mà không lấy tiền thêm. Cửa kho mở rộng ai muốn vào lấy cũng được, tội gì phải bỏ tiền ra mua. Tôi chạy xe về nhà người bạn mà tôi đang ở nhờ. Yên tâm trong bụng không sợ đói. Tôi chạy qua lại tìm mua một thùng nước mắm, hàng “hôi của” nên trả bao nhiêu tiền cũng được. Như vậy tôi vững bụng không còn sợ thiếu ăn trong những ngày sắp tới, trong những ngày tranh tối tranh sáng, vô chính phủ. Về nhà mua một lít đế, mấy miếng khô cá, tôi và thằng bạn nhâm nhi vừa mở radio nghe ông Dương Văn Minh đọc diễn văn bàn giao đất nước lại cho người thắng trận. Xem như hạ màn một cách nhanh chóng, chế độ Miền Nam cáo chung, nhường sân khấu cho Cộng Sản điều hành đất nước. Hòa bình mà toàn dân khao khát đang thực sự “hiện thực”.
 
Thế nhưng lòng người tan hoang, những chính sách sắt máu ụp trên đầu dân chúng. Đốt sách, cải tạo, đánh tư sản mại bản, đổi tiền v.v.. những món ăn mà dân Miền Nam không thể nuốt trôi, ói ra máu. Đường phố áo quần lính chất đống, người người đi trên phố khuôn mặt ngơ ngác, không có ai biết được mình sẽ đi về đâu. Mấy người trai trẻ hàng xóm mà tôi biết đó là những người lính Miền Nam, đi ngang qua nhà nhập vào uống rượu với tụi tôi, hết lít nầy họ chạy đi mua lít khác, tụi tôi ngồi nhậu tới chiều. Một bữa nhậu mà không có một tiếng nói to, âm thầm uống, hồn ai nấy giữ. Xong cuộc nhậu tự động ra về, chỉ chào nhau bằng cái gật đầu nhè nhẹ. Tôi thấy mọi người đều “xanh mặt”, mệt mỏi, lo sợ, như chờ đợi một cái gì không may ụp trên đầu mình.
 
Ngày hôm sau có những người mang băng đỏ trên tay xuất hiện trong xóm và điều khiển xe cộ trên đường phố. Trong xóm tôi ở đường Minh Mạng, Phú Nhuận, có một ông ca sĩ nổi tiếng Sài Gòn, lái chiếc xe jeep của người anh trước đây là trung tá của Miền Nam đi Mỹ để lại, trên xe ông và những người mang băng đỏ chạy khắp Phú Nhuận, hò hét như các tay “cách mạng” thứ thiệt. Có lẽ thời điểm nầy tôi đã chứng kiến được biết bao khuôn mặt tráo trở, họ không có một chút xíu ngượng ngùng, tiếp tay chỉ điểm, đắc lực làm tay sai. Quả thật tụi tôi hồi đó không sợ những người Cộng Sản mà sợ những thành phần nầy, họ làm bất cứ việc gì để lấy điểm. Nên tụi tôi thấy họ phải lo tránh xa. Không loại trừ thành phần nào trong xã hội Miền Nam, đâu cũng có thứ nầy. Qua Mỹ lại thấy ông ca sĩ nầy mặc đồ lính rằn ri hát những bài ca của lính, họ thay đổi còn hơn tắc kè. Đúng là cuộc sống đầy những nhiễu nhương.
 
Còn giới cầm bút thì sao? Một anh bạn kể lại cho tôi nghe những ngày sinh hoạt của giới cầm bút, nó cũng bát nháo như xã hội bên ngoài, chỉ điểm, hại nhau, đưa ra những “quan điểm” như một tay cộng sản thứ thiệt, những thành phần nầy còn “đỏ” hơn những thành phần trong bưng biền ra “tiếp thu”. Anh em thiêm thiếp nhận “khuyết điểm” rồi làm “kiểm điểm” như một cái máy, không dám hở môi hay ý kiến. Bây giờ các ông đã từng sinh hoạt ở Sài Gòn có cơ hội qua được đây, những người từng hầm hét, la ó, chắc rằng nghe những chuyện nầy thẹn mặt phải không? Trong cái giới mà thiên hạ quý trọng về cái “thiên chức nhà văn” mà còn hành xử với nhau tráo trở, coi nhau như kẻ thù, tìm cách dìm người khác xuống bùn đen, thì đừng trách chi những thành phần khác trong xã hội. Hồi đó anh em gặp nhau rỉ tai “Coi chừng thằng cha đó, mang băng đỏ đó”, vừa khinh tởm nhưng cũng vừa sợ sệt, là thứ “cách mạng ba mươi” mà anh em ai cũng đều lánh mặt.
 
Bây giờ kể lại những chuyện nầy như kể chuyện đời xưa, nghe lại thấy tức cười. Tội nghiệp cho những con người yếu đuối, vì tìm một chỗ yên thân mà họ phải tán tận lương tâm, làm những chuyện ruồi bu. Mấy ông có người thân đi tập kết về thì dựa hơi, bắt nạt người khác, hoặc to tiếng khẳng định lập trường của mình. Trong lúc chưa có người thì người ta để yên, mượn tay các ông để răn đe người khác. Khi có đầy đủ nhân sự thì cho các ông “chầu rìa”. Lúc đó các ông mới biết cái “lố bịch” của mình đối xử với anh em thì đã muộn. Có người phải tránh mặt anh em vì khi gặp nhau ngượng ngùng mắc cở. Có người bắt đầu ngồi quán café chửi đổng vì bị thất sủng.
 
Có lẽ trong buổi giao thời, tranh tối tranh sáng,mình mới thấy được những bộ mặt “ghê tởm” nầy xuất hiện. Họ như những tên hề đứng trên sân khấu múa may mà không biết trơ trẽn, cũng may những cây bút nầy “cách mạng” không cho viết thoải mái trên báo chí, chứ họ được cầm bút thì họ sẽ “phơ” không biết bao nhiêu đầu rụng vì họ. Không biết họ phải ăn nói thế nào với anh em bây giờ? Những người đàng hoàng họ tránh xa những loại nầy.
 
Vụ án “Hồ Con Rùa”, những tay “biệt kích” cầm bút, đều có thành phần nầy đứng bên trong chỉ điểm, chứ một mình Huỳnh Bá Thành không thể lập hồ sơ thanh toán các văn nghệ sĩ có máu mặt của Sài Gòn trước đây được. Nói thế để biết rằng anh em nạn nhân đều đoán biết ai hại mình, nhưng vì không có bằng chứng xác đáng nên họ lờ đi. Bây giờ có đem chuyện nầy ra tranh cãi cũng chẳng đi tới đâu, gây thêm sứt mẻ, thù oán nhau. Cái bối cảnh lúc ấy thật nhố nhăng, thật sắt máu, nghi kỵ lẫn nhau, chà đạp nhau để kiếm điểm, để vươn lên. Những người lập công cho “cách mạng” kiểu nầy dần dần bị đào thải, anh em thì xa lánh. Họ thui thủi như một bóng ma. Cho đến bây giờ thời gian quá lâu, mọi chuyện đã phôi pha, trong lòng mọi người không có ai muốn nhớ lại. Một bài học cho con người về xử thế.
 
Những năm đầu “giải phóng” người Miền Nam không có ai ra được Miền Bắc để trông thấy ngoài ấy ra sao? Tôi có một thằng bạn thuộc “gia đình cách mạng”, muốn đi một chuyến ra Bắc thế nhưng phải năm lần bảy lượt mới đi được, phải cái cỡ thứ trưởng bảo lãnh mới được cấp giấy cho đi. Sau khi trở về hỏi gì nó cũng không nói chỉ lắc đầu. Một bữa tôi với nó đi uống café, nó nói nhỏ vào tai tôi là trước khi nhận giấy được đi ra Bắc, người ta dặn không được nói với ai về cuộc sống ngoài đó, nên nó không dám nói chuyện nầy với ai. Sau mấy đêm suy nghĩ, nó tự thấy như vậy là không đúng, tại sao không nói cho thiên hạ biết “chiếc nôi” của Chủ Nghĩa Xã Hội, cái thiên đường nầy đã đánh đổ Miền Nam để cả nước cùng tiến lên. Nó không thể nào tưởng tượng Miền Bắc nghèo đói và lạc hậu đến thế. Phố xá cũ kỷ dơ bẩn, ngoài đường áo quần chỉ mỗi một màu ô-liu, thỉnh thoảng mới thấy màu xanh đậm hình như cho công nhân, họa hoằn lắm mới thấy chiếc áo trắng, còn xe đạp bạt ngàn, không thấy có một chiếc xe gắn máy nào, nếu có thì chắc từ Miền Nam mang ra. Hà Nội dưới mắt nó sao thấy thảm thương quá chừng. Sau đó nó nói với tôi bằng giọng mỉa mai; “Tiến lên xã hội chủ nghĩa như vậy đủ rồi, còn tiến mạnh tiến nhanh thì chắc chết quá mầy ơi”.
Mười năm sau (1985), tôi có một việc phải ra Miền Bắc vì mấy cái hợp đồng với thương nghiệp ngoài đó. Tôi đứng giữa Hà Nôi mà lòng thấy se thắt. Mấy chục năm người dân “văn vật” chịu đựng một cách dai dẳng mà không nổi loạn nghĩ cũng lạ thật. Áo quần nghèo nàn nhưng con gái Hà Nội mặt mày sáng trưng, phần đông người con gái đẹp hơn các thành phố trong Nam. Dưới con mắt của tôi, cái nét thanh lịch chỉ còn lại trên nét mặt của người con gái Hà Nội, còn bao nhiêu cái khác sau hai mươi năm Xã Hội Chủ Nghĩa đã tẩy sạch hết, tiêu tan hết.
 
Mấy năm trước đây có nhiều văn nghệ sĩ Hà Nội qua Boston theo chương trình của William Joiner mà tôi đã gặp. Trong lúc trà dư tửu hậu tôi có nói với họ về chuyện ra Miền Bắc của tôi năm 1985, họ đều cười và nói với tôi rằng có dip bây giờ nên ra Miền Bắc một chuyến, mọi thứ đều thay đổi một cách chóng mặt. Thế thì cái chính sách Xã Hội Chủ Nghĩa chỉ còn trên lý thuyết, mọi người dân bây giờ giàu có và không còn tiến nhanh tiến mạnh như khi xưa, mà họ chạy đua theo kịp đà tiến hóa của tư bản. Đó là một bước tiến đáng mừng cho dân chúng, để họ được hưởng những tiện nghi, những phúc lợi mà thế giới đã giành được trong những phát minh phụng sự cho con người. Đứng trên phương diện nhân bản thật đáng mừng cho những mảnh đời tưởng rằng sẽ sống trong tăm tối mãi mãi. Bây giờ ấm no hơn, thoải mái hơn tuy nhiên vẫn còn bị những rào cản về tự do, dân chủ còn siết chặt.
 
Tôi có dịp lên Thái Nguyên nhìn những cánh đồng chè bạt ngàn, những người hái chè buổi sáng sớm trong sương mù thật tội nghiệp, đồng lương công nhân của công ty chè quốc doanh không bao nhiêu, mà phải chịu cực khổ một cách nặng nề. Tôi cũng có dịp đi Quảng Ninh trông thấy công nhân mỏ than lam lũ trong hầm mỏ. Không biết những nhà lãnh đạo của giai cấp nầy trước đây có giống như anh chị em công nhân, mặt mày lấm lem, sống trong điều kiện kham khổ như vậy không. Chứ bây giờ nhìn họ thấy không khá nổi. Còn nhiều cảnh thật tang thương cho một chế độ xã hội chủ nghĩa mà họ ca tụng như là thiên đường. Thú thật tôi vỡ mộng.
 
Trước đây tôi không tin những gì mà bộ máy tuyên truyền của Miền Nam khi nói về Miền Bắc. Tôi không tin những tác phẩm của Xuân Vũ nói về chế độ Miền Bắc. Tôi cho đây chỉ là những tuyên truyền rẻ tiền để hạ nhau, chứ thực tế không đến nỗi như vậy. Sau khi ra Hà Nôi, tận mắt nhìn thấy đời sống dân chúng, chứng kiến cảnh làm việc, nhìn thấy sinh hoạt của người dân từ nông thôn đến thành thị, trật tự xã hội bị đổ nhào, đạo đức văn hóa không ai cần phải giữ gìn, những cảnh trắng trợn liệm người không cảm thấy xấu hổ. Tàu hỏa và xe buýt là nơi bọn đầu trộm đuôi cướp hoành hành trắng trợn mà cơ quan công lực không làm gì được. Dân chúng bị hà hiếp không biết kêu than nơi đâu. Phải công nhận là người dân Miền Bắc chịu đựng cái cảnh tai trời ách nước một cách cay nghiệt, mà họ không hề phản kháng, chỉ cắn răng chịu đựng. Mà phản ứng làm gì được khi mà bao tử đói meo, chỉ lo mỗi cái ăn chưa xong, hơi đâu phải ôm đồm chuyện khác.
 
Xe chạy đến huyện Kỳ Anh (tôi không nhớ thuộc tỉnh nào vì lâu quá, ( hình như là Hà Tĩnh). Chúng tôi vào một quán cơm bên đường, người con gái bán cơm rất đẹp, nói giọng Hà Nội. Tôi nghĩ giữa một một nơi đồng không mông quạnh, lại có người nho nhã, ăn nói lễ phép và đồ ăn rất ngon. Trong lúc đó ngay tại Hà Nội chưa có quán ăn nào vừa ý. Tôi cũng xin nói thêm chỗ nầy, Hà Nội lúc đó tìm một quán café cũng rất khó. Đi ăn phở phải xếp hàng và trả tiền trước. Đặc biệt khi chúng tôi cũng xếp hàng thì người giữ trật tự mời vào ngồi bàn trước, ăn xong mới trả tiền (ưu tiên cho dân Miền Nam). 
 
Tôi hỏi người thu tiền tại sao chúng tôi được đặc ân như vậy. Thì họ trả lời là phải thu tiền trước để biết họ muốn ăn bát phở giá bao nhiêu, thì làm đúng với giá tiền, nếu không họ chỉ trả ít hơn thì mình không biết phải làm sao, hoặc ăn xong không trả tiền rồi bỏ chạy. Còn các anh ở Miền Nam đã quen với cái lối trả tiền sau, các anh nhắm mình có đủ tiền mới vào quán và nếu có bỏ chạy thì các anh không biết đường nào mà chạy thoát được. Vì vậy chúng em phải tiếp các anh như ở Sài Gòn vậy. Chính quyền cách mạng xem tụi tôi như một thứ ghẻ lở, nhưng bà con Miền Bắc thì lại xem tụi tôi rất thân tình. Sau khi ăn xong, tôi hỏi về gia đình và giọng nói của cô gái khác với những người chung quanh đây. Cô ấy cho biết là cha mẹ cô là dân Hà Nôi chính gốc, sau 54 bị tịch thu nhà cửa và đi kinh tế mới nên phải trôi giạt vào đây. Cô hiện thời là sinh viên, cuối tuần phải về để giúp đở cha mẹ bán cơm. Nhìn hình ảnh của cô tôi liên tưởng đến những bà con ở Sài Gòn đi kinh tế mới. Chắc chắn họ không được may mắn như gia đình cô hiện thời, cái gốc Sài Gòn của họ rồi cũng sẽ mất. Nhà to cửa lớn của họ đã được các “quan cách mạng tiếp thu”, đổi chủ một cách hà khắc.
Chưa có một cuộc sống nào cay nhiệt người dân phải chịu đựng oan ức như trong cái thời “giải phóng”. Tôi nhìn ra cánh đồng xa xa những chiếc áo tơi (chầm bằng lá buông mà vào khoảng thập niên 60 không còn thấy xuất hiện tại Miền Nam), nhấp nhô trên đồng ruộng. Tôi hỏi cô gái trời nắng như vậy mà tại sao phải mặc áo tơi. Cô ta cho biết, làm gì có áo mặc để làm ruộng, họ mặc áo tơi để thay cho áo vải. 
 
Nhìn qua cánh đồng khác tôi thấy người kéo cày thay cho trâu bò. Một cái cảnh lần đầu tiên trong đời tôi mới thấy, thân hình thiếu ăn ốm o, choàng sợi dây trên vai kéo cái cày có một đứa bé đứng phía trên, thật tội nghiệp. Những năm của Miền Bắc đi trước Xã Hội Chủ Nghĩa đã gặt hái những gì tốt hơn cho người dân? Cái cảnh trông thấy trước mắt mà tôi có dịp ra Miền Bắc, cho tôi một bài học là phải bằng mọi cách tìm đường ra nước ngoài, nếu không thì quá trễ và viễn ảnh cho thấy cuộc đời sẽ khốn nạn, thê thảm, bần cùng như bà con ruột thịt Miền Bắc đang gánh chịu.
 
Một chuyện buồn cười, xe của chúng tôi tới phà Bến Thủy chờ lên phà để về lại trong Nam. Đoàn xe nối đuôi nhau dài cả cây số, tôi nghĩ trong bụng ở đây chờ ít nhất phải hai ngày trời mới tới phiên mình, vì lúc ấy chiếc “phà” chỉ chở được bốn chiếc xe vừa qua lai mất cả tiếng đồng hồ. Nói là “phà” cho nó oai vậy chứ quả thật là mấy cái phao cột dính lại với nhau, một chiếc tàu nhỏ như ca-nô kéo đi. Tôi nghe các tài xế chạy trên đường xuyên Việt kể lại rằng trong mùa nước lũ, phà bị đứt dây trôi mất là chuyện thường. Tôi hỏi thế thì xe và người trên phà phải làm sao? May mắn thì được vớt, còn không thì chết thôi. Chuyện quan trọng như vậy mà người kể chuyện xem như thường và những cơ quan có trách nhiệm điều hành về phà qua lại trên sông, tỉnh bơ xem đó không quan trọng, không phải trách nhiệm của mình. Chiếc phà bao năm vẫn không thay đổi. Cho nên mấy chiếc phà bắt qua bắc Cần Thơ hay bắc Vàm Cống thấy rất an toàn. Đang ngồi trên xe tán chuyện với nhau, thì người phu cầm cờ đỏ chạy đến xe chúng tôi hỏi có cần phải qua phà nhanh không? Người tài xế hỏi ông giá bao nhiêu. Ông trả lời muốn đi ngay thì cho nhiều một chút, muốn qua phà chậm thì ít hơn. Người phu cầm cờ đỏ đưa hai ngón tay (có ý là hai trăm đồng) chạy ngay. Hai trăm đồng lương công nhân thuở đó là năm mươi đồng một tháng. Ông ta cầm cờ đỏ giơ cao chạy trước, miệng la lớn: “Anh em Miền Nam giúp đở anh em Miền Bắc”. Họ xem cái chuyện đút lót nầy là bình thường, là công khai cho những chiếc xe khác noi theo. Chiếc xe của tụi tôi ưu tiên xuống trước. Đứng trên phà qua sông, thật tình tôi ngao ngán cho một xã hội mà tôi đã chứng kiến trên Miền Bắc. Rồi đây Miền Nam của chúng tôi sẽ lăn trên vết xe của đồng bào ngoài kia đã trải qua. Bây giờ chúng tôi đã thấy ngột ngạt khó thở, người ta đã bắt đầu áp dụng đường lối cứng rắn để uốn nén dân Miền Nam rập khuôn Miền Bắc.
 
Xe chạy đến Quảng Bình, thành phố xem như bình địa vì bị bom của Mỹ rải nát, mười năm sau vẫn còn nguyên si, không sửa chữa. Thành phố lợp tranh trên những nền nhà cũ. Nhà thờ chính Quảng Bình chỉ còn trơ lại gác chuông. Dấu tích chiến tranh vẫn chưa xóa, nhìn thành phố chúng ta đủ biết nơi đây đã nhận biết bao nhiêu bom đạn. Chúng tôi vào uống nước tại một căn nhà tranh trên quốc lộ, người chủ quán là một anh thương binh trạc tuổi tôi. Lúc đầu mới vào anh nói chuyện với chúng tôi sặc mùi Cộng Sản. Chẳng hạn như về những năm tháng chiến tranh mà Quảng Bình nhận lãnh hậu quả nặng nề nhất. Anh nói rất tự hào: “Quảng Bình quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Người dân Quảng Bình kiên cường đứng đầu cả nước chống giặc xâm lăng Mỹ”. Tụi tôi chỉ lắng nghe anh thao thao bất tuyệt về chiến tranh, về chính sách, về con người sống thế nào cho phù hợp chế độ. Luận điệu nầy tôi đã từng nghe những người thắng trận lớn lối nói ra rả vào tai tụi tôi. Anh hỏi tôi trước khi hòa bình tôi làm gì ở Miền Nam. Tôi không trả lời ngay câu hỏi của anh, tôi vén ống quần cho anh thấy cẳng chân giả làm bằng plastic của tôi. Tôi chỉ trả lời vổn vẹn: “Tôi là người lính của Miền Nam”. Sau khi nhìn thấy sự mất mát thân thể của tôi, sau khi nghe tôi xác định một cách chắc nịch về con người thật của tôi. Con người mà đứng trên chiến tuyến là đối nghịch với anh. Tôi nói không có một chút thù hận, không tranh cãi với anh, tôi chấp nhận danh phận không may mắn của tôi. Thái độ nầy tôi làm cho anh bất ngờ lúng túng. Tôi thấy anh ngồi suy tư, nhìn tôi có chút ngậm ngùi. Anh thấy những gì anh nói với tôi đều là những câu tuyên truyền không cần thiết, mười năm “giải phóng” tôi đã hiểu rõ chân tướng của chế độ, có đánh bóng nó cách mấy cũng không thể che đậy cách trả thù hèn hạ trên đầu anh em chúng tôi. Tôi trả tiền nước rồi ra xe, anh chạy theo bắt tay tôi thật chặt, anh nói là anh cảm thấy mắc cở ăn nói quá nhiều hàm ý tuyên truyền, khi nhìn thân thể tôi, anh biết không dễ gì lay chuyển được tôi. Dù là người bại trận, đang sống dưới chế độ thù nghịch, tôi vẫn không tránh né về thân phận của mình.
 
Từ Quảng Bình về Quảng Trị con đường gập ghềnh, lởm chởm. Xe qua cầu Hiền Lương, chiếc cầu lịch sử ngăn chia Nam Bắc. Chiếc cầu nhỏ nhắn, dễ thương, nó đứng giữa ranh giới chứng kiến biết bao nhiêu tai ương đổ xuống trên đầu nhân dân hai miền Nam-Bắc. Nó ngăn cách không những chế độ bên nầy, bên kia, mà nó còn ngăn cách cả lòng người, xé tan tình tự của dân tộc. Bao nhiêu năm hòa bình mà ấn tượng, đố kỵ còn nặng nế quá vẫn chưa biết làm sao nối lại được. Chiến tranh chỉ trong vòng 20 năm, mà đến 35 năm sau sống trong hòa bình vẫn chưa có cách nào chung sống trong tình anh em ruột thịt. Tuy không còn cầm súng giết hại nhau, không còn ranh giới phân chia chiến tuyến, thế nhưng bức tường chắn giữa lòng người (nói theo kiểu Tưởng Năng Tiến) vẫn còn kiên cố ngăn cách đôi bên, không ai chịu phá bỏ và quên đi cái thời xa xưa nhục nhã của dân tộc.
 
Chút hồi ức nầy không dụng ý khơi dậy đống tro tàn, nhưng để nói lên cho chúng ta biết “có một thời như thế”, một thời mà không muốn nhớ lại, và rồi, cũng không thể nào quên được !!!
------------
 
Cánh Dù Ma
Bán tiểu đội Biệt Cách Dù và trận đánh cuối cùng sau lệnh buông súng !!!
Thiếu úy Biệt Cách Dù Vũ Văn Tư trằn trọc không ngủ được. Đơn vị anh được lệnh chuyển quân về đóng ở Tam Hiệp, Biên Hòa, nơi mà tinh thần chống cộng của đồng bào Thiên Chúa giáo vững vàng như sắt, như đá. Sự có mặt của những toán Biệt Cách Dù làm các đơn vị quân dân phòng thủ ở đây lên tinh thần. Tư đi hết nhà dân đến nhà thờ. Có những đêm Tư âm thầm vào nhà thờ nhìn chăm chăm vào tượng Chúa để cầu xin một phép lạ, không phải cho anh, mà cho quê hương, để Bắc quân bị tan biến trong trận Long Khánh và không một tên nào mò qua Tam Hiệp để vây Sàigòn. Anh thấy tượng Chúa buồn buồn, anh thấy tượng Đức Mẹ dường như muốn khóc. Anh về lại đơn vị trùm poncho ngủ. Giấc ngủ vỡ tan theo tình hình tin tức chiến sự căng cứng cứ một ngày gần về phía Sàigòn.
 
Sáng ngày 28 rạng 29 tháng Tư, đơn vị anh được tin cho biết về các hướng chuyển quân của địch, trong đó có một đơn vị cộng sản có chiến xa sẽ di chuyển từ Tân Phong hướng chiến khu D tiến về vòng đai phi trường Biên Hòa theo lộ trình quốc lộ 1 vào Hố Nai. Tất cả đơn vị đã sẵn sàng trong tư thế chiến đấu. Các đơn vị địa phương và nhân dân tự vệ, súng đủ loại bỗng nhiên thành những người lính tử thủ. Họ phân công, tăng cường phòng thủ và di chuyển đồng bào khỏi vùng có thể sắp xẩy ra những cuộc đụng độ đẫm máu.
 
Sáng sớm 30 tháng Tư, Tư và các sĩ quan được đơn vị trưởng mời họp khẩn cấp, chờ lệnh Sàigòn. Trời Tam Hiệp vẫn chờ cơn bão lửa trong tinh thần chuẩn bị cho cuộc thư hùng chết bỏ. Đến khoảng vừa sau 10 giờ sáng, các sĩ quan quay quanh chiếc radio, im lặng, đợi chờ một cái gì vô cùng nghiêm trọng. Bỗng tiếng tướng Dương văn Minh ồn ồn vang lên lệnh buông súng. Tư đập tay xuống bàn. Chiếc đồng hồ vỡ tung, đứt dây văng xuống đất. Các sĩ quan có mặt, người chửi thề, kẻ ôm mặt khóc. Vị sĩ quan Dù, cấp chỉ huy của Tư đang gục mặt xuống bàn, hai vai ông run lên. Một lúc sau, ông đứng dậy nói trong hai hàng nước mắt:
- Định mệnh oan nghiệt! Định mệnh oan nghiệt! Thế là hết! Anh em tan hàng và thoát khỏi vùng này gấp! Chiến xa địch có thể đang rất gần!
- Sao dễ dàng vậy ông thầy? Mơ hay thực ông thầy! Hỏa ngục An Lộc mình coi như pha! Sao bay giờ chưa bắn phát đạn lại tan hàng?
- Tổng thống đã bó tay hàng, lệnh chúng ta buông súng. Làm sao chuyển xoay thế nước? Làm sao xoay chuyển lịch sử? Công chuyện bây giờ là cứu mạng anh em? Anh em nghe rõ?
 
Không khí im lặng, tịch mịch, thê lương. Không một ai trả lời. Một thứ im lặng nặng nề, uất nghẹn. Tư bỗng lên tiếng:
- Không! Tụi em nghe rõ nhưng không buông súng! Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng là chuyện của ông Dương Văn Minh. Tụi em không thể quăng súng! Biệt Kích Dù không bao giờ quăng súng! Ông thầy mặc tụi em!
- Thế cậu làm gì?
Tư không trả lời người chỉ huy của mình. Anh đứng phắt day chào tay người đơn vị trưởng và bỏ ra khỏi phòng:
- Vĩnh biệt ông thầy và anh em!
 
Đây là lần đầu tiên trong đời binh nghiệp mà Tư hành sử như vậy đới với cấp chỉ huy. Đơn vị trưởng Tư lặng lẽ nhìn Tư đi cho đến khi bóng anh khuất ở một góc đường dẫn về vị trí công sự phòng thủ của toán Tư trách nhiệm. Ông thở dài và mọi người giải tán.
Thiếu úy Tư về vị trí anh em đang bố trí chờ địch. Họ thấy nét mặt Tư như căng ra, căng thẳng và quyết liệt. Anh nói với anh em:
- Thằng cha Minh Bự ra lệnh buông súng rồi! Mấy ông đại bàng lớn nhỏ đã chấp nhận lệnh của Dương Văn Minh. Tôi thì không. Anh em nào theo tôi thì gom hết súng đạn và M72 xếp hàng theo tôi. Anh em nào nặng gánh gia đình thì ngay từ lúc này, bẻ súng, hay chôn súng, rời khỏi nơi đây gấp! Tôi còn chỉ huy anh em. Đây là lệnh! Lệnh sau cùng trước khi chia tay!
 
Thầy trò Thiếu úy Tư nhom vào nhau, ôm nhau, kẻ khóc, người gạt nước mắt khi chia tay. Tư gom anh em còn lại khoảng một bán tiểu đội chịu ở lại với Tư, mỗi người hai ống M72, lựu đạn, súng cá nhân và ba lô. Tư dẫn anh em di chuyển nhanh về xứ đạo Kim B... Đó là quê quán của một số anh em trong toán không buông súng của Tư. Tư đưa anh em lẩn vào một dãy nhà quen. Dãy nhà chỉ còn lại một bà cụ già:
- Bác Tám! Cháu là Vũ Văn Tư! Bác còn nhớ cháu? Bà con đâu hết rồi?
- A, tôi nhớ rồi! Cậu Tư Biệt Kích Dù! Cậu Tư về đây làm gì, bà con tản cư về Sàigòn, vì nghe nói cộng sản có thể vô đây! Mà mấy cậu đói không?
- Sáng giờ tụi con chưa có gì trong bụng hết...
- Còn nồi thịt kho sau bếp. Tôi nấu nồi cơm cho mấy cậu ăn!
 
Mặt tiền nhà thờ Kim B... bên trái là cột cây số 6 tính từ Biên Hòa lên, bên phải là những căn nhà dân bỏ hoang, cách đó không xa là trường tiểu học Hải Phòng có một địa thế che khuất thuận tiện cho một cuộc phục kích. Tư ra lệnh anh em đào hầm và ngụy trang gấp để sẵn sàng cho một cuộc tấn công chớp nhoáng và rút nhanh theo kế hoạch.
 
Các Biệt Kích Dù còn lại mặt trận không có lệnh hành quân do Thiếu úy Tư chỉ huy, không có đại bàng trên trời, dưới đất, cũng không có hệ thống truyền tin, không Tổng Tham Mưu, không dinh Độc Lập... Chỉ có thầy trò Tư, Văn, Lễ, Hùng, Sự và Bảy đang dàn trận đối đầu với Bắc quân vào xế 30 tháng Tư, 4 tiếng đồng hồ sau lệnh cho quân đội buông súng của tướng Dương Văn Minh. Lúc này, trên mặt những Biệt Kích Dù không còn nước mắt buổi sáng, mà mặt họ lại đăm đăm chờ giặc như những lần phục kích năm xưa, bất chấp cái gì xẩy ra cho họ.
 
Tư phân phối vị trí tác xạ cho từng anh em và chỉ thị:
- Trận này chỉ xài M72! Không dùng súng nhỏ và lựu đạn, thứ này chỉ để tự vệ trên đường tàng hình mà thôi! Nếu địch xuất hiện trong tầm hiệu quả, xe nhỏ và Molotova vận tải, chơi trực xạ một M72. Nếu T54, tập trung tối thiểu là 2 M72 một chiếc cùng lúc để con cua bị rang muối ngay tức khắc, nếu nó còn sống, nó quay đại liên thì mình không thoát được theo kế hoạch, không về được với vợ con. Tất cả phần đuôi của đoàn xe địch còn lại, chơi xả láng tất cả M72 còn lại vào mục tiêu, kể cả bộ binh tùng thiết... Và tàng hình thật nhanh trước khi địch tỉnh hồn phát giác vị trí tấn công và đường thoát của tụi mình!
- Rồi sau đó tụi em gặp Thiếu úy ở đâu?
- Tại nhà thằng Hùng ở Ngã Ba Hàng Xanh tối ngày mai nếu tụi mình không thằng nào rách áo hay đi phép dài hạn! Nhưng mình chơi cú này như ma như quỷ, bố tụi nó cũng không ngờ! Nhớ! Tụi mình phải gặp nhau lần cuối trước khi chia tay mà không biết bao giờ gặp lại!
 
Đúng như nguồn tin hôm trước và dự đoán hôm nay, dưới ánh nắng gay gắt, trước nhất là một chiếc jeep đi đầu, ngay sau là tiếng xích sắt nghiến trên mặt đường của một chiếc T54 nòng đại bác kềnh càng chĩa về trước, hai bên hông xe là một số bộ đội, có cả du kích dép râu có lẽ lần đầu tiên được "cưỡi" xe tăng, rồi tiếp theo là 2 chiếc Molotova đầy bộ đội miền Bắc và du kích dép râu, mũ tai bèo, lá ngụy trang. Họ di chuyển dường như khá chủ quan là sau cả buổi lệnh buông súng của Dương Văn Minh loan báo trên đài, các ổ kháng cự của quân đội VNCH đã rời vũ khí, bỏ trống chiến trường. Họ chuyển quân như đi duyệt binh, như phô trương lực lượng.
 
Tư và bán tiểu đội Biệt Kích Dù chỉ chú ý đến phần đầu kể từ chiếc xe jeep để có thể tấn công chớp nhóng và rút nhanh trước khi địch hoàn hồn. Đoàn xe tiến ngày càng gần vào vị trí ổ phục kích. Tư bình thản nói nhỏ vào tai các xạ thủ:
- Jeep có sĩ quan đi đầu, cậu chơi chính xác 1 quả cho tôi!... Chiếc T54 kế, hai cậu chơi hai quả trực xạ ngang hông cùng một lúc!... Hai Molotova đi sau, mỗi chiếc một quả chính xác cho tôi!... Các ống phóng còn lại, các cậu xả láng hết vào bất cứ đoàn xe hay đám tùng thiết nào xuất hiện trong tầm tác xạ! Và ngay sau đó, biến nhanh theo tôi!
 
Không chần chờ ở lại xem kết quả! Hổ nhanh như ma như biến mới sống!
 
Tiếng xích sắt chiếc T54 nghiến đường kềnh càng mỗi lúc một gần. Chiếc jeep có một sĩ quan cấp đại tá và hai nhân viên truyền tin cùng chiếc T54 vừa lọt vào tầm tác xạ hữu hiệu, có thể nói là quá sát vị trí phục kích, Tư ra lệnh khai hỏa.
- Ầm!
 
Một vệt lửa vụt đi, quả M72 lao như điện xẹt vào mục tiêu. "Tiến về Sàigòn. Ta giết sạch giặc thù" chưa thấy đâu, nhưng chiếc jeep đi đầu bị thổi tung lên như con diều giấy bốc cháy. Bị tấn công bất ngờ, chiếc T54 hoảng hồn nã một phát đại bác lên tháp chuông nhà thờ. Tháp chuông bị vỡ sụp một góc. Nhanh như chớp, trước khi đại liên và đại bác tác xạ vào các vị trí nghi ngờ khác, hai quả M72 phóng thẳng vào hông phải chiếc T54:
- Ầm! Ầm!
 
Chiếc T54 lật ngửa sang một bên, bốc cháy bên vệ đường. Ba quả M72 tấn công quá nhanh, chỉ trong vòng không tới 30 giây, bộ đội Bắc Việt và các du kích bám trên xe không phản ứng kịp, bị văng xuống như sung rụng. Trong một tích tắc tiếp theo đó, hàng loạt M72 phóng thẳng vào hai chiếc Molotova chở đầy lính đủ loại, nón cối, mũ tai bèo và vài chiếc đi sau.
- Ầm! Ầm! Ầm...!
 
Nguyên một đoạn đường còn lại trong tầm tác xạ của M72 bỗng chốc thành bãi chiến lửa khói đầy xác xe và người chết. Tiếng súng AK khai hỏa từ phía sau đoàn "con-voi" nhưng họ không biết họ bị tấn công từ đâu. Không một tiếng súng nhỏ M16 bắn trả. Bỗng chốc chiến trường thành một thứ chiến trường im lặng chết người. Trong cái khoảnh khắc im lặng mà Bắc quân còn nằm chết dí trên mặt đất bắn lung tung, chưa nắm vững tình hình địch và thiệt hại của các chiếc xe đi đầu, bán tiểu đội Biệt Kích Dù đã biến đi tự lúc nào.
Sau khi không nghe thấy gì nữa, các đơn vị Bắc quân và chiến xa còn lại thận trọng dàn quân thành một vòng cung bọc tròn khu vực nhà dân, nhà thờ và trường tiểu học. Họ di chuyển chậm và họ nghĩ rằng trận phục kích kế tiếp sẽ diễn ra. Nhưng không! Tiếng nổ lác đác còn lại chỉ nghe thấy từ lòng chiếc T54 với những đạn loại nhỏ bị cháy và còn phát nổ. Vòng vây khép lại như một mẻ lưới, càng lúc càng nhỏ dần.
Bắc quân uất giận bắt đi vị linh mục già chánh xứ co ro trong nhà thờ và mấy người dân đau ốm tá túc trong nhà thờ. Họ lục soát trong nhà dân, bắt thêm vài người. Tháp chuông nhà thờ đổ nát nhưng tượng Chúa và tượng Đức Mẹ vẫn còn, một tên VC lia vào tượng một tràng AK và ra ngoài, hắn lầm lừ như con hổ bị trọng thương. Một tên chỉ huy hạch hỏi hai người dân điều gì không rõ, song sau đó, họ bắn cả hai ngay trước cổng nhà thờ.
 
Toán quân cộng sản tiếp tục di chuyển, áp tải theo linh mục chánh xứ và những người dân vô tội, đến ngay tại cây số 7, họ dừng chân, họ bàn chuyện gì không biết, nhưng sau đó họ lôi ra bắn tiếp 2 người nữa và vứt xác bên vệ đường. Người dân miền Nam, những người bị bắt còn sống chưa bị hành quyết tại cây số 7, những người còn sống trong các nhà bên đường... kinh hoàng, vài người đã la hét trong cơn hoảng loạn tâm thần. Họ thấy cái chết lắc lư trên đầu họ. Và dường như Bắc quân thấy một cái gì không ổn trong hành động của họ trước những tiếng gào thét tuyệt vọng của đồng bào, họ ngưng hành quyết những người còn lại.
 
Trên quốc lộ 1, đoạn đường từ cây số 6 trước nhà thờ Kim B đến cây số 7 cũng chính là một phần của đoạn đường "Tiến về Sàigòn, ta giết sạch giặc thù!" Bài hát "Tiến về Sàigòn" của Huỳnh Minh Siêng đã hiện thực trên những vũng máu của người dân vô tội. Ngày 1 tháng 5, thủ đô Sàigòn tang tóc. Chiều, gió nhẹ thổi từ sông Sàigòn như hơi thở tàn hơi trên từng sợi tóc của những người dân phờ phạc, âu lo, trên từng tàng cây hai bên đường như cảm nhận một mùa Xuân tang tóc. Sàigòn thoi thóp thở. Đâu đó, người ta thỉnh thoảng còn nghe tiếng súng, tiếng lưu đạn nổ. Tiếng nổ của những người tự tử chết theo thành. Tiếng súng của những anh em còn chiến đấu tuyệt vọng từ những hẻm hóc giữa thủ đô liệm chết.
 
Tư lần mò đến địa điểm hẹn anh em ở Ngã Ba Hàng Xanh. Thầy trò Tư lặng lẽ ôm nhau, cùng nhau ăn một bữa cơm ly biệt sau cùng. Tư bùi ngùi nói với anh em:
- Trách nhiệm của chúng ta đối với Tổ Quốc đã tròn. Không ai lệnh cho chúng ta phải đánh trận sau cùng khi Dương Văn Minh đã đầu hàng. Tôi tạ ơn Thiên Chúa, tạ ơn Đức Mẹ đã bảo bọc chúng ta để còn gặp đủ anh em đêm nay. Nhưng ngay trong đêm nay, tôi không còn là người chỉ huy anh em, anh em mỗi người tự thay tên đổi họ để về nguyên quán, lo cho gia đình, vợ con. Tôi sẽ còn ở lại Sàigòn ít hôm coi tình hình, và có thể trở lại coi tận mặt chiếc T54 bị bắn cháy trước khi về lại Cao nguyên.
- Em còn độc thân! Ông thầy cho em ở lại và tháp tùng ông thầy!
- Không! Em về với bà cụ! Tình hình vô cùng nguy hiểm! Thôi, chúng ta chia tay! Coi chừng mấy thằng 30 nằm vùng!
 
Đèn trong trong phòng vụt tắt. Bán tiểu đội Biệt Kích Dù không còn quân phục, không còn vũ khí của thiếu úy Vũ Văn Tư ôm nhau trong bóng tối. Người ta không thấy nước mắt, chỉ nghe những tiếng nấc ly biệt, nghẹn ngào...
 
Mấy hôm sau, Tư lẻn về lại Hố Nai một mình. Địch vẫn chưa áp đặt gắt gao sự kiểm soát trong vùng. Tư mặc đồ rách rưới như một nông dân lần đến thăm nhà thờ Kim B và khu vực trận địa. Tư lựa một góc nhà khuất, dựa lưng nhìn chiếc T54 và xác chiếc jeep nằm tan nát bên cạnh. Tư được biết một sĩ quan cấp đại tá và hai người lính truyền tin đã tử thương trong trận phục kích, số thương vong trên các chiếc Molotova và đoàn quân phía sau không rõ. Về lại Sàigòn, Tư gặp một số bạn thân kể lại trận đánh và anh biến mất khỏi Sàigòn sau đó.
 
Một năm sau, Tư hoàn toàn thay tên, đổi họ và sống như một người dân không biết gì về lính tráng. Lặng lẽ, âm thầm, uất ức và chán đời về sống ẩn dật về sống ở Cao nguyên. Thiếu úy Biệt Kích Dù Vũ Văn Tư đã không còn trên cõi đời. Dần dà, anh trở thành người thất chí rồi mất trí. Anh không điên, nhưng người nhà cho biết anh Tư ngày nào cũng như ngày nào, suốt ngày cứ lầm bầm... những câu "Tại sao đầu hàng? Tại sao đầu hàng? Quân phản bội! Quân hèn nhát! Tại sao đầu hàng? Tại sao đầu hàng?..."
 
Và trong một đêm mưa Cao nguyên sấm động rung trời như hét lời hận uất giữa không trung, mưa như trút nước, anh Tư nằm liệt giường, mê sảng. Trong cơn mê, anh cũng cứ thều thào... "Tại sao đầu hàng? Tại sao đầu hàng?..." Và sáng hôm sau, anh nằm yên, vĩnh viễn ra đi không bao giờ trở lại.
 
Thiếu úy Biệt Kích Dù Vũ Văn Tư mất năm 1976 dưới một cái tên hoàn toàn xa lạ, không vinh thăng, không phủ cờ, không huy chương, không một cánh hoa dù có mặt cạnh áo quan. Anh nhắm mắt nhưng mối hờn không chết trên quê hương, và chỉ một mình anh mang theo niềm hận uất khôn nguôi của riêng mình xuống đáy huyệt sâu. Khối hờn chung trong hơn ba mươi năm vẫn còn vẫn còn bàng bạc trên từng ngọn cây tấc đất... dẫu dấu tích của cuộc chiến bi hùng đã tàn phai theo tháng, theo năm.
Hải Triều / Trung Nghĩa
-------------

Kim Qui Huế
@DÁNG NGỌC.
* Con đại bàng quắc mắt nhìn sương lạnh .
Cánh dù treo lơ lửng trên không trung .
Anh thao thức nhìn chiến trường đẫm máu .
Thương quê Mẹ, hai mươi năm chiến tranh.
* Trại Hoàng Hoa, cánh Dù còn ngượng nghịu ,
Cổ Thành xưa, lưu dấu Bốt-đờ-sô .
68 Mậu Thân, rồi Mùa Hè Đỏ Lửa ...
Anh tung mình dẫm nát bao mật khu ...
* Cuộc di tản, héo mòn không cân xứng .
Anh phải đi, dù còn đó nỗi buồn .
Kiếp tha hương , ru hồn người chiến bại .
Mỏi mòn chờ ánh sáng đóm hỏa châu ...
* Tuổi thanh xuân , hiến dâng trong chinh chiến .
Nay còn gì, hay là vết chân chim ???
Thời Kinh Kha lẫy lừng trên chiến địa .
Màu cờ vàng, tức tưởi khóc ngàn Thu ... !!!
* Đại Bàng ơi, xin đừng bỏ ước mơ .
Vì mơ ước là tiếp tục cuộc sống .
Tuy không còn là đầu súng trăng treo .
Nhưng vẫn còn đốm lửa hồng Hy Vọng ...
# Nha Trang.
* 03.05.2023 *
 
------------- 

Hoài Nguyễn
Ám ảnh tháng Tư!
Bốn tám năm, vẫn mãi hoài ám ảnh
Ù bên tai, tiếng “Nhật lệnh tan hàng”
Bạn bè ơi! Lịch sử đã sang trang…
Ta buông súng và trở thành thua cuộc…
Tên hèn tướng bị mắc mưu “triệt buộc”
Ngỡ trong tay là Vương – Bá – Khanh – Hầu.
Nhưng cuộc đời có phải giấc mộng đâu?
Nỗi điếm nhục trăm sông nào rửa sạch!
Người lính trẻ bị lệnh trên thúc bách
Thẫn thờ trong dòng phố xá đô thành
Bao chiến trường từng qua bước chân anh.
Giờ tan trận, ngẩn ngơ buồn rơi lệ.
Trời Sài Gòn, ngày ấy sao sầu thế!
“Triệu người vui, cũng có triệu kẻ buồn…”
Đạn lên nòng mà súng phải đành buông
Ta thất thế, lê chân về góc nhỏ…
Để tháng tư về ôm hoài nỗi nhớ.
Sáng hôm nào, mưa mấy giọt sầu rơi.
Dưới hào sâu, ta ngước mặt nhìn trời.
Loạt súng nổ vỡ òa niềm uất hận!
Có nỗi đau của những tên thua trận.
Lê bước chân mỏi bước giữa phố phường.
Nợ tang bồng sao còn mãi vấn vương
Ta nuốt lệ nhìn ngày mai tăm tối!
Em ngại ngùng, nhìn ta, và bối rối…
Bởi tương lai mù mịt chắn con đường.
Dẫu hôm qua, em còn nói lời thương…
Giờ thế đó, với ta là tuyệt vọng…
Bốn hai năm, với ta là mong ngóng
Ngày lìa quê, em bỏ lại người thương…
Bạn bè ta, nay mỗi đứa mỗi đường…
Phận thua cuộc, kiếp người như lá rụng.
Bốn hai năm, ám ảnh hoài loạt súng...
Báo ngày buồn, thôi tan tác từ đây…
Đồi hoang vu, ta chợt nhớ những ngày
Nghe pháo nổ báo những ngày giông bão.
Bốn hai năm, ta theo đời cơm áo.
Vẫn từng đêm nhớ về những ngày xưa
Nhớ tháng tư, kể mấy cũng thấy thừa…
Từ độ ấy, ta – thành tên thua cuộc …
Hoài Nguyễn – 30/4/2023
*Ảnh minh họa : Photo Nguyễn Đạt
 

------------------------
* Duc Ly
Những giây phút cuối cùng của ngày mất nước.
* Trang Y Ha
Vừa chiến đấu vừa cứu dân... Quân đội VNCH là vậy.
* Hoa Dù Lạc Lối
Thời khắc ấy, tôi đã là tù binh tại Quảng Ngãi rồi.
----------------- 
 
Hai ngày trước đó, Tiểu Đoàn 15 Nhảy Dù của chúng tôi từ Hốc Môn, được điều động về án ngữ cầu Bình Lợi, Bình Triệu,  chặn đường tiến quân của địch từ hướng Thủ Đức Biên Hoà từ hướng Bắc, và Bình Long Bình Dương từ hướng Tây.

Đêm 28 tháng Tư năm 1975, từ cầu Bình Lợi, chúng tôi thấy rỏ những cụm lửa của pháo binh, hoả tiển địch thi nhau rót vào phi trường Tân Sơn Nhất, duới ánh sáng chập chờn của những trái hỏa châu trãi đều trong đêm.

Chiến tranh thật sự đã đến với Thủ Đô Sài gòn!!!

Cùng với
Tiểu Đoàn 15, hai Tiểu Đoàn còn lại 14 và 12 của Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù, Lữ Đoàn còn nguyên vẹn nhất của Sư Đoàn Nhảy Dù, được trao nhiệm vụ cao quý, bảo vệ Thủ Đô Sài Gòn, trách nhiệm giữ vững cầu Xa Lộ và Phi Trường Tân Sơn Nhất (hình dưới), chận đường tiến quân của địch từ hướng Long Thành theo Quốc Lộ 1 và từ Củ Chi kéo về do Tiểu Đoàn 12 trấn giữ.


Sau một đêm mất ngủ vì tiếng “đại bác đêm đêm dội về thành phố”, qua ngày hôm sau, 29/4/1975, chúng tôi phải vất vả giải quyết cánh tàn quân, đủ mọi quân binh chủng, từ hướng Bình Dương và Biên Hoà kéo về.

Tuyến phòng thủ chúng tôi phải mở rông thêm hơn trăm thước, sợ đặc công Việt Cộng trà trộn bất ngờ chiếm cầu.

Lịnh Biệt Khu Thủ Đô rất nghiêm, nội bất xuất ngoại bất nhập, và chúng tôi đã làm tròn nhiệm vụ, xua đuổi cánh tàn quân trở ngược lại, bằng những tràng Đại Liên M60 bắn trên đầu, mà trước đó họ liều lĩnh muốn trản ngập tuyến phòng thủ của
Tiểu Đoàn 15 chúng tôi (số 2 hình dưới) 
 

Chỉ có Đoàn xe cuả Tuớng Nguyễn Bảo Trị (?) và một nhóm Nhảy Dù duy nhất được chúng tôi phá lệ cho qua, khi nhận ra Đại Uý Mai Hữu Thiết, Chỉ huy Trưởng hậu cứ Tiểu Đoàn 2/Pháo Binh/Dù, cùng một số đàn em tuỳ tùng. Ông anh cùng quê cám ơn tôi rối rít, không quên nhét cho tôi một it tiền tiêu vặt.

Một ngày trôi qua trong hổn loạn, cả bạn lẫn thù.

Qua ngày định mệnh, trời mang mang buồn chi lạ, như khóc cho nhân dân miền Nam với bất hạnh đang sắp ập xuống đầu.

Khoảng 10:30 sáng, chúng tôi nghe đi nghe lại lời kêu gọi buông súng đầu hàng của Tổng Thống hai ngày, hèn tuớng Dương Văn Minh, được thu sẳn nhai đi nhai lại trên hệ thống đài phát thanh Sài Gòn, xen lẫn bài hát Nối Vòng Tay Lớn của thành phần thứ 3 Việt Cộng trá hình Trịnh Công Sơn.


Chúng tôi không bỏ tuyến, vẫn ghìm vững tay súng, liên lạc hàng dọc hàng ngang để có một lịnh chính xác ở giờ thứ 25, để rồi sau đó, Thiếu Tá Khoan Tiểu Đoàn Phó thất vọng điều động đoàn quân chưa đánh mà thua, về đến bịnh viện Nguyễn Văn Học và ra lịnh tan hàng ai về nhà nấy.
----------------
Khiet Nguyen
Hình trên tạp chí Paris Match của Pháp số ra ngày 26 tháng Tư 1975. Đại Tá Đặng Phương Thành, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 12 thuộc Sư Đoàn 7 Bộ Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đang trả lời phỏng vấn của các ký giả ngoại quốc sau khi đơn vị của ông đã anh dũng đánh tan mấy đợt tấn công của quân Bắc Việt. Sau khi trời sập, ông bị chúng đem ra Bắc. Về sau, chúng vu cho ông tội mưu toan vượt ngục và tra tấn cho đến chết.
 
----------------
Tôi và Tiểu Đoàn 229/ĐP Bình Thuận đang ở Núi Nhỏ Vũng Tàu.
  * Nguyễn Văn Dự
Thanh Nguyen tôi đang ở tù tại xã mường thải huyện phù yên sơn la, chiều 30 tháng tư tụi cai tù nó reo hò giải phóng miền nam rồi. Lúc đầu tụi tui không tin. Sau đó nhiều anh em đã khóc, đám cai ptù nó bảo tại sao thống nhất rồi các anh không vui, anh em nói nhỏ với nhau thời đại tre nứa vầu khoai sắn lên ngôi, và đã đúng như vậy
---------
 
Son H Cao
 Luôn Nhớ Về Ngày 30-4-Đen .Chúng tôi vẫn chưa buông súng mãi khi có lệnh buông súng của tên TT 2 ngày DVM .
TRUNG ĐOÀN BÌNH THUẬN TẠI MẶT TRẬN PHƯỚC TUY
Tháng 4-1975
Qua rồi bốn mươi mốt năm ngày tàn cuộc chiến, nay hồi tưởng lại những ngày cuối cùng của Quân Dân Bình Thuận cũng cảm thấy rất tự hào cho những người Dân, Lính vùng biển mặn. Nhưng cũng không làm sao giấu được nỗi xót xa, bồi hồi trong tâm khảm khi chạnh nghĩ tới những bạn bè, đồng đội đã hy sinh trong giờ thứ 25 giữa lúc cả nước từ trên xuống dưới (trừ lính) gần như tìm đường lánh họa Cộng sản.
 
Tiểu đoàn 202/ĐP của Đại úy Huỳnh Văn Hoàng làm Tiểu Đoàn Trưởng đã đến đây từ khuya, phối hợp với Liên đội Bảo vệ Nông Trường Sao Đỏ, trước đây do Đại úy Huỳnh Văn Quý chỉ huy đóng tại Ba Hòn, vừa dọn bãi vừa giữ an ninh cho Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch, đồng thời di chuyển Thương Bệnh Binh ra bãi biển chờ tàu Hải quân vào đón. Đến trưa thì Tiểu Đoàn 275/ĐP của Thiếu tá Lê Văn Tư tại Kim Ngọc, Lại An, và Tiểu Đoàn 274/ĐP của Thiếu tá Trịnh Văn Bình là đơn vị đóng xa nhất tận Bầu Gia, Phú Hội, Mương Mán cũng đến được bãi biển Kim Hải.
 
Ngoài ra còn có Đại đội 954 ĐPQ của Đại úy Mai Xuân Cúc và nhiều Đại Đội khác của các Tiểu Đoàn 249/ĐP, 230/ĐP cũng đến được điểm hẹn. Nói chung thì hầu hết các đơn vị tại Nam Bình Thuận gần như có mặt đầy đủ tại đây trừ lực lượng cơ hữu của Chi Khu Hàm Thuận, trong số này có Đại đội 288/ĐPQ của Đại úy Phạm Văn Sáu theo Thiếu tá Dụng Văn Đối di tản từ chiều 18-4-75 bằng đường bộ tới Hàm Tân và bị Tiểu Khu Bình Tuy giải giới tại đây, coi như tan hàng mạnh ai nấy lo kể cả Đại bàng. Riêng Chi Khu Hải Long do Thiếu Tá Hàng Phong Cao làm Chi Khu Trưởng rời Mũi Né vào trưa ngày 18–4–75 bằng ghe chở nước mắm và chiếc thương thuyền Hương Giang từ Nha Trang vào bi kẹt bỏ lại. Các đơn vị tại Bắc Bình Thuận gồm 4 Chi Khu Tuy Phong, Hải Ninh, Phan lý Chàm, Hòa Đa và Liên đoàn 925/ĐP đóng tại Lương Sơn, phần lớn cũng được di tản vào Vũng Tàu bằng tàu Hải quân và ghe đánh cá tại các bến Cà Ná, Long Hương, Phan Rí Cửa, Hòn Rơm. Riêng Chi Khu Thiện Giáo coi như tan hàng trước ngày 16-4-75.
 
Tại bãi biển Kim Hải tình hình mỗi lúc một thêm căng thẳng. Trời về trưa càng oi bức ngột ngạt, gió biển vẫn không đủ xoa dịu nỗi cái nóng của hơi cát bốc lên từ bốn hướng. Theo đúng kế hoạch lui quân của Bộ Tư Lệnh vùng II Duyên Hải, đầu tiên là sự xuất hiện của Duyên Đoàn 28 Phan Thiết, từ ngoài khơi vào bốc các Thương Bệnh Binh của QYV Đoàn Mạnh Hoạch. Kế tiếp là đoàn tàu Ferro Ciment và tàu há mồm ào ạt ủi bãi trong lúc thủy triều đang lên cao, lần lượt bốc hết các đơn vị tại chỗ. Trong lúc đó nhiều chiến hạm kể cả chiến hạm Trần Khánh Dư HQ4 cũng tiến sát vào bờ, sẵn sàng nhả đạn yểm trợ cho các cánh quân bên trong, đang dồn dập ủi bãi đón người. Đại đội 4/229/ĐP do Trung úy Cao Hoài Sơn chỉ huy là đơn vị rút sau cùng vì làm nút chặn cho đoàn người rút ra biển. Ba chiếc Hải thuyền tiến vào bờ đón đại đội 4/229/ĐP lúc 1 giờ chiều cùng ngày
 
Lúc này bãi biển Kim Hải trở nên vắng lặng. Cuộc di tản Chiến thuật của Tiểu Khu Bình Thuận và các đơn vị từ Phan Rang vào coi như kết thúc vào lúc 2 giờ trưa ngày 19-4-75 với sự thành công tuyệt diệu.
Trong giây phút sắp từ giã Phan Thiết yêu thương, bỏ lại sau lưng vợ con, cha mẹ, bạn bè, không biết bao giờ mới gặp lại, trái tim người lính trận bỗng dưng khựng điếng như vô cảm. Trên Soái Hạm Trần Khánh Dư HQ4, hiện đang có mặt Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh và Đại tá Ngô Tấn Nghĩa, bên trong những boong tàu hơn 6000 quân được vớt từ bãi Kim Hải.
 
Một ngày một đêm lặn lội trong máu lệ đạn bom, cái chết trước mắt đã làm cho ai nấy quên đi hết sự đói lạnh. Giờ này được ngồi yên trên tàu xa vùng khói lửa, ngắm nhìn trùng dương xanh thẫm, cái đói như từ trên trời xập xuống. Tôi ăn vội gói mì tôm sống chai ngắt nhạt nhẽo và uống ngụm nước lạnh múc ở suối hồi khuya còn sót lại trong bi đông, mới thấy lòng ấm lại đôi chút. Tình cờ đưa mắt nhìn lên boong tàu Trần Khánh Dư, tôi thấy Hải Quân Trung úy Nguyễn Văn Tạo là cậu họ. Tôi mừng quá đưa tay vẫy và hỏi lớn có gì ăn không? Chừng mười phút sau một gói giấy được ném qua tàu tôi, mở ra thật ngỡ ngàng với 4 con cá khô ét nướng và một vắt cơm. Thì ra thân phận người lính VNCH là thế đó, dù họ có là sĩ quan hay binh sĩ, là người lính kiêu hùng Dù, TQLC, LLĐB, BĐQ hay Nghĩa Quân, Xây Dựng Nông Thôn... là Bộ binh, Không quân hay người Lính Biển... thì nỗi cam khổ hiểm nguy, tất cả đều giống nhau không ai ngoại lệ.
 
Đang nằm gối đầu trên chiếc ba lô mơ mơ màng màng, nhớ lại những buồn vui đời lính, bỗng giật mình vì tiếng còi báo động từ Soái hạm HQ4 vang lên. Tôi nghe tiếng loa phát ra “Phi cơ địch xuất hiện, tất cả vào vị trí chiến đấu”. Tôi bật ngồi dậy như cái máy, thấy các anh lính Hải quân đang khoác vào mình chiếc áo phao màu cam, tiến đến các ổ súng Cao Xạ Phòng Không trên tàu trong lúc hệ thống Ra đa trên tháp chỉ huy không ngớt di động để tìm dấu vết phi cơ địch. Các tàu chở lính được lệnh tách rời Soái Hạm và hướng về Nam. Cuối cùng giờ chót phi cơ địch không tấn công đoàn tàu, nhưng Soái Hạm HQ4 vẫn ở lại vùng biển Phan Thiết để đoạn hậu bảo vệ đoàn tàu xuôi Nam.
 
Gần tối đoàn tàu qua mũi Kê Gà với tháp Hải đăng chiếu sáng cả một vùng biển. Mệt mỏi và say sóng, chúng tôi thiếp đi trong giấc ngủ chập chờn, tới lúc ánh mặt trời chiếu vào mặt mới thức giấc. Nhìn ra ngoài thì thấy đây là Bến Đình nhưng tàu còn bỏ neo ngoài biển chưa cặp bến vì còn chờ lệnh Quân Trấn Vũng Tàu.
 
Thiếu tá Nguyễn Hữu Tiến, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu đoàn 229/ĐP, được sự ủy nhiệm của Đại tá Ngô Tấn Nghĩa lên bờ trước gặp Quân cảnh Quân Trấn Vũng Tàu để bàn kế hoạch giao nạp vũ khí, quân dụng cho Quân Trấn vì sợ chúng tôi làm loạn khi được lên bờ. Từng người một bị khám xét, và bị tịch thu tất cả mọi thứ kể cả bản đồ, địa bàn trước khi lên Bến Đình.
Chỉ có Thiếu tá Tiến là còn giữ được một khẩu Colt 45 và một máy PRC 25 dùng để liên lạc với Đại tá Nghĩa.
Hỡi ôi! Đánh trăm trận không chết vì đạn pháo mìn chông của VC mà nay đoàn lính trận Bình Thuận lại bị chết nhục bởi đám Quân cảnh trong giờ thứ 25 này, qua những lệnh lạc từ trên trời rơi xuống. Nhưng chúng tôi là những người lính có kỷ luật và tuyệt đối tuân lệnh cấp chỉ huy, nên không có chuyện gì xảy ra. Nhưng đây cũng là lý do làm cho một số anh em lên được bờ thì bỏ về Sài Gòn vì trong tay không còn vũ khí và quyền chỉ huy, khiến lính không ra lính quan không ra quan. Một số cảm thấy bị xúc phạm đến danh dự khi bị đám quân cảnh trấn lột thẳng tay.
Nhưng trái lại, đồng bào tại Đặc Khu Vũng Tàu đã dành hết sự ưu ái nồng nhiệt đón tiếp đoàn quân di tản từ Bình Thuận vào. Dọc theo Bãi Trước gần cầu tàu, các quày thức ăn cung cấp tự do cho mọi người. Xen lẫn trong số này có các quày của các Soeur bên Thiên Chúa Giáo và quý Ni Sư Linh Sơn Tự. Các món ăn chay vừa ngon vừa gợi nhớ, làm cho các quân nhân Phật tử cảm động muốn khóc vì nhung nhớ gia đình, không biết giờ này họ ra sao? Nói chung đồng bào và các đoàn thể ở Vũng Tàu cùng chính quyền đã tiếp đón thật nồng hậu những người con trở về từ giới tuyến. Mối ân tình sâu đậm ấy là những hình ảnh nồng nàn diễm tuyệt luôn theo tôi trong suốt cuộc hành trình không bao giờ phai lạt trong suốt cuộc đời còn lại.
 
Đoàn Quân xa gồm mấy chục chiếc luân phiên chở chúng tôi về Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp ở Bà Rịa. Khi đi ngang qua Đặc Khu Vũng Tàu có ghé lại, để các cô Nữ Quân Nhân ủy lạo, họ cấp phát cho mỗi người 5 gói mì tôm, của ít lòng nhiều nên chúng tôi vô cùng cảm động, nói lên được tình Huynh đệ Chi binh. Trưa 20-4-75 gần như các đơn vị di tản từ Phan Thiết vào đều có mặt tại Trung Tâm Huấn Luyện Quốc gia Vạn Kiếp Bà Rịa, tỉnh Phước Tuy, ngoại trừ một số ít bỏ ngũ trốn về Sài Gòn tìm thân nhân.
 
Tôi ước lượng có khoảng 10.000 người tập trung về đây, đủ các quân binh chủng, nhưng đông nhất là Tiểu khu Bình Thuận hơn 3000 ngàn người. Trong khi đó từng đoàn xe GMC chở đầy binh sĩ Sư đoàn 18/Bộ Binh của Tướng Lê Minh Đảo vừa từ Xuân Lộc rút về được tái phối trí phòng thủ Sài Gòn Vũng Tàu, chạy ngược về hướng Long Thành trên QL15. Cũng tại Trung tâm Vạn Kiếp, thấy có mặt Đại tá Lại Văn Khuy, Liên Đoàn Trưởng 925/ĐP (Bắc Bình Thuận) và Thiếu tá Nguyễn Quốc Quân Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu đoàn 212/ĐP. Sau khi chận đánh đoàn xe Tăng địch tại dốc Bà Chá Lương Sơn, đơn vị này rút quân theo lộ trình Lương Sơn, Sông Lũy ra Bàu Trắng trong mật khu Lê Hồng Phong để chờ tàu Hải quân đến đón. Đại úy Bá, Tiểu Đoàn Phó cùng một số binh sĩ vài chục người tách ra đi ngược về Lương Sơn tìm đường khác để đi, nhưng từ đó đến nay không nghe tin tức gì về toán quân này.
 
Sáng ngày 19-4-75, Đại Đội Trưởng Đại Đội 1/212/ĐP Đại úy Vĩnh là người trực tiếp chỉ huy phá chiến xa địch tại dốc Bà Chá Lương Sơn, cùng một số anh em dùng ghe nhỏ ra biển đón được 3 ghe giả cào lớn vào bờ rước toàn bộ BCH/Liên Đoàn 925/ĐP và binh sĩ còn lại của Tiểu đoàn 212/ĐP vào Vũng Tàu an toàn. Lúc này, Đại tá Khuy và Thiếu Tá Quân không mặc quân phục hiện cũng có mặt tại đó nhưng Thiếu tá Nguyễn Hữu Tiến được Đại tá Ngô Tấn Nghĩa chỉ định thay thế ông trực tiếp chỉ huy binh sĩ Bình Thuận trong thời gian ông về Sài Gòn xin lương bổng và tái trang bị cho đơn vị.
 
Ngày 21 tháng 4-75 hầu hết các đơn vị từ Bình Thuận di tản vào được chở ngược về Đặc Khu Vũng Tàu và tập trung tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Bãi Sau. Trung Đoàn Bình Thuận được thành lập và được tái trang bị vũ khí cùng quân trang quân dụng. Gạo được tiếp tế dư thừa nên một số đơn vị tính bán bớt để mua cá thịt cho anh em ăn. Ngày 22-4-75 Đại tá Nghĩa dùng trực thăng đáp xuống căn cứ TQLC Vũng Tàu mang theo 5 triệu đồng cấp phát tạm cho anh em mua thực phẩm, mỗi người nhận tạm 200 đồng/ngày. Ngày 5 tháng 4 lại mang đến thêm 2 triệu đồng nữa. Đích thân Th/tá Nguyễn Hữu Tiến nhận tiền và Tr/úy Cao Hoài Sơn tạm thời kiêm thủ qũy, giúp cấp phát số tiền này cho các binh sĩ Trung Đoàn Bình Thuận (Th/tá Tiến đã qua đời tại Úc vì bạo bệnh sau nhiều năm sống trong Trại tù CS ngoài Bắc). Quân số Trung Đoàn Bình Thuận lúc đó khoảng 3000 người gồm Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan, và Binh Sĩ các đơn vị tác chiến.
 
Riêng BCH/Tiểu Khu, BCH/Liên Đoàn 925/ĐP, và các BCH Chi Khu, An ninh Quân Đội, các ban ngành coi như tan hàng ngày 19-4-75, ngoại trừ “người Lính già Ngô Tấn Nghĩa, đã theo anh em đến giờ phút cuối cùng từ mọi nẻo đường” nên đã bị kẹt lại ở Sài Gòn dù ông có đầy đủ phương tiện để ra đi trong giờ phút cuối nhưng ông vẫn không đi khi những chiến binh của Bình Thuận còn đó. Riêng tôi ghi nhận không biết có thiếu sót vì thời gian đã quá lâu và không biết mình là nhân chứng nên không để ý nhiều, để ghi nhận sự có mặt của hầu hết các vị Tiểu Đoàn Trưởng như Thiếu Tá Tiến 229. Thiếu tá Bình 274, Thiếu tá Tư 275, Đại úy Hoàng 202 ...Không thấy các vị Chi Khu Trưởng nào có mặt tại đây ....
 
Trong ngày 25-4-75, Đặc Khu Vũng Tàu cấp cho Trung Đoàn Bình Thuận một xe Dodge, các Tiểu Đoàn nhận lại máy PRC 25 và bản đồ Tỉnh Phước Tuy. Lúc này bắt đầu hỗn loạn vì VC bắt đầu áp sát Thành Phố, pháo kích bừa bãi vào dân chúng đang tập trung tại sân vận động. Phi trường bị pháo kích liên tục làm tê liệt các chuyến bay. Tệ hại nhất là tại sân vân động, những người không nhà lại phải bồng bế nhau tháo chạy dưới làn pháo của VC. Hơn 10.000 người tại đây hoảng loạn kêu khóc rất thương tâm, không thấy ai có lấy một lời lên án hành động dã man này. Lương tâm loài người đâu rồi? Các đài BBC, VOA, RFI, RFA ... đâu không tố cáo tội ác chống nhân loại của Bắc Quân xâm lược này?
 
Đạn bom lửa khói đã bắt đầu tiến vào đường phố, xác người cháy đen nằm trên lề đường, quân cướp giật lợi dụng hoành hành, làm cho tình hình thêm rối rắm. Tình hình trở nên nguy ngập khi Sư đoàn 18/BB được lệnh rút về Biên Hòa. Các Tiểu đoàn 274/ĐP của Th/tá Bình và 275/ĐP của Th/tá Tư, 202/ĐP của Đại úy Hoàng chỉ huy thuộc Trung Đoàn Bình Thuận được lệnh bung ra Long Hải làm tiền đồn chận giặc, bảo vệ phía Đông Bắc thành phố Vũng Tàu .Các Đại đội biệt lập và Tiểu đoàn 229/ĐP trách nhiệm giữ căn cứ TQLC làm phòng tuyến chính, tiếp ứng cho các đơn vị bảo vệ Vũng Tàu. Ngày 29-4-75, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn và một số tùy viên thân cận từ Biên Hòa dùng trực thăng đáp xuống căn cứ TQLC lúc đó do Trung Đoàn Bình Thuận trấn giữ. Buổi trưa cùng ngày lúc 10 giờ 30 sáng các vị đã “di tản chiến thuật” bằng trực thăng ra Hạm đội 7 Mỹ đang đậu ngoài khơi Vũng Tàu cùng lúc VC tấn công vào Long Hải. Trước sức tấn công dữ dội của địch và không có sự yểm trợ tối thiểu nào của Đặc Khu Vũng Tàu nên ba Tiểu đoàn 274/ĐP và 275/ĐP, và 202/ĐP đã lui binh về căn cứ TQLC cùng phòng thủ.
 
Trên QL15 dẫn vào Vũng Tàu, Cầu Cỏ May do TQLC đóng giữ bị VC tấn công dữ dội nhưng gặp sự chống trả mãnh liệt nên gây nhiều thương vong cho giặc. Tại căn cứ TQLC do Trung đoàn Bình Thuận trấn giữ, Cộng quân bắt đầu tấn công bằng lối tiền pháo hậu xung cổ điển. Trung đoàn đã đánh với giặc trận chiến cuối cùng vô cùng oanh liệt.Từng đơn vị địch như những con thiêu thân lao vào, ác liệt nhất là mặt phía tây có rừng dương liễu, và động cát. Xác địch nằm ngỗn ngang vì mìn bẫy và những lằn đạn chính xác của ta. Tới chiều gần tối biết không thể nào ngăn chặn được nữa, vì đạn dược có giới hạn . Trung đoàn Bình Thuận rút đi dọc theo bãi biển tiến về Bãi Trước. Chúng tôi bỏ lại tất cả chỉ mang theo đạn dược, vũ khí nhẹ và lương thực vì vũ khí nặng không còn đạn nên phá hủy trước khi rút.
 
Chúng tôi chiếm ngọn núi Nhỏ có tượng Chúa ngó ra biển làm vị trí phòng thủ. Đây là một căn cứ quân sự mà quân đội Nhật Hoàng đã xây dựng trước đây hồi Đệ nhị Thế chiến (có tài liệu nói do người Pháp xây dựng). Trong đó có hệ thống giao thông hào, hầm trú ẩn kiên cố và có giếng nước. Dân chúng xung quanh kéo đến đây lánh nạn rất đông trên vài ngàn người.
Lại một đêm dài không ngủ đi qua rất chậm như những đêm dài VN suốt 20 năm chinh chiến trên quê hương khổ đau. Tiếng súng trong thành phố vẫn tiếp diễn không ngớt, kéo dài tới cả buổi sáng ngày 30-4-75 và cuối cùng là lệnh đầu hàng của Tổng thống hai ngày Dương Văn Minh. Kết thúc vận hội của dân tộc VN tự do, bước vào ngưỡng cửa của thế giới đói nghèo.
 
Hơn bốn mươi năm qua rồi, nhưng lịch sử cận đại của nước Việt vẫn còn đó chứ không sang trang như nhiều người đã ngộ nhận lúc ban đầu. Hãy nói lên những sự thật của lịch sử để tự trọng và xứng đáng là người cầm bút, là người Lính hay ít nhất cũng là một bình dân lương thiện. Đó là cách duy nhất đền đáp lại mối ân tình đối với người chiến sĩ một đời hy sinh hạnh phúc và mạng sống của mình cho đời.
 
Người Lính Bình Thuận, những Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, Cán bộ Cảnh Sát... một đời xứng đáng để các thế hệ sau trân quý, noi gương. Chúng ta đã không lầm lẫn khi viết bất cứ một trang sử nào nói về “Sự hy sinh cao quý của người lính VNCH”.
 

Son H Cao
Ngày này 48 năm về trước khi Miền Nam bị tộc cối xâm lược thành công .
Tôi chào từ biệt vị Tiểu Đoàn Trưởng TĐ/229/ÐP Thiếu tá Nguyễn Hữu Tiến và anh em trong đơn vị, rồi tìm đường trở về quê Chợ Lầu, Phan Rí Cửa thăm mẹ già, và gia đình nhỏ của tôi rồi ra sao thì ra. Tôi băn khoăn mãi không biết nên đi bằng đường bộ hay bằng ghe và khi về thì phải trình diện ở đâu. Chợ Lầu tuy là quê tôi nhưng mà tôi đã gây ân oán giang hồ với đám VC nằm vùng rất nhiều, vì khi còn ở ĐĐ118/ÐPQ, tôi đã chỉ huy binh sĩ làm cỏ bọn du kích nằm vùng nhiều quá, có thể chưa kịp nhìn thấy mặt mẹ già, vợ con thì đã bị chúng trả thù tàn bạo cũng có.
 
Tôi cũng vừa nhận được tin Ba Dượng tôi đã tự tử chết tại nhà, do mấy bà mẹ của lính ĐĐ tôi đi bằng ghe vô Vũng Tàu tìm con nói cho biết, mãi đến ba ngày sau xác chết đã bốc mùi thúi ông ngoại tôi lên xã xin đem chôn mới được “Cách Mạng” đồng ý.
 
Ngày 17/4/75 sau khi Bắc Bình Thuận bỏ ngỏ, VC từ trong rừng tràn về chiếm chính quyền, ba dượng tôi là một cán bộ của chính quyền VNCH chức vụ Phụ tá Trưởng Chi Chiêu Hồi Quận Hòa Đa . Chúng cho du kích đến nhà kêu ông lên xã Chợ Lầu viết những Bandroll tuyên truyền ca ngợi “cách mạng”, ông từ chối và tối đó ông quyết định uống độc dược quyên sinh. Trước khi chết ông dùng sơn viết lên tường nhà hàng chữ để lại cho các con: “Ba thà làm phân xanh cho cây cỏ còn hơn sống chung với Cộng Sản”. Vì thế chúng kết tội ông là CIA phản động, với chức vụ nhỏ nhoi là phụ tá cho Chi Chiêu Hồi Hòa Ða thì làm gì mà CIA để mắt tới?. Tà quyền VC mới chiếm được lấy làm tức tối, vì có một tên cực kỳ phản động dám công khai dùng cái chết để phỉ nhổ vào mặt chúng. Thế là cả bọn kéo đến đầy nhà, lục soát lấy đi những gì mà không thuộc về chúng, như một lũ kên kên cướp cạn, chỉ thiếu một điều là không ăn xác chết. Và tôi cũng nhận được tin Th/sĩ Nguyễn Thìn, Cảnh sát đặc biệt Chi Khu Phan lý Chàm, bị chúng bắt trói đem vào rừng giết man rợ còn hơn thời Trung cổ, bằng cách trói vào gốc cây bỏ đói, khát, thoa đường vào người cho kiến rừng cắn chết.
 
Cuối cùng tôi quyết định dùng ghe từ Long Hải để về Phan Rí Cửa và trình diện tại đây, may mắn hơn rất nhiều anh em khác đi bằng xe bị VC bắt tại bến xe Vũng Tàu đem đi nhốt mất tích chưa kịp nhìn thấy gia đình. Dầu sao Phan Rí Cửa thị trấn lớn cũng đỡ hơn tại Chợ Lầu, nơi cạm bẫy đang rình rập.Tôi chỉ muốn một lần nhìn lại người thân rồi thì thân xác này có bị ra sao thì mặc. Tôi biết Việt Cộng sẽ trả thù hèn hạ lên thân xác, và gia đình những chiến sĩ QLVNCH, trong đó có tôi.
 
Sáng sớm ngày 3/5/75 tôi đã về đến nhà bình yên bằng chiếc ghe nhỏ chở khách. Tôi đi trình diện ngay theo lời khuyên của gia đình tại thôn Song Thanh, nằm trong Trường Tiểu Học Thanh Lộc. Cho tới giờ, những lời chửi bới, mạ lỵ của tên Kỷ thôn trưởng mà sau mấy mươi năm giờ vẫn còn văng vẳng bên tai tôi. Trước đây hắn là cơ sở VC nằm vùng vừa mới ngoi lên mấy ngày nay, trình độ học vấn chưa đọc rành chữ Việt Ngữ. Chúng để tôi yên ổn cho đến sáng ngày 5/5/1975 thì một du kích nguyên trước đây là Nhân Dân Tự Vệ dưới quyền chỉ huy của tôi, hồi tôi còn nắm Phân Chi Khu Trưởng Phan Rí Cửa, đến thông báo là trưa nay trình diện tại thôn lúc 1 giờ để đi học tập.
Tôi không có nghe tay du kích này bảo đem theo cơm gạo, chỉ nhận lệnh tập trung, mang theo áo quần. Theo lời bọn chúng, thì đi học tập chính trị chứ không phải vào tù. Tôi từ giã vợ con lên đường nhưng thực tâm biết rõ là khó có ngày về, vì biết quá rõ bọn này, chúng căm thù giới sĩ quan VNCH đến tận xương tủy, vì chúng đền nợ máu quá nhiều. Hơn 12 giờ trưa tôi đã có mặt tại thôn Song Thanh với một ít hành trang và ít tiền trong túi. Tên thôn trưởng Kỷ sai du kích đem nhốt tôi vào trong một lớp học, chỉ nhìn thấy ánh sáng lờ mờ qua khe cửa. Một lúc sau thì có mặt đầy đủ khoảng mười người cùng bị tống vào phòng học nhốt chung với tôi. Điểm danh sơ qua tôi thấy có Ấp trưởng Song Thanh là Nguyễn Nhu, ông này đã lớn tuổi, Tr/úy Tăng Văn Đồng Tr/Ban 5 Chi Khu Hòa Đa, Th/úy Trần Văn Xuân Trưởng Ban NDTV/HĐ, và tôi Cao Hoài Sơn ĐĐT/ĐĐ4/TĐ/229/ĐP, số còn lại là nhân viên xã ấp và cảnh sát viên.
 
Trong lúc chờ đợi xe đến chở đi, tôi được người thân báo cho biết qua khe cửa sổ, có một nhóm định đánh chúng tôi khi trên đường ra xe. Khi tên thôn trưởng có mặt tôi liền phản đối thì được hắn trả lời là “nhân dân” phẫn nộ không can thiệp được. Thì ra chính bọn này mang danh nhân dân để tổ chức đánh chúng tôi, trả thù một cách đê tiện. Thật quá ư là hèn hạ, chỉ có chế độ cộng sản sâu bọ mới sản sinh ra giống người này, chuyên môn đánh người ngã ngựa. Lúc này dân chúng đến xem đứng chật cả sân trường, chỉ chừa một lối đi nhỏ cho chúng tôi ra xe. Nhìn ra không phân biệt được bạn thù, trong số này cũng có rất đông thân nhân chúng tôi đang ra sức ngầm bảo vệ cho chúng tôi lên đường, và tôi cũng đã chuẩn bị tinh thần cho trận trả thù tàn khốc này.
 
Xe đã đến nhưng chúng tôi không ai chịu đi cả, vì biết con đường trước mặt có thể thân xác mình nằm lại nơi đó . Cuối cùng Trưởng Ấp Nhu thí mạng già xung phong đi đầu, đám đông chỉ chen lấn không tấn công ông ta. Tôi có ngay quyết định là phải chạy thật nhanh ra xe theo sau Trưởng Ấp Nhu, ít nhất nhờ yếu tố bất ngờ có thể vượt qua hai phần ba đoạn đường, để khỏi bị đánh.
 
Vừa chạy được nửa đường thì vòng vây người khép lại, chận đường ra xe của tôi, bất chợt một tên chen vào đấm mạnh vào mặt tôi, với giỏ xách áo quần trên tay, tôi phản ứng nhanh bằng cách quất mạnh vào mặt nó . Một tên khác giơ cao cái mỏ lết loại lớn nhắm đầu tôi đánh xuống. Không còn cách nào khác đành ném cái túi xách giơ hai tay bảo vệ cái đầu. Nhát đánh thật mạnh làm bầm cả tay và trượt xuống trúng đầu sưng một cục lớn. May mắn cho tôi, người nhà can thiệp kịp thời mở đường bảo vệ tôi lên xe. Nhìn xuống bên dưới là một cảnh hỗn loạn xảy ra, hai anh Xuân và Đồng bị tràn ngập trong đám đông, kẻ đánh người đạp đến chừng bà con đưa lên được xe thì máu me đầy mình, đấy là nhờ có thân nhân bảo vệ không thì có lẽ khó mà toàn mạng. Lúc này bên dưới có hai phe đánh nhau kịch liệt, một bên gồm thân nhân chúng tôi ra sức bảo vệ, bên còn lại cố đánh chúng tôi cho bằng được theo lệnh của ai đó mà chắc chắn là của những giặc Cộng nằm vùng. Bọn du kích phải bắn chỉ thiên loạn xạ để giải tán. Ngày ra đi như vậy, tôi hình dung ra một ngày về thật ảm đạm.
 
Không còn nhịn được sự hèn hạ đê tiện của đám mang danh cách mạng này, Thiếu úy Trần Văn Xuân từ trên xe đã chỉ tay xuống bên dưới quát to: “Tao tiếc rằng không có trái lựu đạn, nếu có ông sẽ cho tụi mày tan xương”.
 
Nhưng mà còn đỡ hơn mấy anh em ở Chợ Lầu. Ngày ra đi bị một nhóm lão già có con bị phơi xác cho Bác và Đảng quang vinh chận xe lại leo lên xe dùng gậy đánh vào đầu từng anh Trung Đội Trưởng Nghĩa Quân cho đến khi mệt lừ mới thôi. Đây mới thât sự là “nhân dân” phẫn nộ.
 
VC đã trưng dụng các xe chở hàng để chở chúng tôi. Xe của các thôn Giang Hải, Hải Tân, Phú Ninh, Phú Hải đã tập trung về đầy đủ trước thôn Song Thanh đứng thành hàng dài. Bọn du kích 30/4 hăm hở, đạn lên nòng áp giải chúng tôi lên đường. Tôi còn nhớ nét mặt tên thôn trưởng Song Thanh, tên Kỷ đã hân hoan đưa tiễn chúng tôi đi như vừa lập được chiến công hiển hách.
 
Cho tới giờ phút ấy, tuy còn chưa hình dung được hành trình của cuộc “học tập cải tạo” này như thế nào, nhưng tôi đã có cảm giác rất rõ ràng về những gì không lành sẽ xảy tới. Từ lao xá Phan Thiết cho tới Cà Tót, tới Tổng trại 8 Sông Mao, rồi nông trường bông Lương Sơn, đập tràn Sông Lũy, Hàm Trí Long Hoa cho tới nhà tù cuối cùng là trại A 30 Phú Khánh… Thật vậy, không phải là một tháng như chúng dối trá rêu rao, mà là ngót 6 năm dài đăng đẵng tôi đã bị đưa qua nhiều nơi do cộng sản bày ra để thực hiện đòn trả thù hèn hạ, bắt đầu từ Lao xá Phan Thiết.
 
----------------

Vĩnh Lộc
NGÀY NÀY NĂM XƯA - 29/4/75
Đơn vị tôi sau khi rút từ vùng Dầu Giây về Bình Dương đêm 26/4/75 tiếp tục cuộc hành quân suốt buổi sáng 28/4/75 đến Tân Uyên thiết lập phòng tuyến trong một cánh rừng cao su . 
 
Phía trước mặt là một cánh đồng lúa còn trơ gốc rạ , trống trải dễ quan sát , án ngữ phía sau lưng cách đó không xa là đồn của lính Địa Phương Quân . Vòng cung bên trái là một ngôi làng nhỏ với những nếp nhà tranh xen kẽ mái ngói , những chuồng trâu phảng phất mùi rơm rạ .
 
Nếu không có chiến tranh thì thật là thanh bình nơi vùng quê yên ắng này .
 
Vào buổi trưa hôm sau , tôi và vài người lính băng qua cánh đồng vào nhà dân có mở một quán nước nho nhỏ để xin nước tắm ở một cái giếng bên hè nhà . Quán này có bán rượu đế nữa , vì vậy sau khi tắm xong như một lời cám ơn tôi đã làm vài ly để làm nhẹ vơi đi thực tại nhưng vẫn đề cao cảnh giác với suy nghĩ họ là ai trong tình hình căng thẳng này .
 
Một buổi chiều êm ả trôi qua thật dễ chịu , không có dấu hiệu gì khả nghi cho tình huống xấu . Đêm vắng lặng không một tiếng súng , chỉ có tiếng động cơ của đoàn quân xa vọng lại từ xa nghe u.....uu.......đến nửa đêm , ánh sáng màu xanh yếu ớt lập lòe của bầy đom đóm thoắt ẩn thoắt hiện qua những hàng cây như trêu ngươi những người lính tự hỏi ngày mai sẽ ra sao .Tình hình đất nước ngày càng nguy ngập vẫn được theo dõi thường xuyên qua chiếc Radio . 
 
Tưởng rằng sau một ngày hành quân mệt nhọc , đêm nay sẽ làm một giấc thật say để lấy lại sức thì đến nửa đêm bỗng từ đâu dội tới ÙNG .....OÀNG .....ÙNG ....OÀNG ...... , phía sau thì đồn Địa Phương Quân bị VC đánh úp , tiếng súng AK , B40 nổ loạn xạ , .....uột ....uột ..... Cả đơn vị báo động sẵn sàng chống trả , đạn pháo liên tiếp dội vào đội hình , tiếng miễng đạn pháo bay vèo vèo găm vào thân cây cao su phụp ...phụp ..., lách cách .....nghe rợn người . Trung đội Trưởng bò qua sát miệng hố cá nhân truyền lệnh của Đại Đội Trưởng nói giọng gấp rút với tôi : " Nhớ nhắc con cái ngóc đầu quan sát , nó sắp tấn công đó " . Với quân số áp đảo , hỏa lực hùng hậu VC đã tràn ngập đồn Địa Phương Quân , buộc số quân còn lại dạt ra phía bìa rừng . Có tiếng loa văng vẳng vọng lại kêu gọi đầu hàng ngắt quảng rồi im bặt . Cường độ pháo kích càng dữ dội hơn , khói bụi mù mịt dấy lên khuất cả tầm nhìn , ngôi làng phía bên trái có nhiều nhà bị bốc cháy , lửa đỏ phủ trùm , tiếng người dân bị thương gào khóc thê lương , trâu bò hoảng loạn phá chuồng chạy ra đám ruộng trước mặt từng bầy . Trời ơi ! sợ nó chạy vào phòng tuyến là vỡ trận . Mừng quá ! Vọng lại tiếng pháo depart nghe ùng ...ục ... từ Lai Khê đáp trả . Chịu trận gần hai giờ , pháo địch thưa dần rồi dứt hẳn , cả đơn vị thức suốt đêm chờ địch . Sáng sớm hôm sau đơn vị tiếp tục lên đường bỏ lại sau lưng một khung cảnh thê lương , ảm đạm . Đoàn quân lặng lẽ đi , đi trong vô định , vẻ mặt đầy ưu tư không ai muốn nói với ai một lời nào .
 ----------------

Nguyễn Dân Việt
Tổ Quốc Ghi Ơn Anh.
Đồng Đội Thương Tiếc Anh.
Trung Sĩ Nhất Trần Văn Minh.
-Khoá 1/71 Đặc Biệt HSQ Hiện dịch, Trường HSQ Đồng Đế.
-Đại Đội 1/TĐ.5 Quân Cảnh BTTM.
Vào lúc 11h40 ngày 30/4/1975, dưới chân Cột cờ tại Bộ TTM anh đã tự sát bằng khẩu Colt 45. Chỉ là một HSQ nhưng với Khí tiết và Danh dự, anh đã nêu một tấm gương cho tất cả chúng ta.
-Tưởng nhớ và thương tiếc, xin được thắp cho Anh một nén nhang lòng.
(Nguồn: Tháng Tư Uất Hận/Fb. Nguyễn Dân Việt).
 

Vinh Ho
Chiến đấu đến phút cuối cùng.
Ngày 30 tháng Tư buồn thảm
Có hàng vạn người dân di tản
Đã ra đi bằng thuyền, trực thăng
Đã ra đi tại Bến Bạch Đằng,
Hay tại DAO, tại Toà Đại Sứ
Trong khi người lính vẫn cầm cự
Tại các cửa ngõ vào Sài thành
Đã chiến đấu đến phút cuối cùng,
Giúp dân có thời gian di tản
Vì Tự Do coi thường tính mạng
Yêu Sài Gòn thanh lịch nhân văn
Yêu Miền Nam rợp bóng tre xanh.
VINH HỒ
Apr. 30, 2023
Ảnh NET: Trên cầu Văn Thánh cửa ngõ vào Sài Gòn trưa ngày 30/4/1975.
 
 
tôi ở tại căn cứ của TĐ15/LD4/ND trại Cây Mai Chợ Lớn. Sáng 30/4 tôi ở tại căn cứ của TĐ15/LD4/ND trại Cây Mai. Từ. HHT. Đơn vị tôi tạm trú có đêm 29 và 30
* Than Thien
Giờ này em và các chiến hữu đại đội kỷ thuật Đóng ở cảng bạch đằng.
* Hoa Hong Hoa
Ngày 30/04/1975, 10 giờ Mình Ỏ Trảng Cỏ, Trảng Bàng, Tây Ninh bị bắc và nhốt tới 5/5/1975 mới cho về. Coi như mình Ở tù từ ngày ấy.
----------------
 
Nguyen Anh-Vu

CHÉN CƠM LÀNG LONG THẠNH MỸ NGÀY 30-4-1975….
Tiểu đoàn hai hàng đều bước
Tay không súng đạn,
Vẫn ngước cao đầu,
Dân làng bên đường
Vỗ tay chào đón,
Người được thắng trận
Ngơ ngác nhìn nhau.
Ba trăm người sát vai ngồi xuống,
Cởi giày, vắt vớ, nói, cười.
Nghe trong đám đông
Tiếng ai sụt sịt
Các chú lính ơi!
Mẹ già đem cơm, canh, cá,
Các con ăn nhiều cho no,
Nhìn bầy con ăn ngon quá,
Mẹ vui, cảm động khóc òa.
Sư già rộng mở cửa Phật,
Đêm nay thầy không thỉnh kinh
Các con vào chùa yên ngủ*
Quên ngày gian khổ chiến chinh.
Chuyện xưa nhiều khi nhớ lại,
Tưởng chừng như mới hôm qua,
Chén cơm làng Long Thạnh Mỹ
Chan canh với hạt lệ nhòa.….
Nguyễn Phúc Sông Hương - tháng 4, 1975 
* Chùa xã Long Thạnh Mỹ, Thủ Đức
----------------

Tan Bui Van
 Những giây phút không thể nào quên
Sau khi rút về huấn khu Thủ Đức nhận lệnh án ngữ cổng chính huấn khu.
 
Thiếu tá Cao Quốc Phú tiểu đoàn phó tiểu đoàn 104 pháo binh cơ động bố trí đơn vị vào vị trí chiến đấu và chờ địch.
Khoảng 5 giờ sáng 30/4/1975 địch pháo kích và tấn công vào huấn khu Thủ Đức. Đơn vị Tôi đã chiến đấu ngoan cường và đẩy lùi nhiều đợt tấn công của địch.
 
Đến 11giờ 30 phút được lệnh buông súng đầu hàng của dương văn minh phát ra từ radio.
 
Thiếu tá Phú tập trung đơn vị ông nghẹn ngào tuyên bố: chúng ta đã làm hết sức mình nhưng lực bất tòng tâm các khẩu đội phá súng rồi tan hàng chúc các chiến hữu nhiều may mắn !
 
Nói xong ông rút khẩu colt 45 lên đạn rồi đưa lên đầu.
Nhanh như chớp Tôi nhào lên cướp súng và nói thiếu tá đường còn dài.
 
Không hẹn nước mắt trào ra từ những đôi mắt thâm quầng vì nhiều đêm mất ngủ.
 
Ông xiết chặt tay Tôi chào các chiến hữu. Rồi tất cả cùng hoà vào dòng người im lặng cúi đầu đi về mọi hướng !
 
----------------
 
*
Trần Chí Dũng
tui ở trường vỏ khoa Thủ Đức.
* Oanh Ngūyên
Nhìn xót xa . Thương các a 
* Huong Bui
Thương quá những người lính VNCH . Chính nghĩa , nhân văn không phải bao giờ cũng thắng , buồn !
* Kim Nguyen
ngày ấy tôi nơi đầu ngõ đơn vị ba nhìn các anh lính thủy đi ngan buồn ơi là buồn lúc đó ba và anh đang được lệnh tử thủ sàigon ba anh và chú khg có tin tức nỗi buồn và nỗi lo
* Hương Thụy
RỚT NƯỚC MẮT. THƯƠNG NGƯỜI LÍNH VNCH NHÀ TÔI.
* Anh Tuan Tran
Những người lính Việt Nam Cộng hòa buông súng, lột quần áo trận chỉ theo lệnh của tên" ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản" Dương Văn Minh. Nhìn xót xa . Thương các a 😢. Thương quá những người lính VNCH . Chính nghĩa , nhân văn không phải bao giờ cũng thắng , buồn !

 ----------------


Nguyen Anh-Vu
NHỮNG TAY SÚNG NHỎ VÀ GIỌT NƯỚC MẮT THÁNG TƯ
Con hẻm Đống đa gần chợ Bà chiểu buổi tối khá yên tĩnh. Từ cây xăng đầu ngã ba chạy sâu vào thêm vài ba phút nữa là đến cuối đường. Ở đó có một bến nhỏ trở thành nơi bốc hàng của những chiếc ghe mang nông sản từ đồng bằng sông Cửu Long lên Saigon. Thường thường hàng họ là các loại trái cây gồm chuối, dừa, thơm … trồng trên vùng đất phù sa phì nhiêu nên thứ nào trông cũng tươi ngon. Sau đó những chiếc xe ba gác kẻo kẹt chạy đến lấy hàng chở đi giao cho các sạp ở chợ Bà chiểu. Từ đây con hẻm quẹo vào tay phải thêm vài chục thước nữa rồi chấm dứt trong một khoảng sân nhỏ yên ắng dưới tàn cây vú sữa xanh mát.
 
Mùa hè miền nam luôn nóng bức, nhất là vào thời gian giữa tháng tư kéo dài qua tháng năm. Thời kỳ giao mùa làm mọi người chờ đợi những cơn mưa từ biển đông bay vào đất liền làm dịu mát các con đường Saigon.
 
Mùa hè năm đó thật nóng khiến mọi người cảm thấy bứt rứt. Trong không gian nghe như có tiếng rầm rì vang vọng về từ cỏi âm u nào đó. Không khí bị cô đặc lại vì tin tức nóng ran từ tháng ba của tuyến đầu miềnTrung, rồi lan lên cao nguyên và bung ra khắp mọi nơi.
 
Hàng ngày báo chí Saigon và ngoại quốc đều đặn viết về những trận đánh trên các phòng tuyến và dòng người tản cư hối hả di chuyển dần về phía nam.
Trong xóm của nó không còn thấy bóng dáng những người lính về phép thăm nhà như thời gian trước đây. Tất cả họ như bị các luồng không khí hút mạnh và cuốn đi mất tăm. Sau đó họ được thả vào các trại lính hay vào những trận đánh đang vang rền tiếng súng.
Trong ánh đèn khuya gần cuối hẻm, tiếng đàn ghi-ta lẻ loi của thằng bạn nó và giọng trầm trầm quen thuộc đang say sưa hát một bài tình ca của Trịnh Công Sơn. Thằng bạn khác im lặng ngồi trong góc tối. Thỉnh thoáng nó rít điếu thuốc lá trên môi làm lóe lên ánh lửa đỏ hắt vào khuôn mặt trẻ trung đã kịp hằn vài nếp nhăn.
 
Nó cầm cây cạc-bin M1 có phần bá gổ cũ kỹ đen bóng lầm lũi bước đến ngồi xuống khoảng trống của băng ghế. Tiếng đàn cũng vừa chấm dứt với những nốt nhạc cuối. Cả ba im lặng giữa mùi khói thuốc bay lãng đãng trong không khí. Từ xa ánh đèn đường đầu ngỏ chiếu thấp thoáng dưới những mái hiên cao thấp chìa ra chênh vênh không hàng lối. Con hẻm chìm sâu vào đêm đen tĩnh mịch. Mọi người hầu như đã vào nhà,những cánh cửa đã khép lại.
 
Sau khi rít vài hơi thuốc, tiếng cây đàn ghi-ta trên tay thằng bạn nó lại vang lên. Hắn say sưa với bài “Xóm đêm”. Bài hát mà nó và mấy thằng con trai trong xóm đều thích. Nhất là mấy thằng tham gia đội Nhân Dân Tự Vệ. Vài phút sau khi tiếng đàn kết thúc, nó đứng dậy chờ hai thằng kia cùng đi. Hôm nay đến phiên tụi nó ra gác thay cho nhóm ở hẻm bên kia. Cả ba đứa lầm lủi đi ra đầu ngỏ. Hai thằng bạn kia mang trên vai hai cây súng trường Mỹ cũ kỹ như súng của nó. Tụi nó quẹo phải bước vào trụ sở đội NDTV nằm giữa hai hẻm Đống đa 1 và 2 điểm danh như mọi khi. Bên trong các bóng đèn nê-on sáng choang. Lác đác có mấy khuôn mặt thư sinh của bọn con trai cùng cở tụi nó đứng tụm bên nhau. Sau khi ghi tên vào sổ trực và nói dăm ba câu, nó và hai thằng bạn thân khoác súng lên vai và tà tà đi theo đường trước nhà thờ dẫn về chợ.
 
Rải rác dưới ánh đèn đường khuya, mấy đứa trong đội NDTV khu Vườn Cau, Đống đa 2 tụ tập lại thành từng nhóm nhỏ đứng tán gẫu hay rù rì to nhỏ trong tiếng động cơ gầm gừ vọng về từ phi trường Tân sơn nhất. Ở đó những chiếc máy bay quân sự,dân sự thường xuyên lên xuống cả tuần nay vào ban đêm. Lát sau nghe những đứa rành rỏi hơn kể chuyện, nó mới biết đó là những chuyến bay âm thầm đưa ngoại kiều, và những người Việt đầu tiên ra đi lưu vong.
 
Trong đêm tối tiếng đại bác từ chân trời đông-bắc vọng lại thật nặng nề. Nghe rõ nhất là hướng khu vực Biên hòa, Xuân lộc. Cả đám ngồi hàng dài bên vỉa hè tay cầm vũ khí. Mặc ai nói gì thì nói, đi đâu thì đi, bọn con trai tuổi 15, 16,17 trong các đội NDTV vẫn tỉnh bơ cười nói và kể các câu chuyện tiếu lâm thu nhặt lung tung khắp đó đây. Thỉnh thoảng có đứa mới đến nhập bọn và bắt đầu với những tin tức hay ho của các trận đánh đang xảy ra khi có thằng nào đó tò mò muốn biết tình hình chiến sự ở các nơi.
 
Nó đứng dậy tách khỏi đám đông rồi bước qua lề đường đầu cây xăng cắt xéo ngang cổng nhà thờ. Những căn nhà phố dọc bên kia đường Bùi hữu Nghĩa đã tắt đèn gần hết, xa xa chợ Bà chiểu tối om. Đã đến giờ giới nghiêm, ngoài đường không còn ai qua lại trừ mấy đứa NDTV đang chờ đội trưởng hướng dẫn công việc tối nay.
 
Bất chợt một chiếc xe díp không mui phóng vụt ra từ hẻm Đống đa 2. Lúc chạy ngang chổ tụi nó đang đứng ngồi, chiếc xe chở đầy nhóc người và túi xách, vali chạy chậm lại. Nó ngạc nhiên khi nhìn thấy thằng bạn vừa quen có khuôn mặt hiền, hay cười đang ngồi trên đó. Hồi nảy đang nói chuyện với nhau, đột nhiên có người ra gọi nó về nhà gấp. Nó đưa súng cho một đứa nhờ mang trả lại cho đội trưởng, rồi chạy vụt đi. Bây giờ nó ngồi trên xe đưa tay ngoắc và nói:
– Ê, tụi mày đi không, ra sân bay Tân sơn nhứt?
Cả bọn quá bất ngờ, đứng ngây ra không ai trả lời. 
 
Chiếc xe díp chờ đợi giây lát, rồi từ từ tăng tốc lăn nhanh về hướng đầu chợ Bà chiểu trong ánh đèn khuya chập choạng. Nó nhìn theo hình dáng thằng bạn mới quen và chiếc xe xa dần trong bóng tối. Một nổi buồn chợt len lỏi trong tim, nó biết gia đình thằng bạn lên sân bay để bỏ Saigon ra đi. Nó đứng đó một lát lâu không nói chuyện với ai, hết nhìn sân trường Thánh mẩu, lúc nhìn qua những mảng tối đen bên kia đường, rồi quay lại nhìn hướng chiếc xe díp đã chạy đi… Đêm nay tiếng đại bác nổ vọng về nghe gần và dữ dội hơn những đêm trước. Từ hướng Lăng cha cả, tiếng máy bay ầm ì lên xuống có vẻ tấp nập, gấp rút hơn.
 
Nhóm nó được lệnh của ông đội trưởng đi tuần trong xóm Vườn cau. Có lẽ đã hơn nửa đêm, trời đã khuya. Tất cả sáu đứa âm thầm đi vào con hẻm xi-măng dưới ánh đèn đường vàng mờ đục bị che khuất bởi các mái hiên trong bóng tối. Lệnh đưa ra là mọi nhóm phải đi tuần thường xuyên, không để bọn trộm, cướp lợi dụng tình hình ra tay. Nhất là phải chú ý đến người lạ và các dấu hiệu khác thường xuất hiện trong lúc đi tuần. Thật sự là nhờ mấy nhóm NDTV như bọn nó thay nhau canh gác mổi tối, nên các xóm Đống đa 1, 2, Vườn cau và hẻm bên hông nhà thờ yên ổn.Không tổ việt cộng nằm vùng nào dám ra treo cờ, rải truyền đơn hay có nhà nào bị bọn trộm cạy cửa.
 
Xong một vòng đi tuần, nhóm tụi nó lại quay về ngồi nghỉ ở lề đường đầu hẻm của xóm. Những ngày trực gần đây, khi những trận đánh càng lui dần về phía Saigon,tụi nó không đứa nào chịu đi ngủ. Ai cũng lăng xăng đi tới, đi lui với điếu thuốc lá trên tay, lúc thì ngồi trò chuyện với đứa này, lúc thì tìm gì đó để làm cho hết phiên gác. Chẳng còn đứa nào nhớ đến cây đàn gui-ta và hát hò những bài tình ca của Phạm Duy, Vũ Thành An, Trịnh Công Sơn … như khoảng thời gian yên ổn trước đây.
 
Tối hôm nay cả bọn tụ lại ngồi nghe chuyện đánh nhau ở Long khánh, Biên hòa đang lan dần về Thủ đức. Những cây súng trường thời đệ II thế chiến, chứng nhân của các trận đánh dữ dội ở các chiến trường trên vùng đảo Thái bình dương như Guadalcanal, Guam, Phi luật tân, Iwo Jima, Okinawa .. hay ở Châu âu như Normandy, Caen, Paris, Hà lan, Bastogne … được dựa sát vào cột đèn, tường rào. Có cây súng to, dài đến độ thằng bạn nó khi dựng cây súng và đứng kế bên,đầu nòng súng cao ngang bằng vai làm ai cũng cười. Vậy mà hắn lại thích cây súng đó mới lạ!
 
Cả bọn ngồi vòng tròn nói đủ thứ chuyện trên đời. Nóng bỏng nhất là trận đánh lớn ở Xuân lộc, Biên hòa rồi đến chuyện người Mỹ bỏ rơi miền Nam. Bàn tán về các tướng lãnh và dân Saigon đang di tản. Thỉnh thoảng câu chuyện lại bị ngắt quảng bởi những tiếng pháo nổ to liên tục vọng về. Những đôi mắt mệt mỏi vì thức khuya pha lẫn lo lắng nhìn về góc trời xa nơi chập chờn ánh lửa nháng lên trong bóng đêm.
 
Đột nhiên từ chợ Bà chiểu có tiếng chân bước lao xao và bóng người đi về phía nhà thờ. Trong nhóm ba bốn đứa vừa đứng lên, vừa liếc nhìn những cây súng đang dựa vào cột đèn kế bên. Những đôi mắt căng thẳng quan sát conđường giữa hai dãy phố dưới ánh đèn mờ. Vài phút sau, tụi nó nhận ra đó là một người sĩ quan trẻ mang quân phục bộ binh, đầu trần, không có súng ống. Trên tay anh có chai rượu đã cạn phân nửa. Anh đến gần và nhìn tụi nó với khuôn mặt thật buồn, đôi mắt màu đen u tối như muốn khóc. Người sĩ quan đưa chai rượu mời tụi nó. Một thằng bạo dạn hỏi anh từ đâu về, anh hơi nghiêng ngã trên đôi chân,khoát tay chỉ về hướng xa lộ Biên hòa. Để lại chai rượu cho tụi nó bên vỉa hè,anh bước vào ngồi nghỉ trong bóng tối dưới mái hiên của tiệm thuốc tây. Một lúc sau, anh khóc một mình. Tiếng khóc của một người lính dãi dầu sương gió nghe thật tức tưởi và bi tráng. Bên kia đường trong sân nhà thờ Bà Chiểu, tượng Chúa Giê-su đứng trên đỉnh mái vòm trước tháp chuông nhìn sang thật hiền hòa, độ lượng. Chắc Ngài cũng cảm nhận được niềm đau của người lính chiến nằm khóc cảnh tang thương của Miền Nam trong những ngày tháng binh lửa ngút trời này.
 
Cả bọn tụi nó đứa ngồi, đứa đứng im lặng nhìn bóng dáng của anh nằm lăn ra nền xi-măng trong đêm tối với niềm thương cảm. Nổi buồn khôn tả của người sĩ quan trẻ làm cho tụi nó không còn tụ tập nói chuyện đánh nhau nữa.Mổi đứa tìm một góc với cây súng trên tay bâng khuâng nhìn ra đường hay ngồi cúi đầu trên vỉa hè với điếu thuốc lá cháy đỏ.
 
Chợt những tiếng nổ lớn liên tiếp nghe rất rỏ từ sân bay vọng về. Đây là đêm đầu tiên có tiếng pháo kích thật gần làm rung chuyển nhà cửa. Cả bọn tụi nó dáo dác nhìn về phía phát ra những âm thanh kinh hoàng đó. Một đứa lớn nhất trong nhóm nói có lẽ Tân Sơn Nhất đang bị hỏa tiển và pháo tầm xa tấn công. Từ hướng đầu chợ, một người lính lẻ loi đi dưới ánh đèn đường ngang qua nhóm NDTV đang canh gác. Trong dáng điệu buồn bả, anh thoáng nhìn tụi nó và người sĩ quan nằm khóc rồi bước theo con đường Bùi Hữu Nghĩa khuất dần về hướng chiếc cầu sắt qua Đa-kao.
Khoảng mười phút sau, một chiếc xe jeep quân sự màu xanh xám mui trần từ chợ phóng thẳng đến chổ tụi nó và dừng lại. Cả bọn đều đứng dậy. Trên xe chỉ có một người lính quân cảnh. Anh vẫn ngồi sau tay lái và hỏi thăm tụi nó là NDTV của khu nào. Khi nhìn thấy người sĩ quan đang nằm ngủ say dưới mái hiên cạnh chai rượu,người quân cảnh im lặng. Khuôn mặt đăm chiêu bị che khuất một phần dưới bóng tối của vành nón sắt anh đang đội trên đầu.
 
Nó và ba đứa bạn bước về con hẻm đầu xóm nơi có đống cát to của cửa hàng bán xi-măng, gạch để ngã lưng và nhắm mắt lơ mơ ngủ với cây súng kê sau gáy. Thỉnh thoảng có đứa chợt giật mình, ngồi nhổm dậy nhìn ra con đường trước mặt trong tiếng đại bác nổ ầm ì rất gần. Sau đó lại tựa lưng xuống ngủ lại.
 
Màn đêm chuyển sang màu xám rồi nhạt dần, trời bắt đầu sáng. Người sĩ quan tỉnh dậy rời khỏi mái hiên lúc nào nó không biết. Chiếc xe jeep và người lính quân cảnh cũng đi từ lâu. Những tiếng nổ từ hướng sân bay vẫn vang rền.
 
Hôm nay là ngày 29 cuối tháng rồi. Nó và thằng bạn bị bệnh nằm lăn ra ở nhà vì những đêm không ngủ ngoài đường. Căn bệnh nhiễm trùng làm nó thấy kiệt sức vì trong phiên gác, cả bọn lấy nước từ trụ cứu hỏa vào sô, không nấu sôi, chia nhau uống làm hai ba đứa bị kiết lỵ.
 
Sáng nay dân trong hẻm nó sống đang tụm lại lao xao bàn tán chuyện di tản ngòai bến tàu, trong sân bay, tòa đại sứ… Có những người lính quay về, cởi bỏ quân phục bước ra đường bàn luận, nghe ngóng tình hình với những đôi mắt lo âu. Tối đó nó nhờ thằng bạn ở gần nhà xin đội trưởng NDTV cho nghỉ gác. Trong đêm nó ngủ chập chờn giữa âm thanh rền vang của tiếng đại bác nổ bao trùm khắp thành phố Saigon.
 
Trưa ngày 30, tiếng súng nhỏ vang lên từ khắp mọi hướng hòa lẫn tiếng pháo nổ làm rung chuyển mái tôn. Nó cố gắng nhổm dậy.Mấy thằng bạn trong xóm nhắn nó đem cây súng ra trụ sở nộp. Thò tay ra phía sau cái tủ sắt cũ kiểu quân đội dùng cất giấy tờ ở nhà tìm cây súng các-bin được giao khi gia nhập đội NDTV. Nó xem lại lần chót khóa an toàn rồi xuống thang gỗ đi ra đầu xóm vào trụ sở NDTV. Hai tay nó đặt nhẹ cây súng xuống đống vũ khí trên cái bàn ở giữa phòng. Lác đác có những đứa nó quen đang ở đó. Tụi nó thoáng nhìn nhau rồi ra về. Nó nhìn lần chót khung cảnh quen thuộc. Lô cốt bao quanh trụ sở làm bằng những thùng phuy to đổ đầy cát, đá và bê-tông nặng nề, bên trên có những vòng dây kẽm gai quấn quanh những cây sắt ấp chiến lược đã han rỉ … Thế là hết, trái tim nó đang đập trong lồng ngực thóang nặng trĩu một nỗi buồn xa xăm. Nó bước vào con hẻm quay về căn nhà ở cuối xóm.
 
Hơi nóng buổi chiều hè giữa thời điểm giao mùa hầm hập phả ra khắp nơi, trên bầu trời những đám mây xám bạc đang bay lờ lững. Nó nghe từ đâu đó trong không trung những giọt mưa đầu mùa bắt đầu rơi xuống lẫn với tiếng những đầu đạn đồng chạm mái nhà kêu lộp bộp. Tất cả âm thanh đó như những giọt nước mắt đang rơi xuống từ trời cao.
VŨ GIA PHAN

-----------------

Tony Nguyễn (Nguyễn Tường H28)
Van Thuong Le
Có một loài hoa hiếm.
Chỉ nở trong không gian.
Nhưng nay hoa đã tàn.
Từ ngày hai tháng tư.

Van Thuong Le
02/04/1975 HOA DÙ THÔI NỞ
 
 

Tony Nguyễn
Người Chiến Sĩ Vô Danh
Bùi Ngọc Thuận đăng trên Sài Gòn Xưa này 29/4/2023
Cách đây 1 năm tôi [Bùi Ngọc Thuận] đã đăng bài này trên trang "Hoài niệm - Sài Gòn xưa"
Sáng ngày 30/04/1975, trong khi Việt cộng đã tràn vào thành phố, và hầu hết binh lính VNCH đã cởi bỏ quân phục và súng đạn.
Lúc này (10:30), trên đường phố Sài Gòn (đoạn Đường Trương Mính Ký & Trương Minh Giảng) xuất hiện một anh lính trẻ với hai tay hai khẩu M16 và trên vai là hai khẩu M72 đang đi giữa những cặp mắt ngạc nhiên và ái ngại của người dân xung quanh.
Không biết anh đi đâu và định làm gì.

Nhưng tôi cũng cầu mong những điều tốt đẹp sẽ đến với anh ấy dù bức ảnh được chụp đã 47 năm rồi ....
* Sau khi được đăng lên, bài viết đã nhận được những phản hồi như sau:
- Anh lính là người dân miền Tây, sống nhờ một nhà bà con ở đường Lê Văn Duyệt.
Trưa ngày 30/04/1975, anh ta đã tự sát gần cầu Trương Minh Giảng (SG), sau khi đã xả hết một băng đạn vào chiếc xe lam chở đầy quân Bắc Việt (tự sát chứ không đầu hàng)...
- Xin nghiêng mình ngưỡng mộ trước vong linh của người lính vô danh này.

Chú thích của Nguyễn Đạt, tác giả bức ảnh
[Người lính cuối cùng tôi thấy. 10h30 ngày 30-4-1975
Quân lính VNCH vứt bỏ quân trang súng đạn nhưng còn sót một anh lính 2 tay cầm 2 khẩu M16, vai đeo 2 khẩu chống tăng M72 đi trên đường nhưng không biết về đâu?

Các cụ già và người đi đường đều tập trung nhìn tôi cầm máy ảnh đứng giữa đường tác nghiệp phóng sự. (trên người tôi lúc ấy dán chữ Phóng viên thật to phía trước ngực và phía sau lưng). Chỉ vài phút sau,quân bộ đội đi bộ tiến vào chỉ cách sau lưng anh lính này 500m.]

* Tu Anh Tran

Rạng sáng ngày 30 tháng 4/1975, các chiến sĩ Biệt Cách 81 Dù chia ra từng toán nhỏ, bố trí trên những cao ốc ở khu vực Lăng Cha Cả và bộ Tổng Tham mưu, sẵn sàng tử chiến với địch. Khoảng 8 giờ sáng, một đoàn xe tăng T-54 của cộng sản với bộ binh tùng thiết từ hướng ngã tư Bảy Hiền định tiến chiếm bộ Tổng Tham mưu QLVNCH, nhưng khi vừa đến Lăng Cha Cả, ba chiếc T-54 đi đầu đã bị BC81 Dù bắn cháy. 
 
Đám bộ binh và xe tăng cộng quân phía sau hoảng sợ không dám tiến lên nữa cho đến 10 giờ , dương văn minh tuyên bố đầu hàng...................
nhắc đến đây tôi thấy đau.
 
* Chu Le
Thanh Nguyen : Tôi đang chỉ huy 2 Trung đội Nghĩa Quân bảo vệ an ninh xả Tân An Trung, Quận Đức Thịnh thuộc Tiểu Khu Sađéc an toàn cho đến sáng ngày 1/5; Khi không còn liên lạc được với Trung Tâm Hành Quân Quận Đức Thịnh và cả TTHQ Tiểu Khu ; Bắt buột tôi phải bàn giao Xả Tân An Trung cho một đơn vị Du Kích xả Việt Cộng; Vì không thể làm gì hơn nữa được !
* Son H Cao
Tôi đang ở núi nhỏ Vũng Tàu
 

* Binh Minh Le
Hôm nay là ngày 29/4.... 21 giờ đêm khởi đầu cho cuộc đời lưu vong của tôi.....12 ngày lênh đênh trên biển để đến bến bờ tự do. Cứ mỗi năm khi tới ngày này những giọt nước mắt lại trào dâng...nỗi buồn mất nước và hận thù sẽ mang theo tôi cho tới khi nhắm mắt lìa đời. Buồn...thật buồn ! (Tấm ảnh cuối cùng chụp sáng 29/4/1975 tại Sài Gòn )
 
* Kevind Duong
GIỜ NÀY, NGÀY ẤY...
- Chín giờ 30 sáng 29/4/75, nhận lệnh cho con cái cơm nước sớm, thu dọn trang bị, cắm hoa ( cài thêm mìn bẫy ) bỏ tuyến phòng ngự cầu Cỏ May. Chuẩn bị di chuyễn cùng thiết đoàn 15 đến...đâu chưa biết (?! )
Tớ còn chưa biết khi ấy, định mệnh đang sắp đặt cho mình 1 cuộc hẹn hò nóng bỏng cuối cùng của đời trận mạc.
* Trần Mến
Mình bị thương ở gần Ngã ba Dầu Giây Xuân Lộc, được tải thương về Quân Y Viện Biên Hòa sau đó chuyển về Quân Y Viện Vũng Tàu, tan hàng cố gắng...
* Phan Tiến Bình
Ngày này năm xưa tôi đã đi về đến Ngã 3 dầu giây.. sau 15 ngày mặt trận Phan Rang thất thủ.. 16-4-75 và đến nhà ngày 2-5-1975 … kết thúc đời “ Binh nghiệp “ …
* Cat Le
CT Khôi tối 29/4 rạng sáng 30/4 còn tử thủ ở BTL QĐ 3
* Nguyễn Văn Chính
Nhừng ngày cuôiis tháng tư năm ấy mình dưới Vạn kiếp chạy lên bị Dù án ngữ cầu Cỏ may phải bơi sông qua cả ba lô súng đạn suýt chết đuối.Hú hồn
* Kevind Duong
ND lên Vạn Kiếp buổi chiều rồi vô Bà Rịa. Sáng hôm sau đánh tới xế trưa mới rút qua giữ cầu CM.
* Nguyễn Hoàng Phi
Ba con ở bộ tổng tư lệnh Lai Khê tới 1/5 mới đi bộ về tới nhà
* Chuyen Vu
TD 15 không có ở Xuân Lộc, mà ở tại Hưng Lộc Hưng Nghĩa Trắng Bom
* Trần Tài
Lính vùng 1, giờ bó gối ở trại tù binh số 1 hiệp đức, vẫn mơ ngày SG giải thoát...
* Trần Đạt
Trần Tài lúc đó tui con rùa thôi phải lấy lại đồi 405 HAUDUC cách Hiepduc 20km , trung đội 8 em , trung Vinh tàu 8 em bà mẹ nó khốn khổ hết biết , lên đem 2 xác với c/u Dũng lòi ruột ,sau nầy nó còn ở LONGTHANH , tất cả ở lại do ít quân tụi nó pháo nhiều chịu 0 nổi nên mất Q HAUDUC luôn , nói gì giải vây cho HIEPDUC ... kêu trời chứ biết kêu ai...
* Trần Tài
Trần Đạt thôi , nhắc lại càng buồn, Dân khăn Đỏ ? Thấy kết Bạn khóa 3/73, Nguyễn văn Tấn ,bạn thân cùng Đại Đội với tui ở TBB
* Diệp Văn Tào
Trung đội Xáo đóng quân ở Sân vận động Phong Phú ( Cần Thơ), bảo vệ pháo binh Trung đoàn. Hhhiii có em bên mình làm lính ngây ngô! Ai đâu ngờ quà pình đang tới. Zui xao nức mét lại chào…!!!!
* Kevind Duong
Ừa, vùng IV vẫn còn nguyên...
* Trần Văn Thanh
Chiến đoàn 315/lữ đoàn 3/KB C tướng Trần Quang Khôi ra có mặt ở cầu cỏ may sao?
* Kevind Duong
TĐ15 chung chạ chiến trường với ND từ Xuân Lộc.
* Trần Văn Thanh
lĐ 3 gồm 315 318. 322
* Trần Văn Thanh
Kevind Duong 16-4 đang tấn công ở Truông Mít khiêm Hạnh pháo bay vài con vịt khỏi mặt đất thật đẹp
* Trần Văn Thanh
Sáng 17-4 chuyển về Bàu hàm 18h tao lên xeHTT
 

* Trầm Hương
NGÀY BUỒN NĂM NAO. Lúc này 8h30- ngày 30/04/75 tôi có đang đánh bida cùng NGUYỄN DANH một quán nhỏ tại ngã ba đầu đường đi Đức Hòa LONG AN, lúc bấy giờ chúng tôi không nghe biết gì bất cứ một chi tiết nào, cho đến gần 11h mới nghe sự phủ phàng ụp đến từ loa phát thanh, lời tuyên bố đầu hàng của (anh hùng) rừng sát , tôi vội vàng chạy về đơn vị mà tôi theo học QUÂN CỤ, vì chưa ra trường nên tôi vẫn còn quân số trong đơn vị này, đó là đại đội BẢO TOÀN, TĐ 22TV SĐ 22BB, tôi lấy một chiếc xe đốt cách 3/4 tấn, cùng một số chiến hữu 22 TV về SÀI GÒN, chạy hướng cầu chữ Y qua đường PHẠM THẾ HIỂN, cũng tối hôm này tôi ngủ tại nhà Đ/U Đ ĐT BẢO TOÀN PĐL đêm cùng ngày, sáng ra tôi tạm từ GIA ĐÌNH ÔNG, tôi còn nhớ ÔNG PĐL cho tôi 1.500 đồng làm lộ phí về quê, vì quyến luyến TRẠI HOÀNG HOA và SÀI GÒN mãi đến ngày 7/5/1975 tôi mới chính thức lên xe tải về MIỀN TRUNG , với nỗi buồn vời vợi sự chiến bại nầy.
 
*
Vinh Tấn Nguyễn
Tại sao lúc bấy giờ không xuống bến Bạch Đằng lên chiếc HQ nào đó là xuất ngoại được rồi..!!
* Trầm Hương
Vinh Tấn Nguyễn bến BẠCH ĐẰNG gần phía đông đó, nhưng bọn cờ đỏ chặn mọi ngả đường không xuống được thưa ĐÍCH THÂN hơn nữa em chạy lên TRẠI HOÀNG HOA, gặp đụng độ tại đây
* Vinh Tấn Nguyễn
Trầm Hương Tuổi em lúc đó chưa có số xuất ngoại. Phải đến 70 mới được xuất ngoại thăm viếng . Kakaka
* Trầm Hương
Vinh Tấn Nguyễn Dạ ĐÍCH THÂN, có qua thăm lần này cũng nhờ có ĐÍCH THÂN mở lối mà
* Trầm Hương
NGÀY THÁNG KHÓ QUÊN.
Tối này 1/5/75 đúng 48 năm trước tôi tạm nghỉ tại khách sạn ngàn sao dưới chân THÁNH TỔ TRUYỀN TIN TRẦN NGUYÊN HÃN, đối điện chợ BẾN THÀNH sau một ngày lang thang các nẻo đường THÀNH của HÒN NGỌC VIỄN ĐÔNG , tôi có nhà trong TRẠI HOÀNG HOA nhưng vici nó chiếm mất rồi , có lẽ ngày mai và nhiều ngày nữa tôi vẫn chiếm chỗ tại bùng binh này.
Thật vậy tôi ngủ dưới chân tượng đài TRẦN NGUYÊN HÃN có tới ba đêm không có gì để đắp, trời gần về sáng lạnh lắm, nhưng sương gió mình cũng quen rồi không sao cả , không nói nữa nói càng thêm tức.
* Khoa Tran
Thật buồn hận phải không anh, một thời không thể quên
* Vinh Tấn Nguyễn
Ngày nầy 48 năm trước gia đình bác Chín Dù lên những con cua M113 rời khỏi cầu Cỏ May về bến Đá Vũng Tàu. ZZ94
Ba Tran
Giờ nầy mấy thầy trò tui vẫn còn nằm giữa rừng Long Nguyên chờ lịnh ... mà không biết lịnh gì ...
Hung Vo
Tao ang ngữ cầu Bến Lức Long An
Vinh Tấn Nguyễn
Hung Vo Cọp xuống đồng bằng đi đâu từ rừng Pleiku mãi tới Bến Lức Long an lận trời ??
Hung Vo
ngày 16/3/75 tao dẫn Đại đội trinh sát LĐ 23 đi tiền sát phối hợp với chi đoàn 2 thiết kỵ và LĐ 2 công binh chiến đấu mở đường LT lộ 7...sau đó thì LĐ 23 bị đánh úp ở Thanh An tao mất liên lạc nên vừa đánh vừa chạy về tới Đại lãnh dưới chân Đèo Cả rồi lấy thuyền đánh cá chạy về Vũng Tàu...ngày 15/4 trình diện Long Bình nhận lệnh về LĐ 9 sư đoàn 101 ( nhớ vậy chứ có thấy mặt ông nào cấp trên đâu) xuống nằm ở Cầu Bến Lức Long An chặn tụi Vịt từ sông Vàm cỏ ra...con bà nó ngày này tao ra lệnh bó thuốc nổ TNT dưới chân cầu hết rôi....chờ lệnh là rút xuống Cần thơ....
Binh Nguyen
Có mọt đệ gần đến bến tàu bị nằm lai chiến trường
Vinh Tấn Nguyễn
Binh Nguyen . Anh biết chiếc M113 bị B40 bắn ở trường truyền tin gần trường thiếu sinh quân trước khi TĐ đến bến đá.
Binh Nguyen
Vinh Tấn Nguyễn nơi này vc có dựng bia chiến thắng đi qua lại hoài thấy thật ngậm ngùi
Vinh Tấn Nguyễn
Binh Nguyen . Năm râu thường vụ Đ/Đội cũng bị thương gãy chân trái ngay chỗ nầy lúc xe của anh chạy ngan qua trường truyền tin .
* Vinh Tấn Nguyễn
Josef Thượng Hiền Đúng 5/5. Đặng Văn Chinh . Anh ta qua đời hơn 10 năm nay rồi..! Bị stroke .! Vỡ mạch máu anh ta qua đây có vợ có con rồi qua đời .!
Vinh Tấn Nguyễn
Josef Thượng Hiền Sau nầy lúc vô Thường Đức năm Râu lên thượng sĩ nhất thường vụ đại đội 94 và lúc tôi nắm 94 từ Phước Tuy di tản về Bến Đá ngồi cùng xe M113 năm râu bị thương gãy chân trái di tản ra tàu Mỹ bó bột cùng qua Mỹ ở cùng tiểu bang. Louisiana
Diễm Ngọc
Chuyện buồn nhớ dai .
* Vinh Tấn Nguyễn
Diễm Ngọc Những giây phút thập tử nhất sinh nầy không bao giờ quên và nhớ để cảm tạ Thượng Đế đã chở che qua khỏi con bảo lửa sống đến giờ nầy
Hien Truong. Hiền
Vinh . Giờ này Mình trên đường Từ Hố Nai - Biên Hoà Rút về Căn Cứ Sóng Thần của SĐ/TQLC ! Tới đây 10 Giờ sáng 30/4 . Ông Minh Tuyên bố ĐH ! Thôi Thả Tay - Cuốc bộ về SG! THẦN ƯNG 6 là Của Mình …!!!
Nguyễn Quế
Hien Truong. Hiền Giờ này mình nằm trong trại cải tạo Lam Sơn!!!
Hungnam Nguyen
Hêy Vinh, kể ra mày với gia đình Bác 9 cũng sướng hén, đi M113; còn tao với gia đình Bác 8 từ Láng Cát phải lội và bơi qua một cái đầm rộng cả hơn cây số mới ra được Bến Đá trước khi theo ghe về Gò Công rồi về Sài Gòn đúng tối 30 tháng 4, 1975... kkk... NDCG...!!!
* Vinh Tấn Nguyễn
Hungnam Nguyen Bởi vậy lính 94 nói với tao là : ông may mắn có M113 tăng phái nên ra được cầu Cỏ May chứ không thì chắc không cách nào ông qua được mấy con lạch nước chảy mạnh và sâu ..! Tụi tôi có thương ông cũng chỉ đưa ông qua một hoặc hai cái thôi ..!! Trời thương nên mới còn đến hôm nay
Vinh Tấn Nguyễn
Hungnam Nguyen. Và mầy biết lúc đoàn xe M113 của TĐ tao chạy từ cầu Cỏ May về tới cầu Cây Khế thì bị khựng lại vì trên cầu gài mìn chống chiến xa do một đại đội TQLC trấn giữ . Và Th/ tá TĐT Lê Mạnh Đường của tao phải nói chuyện với ông Đ/ úy Đ/ đội trưởng hơn 10’ anh ta mới chịu gỡ mìn cho tụi tao qua cầu ..! Và đoàn xe về đến trường truyền tin và trường thiếu sinh quân bị phục vịt con bắn cháy một xe ..! Tụi tao tiếp tục về Bến Đá Vũng Tàu . Xuống tàu đánh cá về Vàm Láng Gò Công . ZZ94
Hungnam Nguyen
Vinh Tấn Nguyễn mày ở Trường Truyền Tin thì tụi tao cũng ở gần đó, hậu cứ TĐ6/ND... kkk...!!!
 
Vinh Tấn Nguyễn
Đúng ngày giờ nầy 48 năm trước ba thầy trò tôi ăn vụng mấy chén cơm và nồi thịt kho. Và tôi đây phải trả nợ suốt 48 năm nay và chắc là phải trả dài cổ cho đến hết đời. Và cũng là ngày kỷ niệm 48 năm tôi tìm lại được cái xương sườn của tôi.

Hôm nay ZZ tôi nấu cơm kho thịt trả lại món nợ đã ăn vụng nồi thịt kho và nồi cơm của Vinhgirl Thunguyen. Đúng 45 năm trước. Và ZZ tôi đã nấu đã kho thịt trả nợ suốt 45 năm nay và sẽ phải tiếp tục như vậy dài dài cho đến hết đời ..!! Anh còn nợ em.
 
 
* Chieens Dinh Vu
Ta đang ở trại tù gần 2 tháng !!!
 
30/4/1975!
Ngày Kinh Hoàng của miền Nam Việt Nam Cộng hòa
* Bình Trương
Ngày ấy em chưa chào đời chị gái xinh đẹp ơi!
Em không được hay biết gì
* Phuong Anh
Bình Trương ngày đó kinh hoàng lắm em !
* Phuong Anh
Thanh Nguyen tôi ở cư xá Thanh Đa lô F chạy từ 
* Phuong Anh
Thanh Nguyen tôi ở cư xá Thanh Đa lô F chạy từ Huế vào!
* Phuong Anh
Thanh Nguyen thank you Anh! bây giờ nhắc lại vẫn còn muốn chảy nước mắt!
* Thanh Nguyen
Phuong Anh ; Nơi tôi CHẾT ĐỨNG, và khuyên binh sĩ BUÔNG SÚNG có lẽ là phía nam cư xá Thanh Đa (theo lời của 1 đàn em kể lại). Tôi chỉ còn nhớ nơi ấy là phía Tây Nam cầu Bình Triệu.
* Phuong Anh
Thanh Nguyen từ mặt tiền tầng bốn của lô Fcư xá Thanh Đa nhìn qua là cầu Sài Gòn có ông nhòm chúng tôi đã nhìn thấy xe tăng của việt cộng đang ở trên cầu cắm cờ nửa xanh nửa đỏ đang tiến vào Sài Gòn chúng nó đậu đầy ở trên cầu! Rồi tới trưa là nghe dinh Độc Lập bị húc sập cửa! Buổi sáng đó chúng tôi thấy máy bay cháy từ trên trời rơi xuống nữa!
* An Le Phuoc
Tôi từ. Khánh. Dương. Luôi về. Phan. Rang. Ngày. 13’4. Sau. Đó. Tất. Cả. Đơn vị. Tác chiến. Về Sài Gòn chỉ. Còn lại. Duy. Nhất. Đại đội. 111. Đến. Đêm. 15’lâm. Trận tôi. Bị Bắc. Cùng. T t. Nguyển. Vỉnh. Nghỉ. Tư. Lệnh tiền. P Và chửng. Tướng. Phạm. Ngọc sang. Tư. Lệnh. Sư. Đoàn. 6. Không quân. Và. Đại. Tá. Nguyển. Quang. Lương. Lử. Đoàn. Trưởng. Lử. Đoàn 2 n d sAu. Đó. Mấy. Vị Đó. Thông. Mình. Hơn. Tôi được. Đi. Ra. Bắc tôi. Dôt. Hơn. Ở. Lại miền nam. Đến 77. Tôi. Học. Không. Nỗi. Họ. Đuổi. Tôi. Về quê. Cắm. Câu. Cho. Đêm. Nay
 
* Phao Thu TrinhT-Hiep
Sáng 30-04-1975, đài Quan sát PB tại cầu Bình Triệu báo cho Trung tâm Phối hợp Hỏa Lực BKTĐ là chiến xa CSBV xuất hiện bên kia cầu Bình Triệu. Đại đội của anh có thấy không? Nếu thấy thì anh đã làm gì để đối phó?
 
* Bảo Bình
Hôm nay gợi nhớ lai chuyện buồn xưa...
Khoảng 6 giờ sáng ngày 30/04/1975 , lúc đó gia đình mình đang ở Ngã Ba Ông Tạ Saigon ,,, Có người cùng phục vụ trong Hải Quân với Ba, tới nói : Anh Mão, tình hình này Saigon trước sau gì cũng rơi vào tay vc,,, Vợ con em , em đã đưa ra Nhà Bè rồi, giờ em quay về đón gia đình Anh !.. 
 
Anh nói Chị chuẩn bị ít đồ dùng cá nhân cho gia đình , rồi lên xe Jeep em đưa ra Nhà Bè , đi trực thăng ra HKMH Mỹ luôn, nhưng Ba từ chối không đi, vì không về Ngã Tư Bẩy Hiền được, để đón Ông Bà Nội và Cô Liên đi cùng... Thế là xong : Kể từ đó Gia đình mình bắt đầu đi vào cuộc khổ ải đói ăn thiếu mặc tinh thần luôn khủng hoảng..!
 
* Loc Le
Hết đạn,bị thương, bị bắt, Khánh dương, đèo Phượng hoàng.
 
*
Dương Bá Đương
Sáng ngày 30-4-75 tôi ở ngã tư Bảy Hiên đi lang thang một mình về tới ngã sáu Lê Văn Duyệt (CT. Dân Chủ) đến khi nghe người dân báo tên phản quốc D.v.Mình kêu gọi đầu hàng.. cho đến vài giờ sau bọn tn cờ đỏ chạy tới lui nhìn thấy tôi một mình lang thang trên đường nhưng khg dám đến gần tôi vì mũi xung trên tay hướng về bọn chúng.. sau cùng tôi đưa vũ khí cho chúng và đi bộ về hướng nhà thờ Đ.M Hằng Cúu Giúp (DCCT-SG), vì nhà tôi ở phía sau lưng Nhà Dòng.. Bây giờ nhớ lại hoàn cảnh xưa, lòng mình cảm thấy buồn rai rức khg phai..!

Dương Bá Đương
QUỐC HẬN 30-04-1975
Tháng tư nước mắt nhạt nhoà
Trời rơi sấm sét cửa nhà lung lay
Cúi đầu nhặt hạt đắng cay
Buông hai tay chịu rủi may của đời.
Vành tang thiếu phụ tả tơi
Cờ bay gắt nắng phố phơi nỗi buồn
Sử ghi như một vở tuồng
Đường ma vội chạy quỷ cuồn cuộn đi
Tháng tư còn lại những gì
Mắt đăm phía biển tay tỳ sóng xô
Trần gian thêm những nấm mồ
Tháng năm vừa cũ tựa hồ chiêm bao
Núi đồi rộn rịp nhà lao
Bao nhiêu đau đớn kêu gào về đâu
Tự tay đào lấy huyệt sâu
Tương lai mù mịt quay đầu phương nao
Tháng tư mất biệt trăng sao
Cả thiên hạ khóc xôn xao ánh nhìn
Thôi rồi đã tắt bình minh
Một màu tối ám thình lình kéo qua
Chẳng còn đâu những cành hoa
Rau xanh trồng rợp đường qua giữa cầu
Chắp tay đợi chuyện nhiệm màu
Thần linh vắng mặt con tàu đã xa
Tháng tư qua mỗi căn nhà
Đèn hiu hắt sáng lòng hoà bóng đêm
Bưng chén cơm nặng sầu thêm
Chan giọt nước mắt đói mềm bước đi
Nhìn quanh cũng chẳng còn chi
Gió rung rinh mái gió ghì cửa đau
Mong cho kiếp nạn qua mau
Tháng tư đọng lại một màu thê lương
Tháng tư gói ghém lên đường
Hành trang rách nát ruộng vườn tả tơi
Lệ buồn khóc giữa trùng khơi
Bó tay lạy giữa thói đời đảo điên
10.4.2023
DĐOUYNGOC
 
----------------
 
* Bông Cải
Trưa 30/4/75 sau khi radio phát lời lão Dương Văn Minh "đầu hàng" tiếng súng vẫn còn nổ lẻ tẻ không biết từ đâu vọng về .

Cả xóm mình hầu như không ai dám ra đường, vậy mà cũng có hai đứa chết do chạy vô những ngôi biệt thự vô chủ ở gần nhà thờ Đức Bà để lấy đồ, trên đường trở về tụi nó bị lạc đạn, một đứa chết trong nhà thương ngay tối đó và một đứa chết ở lề đường, gia đình hay tin đem xích lô ra chở xác về

Mặt nó xanh lè như tàu lá chuối, trên trán một lổ và ngay ngực trái một lổ tròn sâu hoắm và máu từ đó tuôn ra đông thành từng cục dưới sàn xe, cả xóm ai cũng khóc vì tội nghiệp nó quá, đứa bạn đứng kế mình nói "từ đây về sau tao không dám ăn huyết heo nữa mày ơi" 

Và mỗi lần tới cái ngày bi thảm này là mình lại nhớ đến cái chết thương tâm của hai đứa hàng xóm hồi xưa
 
* Ngày này 30/4/75. Tôi đang nằm tại bệnh viện Lê Lợi Vũng Tàu. Không nằm nghe sóng vỗ từ lớp xa…! Mà nằm nghe tiếng súng vang xa xa .. rồi gần gần.. !
Tạ ơn Thiên Chúa 48 năm qua tôi vẫn còn đây.. và vẫn còn nhớ những giờ phút của ngày ấy..!
Một chiều ngày đó không quên ..!

* Chiều 1/5/75. Tôi từ bệnh viện Lê lợi về lại Bến Đá  dọc đường về hai bên đường  nhìn cảnh tượng thật thương xót..! Và trong tâm trí tôi tự hỏi ..
Lại có những người con gái trở thành…!
Như tựa đề bài hát của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh ‘‘.. Góa Phụ Ngây Thơ..’’
Tôi nhớ mãi một chiều ngày đó..!
Tôi đi giữa đạn bay súng nổ nhìn thấy cảnh chết chóc..!
48 năm tôi vẫn còn đây..!
Tạ ơn Thiên Chúa..!
Nếu Chúa không che chở Con thì đời con tàn úa lâu rồi..!
Một chiều 1/5/75 .không bao giờ quên…!!!
 
* Đang Trung Nguyễn
NHỚ VỀ NGÀY 30/4/75
----------------------
Câu chuyện cũng đã gần nửa thế kỷ rồi, nhưng chưa bao giờ thấy cũ, nó vẫn âm ỉ trong lòng của mỗi người chúng ta, nếu ai đó còn chút trăn trở, tâm huyết với quê hương đất nước khi hàng năm mùa tháng tư lại về. 

Thật vậy nó chưa bao giờ thấy cũ bởi vì cũng giống như vết thương chưa bao giờ được chăm sóc lành lặn để trở về trạng thái bình thường.

Biến cố năm 75 tôi mới cũng chỉ ngoài 20 tuổi , tuy nhiên tôi vẫn thấy thời gian đó thật thú vị, ý nghĩa và cũng đáng nói nhiều nhất trong đời mình.

Ngày 30/4/75 tôi ở Sài Gòn và cũng hòa nhập vào dòng người chạy loạn, trên tuyến đường từ xa lộ Biên Hòa tới ngã tư Hàng Sanh tìm tới địa chỉ nhà thằng bạn học cùng khóa mà tôi còn nhớ như in 413 lô1 khu 2 cư xá Thanh Đa Gia Định đã chứng kiến biết bao nhiêu điều ngang trái , những cái chết vô cùng bi thương mà không kém phần bi tráng , không có bút mực văn thơ nào lọt tả hết được, như người lính viết văn Phan Nhật Nam đã từng nói " có quá nhiều những điều bất bình tất minh mà không thể không nói không viết, nếu không thì sẽ có tội với lịch sử với người đã khuất " và cũng từ lý do đó hình ảnh người lính đã chết bên cạnh cây súng M60 năm đó trong tư thế vẫn như đang chiến đấu lẽ loi đơn độc
TÔI KHÔNG THỂ NÀO QUÊN
Anh đã chết mà như đang chiến đấu
Súng cầm tay hướng về phía quân thù
Lửa khói ngút ngàn mờ mịt âm u
Tay cứ bóp cò súng không hề nổ
Vận nước nỗi trôi mệnh người tới số
Tôi biết rôi! Anh là biệt cách dù
Cảnh loạn ly, tôi chỉ biết thế thôi
Trận chiến cuối cùng anh người thua cuộc
Như một ván cờ, trong thế triệt buộc
Cuộc chiến này như một trò chơi
Bây giờ đây hết máu đổ thịt rơi
Mà sao vẫn thấy buồn man mác
Vẫn không có gì thay đổi khác
Chạnh nghĩ hoài về người lính miền Nam
Có nhiều lần tôi suy nghĩ miên man
Hình ảnh đó vẫn còn ám ảnh mãi
Hệ lụy chiến tranh nghĩ điều trái phải
Đất nước quê mình chẳng chút bình yên
Anh đã sống khôn thì thác phải thiêng
Linh hồn anh sẽ về miền miên viễn
Có cần chi đâu nói lời tiễn biệt
Như chút tâm nhang xin được tiễn người
Đất mẹ Việt Nam an giấc nghìn thu./.
 
 
-------------------- 
Thuong Hoai Nguyen
Ba mươi tháng tư đau se ruột
Nhục nước tha phương nát cõi lòng

Nguyễn Thanh Khiết
Tháng Tư mình ta soi bóng
Ta hào sảng tặng không đời nửa kỷ
ngậm bồ hòn đếm từng bước thời gian
như con ngựa già sức kiệt lực tàn
đứng trước chuồng xưa hí không thành tiếng
Còng lưng gánh những tháng tư khổ nạn
bám theo mình từ một buổi tan quân
nhớ những khi cũng lội núi băng rừng
đơn độc mà đi - đường đi không đến
Ta trả đủ chưa? một thời tuổi trẻ
đau đủ chưa? thù để sẹo trên da
sắp lìa đời ta mới chợt nhớ ra
chẳng làm được gì nói chi chí cả
Sắp lìa đời ta nhìn mình rất lạ
sống sót chỉ thêm chật đất che trời
mắc mớ chi ta phải hận thói người
độc ác với nhau, hứa nhăng hứa cuội
Bằng hữu của ta trọn tình trọn nghĩa
chết trẻ, chết mau khi nước nhà tan
chết chậm, chết khô trên đống tro tàn
mặc bầy sâu bọ phá tan trời đất
Mình ta đứng soi bóng mình trên vách
nhớ lan man những chuyện cũ đời xưa
cuối tháng tư ngồi đợi một cơn mưa
tưới mát giùm ta một đời bực bội
nguyễn thanh khiết
30-04-2023
 
----------
 
Trần Quang Phục
Hôm nay Quốc hận nhớ đời...
Đớn đau tủi nhục khó thời lãng quên...
Đau lòng tạo hóa bề trên...
Xoay vòng thế sự đổi tên cơ đồ...
Miền Nam thua lũ Cộng Nô...
Bốn tám năm mãi đến giờ còn đau...
Chiến binh gãy súng gục đầu....
Chim bằng gãy cánh nỗi đau suốt đời...
Nghĩ nhiều lòng thấy chơi vơi...
Nhớ về ngày trước một thời hùng anh...
Tiếc rằng thời cuộc phải đành...
Đi đêm nước Mỹ gian manh nuốt lời....
Bắt tay Tàu Cộng hỡi ơi....
Lắc đầu ngoảnh mặt với thời miền Nam...
Liên Xô ...Tàu Cộng ngút ngàn ...
Tiếp tế Việt Cộng thênh thang vô cùng....
Gần hai ngàn triệu nói chung ...
DoLar tiếp viện để dùng đánh ta...
Khí tài vũ khí đầy mà ...
Xetank ...đạn pháo bao la đưa vào...
Sát thương ...hỏa tiễn bay cao....
Tầm nhiệt hỏa tiễn bắn nhào máy bay...
Miền Nam.nỗi khổ đọa đày ...
Đồng minh nước Mỹ phủi tay quay đầu...
Cuộc đời khốn nạn gì đâu...
Chỉ vì lợi ích Mỹ hầu bỏ ta...
Đi đêm.lòng dạ gian tà...
Bắt tay Tàu Cộng xót xa hại đời...
Lịch sử Thế giới hỡi ơi...
Đời đời lên án Mỹ thời gian tham...
Con người lòng thú dạ lang...
Chùi tay quẹt mỏ dối gian nuốt lời...
Xấu xa nỗi nhục đời đời...
Bao giờ rửa được sử thời miệt khinh....
Thân thương lời chúc nghĩa tình....
Chúc nhau chiến hữu chúng mình bình an....
Gia đình hạnh phúc an khang ....
Vơi niềm tủi nhục đeo mang một đời...
Mong rằng Tạo hóa Đất Trời...
Nghe lời thống khổ của thời dân Nam...
Đổi thay bớt cảnh lầm than...
Dân giàu nước mạnh trăm ngàn ước mơ....
Mong sao đất nước cơ đồ....
Lòng dân ...Trời Thuận hải hồ niềm vui....
""""""""*****""""""""
Trần Quang Phục ...Phi đội 259 D...KĐ 92 CT...CC 20 CT...SĐ 2 KQ....Phan Rang airport....KBC 3805...
 
----------
 
Son H Cao
Ngày Đen Tối Của Dân Miền Nam 30-4-1975
Cao H Sơn
Bốn mươi bảy năm đã trôi qua, nhưng lịch sử hiện đại Việt Nam vẫn còn đó chứ không sang trang như nhiều người đã ngộ nhận lúc ban đầu. Sau những ngày dài trong ngục tù cộng sản, chúng tôi, những sỹ quan VNCH thuộc diện HO nhìn như đã tạm yên ổn trên quê hương mới này, nhưng thật ra tất cả đều chỉ lắng xuống chứ chưa bao giờ lịm tắt. Sau khi đã định cư trên quê hương mới, đã có nhiều hồi ký từ những quân nhân VNCH thuộc đủ mọi binh chủng viết về những ngày còn trong các trại tù cộng sản. Những hồi ký đều có chung một nỗi lòng, chung một mục đích là nói lên những sự thật đã xảy ra cho những quân nhân VNCH sau ngày 30/4/75 mà khi đó hầu hết đều không rời nhiệm vụ cho tới khi bị buộc phải gãy súng tan hàng vì một ván cờ chính trị khốn nạn nhất của thế kỷ XX phủ chụp lên đầu một lãnh thổ tự do. Hồi ký này được thực hiện để góp thêm tiếng nói vào nhiều hồi ký khác của nhiều quân nhân VNCH thuộc đủ mọi binh chủng đã được viết lại sau khi ra khỏi trại tù để làm rõ ràng nhiều sự thật sau bức màn tối bưng bít nhiều tội ác của cộng sản.

Những dòng hồi ký này không chỉ cho riêng quãng đời tôi bị cộng sản giam cầm, mà trong đó có cả một nỗi nhớ về người lính Địa Phương Quân Bình Thuận, một trong những lực lượng của Quân Lực VNCH mà trong đó có tôi đã cùng đơn vị chiến đấu cho tới giờ phút sau cùng. Hồi ký này góp phần vào toàn cảnh của cuộc chiến bảo vệ lãnh thổ tự do mà ĐPQ cũng đã có mặt không ngừng nghỉ trong suốt từng chặng đường của hành trình cuộc chiến, và cũng gánh chịu biết bao nỗi đau của ngày tàn cuộc chiến cùng với Quân Lực VNCH, cùng với toàn miền Nam. Hồi ký này mong được góp chung tiếng nói với nhiều hồi ký khác cùng viết về trại tù cộng sản, với mục đích nói lên những sự thật cần phơi bày ra ánh sáng, và trả ơn ân tình đối với những người chiến sĩ VNCH đã một đời hy sinh hạnh phúc và mạng sống của mình vì cuộc chiến đấu cho tự do.

Địa Phương Quân/ BT, NHỮNG NGÀY SAU CUỐI.
Trung Đoàn Bình Thuận vừa di tản đến Vũng Tàu, Phước Tuy ngày 19-4-1975 bằng tàu của Duyên Đoàn II. Trong suốt thời gian từ 19 đến 29 tháng 4, Trung đoàn Bình Thuận đóng quân ở Vũng Tàu, và những nỗ lực cuối cùng cũng đã được thực hiện trong cảnh đau thương tan tác. Đại đội tôi còn đang đóng quân ở trên Núi Nhỏ, sau khi Tiểu đoàn lui binh sau trận tấn công của cộng quân vào chiều tối tại cứ điểm Thủy Quân Lục Chiến tại Bãi Sau Vũng Tàu . Chúng tôi chiếm các công sự có sẵn ở đây với tinh thần sẵn sàng tiếp tục chiến đấu với quân Cộng Sản thì nghe qua radio Tổng thống VNCH mới vừa nhận chức Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng, lệnh cho Quân Lực VNCH buông súng chờ giao chính quyền cho Cộng Sản Bắc Việt.

Lúc bấy giờ trong thành phố Vũng Tàu vẫn còn vang tiếng nổ của các loại súng, tôi thật sự bàng hoàng và lúng túng không biết phải làm gì đây. Nhìn ra ngoài biển, tôi thấy 2 chiếc tàu buôn rất lớn đang còn neo đậu bị VC dùng pháo bắn ra, đạn rơi xuống biển làm thành những cột nước bắn tung tóe, hai chiếc tàu đã vội vã bỏ chạy ra xa bờ rồi mất hút. Đứng trên đồi nhìn ra biển tôi không còn thấy bóng con tàu nào nữa. Những chiếc ghe đậu ở Bãi Trước thi nhau nổ máy chạy ra biển thì được đón nhận những lằn đạn bắn xối xả từ trong bờ. Miền Nam mến yêu đâu còn nữa, qua bao năm chiến đấu tốn không ít máu xương, giờ phải chịu buông súng đầu hàng. 

Tôi ra đứng cạnh bờ đê rút khẩu súng Colt 45 quăng xuống dưới biển và nhìn nó mất hút dưới làn nước. Tái tê vĩnh biệt quãng đời binh nghiệp, tôi thay bộ đồ trận đã gắn bó với tôi nhiều năm, bằng bộ dân sự rồi quay đi ra ngoài phố để tìm đường về nhà. Vừa đi một đoạn đường tôi bắt gặp một chiếc xe M113 chạy tới chạy lui, trên con đường nhỏ hẹp, cây đại liên 50 trên xe cứ chĩa vào đám người tay mang băng đỏ, cầm những khẩu súng ngắn đang chĩa vào xe . Một cái đầu ló lên, tôi nhận ra đó là một Thượng sĩ TQLC. Anh cũng như tôi, là người lính cô đơn trong giây phút tan hàng. Tôi nhìn anh ta và hiểu anh còn chưa chịu rời tay súng. Chúng tôi nói với nhau vài câu, anh ta nhảy ra khỏi xe đi mất, bỏ lại chiếc xe còn nổ máy nằm ngay giữa đường.

Tiếp tục đi cùng với một thằng em cùng quê ra đến phố lớn, xa xa tôi đã thấy giữa đại lộ là hàng người dài dằng dặc sắp hàng bốn bị VC bắt lột quân phục, giày, bỏ la liệt trên đường phố, có người chỉ còn độc nhất trên người cái quần đùi, có người may mắn hơn có cái áo thun. Khung cảnh đường phố thật bề bộn tang thương, bọn Cộng Sản BV đã bắt đầu cuộc trả thù vô nhân tính. Tôi cố lách đi chỗ khác thì một tên VC cầm súng AK, mặc quần đùi nhưng mang đôi vớ lên tới háng ngó thấy chận lại. Hắn ta hách dịch hỏi lớn:
- Anh là lính hay dân, tôi đáp không do dự:
- Tôi là lính.

Hắn bảo tôi và thằng em vào sắp hàng theo đoàn người, tôi thật lúng túng không biết làm thế nào nên cũng bước vào sắp hàng. Thừa lúc tên VC này bận xét hỏi người khác tôi nhanh nhẹn cùng thằng em ra khỏi hàng chạy vụt vào con đường hẻm và vào một ngôi trường tiểu học ngủ qua đêm để thăm dò tình hình.
Sáng sớm thức dậy, tôi và thằng em ra phố dò la tin tức thì may quá gặp được rất nhiều người quen trong Tiểu đoàn ở chỗ đám đông đang tụ tập trước một công sở nay trương lên bảng hiệu “Ủy Ban Quân Quản TP Vũng Tàu”. Tôi được biết nơi đây đang cấp giấy cho ai muốn đi về nhà, tôi cố chen lấn vào để kiếm cho mình một tờ giấy để trên đường về có an toàn hơn chăng? Và tôi rất thất vọng vì tờ giấy chỉ to bằng ¼ trang giấy học trò trên viết nguệch ngoạc với thứ chữ không được đẹp mà cũng chả có đóng dấu, trên đó ghi: Đương sự (Tên Họ) đã có đến trình diện tại Ủy Ban Nhân Dân TP Vũng Tàu, ngày tháng, ký tên. Biết vậy tôi tự viết cũng được cần gì phải chen lấn cho mệt xác.

Đói bụng quá nên tôi đi tìm cái gì để bỏ vào bụng, thì gặp vài anh em Sĩ quan và nhiều anh em Binh sĩ trong Tiểu đoàn, trong đó có Tiểu Đoàn Trưởng 229/ĐP của tôi.

Tôi chào từ biệt vị Tiểu Đoàn Trưởng TĐ/229/ÐP Thiếu tá Nguyễn Hữu Tiến và anh em trong đơn vị, rồi tìm đường trở về quê Chợ Lầu, Phan Rí Cửa thăm mẹ già, và gia đình nhỏ của tôi rồi ra sao thì ra. Tôi băn khoăn mãi không biết nên đi bằng đường bộ hay bằng ghe và khi về thì phải trình diện ở đâu. Chợ Lầu tuy là quê tôi nhưng mà tôi đã gây ân oán giang hồ với đám VC nằm vùng rất nhiều, vì khi còn ở ĐĐ118/ÐPQ, tôi đã chỉ huy binh sĩ làm cỏ bọn du kích nằm vùng nhiều quá, có thể chưa kịp nhìn thấy mặt mẹ già, vợ con thì đã bị chúng trả thù tàn bạo cũng có.

Tôi cũng vừa nhận được tin Ba Dượng tôi đã tự tử chết tại nhà, do mấy bà mẹ của lính ĐĐ tôi đi bằng ghe vô Vũng Tàu tìm con nói cho biết, mãi đến ba ngày sau xác chết đã bốc mùi thúi ông ngoại tôi lên xã xin đem chôn mới được “Cách Mạng” đồng ý.

Ngày 17/4/75 sau khi Bắc Bình Thuận bỏ ngỏ, VC từ trong rừng tràn về chiếm chính quyền, ba dượng tôi là một cán bộ của chính quyền VNCH chức vụ Phụ tá Trưởng Chi Chiêu Hồi Quận Hòa Đa . Chúng cho du kích đến nhà kêu ông lên xã Chợ Lầu viết những Bandroll tuyên truyền ca ngợi “cách mạng”, ông từ chối và tối đó ông quyết định uống độc dược quyên sinh. Trước khi chết ông dùng sơn viết lên tường nhà hàng chữ để lại cho các con: “Ba thà làm phân xanh cho cây cỏ còn hơn sống chung với Cộng Sản”. Vì thế chúng kết tội ông là CIA phản động, với chức vụ nhỏ nhoi là phụ tá cho Chi Chiêu Hồi Hòa Ða thì làm gì mà CIA để mắt tới?. Tà quyền VC mới chiếm được lấy làm tức tối, vì có một tên cực kỳ phản động dám công khai dùng cái chết để phỉ nhổ vào mặt chúng. Thế là cả bọn kéo đến đầy nhà, lục soát lấy đi những gì mà không thuộc về chúng, như một lũ kên kên cướp cạn, chỉ thiếu một điều là không ăn xác chết. Và tôi cũng nhận được tin Th/sĩ Nguyễn Thìn, Cảnh sát đặc biệt Chi Khu Phan lý Chàm, bị chúng bắt trói đem vào rừng giết man rợ còn hơn thời Trung cổ, bằng cách trói vào gốc cây bỏ đói, khát, thoa đường vào người cho kiến rừng cắn chết.

Cuối cùng tôi quyết định dùng ghe từ Long Hải để về Phan Rí Cửa và trình diện tại đây, may mắn hơn rất nhiều anh em khác đi bằng xe bị VC bắt tại bến xe Vũng Tàu đem đi nhốt mất tích chưa kịp nhìn thấy gia đình. Dầu sao Phan Rí Cửa thị trấn lớn cũng đỡ hơn tại Chợ Lầu, nơi cạm bẫy đang rình rập.Tôi chỉ muốn một lần nhìn lại người thân rồi thì thân xác này có bị ra sao thì mặc. Tôi biết Việt Cộng sẽ trả thù hèn hạ lên thân xác, và gia đình những chiến sĩ QLVNCH, trong đó có tôi.
 
--------------
 
 
Andy Nguyen
TUYẾN PHÒNG THỦ CUỐI CÙNG .
Giờ nầy .
Đã 41 năm trôi qua .
Với thời gian tất cả đều phôi phai . Chỉ còn lại đây chút hoài niệm mỗi độ tháng 4 về ...Của những chàng trai , một thời vương áo Lính .
1. Những ly rượu đầu hôm uống với bạn cùng khóa tại hậu cứ của Tiểu Đoàn 50 CTCT Sài Gòn , đã làm tôi rơi vào giấc ngủ đêm 29 tháng 4 năm 1975 thật bình yên. 

Mặc dù trong những ngày nầy , Thủ đô Sài Gòn đang trong cơn sốt chiến tranh . Sự triệt thoái của các đơn vị Quân đội VNCH ở Miền Trung và vùng Cao Nguyên , đã làm cho dân số Sài Gòn ngày một tăng . Hình ảnh của quân và dân tràn ngập trên các ngã đường trong thành phố , ai cũng mang tâm trạng đầy lo lắng khi khói lửa chiến tranh đang gần kề . 

Giật mình tỉnh giấc sau tiếng đánh thức của người Sinh Viên Sĩ Quan trưởng toán trực chiến lúc 4 giờ kém 5 phút sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975 . Tôi ôm súng như thường lệ bước theo toán trực chiến . Sau khi nhận bàn giao điểm gác , tôi và một Niên trưởng khóa 5 bước hẳn vào trong một lô cốt phòng thủ nằm cạnh bờ kinh Thị Nghè , thì thào trao đổi năm ba tiếng, chúng tôi cùng yên lặng dán mắt nhìn qua lổ châu mai. 

Phía xa , hướng cầu Đồng Nai hỏa châu rực sáng , tiếng súng vọng về từ nhiều hướng , chen lẩn tiếng đạn pháo rơi . Phía bên phải của chúng tôi hơn 100 mét , cầu Thị Nghè đang nghiêng mình trên dòng kinh, năm mười phút , thỉ̃nh thoảng vài chiếc xe GMC chở đầy lính phóng qua vội vã , có lẻ một đơn vị nào đó đang chuyển quân . 

2. Hơn một tháng nay .
Kể từ hôm di tản chiến thuật khỏi Đà Lạt . Chúng tôi , những SVSQ khóa 4, 5, và 6 đã thực sự đối diện với không khí chiến tranh , qua những chặng quân hành di tản từ Đà Lạt về Phan Rang . Từ Phan Rang qua Phan Rí Cửa . Từ Phan Rí Cửa theo đường biển về Vũng Tàu . Từ Vũng Tàu về Biên Hoà và chặng đường cuối cùng từ Biên Hòa về trấn giữ Thủ đô Sài Gòn .
Dù chưa gặp đối phương trên đoạn đường dài Di tản . Nhưng đơn vị chúng tôi trong tư thế sẵn sàng chiến đấu .

“ Đêm nay , chúng ta sẽ rời đơn vị , di tản chiến thuật ra khỏi Đà Lạt . Các anh sẽ được trang bị lương thực và cấp số đạn 3 ngày cho cuộc hành quân Di tản . “
Lệnh hành quân cuối cùng được ban ra từ vị Sĩ Quan Cán Bộ Liên đoàn Trưởng LĐ/SVSQ Trường Đại Học CTCT Đà Lạt . Chúng tôi theo đúng kế hoạch rời Trường . 

Có lẻ trong chúng tôi , không ai tránh khỏi cảm giác bùi ngùi , mỗi người đều mang nổi buồn riêng cho lần từ giã nầy . Nhất là đối với những SVSQ khóa 6 , kỷ niệm về Quân Trường còn mới mẽ , đậm nét . Vì nơi đây , chúng tôi vừa trải qua thời gian “ Huấn Nhục “ , đầy thử thách trong chuổi dài 6 tuần lể , trước khi được gắn chiếc Alpha để trở thành một SVSQ của Quân trường Hiện Dịch nầy . 

Từ một ngày giữa tháng 1 năm 1975 .
Trong cái se lạnh của một buổi chiều Đà Lạt , khi sương mù còn giăng giăng trên đầu những cây thông già ở những ngọn đồi xa xa . Đó là thời điểm đánh dấu một thay đổi lớn trong cuộc đời của 129 Tân Khóa Sinh khóa 6 , đã và đang chọn con đường binh nghiệp, làm nhiệm vụ của người trai khi Tổ Quốc vang lên lời réo gọi . Được khởi đầu bằng buổi Chào Trường nhập khóa . 

Sau phần nghi thức bàn giao các TKS khóa 6 của Liên Đoàn SVSQ Trường ĐH/CTCT Đà Lạt cho Hệ thống Cán Bộ Huấn Nhục Khóa 5 . Gồm những SVSQ khóa 5 ưu tú , đầy đủ phẫm chất , năng lực , thể lực đảm trách huấn luyện Khóa đàn em trong 6 tuần lể Huấn Nhục sơ khởi . 

Đã cho Tân Khóa Sinh chúng tôi biết thế nào là mùi gian khổ , vất vã đầu tiên bằng những hình phạt hành xác liên tục diễn ra trên Vũ Đình Trường trong buổi Chào Trường hôm ấy , để biết thế nào là vị đắng của một Quân Trường đào tạo Sĩ Quan hiện dịch cho Quân Lực VNCH . 

Tiếng hát của những bài ca Quân hành vẫn vang lên trên các loa phóng thanh xung quanh Vũ Đình Trường , như thôi thúc , nung chí cho những chàng trai đang nhập cuộc chiến chinh .
“ Thao Trường đổ mồ hôi , chiến trường bớt đổ máu ...Cố lên , cố lên , dù nhọc nhằn đem mồ hôi , pha máu hồng viết thành sử xanh “
Những ngày kế tiếp .

Là những ngày “ Lửa thử Vàng , gian nan thử TKS “ . Những hình phạt Chạy , Nhảy xỗm , Hít đất , Đi Vịt đẹt , Đi đầu gối , Bò , Lăn , Ăn v,v, v, ...Tiếp nối từ 6 giờ sáng cho đến 10 giờ đêm , khiến thể xác và tinh thần của chúng tôi rã rời , căng thẳng .
- Trong lần thi hành lệnh phạt vừa qua . Hệ thống Cán Bộ chúng tôi nhận thấy ...Các anh vẫn chưa chứng tỏ được thiện chí ...Thậm chí có anh đang chạy lại ngủ gà , ngủ vịt ...( Hoặc 1001 lý do khác do Cán Bộ Huấn Nhục đưa ra ). Để chấn chỉnh tình trạng trên . Cá nhân làm , tập thể chịu . Sau đây các anh chỉ có 3 tiếng đếm đi vịt đẹt về khu tập họp … Lệnh thi hành .
- Tuân lệnh . 

Đại đội TKS rập ràng đồng thanh trả lời và thi hành lệnh phạt như những cổ máy . Tuy nhiên cũng không khỏi chưởi thầm trong bụng , bạn nào đó đã làm tập thể bị vạ lây . 

Hình phạt mà ngày hai buổi vẫn đến với TKS nghe nhẹ nhàng , nhưng TKS có những lý do để “ teo “khi bước chân vào Phạn Xá . Đó là hình phạt Ăn .
- Cán Bộ Huấn Nhục : Đại đội TKS ....NGHIÊM ...Trái , Phải quay ... Ngồi ...
- Tân Khóa Sinh : Xuống .
Sau khi chúng tôi đã ngồi xuống ở bàn ăn . 4 người một “ Ca-rê “ . Trên bàn 1 thố cơm lớn cho 4 người ăn và ba dĩa thức ăn đã dọn sẵn , đang bày ra trước mặt.
- Cán bộ Huấn nhẩn : Các anh thấy gì trước mặt không ?
- TKS : Thấy .
- CBHN : Thấy gì ?
- TKS : Cơm và thức ăn .
- CBHN : ( La to ) ...Các anh thô bỉ vậy đó . ( Chử thô bỉ luôn được CBHN gằn to và kéo dài ) . Lúc nào cũng nghĩ đến ăn uống . Các anh nên nhớ . Các anh vào Quân trường nầy để được đào tạo trở thành một Sĩ Quan cho QL/VNCH trong tương lai . Chứ không đào tạo các anh trở thành những người có tinh thần ăn uống .
Các anh có nghe rõ không ?
- TKS : Rõ . 

129 cái miệng đồng loạt la to , hy vọng làm ra điều hiểu biết để khỏi bị phạt . Nhưng ...
- Cán bộ HN : Để chấn chỉnh tình trạng trên . Hệ thống Cán Bộ Huấn Nhục chúng tôi quyết định . Hình phạt 30 nhảy xỗm sẽ đến với các anh ... Lệnh thi hành...

Sau khi thi hành lệnh phạt xong . Tưởng là sẽ có một bửa ăn ngon , để bổ sung cho năng lượng của cơ thể đã bị hao mòn qua những hình phạt hành xác .
Tiếng của người Cán Bộ Huấn nhục vang lên trong Phạn xá :
- Các anh nghe đây ...Các anh có 3 tiếng đếm để trang bị một dĩa cơm trước mặt ... Lệnh thi hành .
- TKS : Tuân lệnh .

Tiếng người Cán Bộ Huấn Nhục , đứng trên bục cao , đưa mắt nhìn bao quát Đại đội TKS có mặt trong Phạn xá , và bắt đầu đếm ...1....2...Và ...TKS chúng tôi đã bắt đầu thao tác như một cái máy có công suất lớn . Sau tiếng đếm thứ 3 , thì dĩa cơm đã có trước mặt của chúng tôi . 

- CBHN : Sau đây ...Các anh chỉ có 3 tiếng đếm ... Thanh toán phần cơm trước mặt ... Lệnh thi hành .
1...2...3... Và sau 3 tiếng đếm của CBHN , cơm ở trong dĩa phải được thanh toán sạch . Nếu TKS nào còn , không tránh khỏi bị CBHN tách ra phạt riêng .
Ngay trong thế ngồi ăn , cũng là một cực hình . Chúng tôi phải ngồi cho đúng cách , chỉ được ngồi 1/3 ghế , lưng thẳng , mắt nhìn về phía trước , không được liếc nhìn sang phải , sang trái . Và khi đưa cơm vào miệng bằng muỗng , phải đưa cơm theo đúng góc độ đã quy định . 

Và dĩa cơm phải ăn cứ tăng dần theo thời gian . Từ một dĩa cho vài tuần lể đầu , tăng lên 2 cho những tuần kế tiếp . Và cuối cùng đã lên 3 đĩa ở những tuần lể cuối cùng của mùa Huấn nhục . 

Một câu chuyện liên quan đến “ Phạt ăn “ Đại Đội TKS không thể nào quên . 

Khi bị phạt ăn nhiều người thường bị ói . Đó là phản ứng sinh học của cơ thể . Và trong trường hợp nầy thường bị CBHN chiếu cố .
CBHN : Anh A .
TKS A : Tân khóa sinh Nguyễn Văn A . Số quân ... Trung đội ...Đại đội TKS trình diện ...Chờ lệnh .
CBHN : Tại sao anh ói .
TKS A : Tôi ăn quá no .
CBHN : Anh định nghĩa một người ăn no cho tôi nghe .
TKS A : Một người ăn no thì không có thể tiếp thêm thức ăn vào nữa nên ói . 

CBHN : Anh nghe đây (CBHN gằn to từng tiếng ) . Anh nghe cho rõ đây ...Định nghĩa một người ăn no , là khi người đó há miệng ra , sẽ thấy cơm nằm ngay cuống họng ...Anh nghe rõ chưa ?
TKS A : Rõ .
CBHN : Nếu rõ ...Anh thi hành 20 nhảy xỗm ...Lệnh thi hành .
TKS A : Tuân lệnh .
Trong thời gian huấn nhục , thì thời gian của TKS được tính bằng Giây , mọi thao tác phải nhanh gọn . Chúng tôi thực sự hạnh phúc trong thời gian nầy , khi được đi hớt tóc , được ngồi lên chiếc ghế cho thợ hớt , thời gian và công đoạn kéo dài trong vòng 3 phút , 180 giây được thả lòng bay bổng lên đĩnh Lâm Viên Đà Lạt. 

Và một ngày như mọi ngày .
TKS Không chỉ bị hành xác ở Vũ Đình Trường , ở Phạn Xá , trong và sau giờ tan lớp Huấn luyện mỗi môn học. Hệ thống Cán bộ Huấn Nhục luôn có sẳn 1001 lý do để hành xác TKS . Biết bao lần sau khi rời Phạn xá , với cái bụng vừa bị ép ăn , chúng tôi lại bị phạt lăn tròn trên đoạn đường dài từ Phạn Xá về khu tập họp . Không ói trong nhà ăn , giờ lại ói trên Vũ đình Trường . Người lăn trước bị ói , người sau lăn qua không tránh được những những “ bải mìn “ thức ăn của người lăn qua trước để lại . 

Biết nói sao cho hết những hình phạt hành xác dành cho TKS ngày một tăng . Các hung thần CBHN trên Vũ đình Trường lại có thêm những hình phạt mới dành cho TKS . Từ Dạ Chiến , Ngọ chiến . Từ Bình Minh Chiến đến Hoàng hôn Chiến . Những tên hình phạt với cái tên nghe rất êm ả như trời Đà Lạt đang vào Xuân . Nhưng đã thực sự lấy đi bao mồ hôi , nước mắt và có cả máu của TKS đã thấm đều trên khắp Vũ Đình Trường của Trường Đại Học CTCT , trên khắp các bải tập Quân sự ở Quân Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam kế bên .

“ Không việc gì TKS không làm được . Chỉ có cái chết mới chứng tỏ thiện chí .” 

Lời của CBHN ngày ngày còn vang vang đâu đây .
Vâng ! Thời gian Tân Khóa Sinh Khóa 6 chúng tôi đang còn trong mùa Huấn Nhục . Đã có 3 SVSQ khóa 5 đàn anh , “ nêu gương thiện chí “ . Các Niên Trưởng đã nằm lại dưới lòng Hồ Quân Xa của Trường VBQGVN , trong một lần thọ phạt , khi còn mang trên người bộ Quân phục và chân còn mang đôi giày bố , nhưng phải bơi vượt qua bờ hồ bên kia . Nhưng đã là Lệnh , phải được chấp hành . Có nhiều chuyện tưởng như nghịch lý trong huấn luyện ở Quân Trường , nhưng đòi hỏi người TKS hay SVSQ phải triệt để chấp hành . Thi hành trước , khiếu nại sau . Vì Kỷ luật là sức mạnh của Quân đội . 

Sau thời gian đó .
Mỗi lần Đại Đội TKS thi hành lệnh phạt trên Vũ Đình Trường , chạy , bò hay lăn , đi vịt đẹt ngang qua nhà Vĩnh Biệt , nơi có 3 SVSQ khóa 5 đang nằm trong cổ quan tài , bên những hàng nến trắng lung linh , ra đi khi mộng làm trai chưa thành , nửa đường gảy gánh . Hình ảnh buồn đó khiến Chúng tôi không khỏi chạnh lòng , ám ảnh .
Vì biết đâu ? Ngày hôm nay hay ngày mai ? Trước khi được gắn Alpha . Trong chúng tôi sẽ có người nằm xuống , khi thi hành lệnh phạt “ Để chứng tỏ thiện chí“. 

Khi càng ngày , đích đến Alpha đã mờ mờ giữa chốn sương mù bao la , chập chùng núi đồi Đà Lạt , thì mức độ hành xác dành cho TKS càng gia tăng ...
Đặc biệt trong giai đoạn nầy .
Đại đội TKS không thể nào quên hình phạt “ Kéo xác“. 
 
Nghe cái tên hình phạt là nhớ lại một đoạn đường Máu đã qua của TKS trong mùa Huấn Nhục .
Vào một buổi tối . Đại Đội TKS được CBHN đưa đến một nơi phía sau Bộ Chỉ Huy nhà trường , gần kho quân trang . Ở đó có một đoạn đường dốc thoai thoải , mặt đường không trải nhựa , chỉ có lớp đá 4x6 lỡm chỡm ẩn mình với lớp đất đỏ Cao Nguyên . Những bóng đèn điện trong khu vực nầy , chiếu ra những tia sáng vàng vệt , yếu ớt trong màn sương khi mõng , khi dày đang phũ kín về đêm . 

Theo lệnh của Cán Bộ Huấn Nhục .
Chúng tôi lần lượt cởi toàn bộ áo , để lưng trần , và nằm xuống , đầu cách mặt đường , hai tay ôm cái Ba lô trên bụng , hai chân duổi thẳng ra về phía trước , để cho hai TKS cầm lấy . 

Sau đó , hai TKS nầy phải kéo xác người đang nằm , chạy theo cho kịp vận tốc của người CBHN đang chạy phía trước , trong tiếng la hét , thúc dục của những người CBHN chạy vây quanh :
- Hai anh chạy theo tôi coi ...Chạy tà tà như vậy sao ? Nhanh lên ...Chạy nhanh lên ... 

Đại Đội TKS lần lượt bị kéo xác như vậy đó . Không phải kéo cái xác vô hồn , nhưng kéo cái xác biết đau đớn cùng đích , khi da thịt của cái lưng trần đang lướt qua , tiếp xúc với những hòn đá bên dưới mặt đường , có nhiều hòn đá đã mang đầy vết máu tươm . Những vết thương bị đá cắt lại càng nhức nhối hơn trong cái lạnh thấu da của đêm về Đà Lạt .
Ôi ! Đích đến Alpha . 

Nói sao cho hết những gian khổ của TKS ngày ngày cận kề .
“ Chỉ còn 5 phút gắn Alpha . Liệu các anh có sống sót để gắn Alpha hay không ? “

Tiếng người CBHN trong một lần lên ca trực , tuyên bố đanh gọn trước Đại Đội TKS . Chúng tôi hiểu đây không là câu nói suông , mang tính khủng bố , hù dọa của lớp đàn anh đi trước . Nên đã thực sự tăng thêm nổi lo không tên , có khi theo chúng tôi vào trong giấc ngủ chập chờn . 

Ta quyết không quay lui .
Những bản hùng ca ngày ngày trên Vũ đình Trường vẫn tiếp tục vang vang như lời khuyến khích , thúc dục , nung chí kiên cường và sức chịu đựng cho những chàng trai vừa bước chân vào chốn thao trường .
Phải ! 

Chúng tôi quyết không quay lui .
Dù gian khổ trên đoạn đường chiến binh , nhất định phải giành lấy vinh quang . Để một lần được quỳ xuống ở Vũ Đình Trường trong Lể gắn Alpha , khi mùa Huấn Nhục với 6 tuần lể đã qua .
Trong ánh lửa bập bùng của những ngọn đuốc thắp sáng . 

Tổ quốc và hồn thiêng sông núi như đang hiện về chứng giám lời thề của các Tân SVSQ . Để một lần quỳ xuống , được các NT khóa 5 gắn lên vai chiếc Alpha , như xác định sự trưởng thành và lột xác của các TKS , đã trở thành một SVSQ Trường Đại Học CTCT Đà Lạt . 

Alpha là kết quả của sự trao đổi mồ hôi , nước mắt và máu của Tân Khóa Sinh , là những thử thách đầy gian khổ . Và trong tận cùng của gian khổ khi đối diện với những hình phạt hành xác , người TKS gánh chịu , thì cái chết lỡn vỡn như cái bóng của chính mình , đi theo rình rập . 

Và cuối cùng . Vượt lên trên mọi ý nghĩa . Alpha là biểu tượng của Danh Dự , Tổ Quốc và Trách Nhiệm được gắn cho người SVSQ hôm nay , khởi đầu cho cuộc hành trình trong tương lai của người Sĩ Quan , với sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc . 

Có kinh qua gian khổ , mới có được niềm tự hào khi được mang Alpha trên vai , và đây cũng là niềm vui của các Niên trưởng Khóa 5 , vì đã hoàn tất bước đầu đào tạo lớp người kế tục cho Quân Trường . Và những hung thần khóa 5 trong mùa Huấn Nhục , đã trở về với truyền thống của người Niên Trưởng , tiếp tục hướng dẫn cho lớp đàn em theo sau . 

Dù trước đây CBHN có 1001 lý do để hành xác TKS , đôi lúc cũng đã sát bờ “ Chỉ có cái chết mới chứng tỏ thiện chí “. Nhưng tất cả đều nằm trong chương trình Huấn Luyện , rèn luyện ý chí , mục tiêu của Quân Trường đề ra . Không có sự hận thù , hay tùy tiện mang tính cá nhân . Đó cũng là truyền thống tốt đẹp của Quân Trường Đại Học CTCT Đà Lạt nói riêng và những Quân Trường khác nói chung . 

Chúng tôi thường ví von . Chuyện kể lại những hình phạt hành xác trong mùa Huấn nhục ở Quân Trường của TKS , như bức vẽ một bếp lửa to trên trang giấy , khi sờ vào lửa không thấy nóng . Nhưng những gì gian khó đến với TKS khi chịu những Huấn luyện , thật sự “ nóng bỏng “ , như ngọn lửa của một que diêm . 

Và một điều thật may mắn cho khóa 6 . Không có Tân Khóa Sinh nào tử nạn trong thời gian Huấn Nhục , như những khóa đàn anh trước đây . 

3. Những kỷ niệm ở Quân Trường kéo về trong phút chốc , cũng không đủ để khỏa lấp trong tôi cuộc di tản đang chờ phía trước , và đêm nay chúng tôi bắt đầu nhập cuộc . 

Sau một đêm dài quân hành , bảo vệ dân chúng Đà Lạt ra khỏi thành phố sương mù . Trường ĐH/CTCT tập họp thật đầy đủ dưới chân đèo Ngoạn Mục , Sông Pha , tỉnh Ninh Thuận . 

Tại đây cũng là điểm tập quân của Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam . Và những chàng trai trẻ mang đầy nhiệt huyết của hai Quân trường đào tạo Sĩ Quan Hiện Dịch cho QLVNCH , vừa bỏ Đà Lạt xuống núi đêm qua , đâu biết rằng : Đây cũng là lần hội ngộ cuối cùng , của một thế hệ Sinh bất phùng thời . Đã chứng kiến vận nước với trang Lịch sữ sang trang . 

Tiếp đó , đoàn xe GMC của đơn vị đưa chúng tôi xuôi Nam , qua thành phố Phan Rang , theo Quốc lộ 1 , tiến về Phan Thiết , và bộ mặt và không khí chiến tranh đã phơi rõ trên chặng đường xe qua . Khi đơn vị chúng tôi còn cách Phan Thiết khoãng hơn 60 cây số về hướng Bắc . Trung đội viễn thám tiền tiêu của đơn vị đã được thành lập khi rời trường , gồm một số Sĩ Quan cán Bộ và các Niên Trưởng Khóa 4 , đã trở lại cho biết : Thành phố Phan Thiết đang có giao tranh . Bộ Chỉ Huy nhà Trường quyết định dừng quân tại làng Lương Sơn , lập phòng tuyến bảo vệ gia đình Cán Bộ , binh sĩ đi theo , cũng như đề phòng giao tranh có thể xảy ra , những chiếc hố cá nhân đã được đào vội vã xung quanh ngôi làng . 

Một đêm vô sự đi qua , với một vài báo động giã của Sĩ quan Cán Bộ Liên Đoàn SVSQ .Sáng hôm sau Bộ Chỉ Huy họp khẩn cấp . Kế hoạch di tản về Sài Gòn theo Quốc lộ 1 thay đổi . Để tránh tổn thất có thể xãy ra , đơn vị di chuyển về hướng về Phan Rí Cửa , dùng ghe đánh cá của người dân , làm phương tiện , chở đơn vị theo đường Biển về Vũng Tàu .
Hai ngày đóng quân tại Vũng tàu . 

Cũng là dịp cho tôi được trở lại thăm ngôi Trường TSQ Việt Nam , nơi tôi đã có những năm dài theo học , và chính ngôi trường Mẹ thân yêu nầy đã trang bị cho tôi vốn vào đời , cho tôi có điều kiện để được tiếp nhận vào Trường Đại Học CTCT Đà Lạt . Tôi nhớ ơn Trường Mẹ TSQ , như người con đi xa hôm nay có dịp trở về , nhớ nghĩa ân tình của Trường đã nuôi tôi ăn học một thời niên thiếu trong môi trường Quân đội . Và bộ Quân Phục của người SVSQ hôm nay khi trở lại thăm Trường . Đã nói lên sự trưởng thành của những đứa con TSQ khi rời xa tổ ấm Trường Mẹ TSQ . 

Và thêm một lần nữa . Đây cũng là lần cuối cùng , tôi được về thăm lại Trường xưa . 

Theo kế hoạch , đơn vị Trường Đại Học CTCT Đà Lạt di chuyển từ Vũng Tàu về Biên Hoà . Tạm trú đóng ở Tiểu đoàn 30 CTCT . Tại đây BCH đơn vị đã tổ chức Lể mãn khoá cho Các SVSQ khóa 4 ra trường . Giây phút thật trọng đại dành cho các Niên Trưởng Khóa 4 sau hơn hai năm thụ huấn . 

Mặc dù phải quỳ xuống một nơi không phải là Vũ Đình Trường Đà Lạt như những khóa trước , nơi có nhiều kỷ niệm buồn vui của một thời SVSQ , và chắc hẳn không thể quên những đóa hoa anh Đào biết nói , dễ thương của Đà Lạt , đã để lại trong lòng các Niên Trưởng những hẹn thề tương lai . 

Và mặc dầu không có Bộ quân phục Đại lể oai nghiêm trong ngày Mãn khóa , nhưng ở đây cũng đầy đủ nghi thức cho buổi lể , để những Bông Mai Vàng của 199 Tân Thiếu Úy nỡ rộ trên xứ Bưởi Biên Hòa . Thoang thoãng đâu đây mùi thơm bông Bưởi trắng , và có cả mùi của khói lửa chiến tranh . 

Kế tiếp là Lể Chọn đơn vị cũng không kém phần quan trọng tại hội trường Tiểu đoàn 30 CTCT. Một số thân nhân của các Tân Thiếu Úy đã được mời tham dự . Khi người Sĩ Quan nghi lể xướng danh Thủ Khoa khóa 4 . Tân Thiếu Úy LVT . Cả hội trường như chìm trong yên lặng , một sự yên lặng của hồi hộp và đợi chờ , chỉ còn nghe tiếng gót giày của người Niên trưởng rời chổ ngồi , bước hiên ngang lên tấm bảng đen . 

Ở đó có tên các Binh chủng , đơn vị đã được Bộ Tổng Tham Mưu sắp xếp phân bố theo nhu cầu . Từ Binh chũng Nhảy Dù được 10 ô . Thủy Quân Lục Chiến được 20 ô , Liên đoàn 81 Biệt cách Nhảy Dù được 10 ô. Biệt Động Quân có 30 ô . Còn lại là những Sư Đoàn Bộ Binh . 

Không chút đắn đo , ngần ngại , như đã được quyết định từ trước , một dấu gạch chéo bằng phấn đỏ của người Niên Trưởng đậu Thủ Khoa , đã nằm gọn đầu tiên ở ô vuông dành cho Sư Đoàn Nhảy Dù . Một trong những Lực Lượng Tổng Trừ Bị , thiện chiến của QL/VNCH . Cả hội trường vang rền tiếng vỗ tay kéo dài như chia sẽ với quyết định của người Tân Sĩ Quan đã chọn cho mình một hướng đi “ Xem cái chết , nhẹ tựa lông hồng “ . Lần lượt các Tân Sĩ Quan bước lên chọn cho mình , ở những ô vuông trống còn lại . 

Các Niên trưởng khóa 4 Ra trường , cũng đã để lại trong chúng tôi một nổi buồn mất mát và hổng hụt không tên . Kỷ niệm những ngày ngắn ngũi ở Đà Lạt , hay trên đoạn đường di tản vừa qua . Các Niên Trưởng khóa 4 luôn là những đàn anh gương mẫu , là điểm tựa tinh thần trong niềm tin yêu của hai khóa đàn em . Chúng tôi cầu chúc cho các Niên Trưởng chân cứng , đá mềm với cuộc chiến đang hồi khốc liệt ở phía trước , khi tin tức chiến sự từ chiến trường gởi về không còn mấy khả quan . 

Một thời gian ngắn sau đó . Phi Trường và Thành Phố Biên Hòa nằm trong tầm pháo của Bắc quân . Các đơn vị trú đóng tại Biên Hòa được lệnh di tản về Sài Gòn . Trường Đại Học CTCT Đà Lạt cũng theo các cánh quân lên đường , về đóng quân tại Tiểu đoàn 50 CTCT Sài Gòn , lập phòng tuyến bảo vệ Thủ Đô .

4. Đắm mình trong tuần tự ...
Hai giờ gác cũng lần qua , cho một ngày mới bắt đầu 30 tháng 4 năm 1975 . Trong khi đó cục diện bên ngoài tường rào đã thay đổi từng giờ . Riêng tôi và toán trực chiến hôm nay đã thực sự không nghĩ rằng . Đây là phiên gác cuối cùng của người Lính , giữa lòng quê hương . 

Lúc nầy , tiếng súng vọng về mỗi lúc một gần .
Chỉ một thời gian sau đó . Cả đơn vị bàng hoàng , khi nghe lệnh bỏ khí giới phát ra trên đài Phát thanh .
Liên đoàn SVSQ họp khẩn cấp lần cuối :
“ Vận nước đã đến . Theo lệnh cấp trên . Chúng ta buông súng , và tan hàng tại đây . Các anh tự bảo vệ . “
Tiếng người Sĩ quan cán bộ LĐ/SVSQ chùng xuống , những câu “ Khai Tử “ cuối cùng .

Tôi buồn bã , nhẹ nhàng đặt Súng xuống dưới gốc cây phượng già nằm trong khuôn viên Tiểu Đoàn 50 CTCT . Bên cạnh chiếc nón sắt và bộ quân phục vừa được cởi ra một cách miễn cưỡng . Chân tôi bước đi , nhưng đầu vẫn cố quay lại nhìn lần cuối những biểu tượng của người Lính . 

Và kỳ lạ thay , trên ve áo trận . Chiếc Alpha ngày nào của người Sinh Viên Sĩ Quan Trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị vẫn sáng ngời lên một lần cuối .
Khi bước chân ra bên ngoài vòng rào phòng thủ , những chiếc xe tăng T 54 lạ lẫm , đang tiến vào trung tâm Thủ đô Sài Gòn . 

Sau nầy , mỗi lần có dịp đi qua Cầu Thị Nghè Sài Gòn . Tôi không khỏi đưa mắt nhìn vào cái lô cốt ngày xưa cạnh bờ kinh , bây giờ đã ngã đổ theo thời gian . Một nửa gục đầu dưới dòng kinh cam phận , nửa còn lại đang cố bám vào bờ kinh , như muốn níu lại thời gian.
 
Với tôi . Đó là tuyến phòng thủ cuối cùng của một thời làm người Lính Việt Nam Cộng Hoà .
An Nguyen
4/2016 .
USA
*** Chân thành cám ơn Niên trưởng NT5 Lê Khanh , với những hình ảnh hiếm hoi còn giữ lại , Những kỷ niệm một thời trai trẻ ...
 
---------------
 
Nguyen Anh-Vu
Tháng Tư Đen:
GIỜ THỨ 25 Ở GIÁO XỨ BÌNH AN HẠ
Ngày này của 48 năm về trước, tất cả các học sinh chúng tôi đã được lệnh của Cha Hiệu trưởng trường cho nghỉ học vì Saigon đã nhuốm màu chiến tranh từ vài tuần trước. 
 
Đâu đó ở phi trường Tân sơn nhứt đã bị việt cộng pháo kích, vài hôm trước đây thôi Dinh Độc lập cũng đã bị một chiếc F5 do tên phản tặc Nguyễn thành Trung thả một trái bom.
 
Tôi vội vã ra trụ sở Nhân dân tự vệ ngay đầu hẻm nhận súng, ra trễ nên chỉ còn Garand M1, nhận súng và cơ số đạn khoảng ngót 100 viên, cả toán của chúng tôi trực và ứng chiến quanh khu vực nhà thờ Bình an hạ.
 
Trong ban giúp lễ, tôi vác khẩu Garand leo lên sân thượng nhà xứ , lên tới nơi tôi gặp vài người bạn đã phục sẵn trên này với cây Trung liên Bar cùng vài thùng đạn.
 
Trên sân thượng tôi dõi mắt về Nghĩa địa Cần giuộc bây giờ họ gọi là Bình đăng, kế bên nghĩa địa là bót Ký thu ôn nơi đóng quân của Cảnh sát, nơi này có lẽ bọn đặc công việt cộng đã lẻn vào nên tôi thấy khói thỉnh thoảng bốc lên và có tiếng súng nổ. Tôi chạy xuống vào gặp Cha Quỳnh mượn Ngài chiếc ống nhòm loại một mắt.
 
Trở lên tôi dùng ống nhòm quan sát thấy bóng những chiếc áo rằn ri của Cảnh sát dã chiến họ đang di chuyển trong những bụi chuối để lùng sục.
Trước giờ mỗi tối đi gác tôi thường lãnh Carbin M1 bữa nay cầm cây Garand mà thấy ngán, súng gì dài thoòng dựng xuống đất nó cao tới mang tai. Đã vậy để vô một lam đạn tay bạn phải cẩn thận không là bị kẹp.
 
Trở lại chốt gác bọn chúng tôi đứa nào cũng hồi hộp vì lần đầu ứng chiến chờ xung trận kiểu này, trước đây mỗi tối đi tuần rồi cả toán lại kéo nhau lên cầu Bà tàng chỉ bắn Lục bình trên sông.
 
Những tiếng nổ do việt cộng pháo vào khu vực sân bay vẫn vang vọng, trên trời những chiếc trực thăng và phản lực vẫn ngang dọc ở trên đầu. Có người trở về từ Q5 họ chứng kiến một chiếc phản lực trúng hoả tiền sam vừa rớt trên đường Nguyễn Hoàng làm mọi người thêm ái ngại.
 
Cả toán chưa ai bắn viên nào thì đã nghe lệnh buông súng đầu hàng của tên hèn tướng Dương văn Minh.
Tui trở lại phòng Cha xem ý Ngài thế nào, bước vào phòng tôi thấy Ngài đang cặm cụi trên tờ giấy Stencil, thấy tôi Ngài nói: con phụ Cha kéo cái máy quay roneo dưới gầm bàn ra dùm.
 
Hai cha con hì hục in ra cả ngàn tờ truyền đơn mà Cha vừa thảo. In xong Cha nói tôi kêu thêm bạn giúp lễ xuống để mỗi đứa đi một hướng phân phát cho từng nhà.
Ba chân bốn cẳng ba thằng chúng tôi đã phát hết số truyền đơn.
 
Trên đường đi phát tôi đã thấy súng ống vứt la liệt trong các trụ sở NDTV nhưng khi phát xong quay về thì súng ống đã không còn. 
 
Thì ra nội dung trong tờ truyền đơn mà chúng tôi vừa phát ra chính là lời hiệu triệu của LM Hoàng Quỳnh, Ngài đã kêu gọi tất cả giáo dân trong xứ tiếp tục chiến đấu đến hơi thở cuối cùng và nhất định không đầu hàng.
 
Lúc này tôi đã đổi được cây Carbin M1 nên nhẹ lòng hơn vì đã thường sử dụng nó. Lực lượng bây giờ có thêm những đàn anh bên các binh chủng tan hàng về hỗ trợ nên chúng tôi phấn chấn và yên tâm hơn.
 
Khoảng hơn 12 giờ trưa, một chiếc trực thăng hover ngay trên sân thượng, họ thả thang dây và một người lính còn trang bị đày đủ leo xuống vào phòng Cha, một lúc sau họ trở ra và leo lại lên trực thăng bay đi.
Nằm trên sân thượng, tôi nghe bọn việt cộng đã kiểm soát chiếc cầu phao bắc ngang sông thay thế cầu Nhị thiên đường đang sửa. 
 
Từng giờ khắc trôi qua thật ngao ngán. Đang suy nghĩ mông lung thì thêm chiếc trực thăng khác lại bay đến hover trên đầu và lần nữa họ thả thang dây leo xuống, lần này là một vị sĩ quan cấp tá ông vẫn còn trang bị và oai hùng trong bộ rằn ri tác chiến, ông nhanh lẹ chạy xuống phòng Cha.
 
Tôi cũng tò mò đi xuống xem chuyện gì, vị Sĩ quan ông ta đang thuyết phục Cha ra máy bay di tản, tôi nghĩ Cha sẽ theo ông nhưng không, Cha đã nhất quyết ở lại, Cha nói: Tôi rất cám ơn sự quan tâm của Thiếu tá nhưng tôi không thể ra đi khi tất cả các đồng bào thuộc con chiên của tôi những người đã theo tôi bỏ làng mạc quê cha đất tổ vào đây sống mấy chục năm nay. Tôi biết chúng sẽ không nương tay với bản thân tôi nhưng tôi không nỡ bỏ đồng bào mình.
Vị sĩ quan biết không thể thuyết phục Ngài nên lặng lẽ bắt tay và ôm Cha rồi chào từ biệt.
 
Khi vị sĩ quan trở lại trực thăng Cha quay sang nói tôi: con mang tất cả những thứ này bỏ ra trụ sở NDTV dùm Cha, tôi gom cây AR16, vài cây Colt 45 đạn dược, vài hộp lựu đạn.... bỏ ngoài trụ sở.
 
Không thoả mãn vì cuộc cờ chấm dứt một cách quá vô duyên nên tôi rủ thằng bạn hai thằng ôm mớ súng Carbin M1 chui vào kho Cộng đồng, hai thằng điên cuồng bắn hết mấy trăm viên vào hư không rồi chui tường trở về nhà, tiếc nuối cây Colt 45 mới cứng tui nhét vào bụng mang về nhà nhưng gặp ông anh họ bên Biệt động thu hồi khi tôi mang ra khoe, ổng lấy cây súng và quăng xuống ao hồ sau kho.
 
Không biết do may mắn hay ý Trời sắp đặt. Dù sao tui cũng cảm thấy hãnh diện vì đã chứng kiến sự tiết tháo và lòng can đảm của LM Hoàng Quỳnh khi Ngài sẵn sàng ở lại cùng con chiên trong xứ để rồi một lần nữa tôi lại chứng kiến tận mắt bọn tà quyền cộng sản đã bao vây Nhà thờ và bắt Ngài vào ngày 28/02/1976. Chúng đã đưa Ngài vào lao ngục và thủ tiêu Ngài 06 tháng sau đó và cho đến nay không ai biết thân xác Ngài chúng vứt bỏ nơi nào.
 
Như một LM Ngài không thể tự sát, Ngài cũng không chọn di tản dù có tới hai lần cơ hội. Ngài đã ở lại và đối đầu với nhục hình dù lúc đó Ngài đã 76 tuổi.
Tháng 4 đen, tôi luôn nhớ về và tri ân tất cả những vị anh hùng trong QLVNCH đã hy sinh cho một miền nam thân yêu.
Mui Lexuan
________________________
• Hình 1: Giáo xứ Bình An Hạ
• Hình 2: LM Hoàng Quỳnh, bên trái.
• Hình 3: LM Nguyễn Văn Vàng, Ngài cũng bị tà quyền sát hại trong tù.
--------------- 

Steven Lam
 Lữ Đoàn 468 Thủy Quân Lục Chiến Cọp Biển: Trận Cuối Cùng 1975
Vương Hồng Anh
* Tiến trình thành lập Lữ đoàn 468 TQLC:
Trong loạt bài viết về chiến tích các đơn vị Thủy quân Lục chiến trong các cuộc hành quân trên bốn Vùng chiến thuật trong thời gian từ Mậu Thân 1968 đến Mùa Hè 1972, chúng tôi đã lần lượt giới thiệu Lữ đoàn 147, 258 và 369 TQLC. Đây là ba lữ đoàn được thành lập sau khi lực lượng Cọp Biển được nâng lên thành Sư đoàn.
 
Đầu năm 1975, thực hiện kế hoạch tăng cường lực lượng tổng trừ bị của bộ Tổng Tham Mưu QL.VNCH, Sư đoàn Thủy quân Lục chiến (TQLC) VNCH đã tiến hành thành lập Lữ đoàn 468, và các Tiểu đoàn 14, 16, 18 TQLC. Trước khi thành lập các đơn vị trên, từ những tháng cuối năm 1974, mỗi tiểu đoàn TQLC tác chiến thành lập thêm một đại đội thứ 5. Đặc điểm của đại đội này là sĩ quan, hạ sĩ quan cán bộ là thành phần được tuyển chọn tương đối xuất sắc, nhiều kinh nghiệm chiến trường, binh sĩ rút từ các đại đội nhập lại, vũ khí, quân trang, quân dụng đầy đủ. Sau khi thành lập, các đại đội tân lập này được tiếp tục huấn luyện tại chỗ và làm thành phần trừ bị cho tiểu đoàn.
Đến đầu tháng 1/1975, kế hoạch thành lập Lữ đoàn 468 và ba tiểu đoàn TQLC tân lập được khởi sự thực hiện, bộ Tư lện Sư đoàn TQLC đã bổ nhiệm các sĩ quan sau đây vào các chức vụ chỉ huy:
– Đại tá Ngô Văn Định, nguyên lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 258 TQLC giữ chức vụ lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 468 TQLC.
– Trung tá Nguyễn Văn Cảnh, cựu tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3 TQLC, giữ chức tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 14 TQLC. Bốn đại đội chiến đấu của tiểu đoàn này được rút từ đại đội chiến đấu thứ 5 của các tiểu đoàn 1, 2, 3 và 6 TQLC.
– Thiếu tá Đinh Xuân Lãm, cựu tiểu đoàn trưởng TĐ 5 TQLC giữ chức vụ tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 16 TQLC. Các đại đội tác chiến được rút từ đại đội tác chiến thứ 5 của các Tiểu đoàn 5,7, 8 và 9 TQLC.
– Thiếu tá Trần Ngọc Toàn, cựu tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 4 TQLC, trách nhiệm thành lập Tiểu đoàn 18 TQLC. (Tiểu đoàn này chưa kịp hình thành trọn vẹn thì xảy ra biến cố 30-4).
– Đại úy Nguyễn Văn Vinh: pháo đội trưởng Pháo đội H/105 ly.
 
Tại vùng hành quân của Sư đoàn TQLC tại Quảng Trị và Huế, Lữ đoàn 468 TQLC đã hình thành bộ chỉ huy Lữ đoàn, Tiểu đoàn 14, Tiểu đoàn 16 TQLC, Pháo đội H. Sau đó toàn bộ Lữ đoàn được chuyển vận bằng phi cơ và tàu Hải quân về tiếp nhận hậu cứ tại căn cứ Sóng Thần (Thủ Đức). Tại hậu cứ, các đơn vị tiếp tục nhận quân trang dụng còn lại theo đúng bảng cấp số, và tổ chức huấn luyện tại chỗ cho quân sĩ.
 
* Lữ đoàn 468 TQLC xuất quân:
Tháng 2/1975, theo lệnh của Bộ Tổng Tham mưu QL.VNCH, Lữ đoàn 468 TQLC với các Tiểu đoàn 14 và 16 cùng với pháo đội C được tăng phái cho Tiểu khu Long An. Sau vài ngày trấn giữ khu vực phi trường thị xã tỉnh lỵ, Lữ đoàn được lệnh mở cuộc hành quân tảo thanh truy kích CQ tại quận Bến Lức để nới rộng vòng đai an ninh tỉnh Long An.
 
Theo kế hoạch, Lữ đoàn 468 TQLC chia làm hai cánh quân tiến theo 2 trục song song. Tiểu đoàn 14 TQLC tiến bên phải, Tiểu đoàn 16 TQLC tiến bên trái, khoảng cách giữa đội hình 2 tiểu đoàn là 3 km. Bộ chỉ huy Lữ đoàn và pháo đội H đóng tại quận Bến Lức. Cuộc hành quân diễn ra trong 5 ngày, Tiểu đoàn 16 TQLC có vài binh sĩ bị thương, các đơn vị của Lữ đoàn phá hủy nhiều doanh trại cùng với hầm hố và công sự tác chiến của địch.
 
Sau một tháng tăng phái, Lữ đoàn 468 được lệnh rời khỏi tỉnh lỵ Long An trở về hậu cứ và ngày hôm sau được không vận ra Đà Nẵng để nhập với các đơn vị của Sư đoàn TQLC đang hoạt động tại Quân khu 1.
Theo phân nhiệm của bộ Tư lệnh Sư đoàn TQLC, Lữ đoàn 468 TQC được điều động thay thế Lữ đoàn 1 Nhảy Dù hoạt động ở khu vực đèo Hải Vân. Các đơn vị của Lữ đoàn được phối trí như sau:
- Tiểu đoàn 14 TQLC hoạt động cách đèo Hải Vân vài km về phía Nam.
- Tiểu đoàn 16 TQLC: Ban chỉ huy Tiểu đoàn và đại đội chỉ huy đóng quân ngay trên trên đỉnh đèo, các đại đội chiến đấu án ngữ và chế ngự các cao điểm, khai triển các trung đội trải dài theo Quốc lộ 1 xuống đến chân đèo Hải Vân ở phía Nam.
- Tiểu đoàn 18 TQLC đóng quân, lập tuyến án ngữ tuyến phía Bắc đèo Hải Vân.
 
Ngày 29 tháng 3/1975, Lữ đoàn 468 TQLC được lệnh tập trung tại điểm hẹn Làng Cùi, dưới chân đèo Hải Vân sát bờ biển để tàu Hải quân đến đón. Bộ chỉ huy Lữ đoàn và các Tiểu đoàn 14, 16 và 18 TQLC được lệnh phá hủy tại chỗ các quân trang, quân dụng nặng nề, sau đó toàn bộ lực lượng của Lữ đoàn 468 TQLC lên tàu với quân số gần như 100% trong trật tự và kỷ luật.
 
Sau hai ngày lênh đênh trên biển, Lữ đoàn 468 TQLC được lệnh đổ quân tại quân cảng Cam Ranh để các đơn vị tái chỉnh trang và chờ lệnh mới. Đóng quân tại Cam Ranh được 1 ngày, toàn bộ Lữ đoàn lại nhận được lệnh lên tàu và được hải vận về Vũng Tàu.
 
* Lữ đoàn 468 Thủy quân Lục chiến, trận chiến tháng 4/1975:
Tại Vũng Tàu, Lữ đoàn được giao nhiệm vụ phòng thủ và giữ an ninh thị xã, các đơn vị được phối trí dọc theo Bãi Dâu, Bến Đình, liên tỉnh lộ hướng về Bà Rịa, trong thời gian đóng quân, ba tiểu đoàn tiếp tục chỉnh trang.
Ngày 8 tháng 4/1975, Lữ đoàn 468 với Tiểu đoàn 16 TQLC và Tiểu đoàn 8 TQLC từ lữ đoàn khác đến, được lệnh tăng phái cho Quân đoàn 3. Khi đoàn xe di chuyển đến Phước Tuy thì có lệnh dừng lại đợi lệnh mới, sau đó quay về Vũng Tàu. Vài ngày sau, Lữ đoàn lại tăng phái cho Quân đoàn 3. Bộ chỉ huy Lữ đoàn đóng quân tại căn cứ Long Bình, Tiểu đoàn 16 đóng tại Hố Nai và Tiểu đoàn 8 TQLC đóng tại Long Thành. Hai tiểu đoàn có nhiệm vụ: ngăn chận địch quân từ hướng Long Khánh tràn xuống, giữ an ninh ngoại vi cho căn cứ Long Bình và bộ Tư lệnh Quân đoàn 3.
Ngày 22/4/1975, trung tá Nguyễn Đằng Tống được thiếu tướng Bùi Thế Lân-tư lệnh Sư đoàn TQLC-cử giữ chức lữ đoàn trưởng 468 TQLC thay thế đại tá Ngô Văn Định được điều động về chỉ huy Lữ đoàn 147 TQLC. Lữ đoàn này cùng bộ Tư lệnh Sư đoàn TQLC đóng tại Vũng Tàu.
 
Ngày 28 tháng 4/1975, sau khi Sư đoàn 18 Bộ binh và lực lượng tăng phái rút khỏi Long Khánh, địch quân tiếp tục tiến quân tràn qua Trảng Bom và Long Thành, xâm nhập vào vùng trách nhiệm của Lữ đoàn 468 TQLC. Hai tiểu đoàn 16 và 8 TQLC đã nỗ lực chống trả để chận địch, trận chiến diễn ra rất quyết liệt, đồng thời hướng dẫn Pháo binh tác xạ yểm để ngăn chận mức độ tiến quân của đối phương. Ngày 29 tháng 4/1975, tuyến Long Thành bị bỏ ngõ, CQ tiếp tục tràn xuống phía Nam với hai trục tiến quân chính: một trục dựa theo Quốc lộ 1 tiến về hướng Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 và căn cứ Không quân Biên Hòa, một trục dựa theo tỉnh lộ Bà Rịa-Sài Gòn qua căn cứ Long Bình tiến về cầu Xa Lộ.
 
Trước tình hình này, Tiểu đoàn 16 TQLC quyết định sử dụng giàn súng nặng 106 ly không giật, SKZ 57 ly, súng phóng hỏa tiễn M.72 đặt dọc theo Quốc lộ 1 và đường rầy xe lửa để chận địch. Sáng ngày 29, một phần đi đầu của CQ gồm 5 xe tăng có bộ binh tùng thiết di chuyển trên địa hình trống trải, các Cọp Biển Tiểu đoàn 16 TQLC đồng loạt nổ súng: 2 chiến xa CQ bị bắn cháy, bộ binh địch bị rối loạn hàng ngủ phải tháo chạy về đám ruộng mía.
 
Tiểu đoàn 16 TQLC báo cáo kết quả về Bộ chỉ huy Lữ đoàn và xin yểm trợ Pháo binh để tiêu diệt địch, hàng loạt đạn pháo hỏa tập vào ruộng mía đã triệt tiêu đơn vị địch tại đây. Cũng cần ghi nhận thêm rằng, lần đầu tiên Tiểu đoàn 16 TQLC được tăng phái loại đại bác 106 ly không giật đặt trên xe Jeep dã chiến, sự thiết trí đặc biệt của loại súng này đã giúp cho toán xạ thủ linh động và ứng phó hữu hiệu trên nhiều địa thế và trong nhiều trường hợp. Khẩu đại bác này đặt dưới quyền chỉ huy của trung úy Đức, đại đội phó đại đội 1/Tiểu đoàn 16 TQLC. Trung úy Đức đã điều động các xạ thủ tác xạ chận địch, cuối cùng anh đã hy sinh tại trận địa sau khi đã chận đứng được cuộc tấn công của địch quân.
 
Chiều ngày 29/4/1975, bộ chỉ huy Lữ đoàn ra lệnh cho Tiểu đoàn 16 và Tiểu đoàn 8 TQLC rút về căn cứ Long Bình. Đêm 29 rạng ngày 30/4, Lữ đoàn 468 rút về phòng thủ tại cầu Bình Phước (Biên Hòa). Sáng ngày 30/4, Lữ đoàn được lệnh rút về căn cứ Sóng Thần. Đó là những giờ phút của Lữ đoàn 468 TQLC, một lữ đoàn thành lập sau cùng của binh chủng TQLC, dù hoạt động với thời gian ngắn ngủi nhưng các đơn vị thống thuộc và bộ chỉ huy Lữ đoàn đã hoàn thành nhiệm vụ mà binh chủng và Quân lực VNCH giao phó. (Biên soạn dựa theo bài viết của cựu thiếu tá TQLC Đinh Xuân Lãm-nguyên tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 16 TQLC, đặc san Sóng Thần và một số bài viết trong tạp chí KBC).
Vương Hồng Anh
 -------------
 
Hoài Nguyễn
Ngày Dài Nhất.

Tháng Tư có một ngày đầy ám ảnh.
Bốn tám năm, vẫn như mới hôm nào!
Đến ngày này, buồn u uẩn làm sao!
Nghe thoáng nhớ thuở xưa thời trai trẻ.
Trời Sài Gòn chợt sao mưa rất nhẹ.
Súng lơi tay, buồn nghe lệnh tan hàng.
Lính thẫn thờ, cuộc đời đã sang trang.
Lê chân bước giữa phố phường xa lạ!
Thành phố cũ nhưng người xưa đâu tá!
Những hàng me câm nín giữa ngày hè.
Con vội vã ngược xuôi tìm cha mẹ.
Em âm thầm né tránh muốn gặp tôi?
Ngày quay về khu phố cũ mồ côi.
Em lặng lẽ liếc nhìn tên chiến bại!
Hồn ủ rũ, nay gươm cùn súng gãy.
Đời đổi thay, tan nát trái tim buồn.
Đêm Sài Gòn nhớ lại dáng quê hương.
Đất miền Trung, hè nắng cháy da người.
Nơi quê cũ một trời xa vời vợi…
Có đàn em mong anh sớm quay về …
Tháng Tư có ngày dài thật lê thê.
Ngày thay đổi bao phận đời, phận nước.
Có kẻ cười, có người lầm lũi bước…
Ngày ba mươi, tờ lịch cũ buồn rơi!
Hoài Nguyễn - 30/4/2023
------------

Hoài Nguyễn
Ám ảnh tháng Tư!
Bốn tám năm, vẫn mãi hoài ám ảnh
Ù bên tai, tiếng “Nhật lệnh tan hàng”
Bạn bè ơi! Lịch sử đã sang trang…
Ta buông súng và trở thành thua cuộc…
Tên hèn tướng bị mắc mưu “triệt buộc”
Ngỡ trong tay là Vương – Bá – Khanh – Hầu.
Nhưng cuộc đời có phải giấc mộng đâu?
Nỗi điếm nhục trăm sông nào rửa sạch!
Người lính trẻ bị lệnh trên thúc bách
Thẫn thờ trong dòng phố xá đô thành
Bao chiến trường từng qua bước chân anh.
Giờ tan trận, ngẩn ngơ buồn rơi lệ.
Trời Sài Gòn, ngày ấy sao sầu thế!
“Triệu người vui, cũng có triệu kẻ buồn…”
Đạn lên nòng mà súng phải đành buông
Ta thất thế, lê chân về góc nhỏ…
Để tháng tư về ôm hoài nỗi nhớ.
Sáng hôm nào, mưa mấy giọt sầu rơi.
Dưới hào sâu, ta ngước mặt nhìn trời.
Loạt súng nổ vỡ òa niềm uất hận!
Có nỗi đau của những tên thua trận.
Lê bước chân mỏi bước giữa phố phường.
Nợ tang bồng sao còn mãi vấn vương
Ta nuốt lệ nhìn ngày mai tăm tối!
Em ngại ngùng, nhìn ta, và bối rối…
Bởi tương lai mù mịt chắn con đường.
Dẫu hôm qua, em còn nói lời thương…
Giờ thế đó, với ta là tuyệt vọng…
Bốn tám năm, với ta là mong ngóng
Ngày lìa quê, em bỏ lại người thương…
Bạn bè ta, nay mỗi đứa mỗi đường…
Phận thua cuộc, kiếp người như lá rụng.
Bốn tám năm, ám ảnh hoài loạt súng...
Báo ngày buồn, thôi tan tác từ đây…
Đồi hoang vu, ta chợt nhớ những ngày
Nghe pháo nổ báo những ngày giông bão.
Bốn tám tám, ta theo đời cơm áo.
Vẫn từng đêm nhớ về những ngày xưa
Nhớ tháng tư, kể mấy cũng thấy thừa…
Từ độ ấy, ta – thành tên thua cuộc …
Hoài Nguyễn – 30/4/2023
*Ảnh minh họa : Photo Nguyễn Đạt
------------------
 
Bảo Bình
Hôm nay nhớ lại chuyện xưa :
Khoảng 8 giờ sáng ngày 02/05/1975, gia đình mình từ Ngã Ba Ông Tạ Saigon di chuyển về lại Tam Hiệp - Biên Hòa bằng chiếc xe Daihatsu,,, Trên suốt đoạn đường từ Ngã Tư Hàng Sanh - qua cầu Tân Cảng - đến Ngã tư Thủ Đức - đến Ngã Ba Tân Vạn - qua cầu Đồng Nai - đến Ngã Ba Vũng Tàu và tới Ngã Ba Tam Hiêp...Lúc bấy giờ dọc hai bên đường có rất nhiều xe cộ hư hỏng rách nát do bị trúng đạn, và một số xe bị bỏ lại do hết nhiên liệu...Cùng cảnh tượng rất bi thảm vì có rất nhiều xác người chết còn năm ngổn ngang trên mặt đường - xác thường Dân xen lẫn xác vc , có những xác chết không còn đủ chi thể, có những chi thể bấy nhầy xương thịt, và màu đã đông khô, có những xác bị cháy đen co quắp... Điều làm mình đau lòng nhất là khi nhìn thấy xác, đủ các Sắc Lính VNCH, các Anh đã tử chiến ở những giờ phút hốp hối cuối cùng của MN !... Xin nghiêm mình thắp nén hương, dâng đến các Vong Linh đã thiệt mạng trong những thời khắc đó..! Đặc biệt tưởng nhớ các Anh Linh đã ngã xuống vì : Danh Dự và Trách Nhiệm .
------------------
 
BUỔI CHIỀU CUỐI CÙNG
Bây giờ là 6 giờ chiều ngày 29 tháng Tư năm 1975. Đó là buổi chiều cuối cùng tôi còn là lính. Tôi được gọi lên gặp Hằng Minh (danh hiệu truyền tin của Tướng Tư lệnh Sư đoàn).
 
Trước buổi trưa, chiến tuyến cuối cùng của VNCH là Trảng Bom (Biên Hòa). Lúc này Long Bình đã là địa đầu chiến tuyến. Trước ngày 16.4, quân ta còn đánh nhau với quân CSBV tại Phan Rang. Thời gian càng dài ra thì chiến tuyến càng thu ngắn lại. Sau đó là Bình Thuận, Bình Tuy, rồi Xuân Lộc. Quân và dân Xuân Lộc đã anh dũng chiến đấu suốt 12 ngày đêm, với quân số tương đương một sư đoàn, đã chống đở thắng lợi 4 sư đoàn quân CSBV, đã tạo nên chiến tích thần kỳ. 
 
Nhưng cuối cùng Xuân Lộc cũng bị bỏ ngỏ vào đêm 20 rạng ngày 21.4. Lực lượng trấn thủ được lệnh lui binh về Biên Hòa lập phòng tuyến mới để bảo vệ Biên Hòa và Thủ đô Sài Gòn.
 
Vào lúc quá trưa, cộng quân bắt đầu pháo kích kho đạn Long Bình. Những tiếng nổ long trời lở đất, khói đen bốc lên ngùn ngụt, cao tận mây xanh. Từ buổi sáng, phòng tuyến Trảng Bom đã vỡ. Một Tiểu đoàn của Trung đoàn 43BB bị địch quân đông gấp bội, với chiến xa trợ chiến, đã tràn ngập vị trí. Vị Tiểu đoàn trưởng được ghi nhận mất tích. Mất Trảng Bom, chiến tuyến cuối cùng của VNCH là Long Bình.
 
Tôi dời Bộ chỉ huy Tiểu đoàn vào bên trong căn cứ, đặt tạm tại văn phòng của Ban chỉ huy Đại đội Quân Cảnh Sư đoàn.
 
Khi Tiểu đoàn xuống núi (Núi Thị) để hành quân triệt thoái khỏi Xuân Lộc, quân số khá đầy đủ, với hơn 500 tay súng. Nhưng vì là đơn vị sau cùng triệt thoái khỏi mặt trận, một mình đơn độc, không có không quân và pháo binh yểm trợ, đạn dược thiếu hụt, lại bị Sư đoàn 341/CSBV truy đuổi liên tục trong khu rừng rậm, từ lâu vốn là căn cứ địa của VC, nên đã bị hao hụt rất nhiều. Vì lẽ đó, lần đầu tiên đơn vị được giao một nhiệm vụ khá nhẹ nhàng là bảo vệ Bộ Tư lệnh Sư đoàn, trong lúc các tiểu đoàn bạn phải lên tuyến đầu chống chọi với cộng quân tại chiến tuyến Trảng Bom.
Lối 9 giờ sáng, Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn III kiêm Vùng 3 Chiến thuật bay trực thăng đến BTL/SĐ để gặp Tư lệnh các đại đơn vị: SĐ5, SĐ18, SĐ25, và Lữ đoàn 3 Xung kích. Nhưng hiện diện chỉ có hai tướng là Lê Minh Đảo, TL/SĐ18BB và Trần Quang Khôi, TL/LĐ3XK. Lúc này BTL/QĐ đã di chuyển về Sài Gòn. Sau cuộc họp mặt chớp nhoáng để ban chỉ thị giữ Biên Hòa, Tướng Toàn vội vả bay đi mà không bao giờ trở lại. Có lẽ đây là những chỉ thị cuối cùng trong tư cách là Tướng Tư lệnh Quân đoàn. Theo “Những Sự Thật Chiến Tranh Việt Nam 1954 – 1975” của các tác giả Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Đại tá Lê bá Khiếu, và Tiến sĩ Nguyễn Văn, thì vào một ngày của tháng 3.1975, Quân đoàn III được lệnh Bộ Tổng Tham Mưu, nghiên cứu bãi đổ bộ tại Phước Tuy cho hai Sư đoàn Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ khi hữu sự. Khi Tướng Dương Văn Minh nhậm chức Tổng Thống chiều ngày 28.4.1975, bận lo tổ chức nội các, lo hòa giải và hòa hợp với cộng sản, Tướng Toàn tìm mọi cách liên lạc với giới chức có thẩm quyền về việc liệu có việc đổ bộ của hai Sư đoàn TQLC Hoa Kỳ? Nhưng không gặp được ai. Sau khi họp mặt và ban lệnh cho hai Tướng Đảo và Khôi tại Long Bình là phải giữ Biên Hòa , Tướng Toàn bay về Gò Vấp. Sau đó bay ra Soái hạm Blue Ridge của Đệ Thất Hạm đội Mỹ, để yêu cầu xác nhận. Nhưng đó chỉ là “quả lừa.”
 
Cũng buổi sáng ngày 29.4
, lối 8 giờ, trong lúc các đơn vị QLVNCH trên khắp các mặt trận, Sư đoàn 5 tại Lai Khê, Sư đoàn 25 tại Củ Chi, Sư đoàn 18 tại Biên Hòa, Sư đoàn 22 tại Bến Lức, và tại Vùng 4, quân sĩ của Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam với các Sư đoàn 7, 9 và 21, đang anh dũng chiến đấu với quân thù, thì cựu Tướng Nguyễn Cao Kỳ đã bay ra Hạm đội 7 bằng trực thăng riêng Huey của mình. Trước khi bay đi, Tướng Kỳ ghé lại Bộ Tổng Tham Mưu, tình cờ gặp Trung tướng Ngô Quang Trưởng, và rủ rê cùng đi. Có nguồn tin cho rằng Tướng Kỳ mời Tướng Trưởng bay về Miền Tây gặp Tướng Nam để bàn chuyện cứu nước. Nhưng trực thăng đã trực chỉ ra biển đông. Được biết quân sĩ tại Vùng 4 đã tiếp tục chiến đấu với quân thù, dù có lệnh buông súng của Dương Văn Minh. Họ chỉ buông súng tan hàng sau khi nghe tin các Tướng chỉ huy của họ là Trần Văn Hai (TL/SĐ7BB), Lê Văn Hưng (TLP/QĐ), và Nguyễn Khoa Nam (TL/QĐ) tuẩn tiết. Buổi chiều ngày 28.4, tại xứ Tân Sa Châu thuộc quân Tân Bình, Tướng Kỳ nói chuyện với những người Bắc Kỳ Di cư, những người đã một lần năm 1954, bỏ nhà bỏ cửa, bỏ ruộng vườn, bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, trốn chạy cộng sản vào Nam. Tướng Kỳ hô hào đoàn kết, cùng nhau chiến đấu chống bọn CSBV xâm lược. Khi nghe Tướng Kỳ tâm sự rằng ông sẽ ở lại chiến đấu cùng đồng bào đến giọt máu cuối cùng, ai ai cũng nức lòng. Ông còn khôi hài rằng qua Mỹ sẽ không có “mắm tôm để ăn”. Đồng bào đã hoan hô Tướng Kỳ hết mình. Một hy vọng mong manh đang nhen nhúm! Hay nói như cách nói qua lời của một bài hát: “Có Tin Vui Giữa Mùa Tuyệt Vọng”.
 
Sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, bàn giao lại cho Phó Tổng thống Trần Văn Hương, Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng BTTM/QLVNCH cũng đệ đơn lên Tổng Thống Tân nhiệm xin nghỉ việc. Nhưng Tổng Thống Huơng vẫn lưu nhiệm, và ông chỉ ký Sắc lệnh giải nhiệm Đại tướng Viên trước khi bàn giao chức vụ Tổng Thống cho Tướng Dương Văn Minh. Trung tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng BTTM kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận được cử thay thế. Nhưng Tướng Khuyên cũng rời bỏ nhiệm sở buổi trưa ngày 29.4. Các Tướng có chức có quyền bắt đầu rời bỏ nhiệm sở, tìm cách trốn chạy trước khi quân CSBV vào đến Sài Gòn. Lúc đó tại Sài Gòn, vị sĩ quan cao cấp nhất và thâm niên là Trung tướng Vĩnh Lộc, liền được Tổng thống Dương Văn Minh mời giữ chức TTMT đang bỏ trống. Đồng thời cựu Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh (sau này được biết Hạnh đã bị VC móc nối) được gọi tái ngũ, giữ chức Phụ tá TTMT cho Tướng Vĩnh Lộc. Vừa nhận chức TTMT, Tướng Vĩnh Lộc triệu tập cuộc họp tại Bộ TTM, yêu cầu “mọi người đừng bỏ đi, hãy ở lại để làm việc với tất cả trách nhiệm”. Tướng Vĩnh Lộc điện thoại về Vùng 4, nói chuyện với Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, bàn kế hoạch đưa Chính phủ hoặc những nhân vật đầu não về Miền Tây. Dưới quyền của Tướng Nam, còn nguyên vẹn các Sư đoàn 7, 9, 21, Không Quân, Hải Quân, lực luợng ĐPQ và NQ. Tướng Lộc liên lạc với Tư lệnh Không Quân và Tư lệnh Hải Quân cùng lên đài Truyền hình, nhưng không thực hiện được. Trong cố gắng cuối cùng, ông ban Nhật lệnh kêu gọi quân sĩ tiếp tục chiến đấu, miệt thị đám tướng lãnh và sĩ quan bỏ ngũ, rời nhiệm sở là “những con chuộc nhắt!” Nhưng lối 6 giờ sáng ngày 30.4, cùng với Trung tướng Trần Văn Trung, Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Chiến tranh Chính trị, cũng đã tìm đường di tản, cũng làm “những con chuột nhắt”.
Lúc tôi đến căn phòng nhỏ nằm sát đàng sau Văn phòng Tư lệnh, Tướng Đảo đang dùng cơm chiều. Ông ngồi đó, cô đơn, ăn cơm một mình. Một Trung úy Pilot ngồi cạnh đang đọc báo. Các vị Đại tá, gồm Nguyễn Văn Mai, TLP/SĐ, Huỳnh Thao Lược, TMT/SĐ, Hứa Yến Lến, TMP/HQ & TV, Dương Phún Sáng, Chánh Thanh Tra, đều đứng. Không ai nói gì, chỉ im lặng. Không khí trầm lắng. Có lẽ các vị vừa họp bàn xong. Đâu ngờ đây là cuộc họp cuối cùng của các vị. Trên khuôn mặt, ai ai đều mang nặng nét ưu tư. Một lúc sau, các vị đều rời khỏi phòng đi đâu đó. Giờ đây chỉ còn lại Tướng Đảo, viên Phi công trực thăng và tôi. Ông mời tôi dùng cơm. Tôi từ chối. Ông khui chai rượu Tây mời uống.
 
Khui hộp bánh Lubico mời ăn. Tôi hỏi khẻ vị Trung úy:
- “Chỉ một mình anh thôi sao?”
- “Vâng, ông Tướng có thể làm co-pilot.”
Tướng Tư lệnh hỏi han tình hình của đơn vị, nhất là tinh thần quân sĩ. Tôi cứ tình thật trình bày. Sau cuộc triệt thoái khỏi Xuân Lộc, là đơn vị rút ra cuối cùng, phải đơn độc chiến đấu không có không quân và pháo binh yểm trợ, phải chống chỏi trước một lực lượng địch đông gấp bội, bị thiệt hại nhiều, tinh thần căn thẳng, thể xác rã rời, chưa lấy lại sức. Thật ra những người lính của tôi đã chịu đựng quá nhiều. Là một trong những đơn vị có thành tích chiến đấu dũng mãnh trong Sư đoàn, nhiều lần Tiểu đoàn tôi đã nhận lãnh những nhiệm vụ khá nặng nề, và luôn luôn đã hoàn thành xuất sắc. 
 
Vì lẽ đó, con số thương vong thường cao. Nhưng người lính QLVNCH vẫn “xem Thái sơn nhẹ tựa hồng mao!” Vào những ngày như những ngày hôm nay, những ngày của giờ thứ 25 cuộc chiến, đơn vị nằm sát đuờng Quốc lộ, chứng kiến hàng đoàn người dân di tản, và tin tức lan truyền từ Sài Gòn, rằng đã có nhiều người bỏ nước ra đi, trong đó không ít các tướng lãnh và sĩ quan cao cấp. Con đường QL1 từ Kẻ Sặt đến cầu Đồng Nai, đi ngang qua BTL/SĐBB từ mấy ngày qua trở nên chật hẹp. Người nguời gồng gánh, xe ba-gác, xe lam, xe ngựa, xe trâu, xe bò, và xe vận tải, chất đầy người và hành lý, vội vàng xuôi về Sài Gòn. 
 
Hình như Sài Gòn là nơi mà mọi người dân tị nạn chiến cuộc có thể nương náu an toàn. Tình hình xáo động. Người lính chiến từ nhiều tháng nay không có tin tức gì về gia đình. Nhưng “Việc công là trọng, niềm tây sá nào”. Quân sĩ của tôi, hầu hết vẫn ở lại chiến đấu. Tinh thần không nao núng! 
 
Dù là chiến đấu một cách vô vọng! Họ ở lại, bởi vì các cấp chỉ huy trực tiếp của họ vẫn còn ở lại. Yếu tố quan trọng nhất, vị anh cả của họ, Tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo vẫn còn ở lại. Buổi chiều trong cuộc họp tại Bộ Tư lệnh, tôi là sĩ quan tác chiến, không phải tham mưu nên không tham dự, chỉ nghe kể lại, rằng ông Tướng đã khẳng định cùng thuộc cấp, rằng ông sẽ không đi đâu cả, rằng ông sẽ ở lại chiến đấu sát cánh cùng anh em. Vợ con ông cũng ở lại, gia đình ông không ai bỏ đi.
 
Ông khuyên tôi cố gắng giữ Long Bình. Nếu giữ được Long Bình thì Long Bình là của mình! Ông nói: “Một Phái đoàn của Chính phủ do Giáo sư Bùi Tường Huân, Bộ trưởng Quốc Phòng của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu đã đi gặp đối phương tại một nơi nào đó trên xa lộ Đại Hàn, để bàn chuyện ngưng bắn “da beo”. Sau này được biết, Phái đoàn của Bùi Tường Huân đã bị cộng quân giữ lại, bị bắt làm con tin. Dương Văn Minh bị lừa. Nhà Sư Thích Trí Quang đã bị lừa. Để rồi cả Miền Nam bị lừa.
 
Ăn cơm xong, ông Tướng đến ngồi bên chiếc bàn nhỏ, có điện thoại bàn. Ông gọi vào Dinh Độc Lập xin gặp Đại tá Đẩu, Tùy viên của Tổng Thống. Nhưng người trả lời trong máy tự xưng là Trung tá, hình như tên Thọ, Phó Tùy viên. Trung tá Thọ cho biết, hiện Tổng Thống đang chủ tọa cuộc họp Nội Các. Tướng Đảo trình bày tổng quát tình hình, và xin lệnh Tổng Thống được đưa Sư đoàn 18BB về thiết lập tuyến phòng ngự bên bờ Nam sông Đồng Nai để ngăn chận địch từ hướng Đông. Phía Bắc và Tây Bắc có Sư đoàn 5 của Tướng Lê Nguyên Vỹ, và Sư đoàn 25 của Tướng Lý Tòng Bá, phía Nam có Sư đoàn 22 của Tướng Phan Đình Niệm. Với lực lượng phòng thủ như vậy, chúng ta có thể giữ được Sài Gòn. Cuộc điện đàm kết thúc với lời hứa của Trung tá Thọ, rằng sẽ trình lại với Tổng Thống và sẽ liên lạc với Tuớng Đảo cho biết quyết định. Được biết sau khi nhậm chức Tổng Thống, Dương Văn Minh đã bổ nhiệm Trung tướng Vĩnh Lộc làm Tổng Tham Mưu Trưởng, và cựu Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh (đã giải ngũ), làm Phụ tá TTMT. Nhưng Tướng Vĩnh Lộc vừa mới nhậm chức chưa hiểu rõ tình hình. Tướng Tư lệnh Quân đoàn thì đã bỏ nhiệm sở. Do đó Tướng Đảo phải làm việc trực tiếp với Dinh Độc Lập, vì Tổng Thống là Tổng Tư Lệnh Tối Cao của QLVNCH.
 
Được biết, vào những ngày cuối cùng, Đại tướng Vanuxem của Pháp có mặt ở Sài Gòn, thường vào ra Dinh Độc lập. Chính vị tướng này đã khuyên Tổng Thống Dương Văn Minh cố gắng để cho quân đội cầm cự thêm 48 tiếng đồng hồ thì sẽ có giải pháp chính trị có lợi cho VNCH. Theo Tướng Vanuxem, nếu có lời yêu cầu, quân Trung cộng sẽ tràn vào Bắc Việt, áp lực CSBV ngừng tấn công. Một giải pháp chính trị có lợi cho VNCH sẽ được thi hành. Nhưng Tổng Thống Dương Văn Minh đã từ chối. Ông chỉ tin Thầy Thích Trí Quang, là người môi giới để ông tiếp xúc và đàm phán với “người anh em phía bên kia”. Nhưng khi Phái đoàn đàm phán do Giáo sư Bùi Tường Huân (Bộ trưởng Quốc phòng) cầm đầu, ra xa lộ Đại Hàn gặp VC, thì bị VC giữ lại làm con tin. 
 
Sau nhiều lần thúc dục Thầy Trí Quang không kết quả, Dương Văn Minh tuyệt vọng, đã than: “Thầy hại con rồi!”
 
Trở lại bàn ăn, Tướng Đảo cho biết, lối 12 giờ khuya nay, BTL/SĐ sẽ dời về Thủ Đức. Trung đoàn 43BB và Trung đoàn 52 vẫn ở lại Long Bình. Một lần nữa ông khuyên tôi cố gắng giữ cho được Long Bình. Tôi chỉ dám hứa là làm hết sức mình.
 
Gặp Tướng Tư lệnh xong, tôi lại được lệnh đi gặp Đại tá Trung đoàn trưởng Lê Xuân Hiếu. Đó là cuộc họp mặt cuối cùng, trong buổi chiều cuối cùng của tôi với các đơn vị trưởng bạn. Chỉ có hai Tiểu đoàn trưởng là tôi, 2/43, và Thiếu tá Nguyễn Văn Dư, 3/43. Tiểu đoàn trưởng 1/43 được ghi nhận là mất tích, trong một trận giao tranh ác liệt tại Trảng Bom sáng nay. Được biết Thiếu tá Dư bị bọn “cách mạng 30” dùng búa đánh chết tại nhà ở Vũng Tàu, sau ngày tan hàng 30.4. 
 
Sau khi nghe tôi trình bày chỉ thị tôi vừa nhận trực tiếp từ Tướng Tư lệnh, Đại tá Hiếu đưa ra hai kế họach:
1. Kế hoạch Alpha: Tiểu đoàn 2/43 thi hành theo chỉ thị nhận trực tiếp từ Tướng TL Lê Minh Đảo.
 
2. Kế hoạch Bravo: Tiểu đoàn 2/43 sẽ di chuyển qua bên kia sông Đồng Nai, lập tuyến phòng ngự từ cầu Đồng nai đến cầu Ghềnh, dọc theo bờ Nam con sông.
Đúng 12 giờ đêm, trực thăng Tư lệnh cất cánh. Tiếp theo sau đó là BTL với các phòng ban, cùng các đơn vị kỹ thuật và tiếp vận thuộc BTL bắt đầu di chuyển. Được biết, Tướng Đảo đã hoàn trả chiếc trực thăng về cho Sư đoàn 3/KQ. Ông đã di chuyển bộ cùng binh sĩ qua ngã cầu Ghềnh. Đây là lần thứ hai Tướng Tư lệnh đi bộ cùng binh sĩ khi triệt thoái. Lần thứ nhất là đêm 20 rạng ngày 21.4, Tướng Đảo đi bộ cùng binh sĩ trong cuộc triệt thoái khỏi Xuân Lộc về Bà Rịa. Đây là cuộc triệt thoái thành công nhất. Sự hiện diện của vị Tướng Tư lệnh, cùng di chuyển bộ với binh sĩ là yếu tố thiết yếu cho sự thành công. Một lần nữa, Tướng Đảo lại di chuyển bộ trên đường triệt thoái.
 
Lúc gần sáng, tôi nhận lệnh thi hành “Kế hoạch Bravo”. Đơn vị rời Long Bình, di chuyển qua hướng cầu Đồng Nai. Vài chiếc xe tăng địch xuất hiện. Chúng nổ súng một lúc, rồi lại trở lui. Đoàn quân tiếp tục di chuyển. Toán tiền phương đã đến cầu. Nhưng đơn vị bảo vệ cầu chận lại, không cho đi qua. Tôi phải cho lệnh đổi hướng qua ngã cầu Ghềnh. Khi toán quân cuối cùng qua khỏi cầu thì trời đã hừng sáng. Tôi gặp BCH Trung đoàn đang dừng chân trên đoạn đường dốc gần cầu. Theo kế hoạch đã định, Tiểu đoàn bắt đầu rải quân, thiết lập chiến tuyến. Tôi đặt BCH/Tiểu đoàn trong một khu vườn có vòng rào bao quanh. Đơn vị cuối cùng là Đại đội 2/2 của Đại úy Võ Văn Mười cũng bắt đầu rải quân. Nhưng nhìn về hướng cầu Đồng Nai, cách xa vài trăm mét, không tin vào mắt mình, xe tăng và xe chở quân CSBV đang di chuyển trên xa lộ. Chúng đã vượt qua cầu. Cây cầu vẫn còn đứng nguyên! Tại sao cây cầu không bị giật sập? Đơn vị bảo vệ cầu đã biến đi đâu? Tối hôm qua Tướng Đảo cho biết tất cả các cây cầu bắt qua sông Đồng Nai, gồm cầu Đồng Nai, cầu Ghềnh và cầu Mới đều đã được công binh đặt mìn. Cầu sẽ bị đánh sập, nếu cộng quân tiến qua cầu. Nhưng sự việc đã không xảy ra. Sau này được biết chính tên phản tướng Nguyễn Hữu Hạnh, với tư cách Quyền TTMT đã cấm không cho giựt sập cầu, để cho bộ đội CSBV thuận lợi tiến chiếm Sài Gòn. Đây là thành tích “dâng Bác và Đảng” mà tên Hạnh đã khoe trong một bài phỏng vấn của báo Tuổi Trẻ cách đây vài năm, nhân dịp kỷ niệm “Đại thắng Mùa Xuân” của CSBV.
 
Một đoàn chiến xa quân CSBV, gồm T-54, PT-76, xen lẫn những chiếc Molotova chở đầy bộ đội đang di chuyển trên xa lộ hướng về Sài Gòn. Được biết đó là quân của Tướng Nguyễn Hữu An, Chỉ huy Quân đoàn 2/CSBV được lệnh đưa bộ đội của hắn, “hợp đồng” cùng 4 cánh quân khác, tiến nhanh về Sài Gòn. Theo kế hoạch ban đầu của “Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh”, quân của Tướng Hoàng Cầm, Chỉ huy Quân đoàn 4/CSBV sẽ tiến về Sài Gòn. Nhưng 12 ngày chạm trán Sư đoàn 18BB, Tiểu đoàn 82/BĐQ, Lữ đoàn 1 Dù, lực lượng ĐPQ và NQ Long Khánh, Quân đoàn 4/CSBV bị tử vong hơn 6 ngàn bộ đội, và 37 chiếc xe tăng bị phá hủy. Chỉ huy sở Sư 341 và các đơn vị “tập kết”, chuẩn bị tiến về Biên Hòa, bị hai trái bom BLU-82 đánh trúng, hơn 10 ngàn bộ đội bị loại ra khỏi vòng chiến, nên không còn khả năng tác chiến. Một sĩ quan bị bắt khi đơn vị bị quân CSBV tràn ngập, trong trận giao tranh ác liệt tại Trảng Bom buổi sáng ngày 29 cho biết:
 
“Khi bị áp giải đến gặp tên “Thủ trưởng E” (Trung đoàn trưởng), hắn nói: “May mà anh gặp chúng tôi. Nếu anh bị đơn vị kia bắt (ý hắn muốn nói các đơn vị thuộc Sư 341) thì đã bị giết ngay tại chỗ.”
 
Thấy còn vài chiếc lẹt đẹt chạy sau, tôi cho lệnh nổ súng. Lối 4 chiếc xe tăng dừng lại, quay nòng súng hướng về chúng tôi nổ súng. Những tràng đại liên 12.8 ly ào ào xối xả, nhưng không lâu. Rồi 4 chiếc xe đó lại quay đầu xe hướng về Sài Gòn, tiếp tục chạy. Chúng cố chạy nhanh cho kịp đoàn quân đang hung hăng hướng về Sài Gòn.
 
Tôi tự hỏi, nếu đơn vị giữ cầu Đồng Nai để cho Tiểu đoàn tôi qua cầu, nếu đơn vị tôi đã vào vị trí trước khi cộng quân qua cầu, nếu cầu Đồng Nai bị đánh sập thì chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng trang sử đã lật. Những trang sử oai hùng của quân và dân VNCH đang lùi dần vào dĩ vãng. Một trang sữ mới đầy đau thương và nước mắt đang ghi lại biết bao nỗi ô nhục của người dân Việt do bọn cầm quyền ngu dốt ngự trị tại “Bắc Bộ Phủ” cam tâm làm tay sai cho kẻ thù truyền kiếp phương Bắc.
 
Buổi chiều cuối cùng kéo dài đến 11 giờ 30 trưa hôm sau, ngày 30.4. Tiếp theo là bóng đêm. Bóng đêm đã đổ ập xuống trời Nam. Đã bao năm qua, hừng đông vẫn chưa ló dạng.
BẢO ĐỊNH
-----------------
 
Dương Văn Minh - một thằng người lòng lang dạ sói, bất tài, hèn, nhưng ham danh hám lợi. Nơi nào có mặt tên này, là nơi đó có tai họa.
Trang Y Ha
Hắn giết Cụ Diệm 1963. Hắn đầu hàng VC năm 1975. Chính hắn xóa sổ miền Nam.  thằng Minh này là tên tội đồ của dân tộc Việt Nam.

 
Yến Ngọc Hải Âu
Ngày Chủ Nhật 27.4.1975. Quốc hội VNCH họp và biểu quyết việc trao quyền lại cho ông Dương Văn Minh.

Rạng sáng ngày Chủ nhật, vào lúc 3 giờ rưỡi, Việt cộng pháo kích 5 trái hỏa tiễn vào Đô Thành gây cho 6 người chết và 22 người bị thương, tuy nhiên tình hình ở Sài Gòn vẫn yên tĩnh, không có vẻ gì là rối loạn. Theo ông Trần Văn Đôn thì vào lúc 3 giờ chiều, Đại Sứ Mérillon đã gọi điện thoại cho ông ta và báo tin cho biết rằng nếu đến 6 giờ chiều hôm đó mà chưa có gì thay đổi thì quân cộng sản sẽ pháo kích vào Sài Gòn bằng đại bác 130 ly. Theo Jean Lartéguy trong cuốn L’Adieu à Saigon thì sau ngày 30 tháng 4, một sĩ quan cộng sản Bắc Việt đã tiết lộ với ông Vũ Văn Mẫu rằng các đơn vị cộng sản được lệnh bắt đầu pháo kích vào Sài Gòn bắt đầu vào lúc 11 giờ tối 30 tháng 4 nếu Sài Gòn tiếp tục chống cự và cộng sản Bắc Việt dự tính rằng họ sẽ chiếm Sài Gòn vào ngày 7 tháng 5 tức là ngày kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ của họ 21 năm về trước.
 
Theo Frank Snepp thì vào ngày hôm đó, có nhiều phe nhóm chính trị đã chống lại việc Tổng Thống Trần Văn Hương không chịu giao quyền cho Dương Văn Minh. Người đầu tiên là ông Trần Quốc Bửu, Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Công Việt Nam mà theo Frank Snepp thì ông ta là người đã cộng tác với CIA từ lâu. Ông Bửu đã kêu gọi đoàn viên biểu tình gây áp lực để đẩy ông Hương ra khỏi chính quyền. Kế đó là Thương Tọa Thích Trí Quang, lãnh tụ Phật Giáo Ấn Quang cũng đã kêu gọi Tổng Thống Trần Văn Hương phải nhường chức cho Dương Văn Minh và nhóm thứ ba là cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ cùng với Linh Mục Trần Hữu Thanh, Chủ Tịch Phong Trào Nhân Dân Chống Tham Nhũng đã tham dự một cuộc biểu tình tại Giáo Xứ Tân Sa Châu với gần mười ngàn người tham dự. Trong cuộc mít-tinh này, Linh Mục Trần Hữu Thanh và cựu Phó Tổng Thống Kỳ lên án những kẻ hèn nhát đã bỏ nước di tản theo người Mỹ và hô hào đồng bào ở lại để tử thủ bảo vệ Sài Gòn. Theo Frank Snepp, ông Kỳ đã nói với những người biểu tình rằng: “cái gọi là chiến thắng của cộng sản chẳng qua chỉ là hậu quả của việc những Tướng lãnh và sĩ quan của Quân Đội chúng ta đã chọn sự bỏ chay ngay cả trước khi họ được yêu cầu’’. [*175: Frank Snepp: Sách đã dẫn, trang 433]
 
Báo chí Việt ngữ trong nước đã trích thuật lại rằng cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ đã kêu gọi mọi người ở lại chiến đấu chống lại cộng sản Bắc Việt, ông nói rằng ông cũng sẽ ở lại để chiến đấu chứ không đi đâu cả, không di tản ra ngoại quốc vì “ở bên đó làm gì có rau muống, mắm tôm mà ăn?…’’
 
Lưỡng Viện Quốc Hội Đồng Ý “Trao Quyền’’
Vào lúc 10 giờ sáng, Tổng Thống Trần Văn Hương mời:
– Nghị Sĩ Trần Văn Lắm, Chủ Tịch Thượng Viện,
– Dân Biểu Phạm Văn Út, Chủ Tịch Hạ Viện,
– Thẩm Phán Trần Văn Linh, Chủ Tịch Tối Cao Pháp Viện,
– Thẩm Phán Lê Tài Triển, Phụ Tá Tư Pháp của Tổng Thống,
– Trần Văn Đôn, Tổng Trưởng Quốc Phòng
– và Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, để nghiên cứu kỹ các điều khoản trong Bản Hiến Pháp của Việt Nam Cộng Hòa và thảo luận về việc yêu cầu Quốc Hội biểu quyết về đề nghị của Tổng Thống Trần Văn Hương trao quyền cho một người không được quy định trong Hiến Pháp. Buổi họp kết thúc vào khoảng 12 giờ trưa và Tổng Thống Trần Văn Hương đã yêu cầu Nghị Sĩ Trần Văn Lắm triệu tập một phiên họp khẩn cấp của Lưỡng Viện Quốc Hội vào buổi chiều hôm đó để thảo luận dứt khoát và biểu quyết về đề nghị giao quyền Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa lại cho ông Dương Văn Minh.
 
Cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn cho biết rằng ông cũng đã đóng góp ý kiến với Tổng Thống Trần Văn Hương về vấn đề này:
“Sáng chủ nhật 27 tháng 4, Tổng Thống Hương mời tôi họp tại Dinh Phó Tổng Thống trên đường Công Lý. Phiên họp gồm có các Chủ Tịch của Lưỡng Viện Quốc Hội, Tối Cao Pháp Viện, Giám Sát Viện, hai Phụ Tá của Tổng Thống là Lê Tài Triển và Lê Công Chất. Tổng Thống Hương tóm lược những vận động chính trị đang diễn tiến bức bách Cụ bàn giao cho Tướng Minh cùng lúc với áp lực mặt trận đang đè nặng sát nách Đô Thành. Tổng Thống Hương bằng lòng nhường chỗ cho Tướng Minh nhưng Cụ thắc mắc không biết dựa vào điều khoản nào của Hiến Pháp vì Cụ không muốn xé bỏ Hiến Pháp và đầu hàng. Cụ nói đúng lý ra thì Cụ phải nhường chỗ cho Chủ Tịch Thượng Viện thì mới theo đúng Hiến Pháp.
 
Trong phiên họp có nhiều người am tường Luật Pháp, nhưng Cụ lại hỏi tôi: Thủ Tướng có căn bản luật và hành chánh, lại là cựu Chủ Tịch Hạ Viện, vậy Thủ Tướng hãy góp ý tôi giải quyết việc này ra sao ?
Tôi góp ý với Tổng Thống Hương: “Thưa Tổng Thống, mặc dù chúng ta không thể chống chọi nỗi áp lực chính trị và quân sự của ngoại bang và cộng sản, nhưng tôi cũng xin Tổng Thống đừng dựa vào quyết định cá nhân và tự tiện bàn giao cho Tướng Minh vì sự bàn giao vi hiến này có hậu quả chính trị là xé bỏ Hiến Pháp là tai hại hơn nữa là sử sách sau nầy sẽ lên án Tổng Thống vì bàn giao chức vụ cho Tướng Minh mà sau đó đất nước này mới mất vào tay cộng sản’’.
 
Tuy Tổng Thống và nhân viên Lưỡng Viện Quốc Hội đều được nhân dân trực tiếp bầu, tuy Tổng Thống được Hiến Pháp giao cho trọng trách Quốc Trưởng lãnh đạo quốc dân, nhưng theo truyền thống dân chủ cũng như theo thủ tục đã được áp dụng trên thực tế tại các nước dân chủ lâu đời, mỗi khi cần phải có những quyết định không được dự trù trong Hiến Pháp để cứu đất nước đang bị lâm nguy, họ t­hường giao trách nhiệm nặng nề này cho Quốc Hội là cơ quan bao gồm hàng trăm dân cử và thường được chấp nhận là quyền uy tối cao của đất nước.Vậy tôi đề nghị Tổng Thống dành cho Lưỡng Viện Quốc Hội quyết định tối hậu. Hôi nghị chấp thuận đề nghị của tôi’’. [*176 Nguyễn Bá Cẩn: Sđd, trang 432-433.].
 
Cựu Đại Tướng Cao Văn Viên cũng có nhận xét như sau:
“Mặc dù có nhiều sự đồn đãi cho rằng cộng sản chỉ thương lượng một giải pháp chính trị với Tướng Dương Văn Minh, nhưng là một vị Tổng Thống tin vào Hiến Pháp, Tổng Thống Hương không thể nào trao chức Tổng Thống lại cho Tướng Minh nếu không có sự đồng ý của Quốc Hội’’. [*177: Cao Văn Viên: Sách đã dẫn, trang 222.]
 
Phiên họp với Tổng Thống Trần Văn Hương chấm dứt vào khoảng 12 giờ trưa ngày chủ nhật với quyết định sẽ giao cho Thượng và Hạ Nghị Viện biểu quyết về vấn đề “trao quyền’’ cho Tướng Dương Văn Minh để thương thuyết với cộng sản Bắc Việt nội trong ngày hôm đó, tuy nhiên vì thì giờ quá cấp bách cho nên rất khó mà có thể đạt giấy mời đến các vị Nghị Sĩ và Dân Biểu đến tham dự phiên họp đặc biệt này trong vòng chỉ có mấy tiếng đồng hồ.
 
Cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn cho biết chính Đại Sứ Hoa Kỳ Graham Martin đã gọi điện thoại cho ông để yêu cầu giải quyết sự khó khăn này như sau:
“Tôi ra về sau khi từ giã Cụ Hương, nhà ái quốc khả kính mà tôi không bao giờ được gặp nữa. Từ địa điểm họp tại Tư Dinh Phó Tổng Thống về đến Tư Dinh Thủ Tướng tại số 5 Bến Bạch Đằng xe chạy độ 15 phút. Thế mà vừa bước chân vào phòng khách thì điện thoại reo vang. Đại Sứ Martin ở phía đầu dây bên kia nói với tôi: Tình hình vô cùng khẩn trương. Công việc đang phải giải quyết với cộng sản Bắc Việt từng phút từng giây chứ không phải từng ngày, từng giờ nữa. Tưởng là phiên họp với Tổng Thống Hương đã đi đến quyết định là bàn giao ngay nội ngày hôm nay.
 
Không ngờ Thủ Tướng lại đề nghị “giao quả bóng’’ qua cho Quốc Hội, biết chừng nào mới triệu tập cả trăm người đến họp được ? Hai ông Chủ Tịch Quốc Hội sẽ bó tay không thể nào có phương tiện tống đạt thư mời Dân Biểu và Nghị Sĩ được. Vậy xin Thủ Tướng giúp giùm hai vị này triệu tập phiên họp khẩn cấp nội chiều nay. Nếu trễ ký hạn tối nay của cộng sản thì Sài Gòn sẽ lâm nguy.
 
Tôi liền điện thoại thông báo hai vị Chủ Tịch Thượng và Hạ Viện cứ tống đạt thư mời các Dân Biểu và Nghị Sĩ cho đúng nội quy, nhưng e rằng thư mời sẽ không đến tay đầy đủ cho các vị dân cử đâu. Tôi chỉ thị lập tức cho hai Đài Truyền Thanh và Truyền Hình ngưng tất cả các chương trình phát thanh thường lệ.
 
Bắt đầu từ giờ phút này, chỉ phát thanh nhạc hùng, tạo không khí khẩn trương y như khi có biến cố trước đây và đọc thư mời các Nghị Sĩ và Dân Biểu đến dự phiên họp khoáng đại Lưỡng Viện tại Hội Trường Diên Hồng, trụ sở của Thượng Nghị Viện vào lúc 7 giờ tối nay’’. [*178: Nguyễn Bá Cẩn: Sách đã dẫn, trang 436.]
 
Trong buổi chiều hôm đó, Đài Phát Thanh Sài Gòn liên tiếp đọc đi đọc lại từng giờ thư mời của Nghị Sĩ Trần Văn Lắm yêu cầu các Dân Biểu và Nghị Sĩ đến dự phiên họp đặc biệt khẩn cấp tại trụ sở Thượng Viện vào lúc 6 giờ chiều cùng ngày. Phiên họp Lưỡng Viện khai diễn vào lúc 7 giờ 30 tối với 138 Nghị Sĩ và Dân Biểu hiện diện: Có nhiều người sau này nói rằng phiên họp này không hợp pháp vì không đủ túc số, tuy nhiên điều đó không đúng vì vào tháng 4 năm 1975, tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ trong hai Viện Quốc Hội là 219 người, theo nội quy của Quốc Hội thì chỉ cần quá bán tổng số tức là 110 người là đủ túc số để họp Lưỡng Viện, như vậy con số 138 người thì đã quá đủ túc số rồi.
 
Theo lời yêu cầu của Chủ Tịch Thượng Viện, ông Trần Văn Đôn, Tổng Trưởng Quốc Phòng đã hướng dẫn một phái đoàn quân sự đến Quốc Hội để trình bày về tình hình quân sự và vòng đai phòng thủ Sài Gòn. Phái đoàn này gồm có:
– Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa,
– Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô,
– Trung Tướng Trần Văn Minh, Tư Lệnh Không Quân,
– Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang, Tư Lệnh Hải Quân,
– Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ, Trưởng Phòng 3 và Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu
– và Đại Tá Hoàng Ngọc Lung, Trưởng Phòng 2 Quân Báo thuộc Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Ông Trần Văn Đôn, với tư cách là Xử Lý Thường Vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng, đã thuyết trình cho Lưỡng Viện Quốc Hội tình hình bi đát của đất nước kể từ khi Ban Mê Thuột thất thủ ngày 10.3.75, sau đó mất Quảng Trị ngày 19 tháng 3, An Lộc ngày 20 tháng3, Huế ngày 26 tháng 3, Quảng Tín ngày 24 tháng3, Quảng Ngãi ngày 25 tháng 3, Đà Nẵng ngày 29 tháng 3, Quy Nhơn ngày 1 tháng 4, Nha Trang ngày 2 tháng 4, Đà Lạt ngày 4 tháng 4, Phan Rang ngày 16 tháng 4, Phan Thiết ngày 19 tháng 4, Xuân Lộc ngày 20 tháng 4 và ngay trong lúc Quốc Hội đang họp thì quân cộng sản Bắc Việt đã tới Biên Hòa.
 
Phái đoàn Trần Văn Đôn tường trình với Lưỡng Viện Quốc Hội rằng hiện cộng sản Bắc Việt đang có tới 16 sư đoàn tức là vào khoảng hơn 160.000 quân đang bao vây Sài Gòn cùng với sự yểm trợ của một số rất đông thiết giáp và pháo binh hạng nặng, trong khi đó thì vòng đai phòng thủ của ta đang từ từ bị thu hẹp. Cả hai Nghị Sĩ là Phạm Đình Ái và Vũ Văn Mẫu hỏi phái đoàn Quốc Phòng lực lượng Tổng Trừ Bị của Việt Nam Cộng Hòa ở đâu và vòng đai phòng thủ như thế nào thì được trả lời rằng Tổng Trừ Bị đang ở vòng đai phòng thủ Sài Gòn cùng với hai sư đoàn 5 và 25.
 
Tuy nhiên hai đại đơn vị này đã bị quân cộng sản cầm chân. Sư Đoàn 5 bị quân cộng sản vây ở căn cứ Lai Khê và Sư Đoàn 25 đang bị vây ở căn cứ Đồng Dù, còn trong Thủ Đô Sài Gòn thì chỉ có Cảnh Sát Dã Chiến cùng với một số đơn vị Biệt Động Quân bảo vệ. Tóm lại, phái đoàn phúc trình rằng tổng số quân Việt Nam Cộng Hòa bảo vệ Thủ Đô chỉ có khoảng 60.000 người và không có khả năng tăng viện thêm trong khi đó thì quân cộng sản Bắc Việt đông gấp 3 lần và quân của họ từ các vùng miền Bắc và Miền Trung tiếp tục kéo về càng ngày càng đông và đó là viễn ảnh của mặt trận Sài Gòn trong một vài ngày sắp tới. Theo một nhà báo Pháp thì trong bài thuyết trình này, ông Trần Văn Đôn đã đặt ra một bức tranh vô cùng bi thảm: Chỉ vài ngày, có thể chỉ vài giờ nữa, Sài Gòn có thể bị đại bác 130 ly của cộng sản tàn phá. Vậy phải thương thuyết ngay để có ngưng bắn càng sớm càng tốt.
 
Cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn cho biết thêm một vài chi tiết về phiên họp đặc biệt này của Lưỡng Viện như sau:
“Sau khi ba Tướng Trần Văn Đôn, Nguyễn Văn Minh và Nguyễn Khắc Bình ra về để cho Lưỡng Viện Quốc Hội tiếp tục thảo luận, thời giờ qua rất nhanh thế mà các Nghị Sĩ Dân Biểu kéo dài cuộc thảo luận dằng co xung quanh hai đề tài hợp hiến và chủ quyền quốc gia, chưa chịu biểu quyết. Dân Biểu Phạm Anh, Tổng Trưởng Đặc Trách Liên Lạc Quốc Hội, từ Hội Trường Diên Hồng báo cáo với tôi rằng các Nghị Sĩ và Dân Biểu thuộc phe cầm quyền không chống đối việc trao quyền cho Dương Văn Minh vì muốn tránh đổ máu cho nhân dân trong Đô Thành. Trái lại một chuyện bất ngờ và đầy mâu thuẫn đã xảy ra là Nghị Sĩ và Dân Biểu đối lập lại do dự chưa chịu biểu quyết cho Tướng Minh là người mà họ đã ủng hộ lâu nay.
 
Khi trao đổi với nhau một cách bán chính thức ngoài hành lang của Hội Trường, một số Dân Biểu và Nghị Sĩ đối lập cho biết “sở dĩ họ chống việc trao quyền cho Tướng Minh là vì họ nghĩ rằng Tướng Minh sẽ không đủ tài ba để giữ nước mà sẽ làm mất nước vào tay cộng sản’’. Được hỏi “nếu vậy thì tại sao lâu nay quí anh tín nhiệm Tướng Minh như lãnh tụ đối lập trong nước’’ thì các Dân Biểu và Nghị Sĩ đối lập trả lời rằng: “chúng tôi nào có tín nhiệm và tin tưởng Tướng Minh. Chúng tôi chỉ dùng Tướng Minh để phá Tổng Thống Thiệu mà thôi!’’.
 
Cũng nên nói thêm là hai Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ và Pháp vận động khá mạnh nên sau cùng Lưỡng Viện Quốc Hội ngưng thảo luận để biểu quyết’’.[*179: Nguyễn Bá Cẩn: Sách đã dẫn, trang 442-443]
 
Sau đó, vào lúc 8 giờ 45 tối, Thượng Nghị Sĩ Trần Văn Lắm đọc câu hỏi sau đây trước Lưỡng Viện Quốc Hội “Ai đồng ý là Tổng Thống Trần Văn Hương nên trao quyền cho ông Minh để ông ta có thể tìm kiếm một con đường vãn hồi hòa bình cho Việt Nam ?’’ 136 trong tổng số 138 Dân Biểu và Nghị Sĩ bỏ phiếu thuận, hai người không bỏ phiếu là Thượng Nghị Sĩ Trần Văn Lắm, Chủ Tịch Thượng Viện và Dân Biểu Phạm Văn Út, Chủ Tịch Hạ Viện vì theo nội quy của Thượng và Hạ Viện thì vị Chủ Tịch chỉ bỏ phiếu khi nào không đủ đa số mà thôi.
 
Như vậy, chỉ 24 tiếng đồng hồ sau quyết nghị ngày 26.4, Quốc Hội đã thông qua một quyết nghị mới minh định việc cả hai Viện Lập Pháp chấp thuận việc Tổng Thống Trần Văn Hương trao quyền lại cho ông Dương Văn Minh và có như vậy thì việc Cụ Trần Văn Hương trao quyền mới có vẻ như là có tính cách hợp hiến và hợp pháp và đó là điều mà Cụ trông đợi. Ông Trần Văn Đôn kể lại rằng tối hôm đó ông đến nhà Cụ Hương để thông báo việc xảy ra ở Quốc Hội thì Cụ nhờ ông Đôn nói lại với ông Dương Văn Minh là Cụ sẵn sàng trao quyền bất cứ lúc nào.
 
Khi ông Đôn ra về, Cụ Hương nói với ông Đôn rằng: “họ muốn có ông Minh thì có ông Minh!’’. Theo ông Đôn thì sau đó ông Nguyễn Xuân Oánh và ông đến Tòa Đại Sứ Pháp và Mỹ thông báo việc Quốc Hội đã chấp thuận việc trao quyền cho ông Dương Văn Minh rồi cả hai người ghé đến nhà ông Minh. Ông Đôn nói với ông Minh là Cụ Hương sẵn sàng trao quyền bất cứ lúc nào thì ông Minh nói rằng ông ta sẽ nhậm chức vào lúc 5 giờ chiều ngày hôm sau, Thứ Hai 28 tháng 4 năm 1975. (Đại Úy Nguyễn Văn Nhựt, cựu Tùy Viên của Tổng Thống Trần Văn Hương quả quyết với người viết rằng tối 27 tháng 4 cũng như tối hôm sau 28 tháng 4, Cụ Hương không hề tiếp ông Đôn tại Phủ Phó Tổng Thống trên đường Hiền Vương).
 
Sau khi Dương Văn Minh đã chính thức được Quốc Hội chấp thuận giao quyền Tổng Thống, khuya hôm đó.
Theo Frank Snepp, Đại Sứ Hoa Kỳ Martin mới chỉ thị cho Polgar, trùm CIA Sài Gòn, đi đón những nhân vật thân cận và trung thành với ông Thiệu đưa lên Phi Trường Tân Sơn Nhất rồi họ được một chuyến bay đặc biệt đưa sang Căn Cứ Không Quân Clark tại Phi Luật Tân. Trong số những hành khách trên chuyến bay đặc biệt này có cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn, cựu Tổng Trưởng Hoàng Đức Nhã và cựu Thiếu Tướng Tư lệnh Cảnh Sát Nguyễn Khắc Bình. Frank Snepp cho biết rằng Đại Sứ Graham Martin đã ra lệnh không cho một viên chức cao cấp nào trong chính phủ được ra đi cho đến khi nào Đại Tướng Dương văn Minh được chính thức giao quyền Tổng Thống. [*180: Frank Snepp: Sách đã dẫn, trang 448]
 
Cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn nói với người viết rằng ông ra đi vào tối 27 tháng 4 vì ông không muốn làm cái việc bàn giao chức vụ Thủ Tướng cho Vũ Văn Mẫu. Trong cuốn Hồi Ký sau này, ông Nguyễn Bá Cẩn cũng xác nhận rằng ông được Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ đưa lên Phi Trường Tân Sơn Nhất vào rạng sáng ngày 28 tháng 4 và được đưa qua Căn Cứ Clark Field của Hoa Kỳ tại Phi Luật Tân trên một chiếc phi cơ vận tải C-13O cùng với Bác Sĩ Phan Quang Đán và ông Hoàng Đức Nhã.
 
Nhân Vật Trần Văn Đôn
Trong khi tại Sài Gòn, hai Viện Quốc Hội đã thông qua quyết nghị cho phép Tổng Thống Trần Văn Hương “trao quyền’’ cho ông cựu Đại Tướng Dương Văn Minh để “điều đình’’ với cộng sản thì tại Hà Nội, Võ Nguyên Giáp đã nhân danh Quân Ủy Trung Ương gửi một chỉ thị mang số 113/QUTW ngày 27 tháng 4 năm 1975 cho các đơn vị cộng sản tại Miền Nam về “nhiệm vụ của các đơn vị quân đội quản lý Thành Phố Sài Gòn-Gia Định’’. Chỉ thị này dài tất cả là 10 trang giấy nói về việc “quản lý tốt’’, nắm vững đặc điểm của Sài Gòn-Gia Định và công tác cụ thể trong việc quản lý. Võ Nguyên Giáp ra lệnh rằng chỉ thị này phải được “quán triệt đầy đủ đến tận chi bộ và trung đội, tiểu đội và được chấp hành nghiêm túc’’. Trong bản chỉ thị này, không hề có câu nào nhắc đến việc có thể thương lượng với Dương Văn Minh.
 
Trong cuốn “Việt Nam nhân chứng’’, tác giả Trần Văn Đôn cho biết thân phụ của ông là công dân Pháp và ông ra đời tại Bordeaux vào năm 1917, rồi theo cha trở về Việt Nam. Đến năm 1927, ông lại được cha cho sang Pháp “du học’’ lúc mới 10 tuổi. Sau hai năm, ông về thăm nhà và không muốn trở lại Pháp nên học ở Sài Gòn cùng lớp với Dương Văn Minh. Sau khi đậu Tú Tài, vào năm 1939 sang Pháp học về Cao Đẳng Thương Mại (Hautes Études Commerciales) nhưng khi Đệ Nhị Thế Chiến bùng nổ vào năm đó thì bị động viên vào quân đội với cấp bậc Binh Nhì.
 
Sang năm 1940 được vào học Trường Sĩ Quan Trừ Bị St. Maixent nhưng giữa chừng thì phải ra trận rồi bị Đức Quốc Xã bắt.
 
Năm 1940 lại theo cha là Trung Úy Y Sĩ Trần Văn Đôn về Việt Nam và phục vụ trong quân đội Pháp. Năm 1944 ông được người Pháp gởi đi học sĩ quan tại Trường Đồi Thông, được người Pháp đọc là “Trường Tông” ở Phú Thọ và trở thành Sĩ Quan trong Quân Đội Pháp. Năm 1947 được làm Sĩ Quan Tùy Viên cho Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân rồi đến năm 1950 được sang Pháp theo học Trường Cao Đẳng Quốc Phòng trong 1 năm, về nước năm 1951 và được cử phụ trách Nha An Ninh Quân Đội. Đến năm 1954 được cử kiêm nhiệm thêm chức Tham Mưu Trưởng thay cho Đại Tá Trần Văn Minh và ở lại chức này cho đến năm 1957. Năm 1955, Trần Văn Đôn từ bỏ quốc tịch Pháp, đốt cấp hiệu Đại Tá của Pháp và được Thủ Tướng Ngô Đình Diệm thăng lên Thiếu Tướng, sau đó được cử làm Tư Lệnh Quân Đoàn I rồi Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa khi Đại Tướng Lê Văn Tỵ bị bệnh. Ông là một trong những người tổ chức và lãnh đạo cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm l963 giết chết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu nhưng đến ngày 30 tháng 1 năm 1964 thì bị Tướng Nguyễn Khánh chỉnh lý và sau đó bị cho giải ngũ. Năm 1967 ông ứng cử vào Thượng Nghị Viện, năm 1971 ứng cử vào Hạ Nghị Viện và vào năm 1975 thì giữ chức Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng.
 
Trong cuốn “Viêtnam, Qu’as Tu Fait De Tes Fils’’, tác giả Pierre Darcourt có viết về Trần Văn Đôn như sau:
“Trần Văn Đôn có giáng dấp của một tướng làm chính trị hơn là chỉ huy. Quen với các trò âm mưu trong hậu trường và với các trò xin xỏ trong chính phủ, sự nghiệp và thăng thưởng của hắn nhờ ở sự bợ đỡ hơn là thành tích. Trung Úy Trần Văn Đôn bắt đầu leo lên hoạt động chính trị từ năm 1946 lẻo đẻo theo xách cặp cho Tướng Nguyễn Văn Xuân, sau đó theo Trần Văn Hữu rồi đến Ngô Đình Diệm. Năm 1956 nhiều bạn người Pháp và bạn trong Quân Đội đã khinh miệt hắn vì để làm đẹp lòng Tổng Thống Ngô Đình Diệm, hắn đã chủ tọa một buổi lễ đốt các tàn tích của thời thực dân Pháp thống trị và Đôn đã liệng cặp lon Đại Tá cùng với các huy chương mà quan thầy Pháp ban cho vào lửa. Chú ruột của Trần Văn Đôn giận quá và đã tặng hắn hai cái bạt tai nẫy lửa.
 
(Ghi chú của người viết. Đại Tá Trần Văn Đôn cùng với một số sĩ quan cao cấp hồi đó đã từ bỏ quốc tịch Pháp và làm lễ đốt lon của Pháp để lấy điểm với chính quyền Ngô Đình Diệm và ông Diệm đã thăng cấp cho Trần Văn Đôn lên Thiếu Tướng, chỉ có Đại Tá Lê Văn Kim, em rể của Trần Văn Đôn, và Đại Tá Trần Văn Hổ không chịu bỏ quốc tịch Pháp để được lên Tướng cho nên không được lòng ông Ngô Đình Diệm. Trong cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963 Trung Tướng Lê Văn Kim được xem là đầu não, là linh hồn trong nhóm bộ ba Dương Văn Minh-Trần Văn Đôn- Lê Văn Kim và sau khi ông Diệm và ông Nhu bị giết, Tướng Lê Văn Kim được chỉ định làm Ủy Viên Chính Trị của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, một chức vụ tương đương với chức vụ Cố Vấn Chính Trị tại Phủ Tổng Thống mà ông Ngô Đình Nhu nắm giữ trong suốt 9 năm ông Diệm nắm chính quyền.)
 
Sau này, tuy ông Diệm ban cho hắn danh vọng và cho hắn làm Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội, hắn vẫn tham dự dự vào việc hạ bệ ông Diệm. Là bạn của Tướng Dương Văn Minh, Đôn bỏ Minh để theo Kỳ. Nhờ Kỳ để ứng cử rồi lại bỏ Kỳ để theo Thiệu. Làm trò ma-nớp để Thiệu sửa Hiến Pháp cho phép Thiệu ứng cử lần thứ ba, Thiệu thưởng công bằng cách cho hắn giữ ghế Phó Thủ Tướng.
 
Trần Văn Đôn lo xa nên hay đi ngoại quốc, nhất là những nước có liên lạc thân hữu với Pháp. Tại Paris, hắn đã tìm gặp các quan thầy cũ để tỏ lòng hối hận vì đã giám đốt lon và huy chương của Pháp. Sau năm 1975, Trần Văn Đôn đã nhờ Tướng Loisillon của Quân Đội Pháp vận động xin với chính phủ Pháp cho hắn lãnh tiền hưu trí vì đã phục vụ nước Pháp trong 16 năm trời (1940-1956) và hắn đã lãnh được số tiền là 130.000 quan (khoảng 32.000 đô-la). Đồng thời, Trần Văn Đôn cũng đã nhờ Jean Sainteny (cựu Cao Ủy Pháp tại Bắc Việt và là người rất thân với Hồ Chí Minh) môi giới để hắn móc nối với những kẻ có liên lạc với Việt cộng và Hà Nội.
 
Trần Văn Đôn nổi tiếng là người có tài thông gian với nhiều phụ nữ Việt Nam có chồng nhưng mà vẫn giữ được liên lạc tốt với những người bị cắm sừng và giữ được liên lạc với vợ của hắn’’. [*181: Pierre Darcourt: “Vietnam, Qu’as Tu Fait de Tes Fils’’ bản dịch của Phạm Kim Vinh trong Saigon, Người Việt, PO Box 486, Westminster, CA 92683, 1979, tr. 109-110).]
 
Ông Trần Văn Đính nói rằng trong thời gian Cụ Trần Văn Hương làm Thủ Tướng cũng như là Phó Tổng Thống, có nhiều người đã yêu cầu Cụ đưa ông Đôn lên giữ một vài chức vụ quan trọng nhưng Cụ nhất mực từ chối, Cụ cho rằng ông Đôn chỉ là một người “opportunist’’ (cơ hội chủ nghĩa, gió chiều nào theo chiều đó), đời sống riêng tư “thiếu đạo đức’’, không xứng đáng để giữ một chức vụ nào trong guồng máy lãnh đạo Quốc Gia. [*182: Phỏng vấn ông Trần Văn Đính, thứ nam của Cụ Trần Văn Hương tại California 2002].
 
Người viết có hỏi cựu Đại Úy Nguyễn Văn Nhựt Sĩ Quan Tùy Viên của Cụ Trần Văn Hương cho đến ngày cuối cùng, về tin đồn nói rằng vào cuối tháng 4 năm 1975, Cụ Hương dự định mời ông Trần Văn Đôn làm Thủ Tướng thì ông Nhựt trả lời rằng “tôi ở bên cạnh Cụ gần như là suốt ngày đêm trong thời gian đó và tôi không hề nghe Cụ nói với ai về việc mời ông Đôn làm Thủ Tướng. Riêng về ông Đôn thì Cụ có nói như vầy: “Cái ông đó thì tôi không bao giờ mời làm một chức vụ gì cả”.
 
Để có thể hiểu thêm về nhân vật này, có một câu chuyện được chính ông Trần Văn Đôn kể lại cho bạn bè của ông và trong giới chính trị cũng như các vị Tướng lãnh có nhiều người biết chuyện này. Người kể lại câu chuyện này với người viết là một nhân vật có nhiều liên hệ với ông Đôn từ Sài Gòn cũng như sau năm 1975. Theo lời ông Đôn kể lại thì vào khoảng thập niên 1980, ông Đôn bị một chứng bệnh gì đó và được vào điều trị trong Bệnh Viện Val De Grace, tức là Quân Y Viện lớn nhất của Quân Đội Pháp ở gần Paris và ông đã kết thân với một vị Bác Sĩ Quân Y người Pháp phục vụ tại bệnh viện này. Ông Đôn vốn là công dân Pháp trước năm 1955, là cựu sĩ quan trong Quân Đội Pháp cho nên đã được hưởng quyền lợi đặc biệt này.
 
Trong thời gian dưỡng bệnh ở đây, ông Đôn hàng ngày đi dạo và thường gặp một người Việt Nam khá lớn tuổi cũng đi dạo trong sân bệnh viện với người theo hầu và mỗi lần gặp thì bao giờ ông Đôn cũng cúi đầu chào. Nhiều lần như vậy thì người bệnh nhân lớn tuổi đó cũng chào đáp lễ và có lần ông ta dừng lại chuyện trò thăm hỏi với ông Đôn. Người đó nghe giọng nói của ông Đôn thì biết là người Miền Nam, ông ta hỏi tên tuổi và sau khi ông Đôn tự giới thiệu thì ông già đó nói “à, cái tên đó thì tôi cũng có nghe’’.
Ông già đó là Lê Đức Thọ, lúc đó đang được chính phủ Pháp cho sang chữa bệnh tại Paris.
 
Những lần sau, Lê Đức Thọ gặp ông Đôn cùng đi với vị Bác Sĩ người Pháp thì cũng chuyện trò vui vẻ và có lần ông ta nói với ông Đôn là nên về thăm quê hương vì “đất nước đang cần bàn tay xây dựng của Việt kiều’’. Vị Bác Sĩ người Pháp, cũng là Y Sĩ điều trị cho Lê Đức Thọ, nói với Lê Đức Thọ rằng cả hai người muốn cùng đi chung sang thăm Việt Nam một chuyến thì ông Thọ hứa là sẽ ra lệnh cho Sứ Quán lo thủ tục cấp chiếu khán khẩn cấp cho hai người. Vài ngày sau, có nhân viên của Sứ Quán cộng sản đến bệnh viện và đưa chiếu khán nhập cảnh Việt Nam vô hạn định cho vị Bác Sĩ người Pháp, ông Đôn bèn hỏi về trường hợp của ông. Tên nhân viên Sứ Quán hỏi tên ông Đôn và sau khi được ông Đôn cho biết tên thì y trả lời bằng một giọng lạnh lùng “trường hợp của anh thì phải theo thủ tục thông thường’’.
 
Nhận định về phúc trình của Trần Văn Đôn tại Lưỡng Viện Quốc Hội ngày 27 tháng 4 năm 1975, Jean Lartéguy đã viết trong L’Adieu à Saigon rằng “Tướng Đôn thì chẳng có gì để mất mát nhiều. Sinh tại Tỉnh Bordeaux, ông là dân Tây. Và mặc dù ông ta đã đốt giấy thông hành và đốt cặp lon Đại Tá của Quân Đội Pháp để làm đẹp lòng ông Ngô Đình Diệm và bà Nhu, nhưng ông ta biết là không thể mất cái quốc tịch Pháp. Những trò hề!’’ [*183: Jean Lartéguy: L’Adieu À Saigon, bản dịch Saigon, trang 17.]
 
Pierre Darcourt cho biết về phản ứng của một số dân cử về báo cáo của ông Đôn:
“Trần Văn Đôn đã dệt ra một bức tranh vô cùng bi thảm. Chỉ vài ngày, có thể chỉ vài giờ nữa, Sài Gòn có thể bị đại bác 130 ly của cộng sản tàn phá. Vậy phải thương thuyết ngay để có ngừng bắn càng sớm càng tốt’’. Darcourt nói thêm rằng: “ngày sau đó, các Dân Biểu Nghị Sĩ trẻ đã thốt ra những lời giận dữ và khinh bỉ: “Đồ bán nước! Quân đầu hàng! Tướng phòng ngủ!’’ Darcourt cho biết là Bác Sĩ Thức, Trưởng khối Cộng Hòa đã tiến về phía Đôn và hét lên nhiều lần: “đồ phản quốc! Phản quốc! Mầy chỉ là một tên phản quốc! Mày đáng bị xử bắn!’’. [*184: Pierre Darcourt: Sách đã dẫn, bản dịch “Saigon’’, trang 113]
 
Các Vị Nghị Sĩ cùng Dân Biểu trong hai Viện Quốc Hội lúc đó đều không biết rằng ông Trần Văn Đôn không còn đủ tư cách để làm việc thuyết trình này vì ông Đôn lúc đó không còn là công dân Việt Nam nữa, ông ta đã lấy lại quốc tịch Pháp, đã lấy thông hành của nước Pháp vào buổi trưa ngày hôm đó và thực ra thì dù ông ta đã phục vụ với tư cách là Tướng lãnh, là Nghị Sĩ, là Dân Biểu, là Phó Thủ Tướng v.v…của Việt Nam Cộng Hòa trong hơn 3 thập niên nhưng ông ta không hề mất quốc tịch Pháp vì thân phụ của ông ta là một người công dân Pháp và ông ta đã sinh trưởng tại Pháp.
 
Pierre Darcourt tiết lộ rằng: “Trước đó vài giờ, giữ cho trọn nghĩa bầy tôi với nước Pháp, Đôn đã tới từ biệt Đại Sứ Pháp Mérillon và để lãnh giấy thông hành quốc tịch Pháp’’
 
Theo Jean Lartéguy trong L’Adieu À Saigon, khi ông ta đến dùng cơm trưa với Đại Sứ Mérillon thì ông Đại Sứ thò đầu qua cửa sổ nói với ông rằng “xin lỗi, chờ tôi một lát vì tôi đang tiếp một thân hữu. Ông ấy đến từ biệt tôi’’. Jean Lartéguy nói rằng “Đó là Trần Văn Đôn. Ngày hôm qua (26.4.75), ông ta còn là Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng và đã có lúc nghĩ tới việc nắm lấy ghế Thủ Tướng, nếu không nắm được cái ghế Quốc Trưởng. Hôm trước, Đôn hoạt động mạnh để đẩy Hương khỏi cái ghế Tổng Thống vì Đôn dệt ra một tình hình quân sự bi thảm dưới sự thật.
 
 Trong những ngày gần đây, Đôn là bầy tôi trung thành của chính sách Pháp. Người ta bảo tôi rằng nhiều tháng trước đây, Đôn được Tòa Đại Sứ Pháp nghe theo về rất nhiều điều. Tướng Đôn bảnh trai, xuất sắc, nhẹ nhàng đã tới Tòa Đại Sứ Pháp để lấy sổ thông hành (passport) của nước Pháp. Phải chăng ông ta sanh tại Tỉnh Bordeaux ? [*185: Jean Lartéguy: Sách đã dẫn, bản dịch “Saigon’’, trang 31]
 
Như vậy thì vào ngày 27 tháng 4 năm 1975, cựu Trung Tướng Trần Văn Đôn đã có thông hành của Pháp, điều đó có nghĩa là ông ta đã hồi tịch trước đó hoặc là ông ta không hề mất cái quốc tịch Pháp “thổ sinh’’ như Jean Lartéguy đã nói và một công dân nước Pháp như ông ta tại sao lại được mời ra thuyết trình về An Ninh Quốc Phòng tại Lưỡng Viện Quốc Hội của nước Việt Nam Cộng Hòa ?
 
(Trích “Việt Nam Cộng Hòa Mười Ngày Cuối Cùng” – Tác giả Trần Đông Phong)
Sách phát hành tại Hoa Kỳ năm 2006.
---------------
Lê Bảo Ngọc
Thà để Mỹ "xâm lược" đi
Một người nuôi được cả mười miệng ăn
Bốn tám năm qua nhọc nhắn
Làm hoài chẳng đủ đói nhăn răng buồn...
Nằm đây nghĩ chán lắm luôn
Nó người Miền Bắc cũng buồn héo hon ...
 
* Dược Ánh
Chính vì tự lực Tự cường bằng bàn tay đôi chân khối óc cha ông ta. Mà phải chịu chết tức tưởi. Cháu con phải biết nhớ cho
 
--------------
 
Ma Vy Phuong
48 năm về trước
Con Kiều .. pelosi
Con Kỳ ...
2 con di tản an toàn tới mẽo
Cha anh chúng tôi lăn mình trong lửa đạn để chặn đường tấn công của VC giờ lâm tử
Cuối cùng 2 con Kờ ...quay về kêu gọi Hòa hợp với VC
Đĩ bốn phương còn có sĩ diện hơn đám này
* Nguyễn Ngọc Hiền
Chính hắn là tên hèn nhất!
* Dao Huynh
Thêm tê trưởng tư lệnh quân đoàn 1 nữa cũng hùng hồn tuyên bố y chang kỳ
* Hai Dang
"Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ"- Ông ấy giờ cũng đã an nghỉ rồi ! Dưới đó, thế nào ổng cũng gặp những người lính nghe theo ổng mà...tử thủ rồi bỏ mạng....
* Dao Huynh
Hai Dang lỗi thầy dạy dỗ chúng ko đến nơi đến chốn
* Hai Dang
Dao Huynh Nhưng nghĩ cũng ...may. Nếu ổng tử thủ e cuối cùng thêm nhiều mạng ...đi bán muối
* Dao Huynh
Hai Dang do ngay từ đầu thầy dạy ko dứt khoát là … thôi ko nói nữa hihiii
* Vo Thoi
Dao Huynh Ông Trưởng bị Mỹ đạo diễn từ bộ tổng tham bắt họp ngoài biển, rồi bị khống chế ra hạm đội. Mỹ thả miền Nam , nên Mỹ muốn miền Nam phải thua!
* Dao Huynh
Thắng thua chi mà luận bàn ?
Tây, Tàu, Nga, Mỹ…ngồi dàn xếp thôi
Qua gần nửa thế kỷ rồi
Mãi mê u muội nhét nhồi thắng thua ?
HD, 01/5/2023
* Steven Dang
Cho nên họ gọi tay này là thằng .! Là đúng !
* Dao Huynh
Steven Dang lỗi thầy dạy chúng kém quá
Kiểm điểm ngay nhé
* Steven Dang
Tay này quay về Việt Nam là bị hàng ngũ dưới tay ông xem ông là chẳng ra Sao rồi .!
* Dao Huynh
Steven Dang nó 2 mang ?
* Steven Dang
Không phải thế nhưng tay này thuộc loại làm nổi và xôi thịt bị CS nâng bi..!
* Nguyễn Ngọc Hiền
Dao Huynh tay này chẳng có mang mẹ nào cả. Hắn là tay du côn gặp thời!
* Dao Huynh
Nguyễn Ngọc Hiền dạ trước 75 em cũng nghe lão này du côn ghê lắm
* Nguyễn Nam Hải
Có những kẻ tiến lên bằng tội lỗi, và có những kẻ ngã xuống bởi đức hạnh.
* Dao Huynh
Nguyễn Nam Hải do ngu hèn rước voi…
* Hai Dang
Đọc bài thơ này chưa : RƯỢU CỦA NGUYỄN CAO KỲ
BV
Vị Thiếu tướng Công an cầm chai rượu ra bàn
- "Ông Nguyễn Cao Kỳ mới về gửi tặng".
Mọi người đang vui, gật gù bảo "Uống"
Nhưng một người bảo
-"Không!".
Vì sao không? Rượu cứ ngon là rượu!
Whisky Mỹ hay vodka Nga, giờ có mặc cảm gì,
Chiến tranh lạnh qua rồi, ba mươi năm sau chống Mỹ
Đây là chén rượu thăm quê của
tướng Nguyễn Cao Kỳ!
Nhưng vẫn có một người không chịu uống!
Vì sao không? Chẳng cố chấp quá ư?
Cậu là lính phòng không, chúng tớ đều
cựu chiến binh cả chứ!
Cũng bom đạn, cũng Trường Sơn, cũng vào sinh ra tử,
Sống đến hôm nay, đâu phải để hận thù!
Có phải tự đáy lòng không vượt qua mặc cảm?
Không vượt qua nỗi buồn của cuộc chiến tranh xưa?
Không vượt qua chính mình, không vượt qua quá khứ,
Vết thương cũ còn đau khi gió chuyển sang mùa...
Đám đông ồn ào của chúng tôi cứ uống
Anh bạn chỉ ngồi im, cũng chẳng nói thêm gì...
Và bữa rượu, bỗng dưng thành đắng đót
Chẳng phải tại vì ai, kể cả Nguyễn Cao Kỳ!
2007
* Ho Thuy
Toàn là thằng hèn , bày đặt cầm cờ ba sọc
mồm thì oan oác , muốn chóng ngon thì về đây
*
Dao Huynh
Ho Thuy đồng hương
Ngẫm sự đời
* Khang Tran
Cái công của Nguyễn Cao Kỳ trong thời Việt Nam Cọng Hòa là dẹp được vụ Phật giáo miền Trung nổi loạn, nhưng sau Mậu thân quyền lực về tay Tt Nguyễn Văn Thiệu, ông ta với chức vụ phó Tt đở đầu cho bọn việt cọng trá hình khuynh tả Huỳnh Tấn Mẩm và đồng bọn quậy phá ở miền Nam . Năm 1975 trước 30.4.75 tuyên bố rùm ben rồi chạy qua Mỹ, rồi quây đầu không biết nhục về bưng bô cho việt cọng và cuối cùng gần chết cũng bị đuổi khỏi Việt Nam qua chết ở Mã lai rồi tro cốt cũng đem về Mỹ. Một bài học cho những kẻ tai to mặt lớn vô liêm sỉ một thời hét ra lửa đã trở về bưng bô cho kẻ thù 
* Sinh Hoang
Rút cuộc cũng không khỏi tay thằng mỹ. ?
 
--------------

Ái Quốc
NHỮNG KẺ TRỞ CỜ.
Tình cờ nhìn được bức ảnh này, nhớ lại cái bọn"TRỞ CỜ" năm 75.
 
Đó là cái bọn sống ở miền Nam, bỗng nhiên nhếch nháo hùa theo CSMB hãm hại người dân miền Nam Việt Nam.
 
Họ thấy Việt cộng chiếm miền nam Việt Nam thì a dua, xung phong đứng vào hàng để được một chút lợi danh nhỏ nhoi gì đó.
 
Cái bọn nầy đều có đặt điểm giống nhau là tươm tất, sạch sẽ, có chút chữ nghĩa, hoặc tương đối khấm khá tài chánh.
 
Khi đã thành tên "TRỞ CỜ" thì chúng bỗng nhiên nhiệt tình, cố hoá thân để nhập vai với Việt cộng thắng trận, dùng từ lạ lẫm... Chúng hăng hái xung phong các phong trào trời ơi đất hởi trong địa phương mà trước kia miền Nam chưa bao giờ có như:
Họp tổ dân phố, mua hàng hợp tác xã, bài trừ văn hóa đồi trụy, đánh tư bản mại sản, kinh tế mới, lao động XHCN và chỉ điểm bắt tù cải tạo.
 
Đáng khinh nhất là khi bọn "TRỞ CỜ" ngoảnh mặt hoàn toàn, làm như xa lạ, không quen biết với những ai có liên quan với chế độ cũ, cho dù trước đó một ngày của tháng Tư, người bị ngoảnh mặt và mấy tên nầy đã vô cùng thân thiết.
 
Việt cộng rất khinh tởm cái bọn nầy, vì biết rõ chúng là bọn trở cờ, không bao giờ trung thành, chỉ hèn hạ và vô dụng với xã hội.
 
Việt cộng cần họ để xử dụng giai đoạn đầu sai chuyện vặt, chỉ điểm rồi sau đó cho ra rìa như vắt chanh bỏ vỏ vậy.
 
Qua 45 năm nhìn lại, những tên "TRỞ CỜ" năm xưa bây giờ đã ra thế nào rồi.?
 
Nếu còn ở Việt Nam thì lụn bại, vết thương cũ bọn nầy đã gây ra người dân vẫn nhớ nên xa lánh.
 
Nếu ra được nước ngoài thì họ tự thấy xấu hổ, mai danh ẩn tích, chạy trốn quá khứ.
 
Không muốn người quen vạch mặt hay nhớ đến chuyện bị hãm hại mà trả thù bọn chúng.
 
Là người đã từng sống tại miền Nam giai đoạn 30 tháng tư, chắc chắn bạn đã phải là nạn nhân phi lý và chắc chắn bạn vẫn còn nhớ như in những tên "TRỞ CỜ" khuyển mã nào đó đã từng hung hăng, cướp đoạt tài sản và tàn ác với đồng bào miền Nam lúc bấy giờ.
Của:Người An Hữu.
- KEN DANG.
* Hu Vo
Căm thù cái bọn 30 lấy điểm lập công nhưng chỉ một thời gian sau bị đá ra hết, đáng cái đời!
--------------
 
Mass Tran
Lễ Cướp Đồ 30/4
 
30 tháng bốn, cướp đồ
Vào Nam “phỏng dái”, chôm đồ cướp đi
Miền Bắc chẳng có đếch gì
Vào Nam giải phóng, thứ gì cũng chôm
Đạp-đài-đồng, ... nồi,... chảo nhôm
Búp bê, tủ lạnh: Chôm ra Bắc phần
Xe đạp, xe máy, Honda
Dù chẳng biết lái, dắt ra lòng vòng
Ra-dzô, mở hết cỡ vao (Volume = vaolum)
Vải bọc nhiều lớp, đeo vào ngang lưng
Bây giờ phét lác, sạo ke
Giựt nhà, cướp đất chẳng ke ông Trời
ATKH
 
--------------
 
Nam Việt Nam
 Buổi chiều ngày 30-4-1975, tại ngã tư Phan Thanh Giản và Trần Quốc Thảo. Hai tên Việt cộng mới chôm được chiếc xe máy nhưng không biết sang số. Xe cứ chồm lên rồi tắt máy cứ loay hoay mãi. Mọi người đứng nhìn chỉ chỏ lung tung. Thằng ngồi sau móc súng ngắn nên cũng ngán không dám tới gần.
 
 
Son H Cao
Chúng nó ngơ ngác giữa Sài Gòn.
- Sài Gòn đẹp nhỉ!
- Miền Lam nhiều ô-tô nhỉ!
- Nhà cao thế kia mà sao nó không đổ xuống nhỉ!
- Gái trong Lam sao đẹp thế nhỉ?
- Khói xe trong Lam thơm nhỉ!
- Phụ nữ trong Lam cũng được mặc quần tây, đẹp nhỉ!
- Trẻ con trong Lam béo khoẻ nhỉ!
 
 
*
Gongvanle Le
Tiếc nuối một thời đau lắm
* Benjamin Nguyen
Tội nghiệp.
* Ai Pham
Không thấy TV, tũ lạnh chạy đầy đường như ngoài Bắc.
* Tai Huynh
Sao không nghe nói cà rem phơi khô như ở miền bắc….
* Dũng Trương
Gái miền Nam đít có gân
* Trí Đặng
Dũng Trương , nguyên văn câu này: con gái trong làm cái đít có gân..
* Đổ Nga
Thật tội nghiệp cho bọn cướp trường sơn choáng ngộp vì sự văn minh của loài nguòi.
* Thao Phan Cong
trách chi ta cũng nạn nhân thôi.đáng trách là người lảnh đạo ko có tầm nhìn xa trông rộng thôi
* Thieng Phong
Mấy cô gái trong lam đít cô nào cũng nổi gân
* Tan Nguyen
Nhìn những hình ảnh nầy, lam cho Tan Nguyen quá ghét loài dốt nát hôi tanh nầy... 29/04/75 LÀ NGÀY CHÚNG TôI ĐỨNG TRÊN BONG TÀU OKINAWA, NHÌN VỀ QUÊ HƯƠNG mà thật là buồn, nhiều máy bay trực thăng, đáp xuống chiến hạm, buông thân nhân, bạn bè, rồi bay ra biển, liệng trực thăng ra khơii, va ̀i phi công đã bị cánh mạy bay làm nát thân người rơi luôn xuống biển, thật là đau thương, làm cho lòng tôi đau điếng và khóc.. không bao giờ có thâm quên được,và xóa vết đau trong lòng...
 ------------
 
 
CẮT MẠNG 30
------------- 
Khiet Nguyen
Ngày trời sập, 1975.
Thẩm Thuý Hằng tươi rói cùng đồng bọn kéo ra "mừng chiến thắng" với bọn chúng. 

Vinh Vũ
"Cách mạng ba mươi "
Khi TT. Dương Văn Minh kêu gọi QLVNCH buông súng , lập tức có những thanh niên đeo băng đỏ trên cánh tay cầm loa kêu gọi dân chúng ra chào đón " cách mạng ".
Đây là những thanh niên trẻ đã trở thành những kẻ trở cờ , ăn theo bọn nằm vùng . Chúng có mặt khắp thành phố , ngõ hẻm đến thôn quê , đâu đâu cũng thấy chúng . 
 
Mới đầu chúng tôi gọi là bọn đeo băng đỏ , xem chúng như những người giữ gìn trật tự trong chế độ mới vậy . Nhưng chỉ thoáng chốc thôi bọn chúng đã thay đổi bộ mặt , và trở thành những hung thần thời đại mới !
Được trang bị súng cá nhân của chế độ cũ để lại , chúng trở nên quan trọng , làm tất cả những việc như thông tin tuyên truyền hô hào kêu gọi " mít tinh "... đặc biệt là an ninh theo dõi báo cáo , bắt bớ chính người mình ... Thái độ rất hung hãn . Chúng được sử dụng vào mục đích này là vì ở cùng thôn xóm nên biết rõ từng nhà , còn lực lượng an ninh mới chưa nắm vững được tình hình .
 
Vai trò của chúng cũng tựa như Hồng vệ binh thời Cách mạng văn hóa vậy .
 
Một người bạn Bắc 54 đã kể lại rằng , anh từng là lính thám báo của sư đoàn 7 , sau biệt phái qua miền Đông . Những ngày tàn chiến cuộc anh chạy về Mỹ Tho . Ngay trong đêm 30/4 , một bọn đeo băng đỏ đã vô nhà anh trói tay và giải ra gò mã đạo cùng một số người khác . Khi chuẩn bị xử bắn bỗng có một nhóm bộ đội đi ngang qua , một giọng Bắc vang lên : " Đã hòa bình rồi còn chống đối làm gì vậy ?", anh choàng tỉnh dậy :"Em đâu có chống đối , em chỉ là sinh viên học sinh thôi " Và mấy anh bộ đội này đã cứu mạng ! Ít lâu sau anh chỉ được mời đi cải tạo có một năm rưỡi thôi .
 
Một nhân chứng xem vụ xử Đại tá Hồ Ngọc Cẩn ở Cần Thơ đã phải thốt lên : " thời gian đó chỉ có tụi " Cách mạng 30 " tung hoành khắp miền Nam chứ không có một tên bộ đội hay công an miền Bắc nào hành xử tàn bạo như vậy, nên mới có câu :
Công an bộ đội còn tha
Ba mươi giết hết lột da ... chặt đầu !
 
Những người cỡ 60 tuổi trở lên bây giờ họ vẫn còn nhớ, không quên đâu ."
VNV 26/4/2022

 

 Tại sao không đưa bọn này ra chiến trường để chiến đấu?
Khiet Nguyen
Ngày 30 tháng Tư 1975, lũ này dưới hang dưới cống chui lên. Chúng nó không có áo mà mặc, nên phải ăn cướp của dân lành
 
Biệt động thành Sài Gòn (mặc quần sà lỏn, không mặc áo)?
* Em Gái Hậu Phương
Lũ đầu trộm đuôi cướp.
* Loc Tran
Tụi 30, băng vệ sinh đỏ.
* Brian Vu-Khanh Nguyen
Thổ phỉ gặp nhau nên chúng tưởng cùng phe đó mà
 
* Cuong Bui
Sự thật mà đa số các bạn trẻ không biết về tấm hình này. Thực ra năm 1975 tôi cũng cỡ tuổi mấy thanh niên trong hình nên tôi hiểu rõ mấy thằng này .Thực chất chỉ là những thanh niên du côn,lêu lổng,phá làng phá xóm ...nên ngày 30/4/1975 tụi này lượm được súng trên những con đường mà quân nhân VNCH sau khi nghe tên Dương văn Minh đầu hàng , họ đã bỏ lại rất nhiều súng bên lề những con đường nhất là từ Bẩy Hiền xuống phi trường Tân Sơn Nhứt , từ Ngã Tư Bẩy Hiền xuống Lê Văn Duyệt ( nay đổi là Cách mạng Tháng Tám ) ngang qua khu Ông Tạ.....không những súng cá nhân như M16 ....mà còn có cả M72 chống tăng đã lên đạn sẵn (nòng đã kéo ra rồi chỉ cần bóp cò là nhả đạn).
Tui này chỉ bố láo được vài ngày ....sau đó cũng bị dẹp hêt.

Dân Sài Gòn khinh bỉ lũ trở cờ ....vì những đứa này thuộc thành phần bất hảo.Vì thế chính phủ VNCH đã ban bố lệnh bắn bỏ những thành phần này nếu chúng lợi dụng tình thế Sài Gòn hỗn loạn mà hôi của thì lính VNCH có quyền bắn bỏ .....
 
Đàng Trong
 Giờ mới biết ngày 30/04/1975 dân MN “ khát nước “ thiếu nước, nguyên nhân là bị đám khỉ này vào uống sạch nước rồi.
 
 Hoài Nguyễn
Đuổi Mỹ quá đà …
Năm xưa em súng ngắn súng dài
Ngồi chiếc xe tăng thiệt là oai
Trung Kiên thề sẽ trung kiên mãi
Nhíp ngày nào kém chi ai?
“Giải phóng miền Nam”, có công cô…
Phim, đài, báo, ảnh – bọn bưng bô
Tung hê một thuở, rồi quên lãng
Học trò “ngưỡng mộ” cái … ảnh cô!
Rồi cô biến mất chẳng tăm hơi…
Chẳng còn đâu đó ở trên đời…
Nào hay cô quá đà đuổi Mỹ…
Đến tận Hoa Kỳ, cách ngàn khơi…
Ô hô! Cô đã quên thật sao…
Nụ cười ngày ấy thật … “tự hào”
Nay cô chạy tuốt qua bên đó
Đã thành một … bà Mỹ thật sao?
Té ra thời trẻ cô bị lừa…
Giống Mỵ Nương của chuyện tích xưa
Nghe sáo Trương Chi, đêm mơ tưởng
Gặp chàng, giờ đã vỡ mộng chưa?
Hoài Nguyễn 
 
Đốt sách, chôn học trò
* Truyet Mai
RẬp khuôn như chính sách của Tần Thủy Hoàng. MAo Trạch Đông còn chưa dám làm chuyện đốt sách nầy...
 -----------------
 

Khôi Nguyên
Bút Ký Cuối Đời…
NGÀY NÀY... 48 NĂM VỀ TRƯỚC !!
Ông được ca tụng là một Người hùng của 48 năm về trước. Ông từng lập chiến công hiển hách, lái chiếc xe tăng tông thẳng cổng Dinh Độc Lập tại Sài Gòn (do sự sắp xếp để quay phim).
 
Ông cống hiến cả tuổi xuân cho chế độ, cho đảng cộng sản. Giờ này Ông (người hùng) ngồi rửa chén ngẫm sự đời, tin cách mạng "giải phóng miền Nam"... nhưng ông không thể giải phóng được kiếp mình cùng cực, nghèo khó. 
 
Ngày nay, sau 48 năm, ông vẫn không thể quên "chiến công" hiễn hách mà ông đã làm nên là Một Sự Hối Hận và Nuối Tiếc...
 
Ông tâm sự "nếu thời gian quay lại, tôi là người đầu tiên lái xe tăng đến Lăng Ba Đình chứ không phải Dinh Độc Lập"...
 
Nhưng... chữ "Nếu" của ông sẽ không bao giờ xảy ra nữa !!.
Chúc ông bình an cuối đời...
/ Chris, Phan Nguyên Luân /… thực hiện
 
 

 -------------------


Yến Ngọc Hải Âu
Có một “quốc gia” chẳng ai còn nhớ!
Biên khảo – Hoài Nguyễn
--------
Ngày 30/4/1975 đánh dấu sự sụp đổ của thể chế VNCH và chấm dứt chiến tranh Việt Nam kéo dài 20 năm bắt đầu từ năm 1955 bằng những hoạt động du kích cộng sản lẻ tẻ và phát triển dần theo năm tháng đến một trận tấn công quy ước của phe cộng sản vào thủ đô Sài Gòn với hàng binh đoàn bộ binh, xe tăng, pháo binh, tên lửa…
 
Lịch sử thì vẫn là lịch sử và đó là những gì xảy ra, diễn ra trong quá khứ và yêu cầu tối thiểu của lịch sử vẫn là khách quan trung thực…
 
Sau “chiến thắng giải phóng miền Nam” để thống nhất đất nước đặt cả nước dưới một ý thức hệ cộng sản, ngày nay ai cũng nghĩ rằng sau khi VNCH bị xóa tên thì sau đó là nước CHXHCN Việt Nam là một quốc gia thống nhất hai miền Bắc Nam!
 
Điều này thì cũng không có gì sai khi ở thời điểm bây giờ nhìn một cách khái quát thời gian ngược dòng của 48 năm về trước.
 
Tuy nhiên xét về quan điểm lịch sử thì bắt đầu từ ngày 01/5/1975 đã có một “quốc gia” khác tồn tại song song với quốc gia VNDCCH ở bắc vĩ tuyến 17
 
Đó chính là “quốc gia mang danh xưng “Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” mà có lẽ nhiều người đã quên cũng như lịch sử ít nhắc đến!
 
Những ai còn nhớ đến cuộc chiến tranh Việt Nam thì luôn luôn “chắc nịch” rằng thể chế chính trị VNCH chỉ tồn tại từ năm 1954 và sụp đổ vào ngày 30/4/1975 khi bị miền Bắc xua quân vào “thôn tính” hay theo miền Bắc gọi là “giải phóng miền Nam”.
 
Tuy nhiên khi nhìn lại những hình ảnh mang tính lịch sử thì những chiếc xe tăng "húc đổ" cánh cổng Dinh Độc Lập của Tổng thống VNCH lại mang lá cờ “xanh – đỏ – sao vàng”, lá cờ của “Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam” mà trong chiến tranh còn gọi là Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt nam (MTDTGPMN Việt Nam) hay người Mỹ cũng như bên VNCH gọi là Việt cộng, phân biệt với quân đội miền Bắc (QĐNDVN) thường hay được gọi là quân chính quy Bắc Việt, hay Cộng sản Bắc Việt.
 
Bây giờ những tài liệu lịch sử đã được biết công khai rằng nhằm mục tiêu “giải phóng miền Nam thống nhất đất nước” bằng vũ lực, đảng Lao động Việt Nam ở miền Bắc (ngày nay là đảng CSVN) đã tiến hành chỉ đạo, cử cán bộ xâm nhập vào miền Nam và xây dựng một tổ chức gọi là MTDTGPMN Việt Nam vào ngày 20/12/1960, trong đó chú trọng xây dựng các lực lượng vũ trang gồm quân du kích và quân chủ lực địa phương theo lý thuyết vẫn là một bộ phận của QĐNDVN, xây dựng bí mật hạ tầng cơ sở và bám vào vùng nông thôn để hoạt động gây rối, đánh nhau với chính quyền VNCH.
 
Khi cái tổ chức gọi là MTDTGPMN Việt Nam ra đời thực chất chỉ là “một cánh tay nối dài” của chính quyền miền Bắc để chỉ đạo đường lối chiến tranh với miền nam VNCH, còn tổ chức này lúc đó chưa được ai công nhận.
 
Sau khi chiến tranh Đông Dương kết thúc, các văn kiện của đảng Lao động (tức đảng CSVN) trong giai đoạn 1954-1975 cho thấy sự chỉ đạo toàn diện của đảng Cộng sản đối với MTDTGPMN Việt Nam. 
 
Đến 8/6/1969, MTDTGPMN Việt Nam cùng với Liên minh các Lực lượng “Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình” Việt Nam, một liên minh chính trị của những người đối lập với chính quyền VNCH tại miền Nam Việt Nam, bao gồm những người Cộng sản tại miền Nam (chiếm đa số) và những người thuộc các đảng phái chính trị khác. Ngoài ra, Mặt trận còn kêu gọi tất cả những ai có tư tưởng chống Mỹ tham gia, tiến hành thành lập chính phủ riêng sau một Đại hội ở Tây Ninh, lấy tên là Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (CPCM), và công khai đối lập và đấu tranh bằng “bạo lực cách mạng” với chế độ VNCH.
 
Cần phải nói thêm, do cần thu hút những thành phần bất đồng chính kiến và các tổ chức chính trị phi cộng sản tại miền Nam tham gia vào Mặt trận mà Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam đã được thành lập. Lực lượng quần chúng này bao gồm rất nhiều thành phần trong xã hội, ví dụ như sinh viên, học sinh, trí thức, nhà văn, nhà báo, lãnh đạo các tôn giáo, v.v.
 
Qua đó, MTDTGPMN Việt Nam đã mở rộng cả mục tiêu hoạt động của mình lẫn thành phần tham gia, và điều này đã giúp cho họ thoát khỏi những cáo buộc là tổ chức vũ trang của đảng Cộng sản, cũng như tái khẳng định tính trung lập và vị thế của một liên minh chính trị đối lập với chính phủ VNCH tại miền Nam.
 
Mục tiêu của MTDTGPMN Việt Nam là dùng lực lượng vũ trang lật đổ chế độ VNCH, không chấp nhận sự hiện diện quân sự của Mỹ tại Việt Nam, và tiến hành thống nhất hai miền Nam-Bắc. Đối với quốc tế, MTDTGPMN Việt Nam luôn luôn đề cao tính trung lập của mình đối với cả VNCH lẫn VNDCCH trong vai trò hòa giải và thống nhất quốc gia.
 
Quốc tế lúc đó chỉ thừa nhận sau Hiệp định Genève trên lãnh thổ Việt Nam tồn tại hai quốc gia là VNDCCH ở miền Bắc và VNCH ở miền Nam, còn đối với người Việt Nam, thì cả MTDTGPMN Việt Nam lẫn “Chính phủ Cách mạng Lâm thời” hầu như đều bị cả hai phe Quốc gia và Cộng sản xem như là một phần của quân đội và nhà nước Bắc Việt trong và sau cuộc chiến.
 
Sau khi thành lập CPCM vào năm 1969, MTDTGPMN Việt Nam và CPCM tăng cường vận động quốc tế để khẳng định tính chính danh của mình. Vào thời điểm tháng 11/1969, CPCM đã được 28 nước công nhận. Nhưng đa số các nước đó thuộc về khối cộng sản trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
 
Tuy nhiên, chính sự hiện diện của MTDTGPMN Việt Nam và CPCM trong lịch sử Việt Nam đã giúp khẳng định rõ hơn việc lãnh thổ Việt Nam đã từng hiện diện hai quốc gia trong vòng trên dưới 22 năm, từ 7/1954 – 7/1976.
- Từ 20/7/1954 – 30/4/1975 : Miền Bắc VNDCCH, miền Nam VNCH
- Từ 01/5/1975 – 02/7/1976 : Miền Bắc VNDCCH, miền Nam CHMNVN
 
Rất rõ ràng là ngay sau ngày 30/4/1975, cả VNDCCH ở miền Bắc và CHMNVN ở miền Nam đã khẳng định một lần nữa trước quốc tế rằng họ là hai quốc gia độc lập.
 
Vào tiếp quản Chính quyền VNCH ngày 30/4/1975 cũng là những cán bộ của quân đội Bắc Việt nhưng trên tay áo và các phương tiện tuyên truyền với thế giới bên ngoài thì vẫn là màu cờ, biểu tượng của “Chính phủ Cách mạng Lâm thời” nhằm đánh lừa thế giới là VNCH bị dân chúng miền Nam nổi lên lật đổ chứ không phải miền Bắc VNDCCH tấn công xâm lược!
Sau khi chiếm được miền Nam, quyền cai quản được giao cho phía quân sự gọi là Ủy ban Quân quản từ Sải Gòn cho đến các địa phương,
Trên các giấy tờ hành chính lúc đó có tiêu đề : Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam ; Độc lập – Dân chủ – Hòa bình – Trung lập.
 
“Chủ tịch nước” Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam lúc đó là ông Nguyễn Hữu Thọ.
Bộ máy chính quyền tiếp quản từ chính phủ VNCH, đương nhiên thay thế bằng những cán bộ VC, đa số là VC "nằm vùng" giờ mới "xuất đầu lộ diện" ra "cai quản" bộ máy chính quyền.
 
Cả hai chính quyền Nam Bắc Việt Nam đều có cơ quan hành chính và quân đội riêng, kiểm soát các phần lãnh thổ khác nhau tại miền Nam. Cả hai đều có các nghĩa vụ quốc tế riêng. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn được xem là chỉ có hai quốc gia, Bắc Việt và Nam Việt.
Ngay khi Sài Gòn sụp đổ vào ngày 30/4/1975, CPCM đã lập tức khẳng định tư cách quản lý lãnh thổ miền Nam Việt Nam trước quốc tế bằng việc nêu rõ tính độc lập và quyền tự chủ của mình.
 
Ngày 4/5/1975, bà Nguyễn Thị Bình, với tư cách Bộ trưởng Bộ ngoại giao của chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (Republic of South Vietnam) – là tên gọi chính thức tại LHQ – đã gửi thư đến LHQ và nêu rõ tính độc lập và quyền tự chủ của CHMNVN, đồng thời tuyên bố tư cách thừa kế chính quyền VNCH tại LHQ và tại các tổ chức quốc tế, cũng như các định chế tài chính quốc tế.
 
Ngày 15/7/1975, ông Huỳnh Tấn Phát, Chủ tịch nước CHMNVN, đã gửi điện tín đến Tổng thư ký LHQ kèm theo đơn xin gia nhập LHQ. Cùng thời điểm đó, VNDCCH cũng nộp một đơn riêng xin gia nhập LHQ.
Phản ứng quốc tế trước sự kiện 30/4/1975 cũng ủng hộ lập luận trên. Đó là hầu hết các quốc gia đều cho rằng CPCM đã thay thế VNCH để quản lý quốc gia Nam Việt Nam, tức là một sự thay đổi chế độ tại miền Nam.
 
Chính quyền của “Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” về mặt thực tế chỉ là công cụ của chính quyền miền Bắc, và dưới sự chỉ đạo của đảng Lao động (CSVN), từ ngày 15 đến 21/11/1975, hội nghị hiệp thương chính trị được tổ chức để tiến tới thống nhất về mặt nhà nước. Đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do ông Trường Chinh đứng đầu, đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam do ông Phạm Hùng đứng đầu. Hội nghị đã tán thành tổ chức bầu cử Quốc hội thống nhất.
 
Ngày 25/4/1976 tổng tuyển cử trong cả nước được tổ chức, bầu ra 492 đại biểu của Quốc hội Việt Nam thống nhất. Từ ngày 24/6 đến ngày 2/7/1976, Quốc hội họp phiên đầu tiên, đặt tên nước là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thông qua quốc kỳ, quốc huy, quốc ca, xác định Thủ đô, bầu chính phủ, đổi tên thành phố Sài Gòn - Gia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh. Từ đây, chính quyền Cộng hòa Miền Nam Việt Nam chính thức hợp nhất với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để ra đời chính quyền Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam của một quốc gia Việt Nam thống nhất.
 
Theo một số tư liệu đọc được thì lúc đó Trung Cộng không mấy "mặn mà" việc hai miền Nam Bắc Việt Nam thống nhất mà Mao Trạch Đông công khai ủng hộ chính quyền của "quốc gia" Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam này để làm "đối trọng" với VNDCCH!
 
“Quốc gia” CHMNVN chính thức chấm dứt tồn tại vào ngày 2/7/1976 khi họ hợp nhất với VNDCCH thành CHXHCN Việt Nam.
Hoài Nguyễn - 01/5/2023

 --------------------------------

*
Trầm Hương
LẠI MỘT NGÀY NỮA ƯU PHIỀN.
3/5/bảy nhăm CUI một ngày tròn trên xe buýt mà không mất một xu, bởi vì nó để bảng hai bên hông xe nà miễn phí ba ngày, thế nà tôi lên buýt ngồi lì, TÂN SƠN NHỨT xa cảng MIÊN TÂY và ngược lại, xuống rồi nại nên, chuyển qua nhiều tuyến đường THỦ ĐÔ SÀI GÒN, mệt nắm chứ nhưng lúc bấy giờ tôi muốn nhìn SÀI GÒN lần cuối rồi về MIỀN TRUNG cũng không muộn. CUI biết chắc MẸ CUI từng giây, từng phút, từng giờ ngóng trông con về, CUI chưa về nhưng MẸ CUI biết chắc là CUI chưa thể chết trong lúc này. và rồi cho tới 20h00 ngày 8/5/75 MẸ CUI mừng rở thấy con của MẸ về đứng trước cửa bà vội vàng ôm thằng con trai độc nhất vào lòng và miếu máo con tôi đã về, đúng vậy CUI đã chính thức về nhà sau chiến cuộc.
Lời viết này không hề sai .
* Benjamin Nguyen
Tôi cũng vậy,tôi kẹt ở CANTHO,ngày 2/5/75 mới lò dò về tới nhà,Má tôi ôm thằng con vào lòng,khóc rồi nói : Má cứ nghỉ con đã chết rồi
* Thanh Nguyen
Tôi về Cần Thơ tìm tướng Nguyễn Khoa Nam, và chết Đứng tại Mỹ Tho ngày 1/5/1975, khi hay tin tướng Nam tuẫn tiếc. 

------------------------ 

 

Miền Nam và Sài Gòn Xưa

Thien Kinh Duong ·
Tháng 4 Nhớ Người
Thắp Nén Hương Tưởng Niệm Anh Hùng Vô Danh VNCH
Giờ Thứ 25 - Phạm Bá Hoa
Từ sau ngày Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, hằng ngày, trước đầu giờ và sau cuối giờ làm việc, tôi thường lên văn phòng Trung Tướng Đồng Văn Khuyên để theo dõi và trao đổi tình hình. Qua câu chuyện trao đổi mang tính cách tâm tình với nhau hơn là Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu ra lệnh cho Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận.
 
Xin mời quí vị quí bạn vui lòng trở lại ngày 27 tháng 4 năm 1975 trước khi vào giờ thứ 25. Tại tòa nhà chánh Bộ Tổng Tham Mưu, đã hết giờ làm việc buổi chiều từ lâu, tôi vẫn còn ngồi trong văn phòng Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, nghe ông tâm sự:

“Anh biết không, Thiếu Tướng Smith nói với tôi là cấp chỉ huy của ông ta từ Pentagon (lầu năm góc, tức Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ) nói ổng đang ủng hộ một Trung Tướng cộng sản ngay tại Sài Gòn”.
“Ông ta muốn ám chỉ Trung Tướng phải không?
“Tôi cũng nghĩ vậy”.
“Trung Tướng có nói gì không?
“Không”.
“Đến lúc này, Trung Tướng có quyết định ra đi chưa?

Tôi hỏi như vậy là vì lúc sáng, Y Sĩ Chuẩn Tướng Phạm Hà Thanh, Cục Trưởng Cục Quân Y, lên hỏi thăm tình hình, Trung Tướng Khuyên yêu cầu Chuẩn Tướng Thanh cho ông 2 chai thuốc độc, và tôi cũng xin 2 chai (1 chai để trong túi và 1 chai trong cặp xách tay). Khi ông xin thuốc độc, điều đó cho thấy có thể là ông không bỏ chạy, hoặc xin thì xin nhưng chạy vẫn chạy. Nhưng tôi nghĩ, ít ra thì Trung Tướng Khuyên đang có hai giải pháp trong đầu. Im lặng một lúc, chừng như ông đang xúc động nên lời nói của ông thật nhỏ:

“Tôi đã hứa với ổng (tức Thiếu Tướng Smith), vì tôi cảm thấy sẽ không an toàn nếu như tôi khước từ di tản”.
“Thiếu Tướng Smith có nói bao giờ thì đi không, thưa Trung Tướng?
“Ổng được lệnh từ Pentagon là sẽ đưa tôi đi”.
“Thiếu Tướng Smith có nói là sẽ đi vào lúc nào không Trung Tướng?
Trung Tướng Khuyên buông thỏng: “Giờ thứ 25”.
“Ổng có nói với Trung Tướng giờ đó là giờ nào không?
“Giờ đó sẽ được quyết định từ Pentagon”.

Sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, Tổng Thống Dương Văn Minh cho phổ biến bản tuyên bố trên đài phát thanh Sài Gòn, theo đó thì Tổng Thống yêu cầu Hoa Kỳ lập tức rút toàn bộ các cơ quan và nhân viên Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam Cộng Hòa. Ngay sau bản tin ngắn ngủi nhưng rất quan trọng đó, từng đoàn trực thăng của Hải Quân Hoa Kỳ vào Sài Gòn, chuyên chở những người "di tản" ra Hạm Đội 7 ngoài khơi Vũng Tàu. Bãi đáp chính của trực thăng là khu vực Văn Phòng Tùy Viên Quốc Phòng Hoa Kỳ ở Tân Sơn Nhất, và bãi đáp trên sân thượng tòa đại sứ Hoa Kỳ, tọa lạc bên trái đại lộ Thống Nhất (từ Dinh Độc Lập nhìn về hướng Thảo Cầm Viên).

Tôi xin dừng ở đây để thuật tiếp phần cuối của câu chuyện ngắn (phần đầu tôi đã thuật trong cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963) do cựu Đại Tá Nguyễn Linh Chiêu kể cho các bạn trong bữa ăn tại nhà ông ở Orange County, Nam California, vào ngày 15 tháng 11 năm 1991. Hôm ấy, tôi là một thực khách trong số đó. Chuyện mà cựu Đại Tá Chiêu kể lại là nhân chuyến ông sang Paris đầu năm 1991, ông có mời cựu Tổng Thống Dương Văn Minh và cựu Trung Tướng Trần Văn Đôn dùng cơm, để giúp giải tỏa mối bất hòa giữa hai vị mà cả hai vị đều là bạn thâm giao của cựu Đại Tá Chiêu. Trong toàn bộ câu chuyện ngắn đó có đoạn cựu Đại Tá Chiêu hỏi cựu Tổng Thống Dương Văn Minh:

“Tại sao anh mới nhận chức Tổng Thống mà anh ra lệnh đuổi Mỹ về nước?
"Moa" không đuổi Mỹ. Bản văn đuổi Mỹ là do Đại Sứ Martin (Hoa Kỳ) đưa cho "Moi" và yêu cầu "Moi" phổ biến”.

Phần cuối câu chuyện chỉ có thế, nhưng nó cho thấy Hoa Kỳ đã "an bài chiến tranh chống cộng của Việt Nam Cộng Hòa chúng ta" đến tận cùng chi tiết. Vì vậy mà chúng ta không ngạc nhiên khi bản văn "đuổi Mỹ" vừa phát đi trên làn sóng đài phát thanh Sài Gòn, thì từng đoàn trực thăng Hoa Kỳ thuộc Hạm Đội 7 của họ từ ngoài khơi Thái Bình Dương, ào ào vào Sài Gòn, cứ như các trực thăng đó túc trực ứng chiến trên đường bay của Hàng Không Mẫu Hạm vậy. Thậm chí đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đã có mặt tại phi trường Tân Sơn Nhất và tòa đại sứ từ nửa đêm 28 rạng 29 tháng 4 năm 1975, để bảo vệ cuộc vận chuyển di tản. Các sự kiện đó đã xác định rõ ràng chớ không phải ngẫu nhiên. Ngôn ngữ chính trị là như vậy mà. Nghe vậy, nhưng không phải vậy, mà đôi khi cũng có thể là như vậy.
Vẫn sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, như những ngày trước đó, tôi lên văn phòng Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, để theo dõi tình hình, vẫn chưa nghe ông nói gì về giờ thứ 25 mặc dù Tổng Thống đã chánh thức yêu cầu Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam Cộng Hòa trong vòng 48 tiếng đồng hồ!
 
Trở về văn phòng, đứng ở lan can ngay trước văn phòng tôi, nhìn sang bãi đáp bên kia hàng rào kẽm gai ngăn cách giữa khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu với một góc của khuôn viên phi trường Tân Sơn Nhất. Từng chiếc trực thăng hạ cánh rồi cất cánh với đầy người chen chúc bên trong, một vài chiếc có cả người còn tòn teng ở càng chân trực thăng chớ chưa vào được bên trong. Lúc ấy tôi liên tưởng đến tấm ảnh với ghi chú ngắn trên những nhật báo phát hành tại Sài Gòn ngày 18 và 19 tháng 4 năm 1975. Tấm ảnh đó chụp lúc những giới chức của quốc gia Cam Bốt, đang chen lấn lên trực thăng Hoa Kỳ để di tản khỏi quê hương của họ, vì quân cộng sản đang tiến chiếm thủ đô Nam Vang (Phnom Penh). Nghĩa là họ thua trận trước Việt Nam Cộng Hòa, nhưng họ hơn ta ở điểm là họ còn chống giữ thủ đô Nam Vang được vài tuần. Câu ghi chú rằng: "Những người Cao Miên đứng bên ngoài rào, trông họ rất thản nhiên khi nhìn cái cảnh trốn chạy của những người từng lãnh đạo đất nước họ ...". 
 
Thật lòng mà nói, lúc ấy tôi không biết tôi đang nghĩ gì và phải làm gì khi trông thấy cảnh tượng như vậy diễn ra ngay trước mắt! Có vẻ như tôi chưa sẳn sàng chấp nhận hình ảnh đó là sự thật trong cuộc đời, mặc dù nó đang xảy ra trước mắt tôi!
 
Trong khi cảnh di tản bằng trực thăng trong khuôn viên phi trường Tân Sơn Nhất ở phần đối diện với khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu vẫn diễn tiến, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên đẩy cửa vào phòng tôi, nhưng tôi bận điện thoại cung cấp nhiên liệu cho Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh đã từ Biên Hòa rút về Gò Vấp. Thấy tôi bận, ông quay trở ra và sang phòng vệ sinh. Điện thoại xong, tôi ra đứng cạnh lan can chờ ông. Dĩ nhiên là khi trở ra, Trung Tướng Khuyên trông thấy tôi, ông đi ngang tôi, rồi đi thẳng đến xe Jeep cách tôi chừng 5 bước. Ông lên xe, nhìn thẳng phía trước, và im lặng. Chưa bao giờ tôi thấy thái độ của ông như vậy, do vậy mà tôi nghĩ: "Phải chăng giờ thứ 25 bắt đầu?".
 
Ông không nói một tiếng nào trong khoảng 5 phút. Ông ra hiệu bằng tay, anh Hạ Sĩ Quan tài xế cho xe lăn bánh. Tôi đứng thẳng người, đưa tay lên trán, chào ông, rồi khoa tay từ biệt để ông hiểu là tôi đoán được chuyện gì đang xảy ra. Nếu tôi không lầm, thì Trung Tướng Khuyên sẽ rất xúc động nếu như ông nói với tôi bất cứ lời nào, vì vậy mà tôi không chút phiền muộn đối với Trung Tướng Đồng Văn Khuyên cho dù ông đã không một lời từ biệt, một lời từ biệt với biết bao nguy hiểm cho người đi lẫn người chưa đi!
Lúc đó là 11 giờ 30 phút sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, và tôi xem đây là giây đầu tiên trong 3.600 giây của Giờ Thứ 25!
 
Khoảng hai tiếng đồng hồ sau đó, Thiếu Tá Tấn, sĩ quan tùy viên của Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, điện thoại tôi:

“Trình Đại Tá, Trung Tướng đã vào gặp Thiếu Tướng Smith rồi”.
“Anh đang ở đâu vậy?
“Tôi đang ở nhà tôi”.
“Ủa, anh không đi sao?
“Dạ không Đại Tá”.
“Anh có thể cho tôi biết là sau khi rời chỗ tôi thì Trung Tướng đi những đâu không?

“Rời văn phòng Đại Tá, Trung Tướng hướng dẫn tài xế lái xe trên nhiều con đường trong Tổng Tham Mưu, rồi ra cổng số 3 (cổng số 3 ra đường Võ di Nguy) và quanh vào cổng sau phi trường. Tại đây có sĩ quan tùy viên của Thiếu Tướng Smith đón và hướng dẫn vào. Đi được một khoảng thì lính gác Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ gọi tôi lại, bảo tôi tháo khẩu súng lục để lại cổng. Đi bộ vào đến Văn phòng Tùy Viên Quốc Phòng thì Thiếu Tướng Smith đứng chờ ở đó, cả hai ông vào văn phòng, tôi chào Trung Tướng rồi trở về nhà”.
“Anh trông thấy nhiều người trong đó chớ?
“Đông lắm Đại Tá ơi! Đông nghẹt người lận”.
“Cám ơn anh, và mong là anh em mình còn liên lạc nhau được ngày nào mừng ngày ấy thôi. Chào anh nhé”.

Vậy là, quí vị lãnh đạo đất nước Việt Mam vừa bàn giao chức vụ lãnh đạo quốc gia lẫn quí vị đương kiêm chức vụ lãnh đạo quân đội, đã lần lượt "rời bỏ Việt Nam" gần như theo hệ thống quân giai cho dù là hệ thống quân giai ngẫu nhiên cũng vậy:
Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, vị Tướng đã hai lần đặt tay lên Hiến Pháp tuyên thệ "bảo vệ quốc gia dân tộc, bảo vệ Hiến Pháp" khi nhận chức Tổng Thống và Tổng Tư Lệnh Tối Cao Quân Đội, lên phi cơ đi ngoại quốc!
 
Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, hơn 5 năm trong chức vụ Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng, lên phi cơ đi ngoại quốc!
 
Đại Tướng Cao Văn Viên, vị Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa từ ngày 15 tháng 10 năm 1965, lên phi cơ đi ngoại quốc!
 
Đầu giờ thứ 25, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, cũng lên phi cơ đi ngoại quốc!
 
Và khi vị Tổng Tham Mưu Trưởng và Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu, rời bỏ chức vụ để "đi ngoại quốc", thì quí vị Tướng Lãnh cùng nhiều vị Trưởng Phòng của Bộ Tổng Tham Mưu, cũng ra đi! Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa lúc 12 giờ trưa ngày 29 tháng 4 năm 1975, không còn một vị nào có thẩm quyền quyết định bất cứ vấn đề gì hết, ngay cả công tác phòng thủ trại Trần Hưng Đạo -tức Bộ Tổng Tham Mưu- cũng không ai trách nhiệm nữa. Quân nhân và công chức quốc phòng của Bộ Tổng Tham Mưu trên dưới 2.000 người, không còn cấp chỉ huy, nên họ đành phải quyết định: Tự động tan hàng!
Tôi điện thoại cho Đại Tá Nguyễn Hồng Đài (con rể của Tổng Thống Dương Văn Minh), nguyên là Chánh Sở Kế Hoạch/ Tổng Cục Tiếp Vận biệt phái về Phủ Tổng Thống:

“Anh Đài. Anh vui lòng trình với Tổng Thống là cho đến lúc này, trong Bộ Tổng Tham Mưu không còn vị Tướng Lãnh nào hết, cũng không ai trách nhiệm bảo vệ bản doanh Tổng Tham Mưu nữa. Tôi trình xin Tổng Thống cử người vào chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng và Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận. Nếu hôm nay không có vị nào vào đây thì bộ tham mưu nhẹ của Tổng Cục Tiếp Vận chúng tôi sẽ sang Biệt Khu Thủ Đô làm việc, vì khách hàng mà tôi yểm trợ chỉ còn Biệt Khu Thủ Đô và một phần lực lượng của Quân Đoàn III thôi”.
“Được rồi, tôi trình "Ông Già" ngay và sau đó sẽ điện thoại anh”.

Một lúc sau, Đại Tá Đài gọi tôi:
“Ông Già" cho biết, lúc 3 giờ chiều nay sẽ có phái đoàn Tướng Lãnh vào nhận chức trong Bộ Tổng Tham Mưu. Anh yên tâm”.

Lúc 2 giờ chiều 29 tháng 4 năm 1975, tôi mời các vị Cục Trưởng Cục Phó, Trung Tâm Tiếp Liệu Lục Quân, Trung Tâm Điện Toán Tiếp Vận, Chỉ Huy Trưởng Trường Tiếp Vận, đến họp gấp. Kiểm điểm lại chỉ còn Cục Trưởng Cục Quân Y (Chuẩn Tướng Phạm Hà Thanh), Cục Trưởng Cục Quân Vận (Đại Tá Nguyễn Tử Khanh), Cục Phó Cục Quân Nhu, Cục Phó Cục Công Binh, Cục Phó Cục Quân Cụ, Cục Phó Cục Truyền Tin, Cục Phó Cục Quân Tiếp Vụ, và Cục Phó Cục Mãi Dịch.
 
 Tôi vào đề ngay:
“Trong trách nhiệm Tham Mưu Trưởng/Tổng Cục Tiếp Vận, tôi xin thông báo đến quí vị và các bạn về tình hình chung và tình hình nội bộ Tiếp Vận của mình. Về tình hình chung, hiện nay theo Phòng 2/Bộ Tổng Tham Mưu thì có khoảng 10 sư đoàn quân cộng sản bao quanh Sài Gòn và chúng đang áp sát ven ngoại ô. Điều đó cho phép dự đoán là chúng có thể tấn công chúng ta bất cứ lúc nào mà chúng cho là thuận lợi. Về lực lượng phòng thủ của ta thì không có đơn vị nào nguyên vẹn, kể cả Nhẩy Dù và Thủy Quân Lục Chiến. Ngay cả Sư Đoàn 106 Biệt Động Quân mới thành lập với Đại Tá Nguyễn Văn Lộc giữ chức Tư Lệnh, Đại Tá Vũ Phi Hùng làm Tư Lệnh Phó, và Đại Tá Cao Văn Ủy làm Tham Mưu Trưởng, cũng chỉ là sự kết hợp gấp rút các Liên Đoàn Biệt Động Quân cùng với vài đơn vị Pháo Binh và Thiết Giáp còn lại thôi. Về nội bộ Tiếp Vận, thì Trung Tướng Tổng Cục Trưởng và gần hết các sĩ quan cao cấp trong Tổng Cục Tiếp Vận, đã tự động rời khỏi nhiệm sở rồi. Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Tiếp Liệu Lục Quân và Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Điện Toán Tiếp Vận, cũng thế. Còn tại các Cục, tôi nghĩ là các bạn biết rõ hơn tôi. Thông báo một tình hình như vậy, tôi muốn quí vị và các bạn tùy nghi vì tôi không có thẩm quyền về bất cứ vấn đề gì vượt quá trách nhiệm và quyền hạn của người Tham Mưu Trưởng Tổng Cục. Tôi có bấy nhiêu lời, và nếu không có điều gì cần hỏi, tôi xin chào quí vị, chào các bạn, vì trong chúng ta không ai biết được những gì sẽ chợt đến với mình trong những ngày tháng sắp tới -
 
Sở dĩ phải nói lời chào ngay vì tôi thấy Đại Tá Nguyễn Tử Khanh có vẻ như muốn rời phòng họp. Quả thật, hơn tiếng đồng hồ sau đó, Đại Tá Cao Văn Phước, Cục Phó Cục Quân Vận cho tôi biết là Đại Tá Khanh đã vội vã xuống Giang Đoàn Vận Tải và đi rồi.
 
Lúc 3 giờ chiều ngày 29 tháng 4 năm 1975
, Trung Tướng Vînh Lộc -đã một thời là Tư Lệnh Quân Đoàn II, rồi Chỉ Huy Trưởng Trường Cao Đẳng Quốc Phòng- vào nhận chức Tổng Tham Mưu Trưởng. Cùng lúc, Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh nhận chức Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu. Và một vài Đại Tá nhận chức Trưởng Phòng. Đại Tá Nguyễn Khắc Tuân, chánh văn phòng Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng.
Đại Tá Tuân gọi tôi lên trình diện Trung Tướng tân Tổng Tham Mưu Trưởng:

“Chào Trung Tướng”.
“Chào anh. Những vị Tướng cầm quyền đã chạy hết rồi. Bây giờ chúng mình hãy cùng nhau cố gắng nhiệm vụ trọng đại của Quốc Gia. Vào giờ phút lâm nguy này mới thấy được giá trị của mỗi người như thế nào đối với Tổ Quốc”.

“Thưa Trung Tướng, giờ này tôi có mặt ở đây và đang trình diện Trung Tướng, trong khi các cấp chỉ huy trên tôi đã rời khỏi nhiệm sở, và các cấp chỉ huy dưới tôi cũng vậy, có nghĩa là tôi vẫn tiếp tục trách nhiệm của tôi, thưa Trung Tướng”.

“Nhiệm vụ yểm trợ Tiếp Vận cho các đơn vị phòng thủ Sài Gòn, tôi trông cậy vào anh”.

“Vâng. Tôi đã và đang làm tất cả những gì thuộc về trách nhiệm của tôi, và tôi vẫn tiếp tục như vậy. Và nếu không có vị nào khác thì xin Trung Tướng cử Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Chức vào chức vụ Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, vì tôi được biết Chuẩn Tướng Chức sẳn sàng nhận chức vụ này, thưa Trung Tướng”.

“Anh sẽ có vị Tổng Cục Trưởng ngay hôm nay”.
“Vâng. Chào Trung Tướng”.
 
Lúc 5 giờ chiều 29 tháng 4 năm 1975, Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Chức, trước là Cục Trưởng Cục Công Binh, kế đến là biệt phái sang phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách khẩn hoang lập ấp, đến nhận chức Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận. Một chức vụ mà Chuẩn Tướng Chức đã hơn một lần tự ông đề nghị thẳng với Trung Tướng Khuyên đề nghị lên cấp trên bổ nhậm ông vào đó. Chuẩn Tướng Chức, trong thời gian sinh hoạt trong "Nhóm Đời Mới" -tôi cũng là một thành viên trong Nhóm- của cụ Trần Văn Ân, có lần nói với tôi rằng "lên đến Tướng là phải hoạt động chính trị và ông cũng nói thẳng là ông muốn nắm giữ chức vụ cao hơn là Cục Trưởng nếu vẫn phục vụ trong quân đội, vì ông tự thấy khả năng của ông như vậy, và đó mới là tương lai sự nghiệp của ông. Chuẩn Tướng Chức là người rất hoạt động, khi ông tham gia công tác với đơn vị Công Binh của ông thì ông làm nhiệt tình như bất cứ người lính Công Binh nào, và trong những trường hợp như vậy ông rất thích được phóng viên báo chí tiếp xúc. Chuẩn Tướng Chức là mẫu người rất nhiệt tình trong trách nhiệm, và ông cũng rất muốn được xuất hiện trong sinh hoạt chính trường.

`Tôi trình bày tình hình chung và tình hình riêng của ngành Tiếp Vận như đã cung cấp cho các vị chỉ huy Tiếp Vận trong buổi họp ngắn ngủi lúc 2 giờ, và tình hình yểm trợ Tiếp Vận cho các đơn vị chiến đấu. Chuẩn Tướng Chức viết tay lệnh bổ nhiệm Đại Tá Trần Văn Lễ (đang là Chỉ Huy Trưởng Trường Tiếp Vận) trở lại chức vụ Cục Trưởng Cục Quân Tiếp Vụ. Các vị Cục Trưởng đã bỏ nhiệm sở thì ông cử các vị Cục Phó giữ chức Quyền Cục Trưởng.

“Bây giờ xin phép anh tôi về nhà dùng cơm rồi trở lại ngay. Trong thời gian đó nếu có đơn vị nào xin yểm trợ thì anh bảo họ điện thoại cho tôi và tôi giải quyết”.
“Được rồi, anh về đi. Anh có cần xe mở đường không vì đường phố đông nghẹt người với xe cộ đó?
“Cám ơn anh. Không cần đâu anh”.

Không chỉ là đường phố đông nghẹt người mà là hỗn loạn chưa từng thấy! Áng chừng 6 cây số mà phải gần 2 tiếng đồng hồ tôi mới về đến nhà. Dọc đường, tiếng gọi nhau chạy loạn vang vang cả một quảng dài, đúng là "loạn thì lạc!". Trời tối hẳn, những chiếc trực thăng Hoa Kỳ thả "hỏa châu" chiếu sáng liên tục, để từng đoàn trực thăng phụ trách "di tản" thi hành nhiệm vụ. Nhiều phi tuần khu trục phản lực cũng của Hoa Kỳ, gào thét trên không phận thủ đô để sẳn sàng tấn công các đơn vị cộng sản nếu như trực thăng vận tải của họ bị bắn hạ, trong khi đạn phòng không của cộng sản tua tủa vọt lên khoảng không gian bé nhỏ vừa tối lại vừa sáng!
 
Trong những năm chiến tranh dữ dội, nhất là trong trận chiến "mùa hè đỏ lửa năm 1972", ngày cũng như đêm, người dân Sài Gòn rất quen với tiếng động cơ phản lực chiến đấu, từng đôi từng đoàn, xé không gian lên đường đánh địch bằng hỏa lực mãnh liệt mà nó được các nhà chế tạo Hoa Kỳ nghiên cứu trang bị, và quen đến mức nếu như vắng âm thanh đó thì họ cho là chuyện không bình thường. Bẳng đi một thời gian khá lâu, đêm nay, âm thanh đó trở lại, nhưng là trở lại để đánh dấu một tình huống bi thảm của dân tộc Việt Nam sau hai thập niên chiến đấu vì Dân Chủ Tự Do!
 
Cơm xong tôi ra xe, nhưng đến 10 giờ đêm mà vẫn chưa ra đến đường Tô Hiến Thành mặc dù chỉ cách nhà tôi hơn 100 thước. Chừng như tất cả mọi người đều đổ xô ra khỏi nhà để tìm đường sống vậy! Tôi xuống xe và chen nhau từng bước giữa khối người là người mới trở vào được trong khu cư xá do các thanh niên trong cư xá canh gác bảo vệ, vì ngay ngoài cổng trước của cư xá đã có vài nhà bị cướp giật rồi. Tôi điện thoại sang Tổng Cục Tiếp Vận:

“Chào anh Chức, Hoa đây anh. Bây giờ tôi không có cách nào ra ngoài cư xá được vì hỗn loạn đến mức không sao tưởng tượng nỗi. Anh cho phép tôi ở nhà, tất cả điện thoại về nhu cầu Tiếp Vận anh chuyển sang cho tôi và tôi giải quyết ngay. Công việc của Tổng Cục mình bây giờ thu gọn lắm rồi anh. Hàng tiếp liệu cho các đơn vị chỉ gồm nhiên liệu và đạn dược, tôi cho lên xe sẳn sàng tại các kho để cung cấp thật nhanh theo yêu cầu. Anh an tâm”.
“Được rồi. Có gì tôi gọi anh”.

Vài trái đạn đại bác của quân cộng sản đã nổ bên ngoài khuôn viên cư xá nhưng chưa gây thiệt hại quan trọng nào. Phi trường Tân Sơn Nhất chắc là bị pháo kích nhiều, vì tôi nghe tiếng đại bác nổ liên hồi ở hướng đó. Trong cư xá có 1 đại đội Nhẩy Dù từ trên căn cứ Hoàng Hoa Thám (đầu phi trường Tân Sơn Nhất phía Hóc Môn) rút về đây, và cư dân an lòng đôi chút vì có lực lượng phòng thủ.

Gần nửa đêm, Đại Tá Trương Đình Liệu, Chỉ Huy Trưởng Tổng Kho Long Bình, điện thoại tôi:

“Trình anh là tôi đã cho triệt thoái toàn bộ về đây rồi. Chờ lệnh Tổng Cục hoài không thấy, đến khi các đơn vị trong căn cứ Long Bình rút lui, tôi liền cho anh em theo họ”.

“Anh hành động đúng thôi. Chuẩn Tướng Chức nhận chức Tổng Cục Trưởng lúc chiều, ông ấy không ra lệnh thì tôi làm gì được. Về yểm trợ thì tôi lo được, nhưng ra lệnh rút lui thì tôi đâu có thẩm quyền. Anh hiểu tôi rồi hén”.

Khoảng 2 giờ 30 sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, điện thoại (nhà tôi) reo:

“Đại Tá Hoa tôi nghe”.
“Trung Tướng Lộc đây anh. Lúc nảy, Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh có xin tiếp tế xăng và đạn, không biết là họ liên lạc với anh chưa?

“Chuẩn Tướng (Lê Trung Tường) Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn III có gọi tôi, và tôi đã cung cấp rồi, thưa Trung Tướng”.
“Cố gắng nghe anh Hoa”.
“Vâng. Tôi đã trình bày với Trung Tướng chiều qua rồi, tôi vẫn thi hành nhiệm vụ của tôi cho đến khi nào tôi không thể tiếp tục được nữa, thưa Trung Tướng”.

Khoảng 3 giờ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, Thiếu Tá Ông Kim Miêng, chánh văn phòng Tổng Cục Phó, và từ chiều qua là chánh văn phòng Tổng Cục Trưởng, từ văn phòng Tổng Cục Tiếp Vận điện thoại tôi:

“Thưa Đại Tá, Chuẩn Tướng Chức đã lên xe đi rồi”.
“Chuẩn Tướng đi một mình hay đi với ai vậy anh?
“Dạ đi một mình. Chuẩn Tướng đi mà không xách cái cặp theo, và cũng không cho xe hộ tống (xe có còi hụ mà chiều qua ông mang đến) theo nữa”.
“Thôi được. Sáng sáng một chút, tôi tìm cách đến Tổng Cục hẳn hay”

Tiếp đó điện thoại lại reo:
“Đại Tá Hoa tôi nghe”.
“Đài đây anh (Đại Tá Nguyễn Hồng Đài). 
 
Lúc 10 giờ sáng nay (tức 30/4/1975)
"Ông Già" sẽ công bố giải pháp chính trị, anh theo dõi trên đài phát thanh Sài Gòn nghe”.
“Nhưng mà nội dung giải pháp là gì?
“Trung lập, như tôi nói với anh đó”.
“Vậy là tôi chuẩn bị. Cám ơn anh”.

Đến đây tôi xin mở ngoặc để nói đến 2 điều cho vấn đề được rõ thêm.

Điều thứ nhất
Khoảng năm 1998, tôi có dịp gặp anh Nguyễn Hồng Đài tại thành phố Houston, tiểu bang Texas. Sau khi thăm hỏi nhau, anh xác nhận lời anh đã nói với tôi là đúng như trong quyển Đôi Dòng Ghi Nhớ, nhưng về thời gian thì sai. Anh nói không phải rạng sáng 30 tháng 4 mà là rạng sáng 29 tháng 4, vì tối 29 tháng 4 anh đang trên tàu ra biển. Trí nhớ của tôi vẫn ghi nhận lời anh nói vào rạng sáng 30 tháng 4, vì đây là đêm đầu tiên tôi “bị” ngủ tại nhà sau 3 tuần cắm trại ngủ tại văn phòng tôi (Tổng Cục Tiếp Vận) trong khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu, và tôi tiếp chuyện điện thoại với anh lúc tôi từ cửa sổ nhà tôi nhìn lên bầu trời với những âm thanh gào thét của những chiếc phản lực cơ Hoa Kỳ bao vùng yểm trợ cho trực thăng đưa người di tản. Vì vậy tôi vẫn viết lại đây theo trí nhớ của tôi.
 
Và điều thứ hai
Khi tôi nói "tôi chuẩn bị", tức là tôi chuẩn bị rời khỏi Việt Nam ngay sau khi Tổng Thống Minh tuyên bố trung lập. Nghĩa là tôi và gia đình dự trù rời khỏi Việt Nam nhưng không đi trước khi có giải pháp chính trị, mà ra đi trong lúc giao thời dù chỉ trong ngắn ngủi. Chúng tôi dự trù 6 gia đình, trong số này có 2 gia đình thuộc phi hành đoàn C130, dùng chiếc C130 sang Singapore để đi Australia, vì tôi được sự giúp đỡ của người bạn gốc Trung Hoa trong công ty INTRACO tại Singapore, nối liên lạc với cơ quan ngoại giao Australia tại đó và đã được đồng ý. Xin đóng ngoặc.
 
Vừa mờ sáng là tôi lên xe. Hướng ngã tư Bảy Hiền -nơi trở thành tiền tuyến- có nhiều tiếng súng trường và tiểu liên, nên không có người đi lại bao nhiêu, và tôi cho xe chạy ngang chợ ông Tạ rồi rẽ sang Võ Tánh nối dài. Quân cộng sản chưa xuống đến ngã tư Bảy Hiền, và tôi an toàn đến Tổng Tham Mưu. Đến, nhưng không được phép vào.
 
Chuyện như thế này: 
Trung Tá Tòng, Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh/Bộ Tổng Tham Mưu đã tháp tùng Đại Tướng Cao Văn Viên đi ngoại quốc từ mấy ngày trước, và Trung Tướng Vĩnh Lộc cử Đại Tá Trần Văn Thăng -sĩ quan An ninh quân đội- giữ chức Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh/Tổng Tham Mưu đang khuyết. Đại Tá Thăng ra lệnh cho toán Quân Cảnh gác cổng số 1 Bộ Tổng Tham Mưu, không cho bất cứ ai vào nếu không có thẻ an ninh do Sĩ quan an ninh Tổng Hành Dinh/Tổng Tham Mưu đã cấp. Tôi có thẻ, nhưng không bao giờ mang trên túi áo mà là để trong cặp xách tay, và cái cặp thì tối qua tôi vẫn để trên bàn viết ở văn phòng. Tôi làm như vậy là vì tất cả những quân nhân trách nhiệm ở cổng gác này, không ai là xa lạ với tôi cả. Sĩ quan Quân Cảnh nói:

“Đại Tá thông cảm, vì lệnh của Đại Tá Thăng như vậy nên tôi phải thi hành”.
“Tôi hiểu. Bây giờ Đại Tá Thăng ở đâu vậy anh?
“Dạ Đại Tá Thăng dường như lên văn phòng Trung Tướng rồi Đại Tá”.
“Thôi được. Chốc nữa Đại Tá Thăng về lại văn phòng, anh nói là tôi không có mang theo thẻ an ninh nên không vào được, và tôi sang Biệt Khu Thủ Đô làm việc ở đó. Cám ơn anh nghe”.
“Đại Tá thông cảm cho tôi nghe Đại Tá”.
“Nếu tôi là anh, tôi cũng vậy thôi mà. Anh đừng bận tâm. Tôi đi đây”.

Đạn đại bác của quân cộng sản nổ nhiều ở Tân Sơn Nhất và bắt đầu nổ trong khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu trong lúc tôi đang nói chuyện với anh sĩ quan Quân Cảnh. Chúng tôi phải nép vào thân cây trước văn phòng Tổng Hành Dinh.
 
Sang trại Lê văn Duyệt, tôi ngồi tạm trong văn phòng Đại Tá Ngô Văn Minh, Tham Mưu Trưởng Biệt Khu Thủ Đô. Tôi báo cho Thiếu Tá Ông Kim Miêng bên Tổng Cục Tiếp Vận biết vị trí của tôi và dặn anh chuyển tất cả điện thoại sang tôi nếu có ai gọi.
 
Qua điện thoại, Trung Tướng Vĩnh Lộc đồng ý tôi ngồi ở Biệt Khu Thủ Đô điều hành công tác yểm trợ Tiếp Vận. Và ông cho biết là ông phải xuống dinh Độc Lập để dự lễ ra mắt chánh phủ lúc 9 giờ (sáng). Sau đó tôi mới biết là Trung Tướng Vĩnh Lộc cũng bỏ chạy như những vị Tướng đã bỏ chạy, mà chiều hôm qua, khi ông ra lệnh cho tôi ráng lo về Tiếp Vận, ông đã khá nặng lời với các vị ấy. 
 
Nhưng nghĩ cho cùng, Trung Tướng Vĩnh Lộc chỉ ngồi ghế Tổng Tham Mưu Trưởng vỏn vẹn có 18 tiếng đồng hồ, và là 18 tiếng đồng hồ cuối cùng của cuộc chiến 20 năm 9 tháng 10 ngày - tôi nghĩ - ông không phải là vị Tổng Tham Mưu Trưởng góp phần trách nhiệm về cái chết tức tưởi của một quân đội hơn 1.000.000 người!
 
Tại Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô. Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh, đã bỏ chạy rồi. Thiếu Tướng Lâm Văn Phát -người đảo chánh Trung Tướng Khánh ngày 19 tháng 2 năm 1965 thất bại- được Tổng Thống Dương Văn Minh cử giữ chức Tư Lệnh Biệt Khu. Chuẩn Tướng Lê Văn Thân, giữ chức Tư Lệnh Phó. Thiếu Tướng Phát từ sáng sớm đã lên trực thăng quan sát tình hình, vừa đáp xuống là ông gọi Tư Lệnh Không Quân cho các phi tuần khu trục liên tục oanh kích quân cộng sản đang quanh quẩn dọc con đường từ phía trên ngã tư Bảy Hiền lên đến Hóc Môn. Vị Tư Lệnh Không Quân lúc bấy giờ là Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Tần, vì Trung Tướng Trần Văn Minh (không phải là Trung Tướng Minh đã giữ chức Quyền Tổng Tư Lệnh quân lực sau khi Đại Tướng Nguyễn Khánh lưu vong), Tư Lệnh Không Quân đã cao bay xa chạy rồi. Và Bộ Tư Lệnh Không Quân cùng các phi đoàn còn lại, từ căn cứ Sư Đoàn 5 Không Quân Tân Sơn Nhất và căn cứ Sư Đoàn 3 Không Quân Biên Hòa, rút xuống căn cứ Sư Đoàn 4 Không Quân tại Trà Nóc, cách Cần Thơ khoảng 7 cây số. Tôi nói "các phi đoàn còn lại", là vì đã có nhiều phi công lái hằng trăm phi cơ các loại bay qua căn cứ Utapao của không quân Hoa Kỳ, về phía đông nam thủ đô Bangkok của Vương quốc Thái Lan, di tản.
Thiếu Tướng Lâm Văn Phát vừa đáp xuống sân Bộ Tư Lệnh, Chuẩn Tướng Lê Văn Thân bảo Đại Tá Ngô Văn Minh ghi lên bản đồ mà ông đang cầm trên tay, vị trí của các đơn vị bạn để ông bay quan sát và hướng dẫn các phi tuần khu trục tấn công các đơn vị địch. Khoảng một tiếng đồng hồ sau đó, chiếc trực thăng trở về nhưng không có Chuẩn Tướng Thân. Tôi hỏi ngay:

“Chuẩn Tướng Thân đâu rồi các bạn?-
“Chuẩn Tướng bảo tôi đáp xuống Cần Giờ, ổng xuống đó rồi bảo tôi về đi”.
“Vậy là Chuẩn Tướng Thân cũng chạy rồi”.

(Sáu tháng sau đó, tôi gặp lại Chuẩn Tướng Thân trong cùng trại tập trung Tam Hiệp, Biên Hòa, trại này người địa phương còn gọi là trại Suối Máu nữa)
Đại Tá Ngô Văn Minh từ trong Trung Tâm Hành Quân gọi tôi:

“Anh Hoa, anh nói chuyện với Lê Minh Đảo không? Hắn đang ở đầu máy bên kia nè”.

Đó là Thiếu Tướng (mới thăng cấp chưa kịp tổ chức lễ gắn cấp hiệu 2 sao) Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh, đã quần thảo với 2 sư đoàn quân cộng sản ở Xuân Lộc và gây cho chúng tổn thất rất nặng. Vì áp lực của chúng quá mạnh, nên Quân Đoàn III cho lệnh lui về căn cứ Long Bình.

“Chào anh Đảo, Hoa đây. Anh đang ở đâu vậy?
“Tôi ở chỗ "nhà máy xi măng Hà Tiên" và đang tìm xuồng qua sông. Tụi cộng sản nó đuổi theo sau lưng tôi nè. Hết rồi anh ơi!

“Dù gì thì anh đã đánh nhau với tụi nó một trận ngon lành, anh oai hơn nhiều vị Tư Lệnh khác mà”.
“Sao anh ở chỗ anh Minh?
“(Tôi mượn câu của anh để trả lời anh) "Hết rồi anh ơi"! Vì chỉ còn yểm trợ cho Biệt Khu thôi, và giờ này thì còn đơn vị nào nữa đâu. Thôi, chúc anh may mắn nghe, và mong rằng chúng mình vẫn còn gặp lại nhau là mừng rồi”.

Sau đó - tức sau giờ Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố buông súng và bàn giao- Thiếu Tướng Lê Minh Đảo dùng giấy tờ giả xuống Rạch Giá để hy vọng vượt thoát ra Hạm Đội 7 Hoa Kỳ, nhưng anh đã không thực hiện được và trở về nhà trong cùng cư xá với tôi. Sau này, có những năm chúng tôi ở tù chung trong một trại nhưng khác buồng giam.

Lúc 10 giờ 15 ngày 30 tháng 4 năm 1975
, từ máy thu thanh trong phòng Đại Tá Ngô Văn Minh, có âm thanh "... ông nói đi...., nhanh lên,.... chờ gì nữa,....". Một giọng nói gần như quát: "Ông tuyên bố nhanh lên..." Và đại ý lời của Tổng Thống Dương Văn Minh như là một mệnh lệnh đối với quân đội ".... các đơn vị không được nổ súng, ở yên tại chỗ và bàn giao cho lực lượng giải phóng...". Đối với phía cộng sản, ông yêu cầu đừng nổ súng và ông hứa sẽ bàn giao chánh quyền trong vòng trật tự.

Tôi xem đây là giây thứ 3.600, giây cuối cùng của giờ thứ 25, giờ cuối cùng của ngày thứ 7.583, và là ngày cuối cùng của một giai đoạn chiến đấu bảo vệ tự do dân chủ!
Thế là hết !!!

Tôi lặng lẽ rời nơi đây, theo đường Lê Văn Duyệt, rẽ sang đường Trần Quốc Toản, ép bên phải để ghé vào Cục Mãi Dịch, chào các cộng sự viên cũ của tôi. Trung Tá Nguyễn Văn Thình, Cục Phó, hỏi tôi cách bàn giao ra sao? Tôi bảo:

“Không bàn giao gì cả, các bạn nào muốn lấy gì thì lấy rồi thản nhiên ra về, ai muốn vào đây làm gì mặc họ”.
Dọc đường về nhà, những nơi mà tôi vừa đi qua, có biết bao bộ đồ trận -những bộ quân phục từng là biểu tượng quân phong quân kỷ của quân nhân- những mũ những giày, vất vưỡng ngỗn ngang trên đường phố. Trong dòng người ngược xuôi vội vã, có rất nhiều người quần đùi áo lót mà tôi tin đó là những đồng đội của tôi tạm thời lẩn tránh bọn cộng sản. (Hình ảnh này là một phần trong bản nhạc ''Như Lá Chết Cành Khô'' do cựu Đại Tá Phan Văn Minh -đã một thời là Đổng Lý Văn Phòng của Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ- sáng tác trong thời gian bị giam ở trại tập trung Hà Tây, tỉnh Hà Sơn Bình).
 
Quân cộng sản chưa thật sự có mặt trong thành phố, nhưng những tốp thanh niên nam nữ đeo băng tay đỏ với súng M16 trên tay và ngồi xe jeep chạy đó đây trong trên đường phố Sài Gòn. Đó là những bọn mà chúng tôi gọi là "cộng sản 30 tháng 4". Dù trong một tầm nhìn hạn hẹp đó, tưởng cũng đủ nói lên một cảnh tượng trong biết bao cảnh tượng đau thương ngập tràn trái tim Người Lính Việt Nam Cộng Hòa vì chưa tròn trách nhiệm với dân với nước!
 
Hơn một tiếng đồng hồ sau lời tuyên bố đầu hàng (không nổ súng có nghĩa là đầu hàng rồi!) của Tổng Thống Dương Văn Minh, đơn vị Thiết Giáp đầu tiên của cộng sản mới vào dinh Độc Lập. Và từ giờ đó, Việt Nam Cộng Hòa chúng ta bị nhà cầm quyền nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cai trị!
 
Trong lúc trên dưới 200.000 quân của Quân Đoàn IV, chưa một trận đánh quan trọng nào, cũng chưa một vị Tư Lệnh nào bỏ chạy, đã phải buông súng đầu hàng theo lệnh của Tổng Thống Dương văn Minh!
 
Trước đó, khi cuộc chiến chưa ngừng tiếng súng, có những vị Tướng đầy quyền lực, đã thật sự bỏ chạy ra nước ngoài. Và giờ đây, cuộc chiến thật sự đã tàn, và tàn trong ý nghĩa thua trận, bại trận, hay đầu hàng, hiểu thế nào cũng thế thôi. Nhưng trong cảnh bại trận này, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chúng ta, xuất hiện Những Vị Tướng Thật Sự Là Những Anh Hùng không kém những vị Anh Hùng trong lịch sử đã tuẫn tiết khi thành thất thủ. Đó là hành động tự sát ngay nơi nhiệm sở chớ không chấp nhận đầu hàng, của:

Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Quân Đoàn IV. (Cần Thơ)

Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV. Chuẩn Tướng Hưng đã được vinh danh "Anh Hùng An Lộc" trong mùa hè đỏ lửa 1972 ở chiến trường An Lộc, tỉnh Bình Long.

Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh. (Lai Khê, Bình Dương)

Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh. (Mỹ Tho)

Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II, tự tử tại nhà vì tên tuổi Quân Đoàn II đã bị chôn theo những nấm mồ vô danh trên đường liên tỉnh số 7 từ giữa tháng 3 năm 1975 rồi.

Ngoài ra, còn biết bao Quân Nhân thuộc các Quân Chủng, Binh Chủng, Binh Sở, Cảnh Sát, Viên Chức Hành Chánh các ngành, đã tuẫn tiết! Đó là "Những Anh Hùng Vô Danh" rất đáng cho chúng ta trân trọng.
Vào những ngày 30 tháng 4, tôi nghĩ, mỗi chúng ta nên dành vài chục giây đồng hồ, đứng hay ngồi ở đâu đó cũng được, cúi đầu, im lặng, để tưởng nhớ những vị Anh Hùng của chúng ta, những người đã cùng chúng ta cầm súng chống quân cộng sản xâm lược, nhưng vào giờ phút kết thúc bi thảm cuộc chiến đấu của chúng ta, những vị đó đã can trường thực hiện tròn vẹn lời thề trước bàn thờ Tổ Quốc trong ngày tốt nghiệp trường võ bị: "... Quyết hy sinh thân mình để bảo vệ Tổ Quốc Dân Tộc ..."
 
Và theo tôi, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh, là người rất xứng đáng được vinh danh "Anh Hùng Xuân Lộc" trong trận đánh sau cùng. Thiếu Tướng Đảo, dù bản doanh kế cận thủ đô Sài Gòn nhưng không bỏ chạy, mà trái lại, ông là vị Tư Lệnh duy nhất trong 3 Quân Đoàn, đã chống trả mãnh liệt và gây tổn thất nặng nề cho 2 Sư Đoàn quân cộng sản tấn công Xuân Lộc (thuộc tỉnh Long Khánh). Và Sư Đoàn 18 Bộ Binh chỉ rút lui khi có lệnh của Quân Đoàn III.
 
Một giai đoạn lịch sử do Tổng Thống Dương Văn Minh -vị Tổng Thống có nhiệm kỳ chỉ hơn 40 tiếng đồng hồ- vừa sang trang!
Dân Tộc Việt Nam, từ nay dưới sự thống trị của cộng sản độc tài nghiệt ngã!

Quê hương Việt Nam chúng ta,
dân tộc Việt Nam chúng ta,
sao mà bi thảm đến như vậy!
sao mà bất hạnh đến như vậy!
(Trích trong quyển “Đôi Dòng Ghi Nhớ” nhà xuất bản Ngày Nay ấn hành lần 4 vào tháng 7 năm 2007)
Houston, tháng 3 năm 2009
Phạm Bá Hoa

------------------------

Son H Cao
NGÀY NÀY 48 NĂM VỀ TRƯỚC: 2 tháng 5, 1975
Tigon Le

Bước sang ngày 2 tháng 5 , tình hình Côn Sơn đã tạm yên tĩnh . Ai muốn trở về đã có tàu nhỏ đưa về , ai muốn đi tiếp thì chờ lệnh .Sau một đêm chờ đợi , sáng mồng 2 chiến hạm bắt đầu nhúc nhích , chắc đã có lệnh di chuyển . Đêm hôm qua mình thật là lo , cứ nằm yên một chỗ , nếu như bọn Hà Nội cho lệnh cho tụi trong Nam cho máy bay lên thả bom đoàn tàu thì làm sao đây ? Nhưng không có gì xảy ra , tại sao , hẳn các bạn cũng đoán biết .

Được các niên trưởng HQ cho biết , từ Côn Sơn tới Subic Bay , nếu không gặp trở ngại , sẽ mất 5 ngày
Chi tiết chuyến hải hành cuả các chiến hạm chở nguời tỵ nạn từ Côn Sơn qua Subic Bay ( Internet )

* Từ Côn Sơn đi Philippines :
Các chiến hạm VNCH tập trung tại Côn Sơn và hoàn toàn chưa có chương trình..kế tiếp cho đến khi liên lạc với Hạm đội Hoa Kỳ (ngoại trừ HQ 802..đã lên đường đi thẳng sang Subic Bay).

Ngày 2 tháng 5, Hạm đội HQVNCH gồm 26 chiếc, đặt duới quyền chỉ huy của Tướng Cang, chia thành 3 hải đội :
- Một do Tướng Cang chỉ huy
- Một do Tướng Lâm nguơn Tánh (trên HQ 1) chỉ huy
- Một do Tướng Hoàng cơ Minh (trên HQ 3)
Chạy theo đoàn tàu còn có thêm 2 tàu đánh cá tư nhân.

Hải Quân Hoa Kỳ đã thành lập một lực lượng đặc nhiệm : Hạm đội Destroyer's Squadron 23 do Đề đốc Donald Roane, đặt bộ chỉ huy trên Chiến hạm Kirk (DE-1097) để yểm trợ cho Hạm đội VN Các chiếc hạm trong lực lượng này ngoài USS Kirk ( DE-1087), còn có USS Tuscaloosa (LST 1187), USS Cook, USS Deliver (ARS-23), USS Abnaki (ATF-96), USNS Lipan (T-ATF-85). Một số chiến hạm khác tuy không thuộc lực lượng đặc nhiệm này nhưng cũng góp phần vào công tác y tế và tiếp liệu cho đoàn tàu VN : USS Mobile (LKA-115), USS Balbour County (LST-1195) USS Vega (AF-59) và USS Denver (LPD-9).

(USS Kirk đã trực tiếp yểm trợ cho HQ 3, HQ 402 trươc khi bị đanh chìm và thương thuyền Tân Nam Việt..USS Vega tiêp tế cho cac tàu YFU-69, HQ 3 , HQ 800, HQ 801..

Chuyến hải hành từ Côn Sơn đi Phi dự trù sẽ kéo dài trong 5 ngày.

Ngay trong ngày đầu, các phi cơ phóng pháo Liên sô đã bay trên đoàn tàu, tuy nhiên không có những hành vi thù nghịch.

Bộ Quốc phòng HK, tuy đã sắp xếp trước để yêu cầu Chinh phủ Phi trợ giúp trong việc nhận khoảng 50 ngàn người tỵ nạn Việt và Campuchia tạm trú và sau đó sẽ được chuyển từ Phi sang Guam, nhưng lại không xin phép Chinh phủ Phi để đưa một đoàn chiên hạm đến Subic Bay. Tổng Thống Phi Ferdinand Marcos và Ngoại trưởng Carlos Romulo đều không muốn 'đụng chạm' với Chế độ 'mới' tại Nam VN.

Trong khi hạm đội VNCH đang từ từ di chuyển về hướng Phi, Chinh Phủ HK đã tìm được giải pháp : viện dẫn một điều khoản ghi trong các văn kiện chuyển giao chiến hạm từ HK sang cho VNCH là 'chủ quyền của chiến hạm sẽ được giao hoàn lại cho HK khi VNCH không còn dùng chung trong các hoạt động quân sự nữa..Và theo tinh thần này thì đoàn tàu HQ VNCH nay thuộc HK và có quyền đến Căn cư Subic Bay..Tuy nhiên CS Nam VN cũng chính thức lên tiếng đòi chủ quyền trên các chiến hạm đang di tản.

Trong khi các cuộc thương thuyết ngoại giao đang tiến hành, HQ HK đã nghĩ đến việc đưa cả đoàn tàu đi Guam, nhưng vơi số lượng người khoảng gần 30 ngàn và tình trạng thiêu an toàn về kỹ thuật của một sô chiến hạm VNCH, kế hoạch này khó thực hiện được.
Ngày 7 tháng 5, khi đoàn tàu gần đến hải phận Phi, cuộc tranh chấp vể chủ quyền giữa HK và CS Nam VN vẫn chưa được giải quyết. Ngoại trưởng Phi dọa sẽ 'bắt giữ' đoàn chiến hạm nhưng khi Đại sứ HK tại Phi bàn đến số phận của gần 30 ngàn người tỵ nạn trên các tàu sẽ là một'gánh nặng' mà Phi chưa bao giờ ..
nghĩ tới và cũng chưa sửa soạn để đối phó thì Ngoại trưởng Romulo đành chấp nhận giải pháp chuyển các chiến hạm VN thành chiến hạm HK và theo đó trườc khi vào lãnh hải Phi, đoàn tàu sẽ phài vưt bỏ đạn dược, xóa bỏ tên và số hiệu của từng chiến hạm , thay thế cờ VNCH bằng cờ HK..

------------------

 

 NHỮNG NGƯỜI Ở LẠI - THEO DẤU GIÀY SÔ

Họ là ai? Điều gì khiến họ vẫn cầm cự? Tiền bạc hay tánh mạng? Chẳng gì cả! Họ ở lại, cầm cự vì danh dự, vì tình yêu quê hương, vì yêu thương những gì sau lưng họ: những người mẹ già quẳng gánh, những người vợ hiền tảo tần nuôi con, những em nhỏ cặm cụi nghiêng bút trên giảng đường... 

Họ ở lại chẳng để lợi lộc gì cả, họ đều trẻ, đều xanh mái tóc, đều có một ước mơ, một tình thương quê hương đất nước. Họ chỉ đơn giản là cố gắng níu lấy chút niềm tin mỏng manh chót cùng rằng họ có thể bảo vệ quê hương khỏi bom đạn ồ ạt như mưa từ phía bên kia dội về người dân của mình.

Khi những thanh niên này ngã xuống, nhuộm máu mình vào dòng sông quê hương, ghi sâu lại gót chân mình trên các nẻo đường Đô Thành... Trong lúc đó, rất nhiều "anh hùng tự xưng" đã an toàn hạ cánh, nệm ấm chăn êm trên chiến hạm của Hoa Kỳ.

------------------


Ly Ba
BÓNG CHIỀU XƯA
Nâng chén rượu chúc mừng ngày thắng cuộc,
Hạ mâm trà,tủi nhục phận Tiên Rồng.
Bốn tám mùa Xuân,bạc màu con nước,
Bốn tám Xuân xưa ,khăn trắng ai trồng?
Sáng Tân an trời loang màu tang tóc,
Chiều Thủ thừa đất đón bước con về.
Người ở lại nghìn thu cùng sông núi,
Người còn đi,trọn kiếp lỡ câu thề.
Tổ quốc xa vời ,thẹn lời trách nhiệm,
Danh dự cưu mang theo bước mây ngàn.
Mây gió sầu,ánh sao xanh sớm rụng,
Nước non buồn ,chưa liệm bóng trăng tàn.
Nắng chiều soi bóng quan sang,
Đường chiều soi bóng thời gian bạc đầu.
Người đi ôm chuyện bể dâu,
Người về mang lấy thương đau mấy đời.
30-04-2023.
 
 
ngày 30/4/2023 



3 comments:

ĐàLạtNgàyVề said...

fb Son H Cao 1
Những trận đánh vang lừng Chiến sử – Thanh Dũng
Trong khoảng 20 năm tồn tại của Quốc gia Việt Nam Cộng Hòa, chiến cuộc dai dẳng khiến hằng triệu thường dân Miền Nam thiệt mạng, bị thương tích, mất nhà cửa. Quân Lực VNCH gánh trên vai áp lực bảo vệ cả cơ đồ Miền Nam – trước võ lực xâm lăng của Bắc Việt và sự đánh phá của các phần tử Cộng sản tại chỗ.
Để 20 triệu dân Miền Nam được thở bầu không khí tự do, Quân đội phải trả giá với khoảng 300 ngàn binh sĩ đền nợ nước, thêm 1.2 triệu thương tích. Như trong lời thơ của một thời chinh chiến :
… Giặc đánh lớn – mùa mưa đã tới.
Mùa mưa như một trận mưa liền.
Châu thổ mang mang trời nước sát.
Hồn chừng hiu hắt nỗi không tên.
Tiếp tế khó – đôi lần phải lục.
Trên người bạn gục đạn mươi viên.
Di tản khó – sâu dòi lúc nhúc.
Trong vết thương người bạn nín rên.
Người chết mấy ngày chưa lấy xác.
Thây sình mặt nát lạch mương tanh…
(Qua Sông – Tô Thùy Yên)
Qua hằng ngàn chiến trận lớn nhỏ khác nhau, người lính VNCH đã đứng vững – cho đến giờ phút cuối cùng, giữa một Sài Gòn ngã đạn. Sau đây là đôi nét nhìn lại cuộc chiến giữ gìn bờ cõi kiêu hùng của Quân Lực VNCH mấy thập niên trước.
Huế nước mắt Mậu Thân.
Cố đô Huế là chiến trường thảm khốc nhất trận Mậu Thân. Hơn 10 ngàn cán binh Cộng sản chiếm giữ Thành phố gần trọn Tháng Giêng 1968. Đây cũng là một trong những trận đánh hiệp đồng tác chiến lớn giữa Quân đội VNCH và các đơn vị đồng minh Hoa Kỳ. Chỉ 4 ngày sau khi mất Huế, từ Mồng 5 Tết, cùng với quân bạn đồng minh, Quân đội Miền Nam mở cuộc phản công (chánh yếu với các đơn vị Dù, Thuỷ Quân Lục Chiến, và Sư đoàn 1 Bộ binh của Tướng Ngô Quang Trưởng). Cộng quân trốn vô Thành Nội, đào hầm hố địa đạo cố thủ, nên quân bạn phải đánh hỏa lực mạnh, gây nhiều thiệt hại. Thành phố Huế bị tàn hại gần 80%; Thành Nội gần như hoàn toàn sụp đổ; cửa Ngọ Môn hư hại nặng… Cuối cùng, Cộng quân triệt thoái ngày 22-2-1968, chết ít nhất 2,500 Bộ đội.
Huế 1968.
Phía Quân đội VNCH cũng chịu hằng ngàn thương vong để chiếm lại Huế. Thêm hằng ngàn dân chúng bị thảm sát trong thời gian Cộng quân “giải phóng” đất Cố đô. Không chỉ thất bại Quân sự, cộng quân thua luôn thế trận Tâm lý chiến vì người Miền Nam lần đầu tiên nhìn thấy phương pháp “triệt để” của họ trên diện rộng.
An Lộc tử thủ.
Bốn năm sau Mậu Thân, Cộng quân hồi phục, mở trận Mùa Hè Đỏ Lửa. Từ đầu Tháng Ba 1972, Bắc Việt tung 14 Sư đoàn vào trận địa, với khoảng 120,000 lính và 1,200 chiến xa đủ loại. Thị xã An Lộc bé xíu, thuộc tỉnh Bình Long, gần biên giới Cao Miên, diện tích chừng 4 cây số vuông, với 45 ngàn dân – là 1 trong những mục tiêu chánh. Vì ở vị trí quan yếu, cách thủ đô Sài Gòn chỉ khoảng 100 km, An Lộc đã có thể trở nên “thủ đô” cho mặt trận cộng sản ở Miền Nam. Cộng quân tính đánh chiếm An Lộc trong một ngày, nhưng quân phòng thủ (chánh yếu là Sư đoàn 5 Bộ binh của Tướng Lê Văn Hưng và các đơn vị Biệt động quân) đã tử thủ trong khoảng 2 tháng trời. Phía cộng quân có ít nhất 3 Sư đoàn và nhiều đơn vị yểm trợ, lên tới 40,000 Bộ đội, cùng hằng trăm chiến xa. Sau 7 đợt tấn công ác liệt, Cộng quân thất bại, chết ít nhất 10,000 Bộ đội, hằng trăm chiến xa T-54 và đại bác bị bắn cháy. Mặt trận An Lộc hoàn toàn yên tĩnh ngày 9-6-1972.

ĐàLạtNgàyVề said...

fb Son H Cao 2
Cận chiến với chiến xa Bắc Việt bên trong Thị xã An Lộc.
Trong trận này, binh sĩ VNCH chứng tỏ can đảm, đánh xáp lá cà, cận chiến với Bộ đội Cộng sản trên từng thước đất An Lộc. Các lực lượng giải cứu (chánh yếu Sư Đoàn 21 Bộ Binh của Tướng Hồ Trung Hậu và các đơn vị Dù, gồm cả Biệt Cách Dù 81) phải hứng chịu… cơn mưa pháo kích của Cộng quân suốt 26 km từ Chơn Thành lên An Lộc. Mất hằng tuần lễ, họ vẫn tiến lên, cho đến ngày bắt tay được với quân phòng thủ. Trận An Lộc cho thấy quân đội Miền Nam tinh thần can cường, đủ sức bảo vệ quê cha đất tổ, một khi có hiệp đồng tác chiến và hỏa lực yểm trợ.
Quảng Trị – tái chiếm Cổ thành.
Thị xã Quảng Trị, vùng địa đầu giới tuyến, là một mục tiêu tối hậu khác của Cộng quân trong trận Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Đầu Tháng Năm, quyết định chiến thuật sai lầm của một vị Tư lệnh khiến xảy ra cảnh thảm sát trên “Đại Lộ Kinh Hoàng” và Cổ thành Quảng Trị bỏ ngỏ. Từ 28-6, tướng Ngô Quang Trưởng (Tư lệnh Quân Đoàn 1) chỉ huy cuộc phản công tái chiếm Cổ thành, chánh yếu với Sư đoàn Thủy quân Lục chiến của Tướng Bùi Thế Lân và vài đơn vị Dù.
Để cố thủ Quảng Trị, Cộng quân có ít nhất 4 Sư đoàn chủ lực, thêm pháo binh tầm xa, và 2 Trung đoàn chiến xa. Địch quân được tiếp tế đạn dược, lương thực, thuốc men thoải mái từ Cửa Việt. Phía Quân đội VNCH có lợi thế Không quân và Hải pháo – nguyên do của khoảng 80% thương vong cho Cộng quân. Kết quả : Toàn bộ 1,500 Bộ đội Cộng sản cố thủ trong cổ thành coi như bị xóa sổ; ước lượng thương vong của địch quân lên quá 10 ngàn. Phía quân bạn, Thủy Quân Lục Chiến thiệt hại nặng với trên 3,500 Quân nhân hy sinh, trung bình mỗi ngày có 150 binh sĩ Cọp Biển chết trận.
Đây là một trong những trận chiến ác liệt bậc nhất chiến cuộc VN – kéo dài gần 3 tháng, với tổn thất nặng nề cho cả 2 bên. Binh sĩ VNCH tỏ ra thiện chiến, chiếm lại Cổ thành, nhưng bờ Bắc sông Thạch Hãn, phần còn lại của tỉnh Quảng Trị, đành chịu mất luôn về tay Bắc Việt.
Tái chiếm Cổ thành Quảng Trị.
Đây là nơi hẻo lánh hiểm trở, không mấy ai muốn tới, dù chỉ cách Đà Nẵng khoảng 60 cây số về hướng Tây. Nó nằm trên trục đường “Đông Trường Sơn” hệ trọng cho Bắc Việt. Ngày nào Thường Đức còn đứng vững, canh gác “Đường 14”, thì Cộng quân không thể thoải mái đi lại, chuyển quân về uy hiếp Sài Gòn. Phía VNCH chỉ có Liên Đoàn 14 Biệt Động Quân bảo vệ. Bắc Việt gom góp đến 3 Sư đoàn để đánh Thường Đức từ 29-7-1974, khiến nơi này thất thủ nhanh chóng. Tiểu Đoàn Biệt Động Quân 79 oai hùng, chiến đấu gan lì, bị xoá sổ. Từ 8-8-1974, các đơn vị của Lữ đoàn Nhảy Dù tổ chức phản công. Tuy nhiên, đối phương lập tuyến phòng thủ chắc chắn, quyết giữ bằng được Thường Đức. Giao tranh chánh yếu diễn ra trên ngọn đồi 1062 phía Đông Thường Đức. Nhiều lần ngọn đồi đổi chủ, với trên 1,000 Cộng quân mất mạng và nhiều ngàn bị thương. Bên Quân đội VNCH, có nhiều đơn vị Dù thiệt hại quân số trên 50%. Cuối cùng, VNCH chiếm giữ đồi 1062, nhưng không lấy lại được Thường Đức.
Thường Đức và Đồi máu 1062.
Xét về mức độ ác liệt, trận Thường Đức có lẽ chỉ kém trận Cổ Thành Quảng Trị và trận An Lộc. Đây là Quận lỵ đầu tiên của VNCH rơi vào tay Bắc Việt sau hiệp định đình chiến Paris 1973. Các lực lượng Cộng sản nổ súng để đo lường phản ứng của VNCH và đồng minh. Thất thủ êm thấm, Thường Đức trở nên con cờ Domino đầu tiên trong cuộc cờ lớn của các siêu cường, với thân phận và xương máu Quân dân Miền Nam bị hy sinh trong trò chơi lịch sử.
Xuân Lộc phòng tuyến chót.

ĐàLạtNgàyVề said...

fb Son H Cao 3
Vào những ngày thập tử nhất sinh cuối Tháng Ba đầu Tháng Tư 1975, VNCH lập phòng tuyến Xuân Lộc để bảo vệ cửa ngõ phía Đông của Sài Gòn, chịu trách nhiệm chánh là Sư đoàn 18 của Tướng Lê Minh Đảo. Tại đây, Quân đội Miền Nam có khoảng 12,000 tay súng, lâm vào cảnh phải đương đầu địch quân với 40,000 bộ đội từ 4 Sư đoàn, và nhiều lực lượng yểm trợ khác. Chiến trận diễn ra từ 9-4 đến 20-4, sau cùng Sư đoàn 18 triệt thoái về hướng Sài Gòn. Trận đánh đẫm máu nhất tại Dầu Giây, Chiến Đoàn 52 Bộ Binh đánh trong thế 1 chọi 10. Khi hầm chỉ huy bị sập, Chiến đoàn trưởng lui binh chỉ còn 200 người sống sót. Sư đoàn 18 tính chung thiệt hại 30% quân số. Cũng trong trận này, Không quân VNCH mang 2 trái bom Daisy Cutter, được mệnh danh là “tiểu nguyên tử” thả lên vùng tập trung của Bắc Việt tại ngã ba Dầu Giây, với lúc nhúc chiến xa, đại pháo, gây thiệt hại không nhỏ.
Đại Đội 92 TĐ 9 Dù ở Trảng Bom chuẩn bị vào Xuân Lộc tháng 4, 1975.
Xuân Lộc là trận đánh lớn cuối cùng của một đại đơn vị Quân lực VNCH trong chiến tranh Việt Nam. Đây cũng là trận hiệp đồng tác chiến sau chót với đơn vị bạn của Không Quân VNCH, sử dụng phản lực cơ A-37 và F-5. Giai đoạn đầu, Xuân Lộc giúp nâng cao tinh thần binh sĩ, đem lại chút hy vọng kháng cự cho Dinh Độc Lập. Về sau, nỗ lực của Sư đoàn 18 có thể đã giúp mua thêm chút thời gian cho dân chúng Sài Gòn di tản, chạy trốn Cộng sản.
Sài Gòn ngày cuối.
Quân đội VNCH, vào cuối tháng 3-1975, sau khi Quân Đoàn 1 và 2 thất thủ, chỉ còn khoảng 1/2 binh lực. Bốn tuần sau đó, thêm Quân Đoàn 3 kể như cũng tan rã. Chỉ còn Biệt Khu Thủ Đô bảo vệ Đô thành Saigon với vài chục chiến xa M-41 và M-48, một số chiến đấu cơ và trực thăng, và những đơn vị lẻ tẻ. Để đối đầu khoảng 20 Sư đoàn của địch quân, với hàng ngàn chiến xa, trọng pháo đang từ mọi ngả rầm rập kéo về Sài Gòn. Mặc dù không còn gì có thể cứu vãn, một số đơn vị và binh sĩ vẫn tổ chức kháng cự đến phút cuối cùng. Cầu Rạch Chiếc (trên xa lộ Sài Gòn – Biên Hòa, cách dinh Độc Lập 7km) tổ chức phòng thủ chắc, đêm 27-4 đến sáng 30-4 còn quần thảo ra trò với đối phương. Binh sĩ Thủy quân lục chiến, một chi đội Thiết giáp pháo binh, chiến hạm của Hải quân Sài Gòn ở Tân Cảng, các đơn vị Liên Trường Thủ Đức… phối hợp đánh giặc trận cuối, kết quả có 52 Cán binh Cộng sản đã bỏ mạng ở cầu này.
30 tháng 4 – Cổng trại Phi Long, Lăng Cha Cả. Xe tăng Bắc Việt bị M72 bắn cháy.
Các Quân nhân Liên đoàn Biệt Cách Dù 81 vẫn giữ an ninh cho Bộ Tổng Tham Mưu đến trưa ngày 30-4-1975. Nhiều xác xe tăng Cộng sản cháy rải rác từ Ngã Tư Bảy Hiền sang Lăng Cha Cả. Thiết giáp Cộng sản qua Hàng Xanh, bọc cầu Thị Nghè để tiến vào dinh Độc Lập, thì gặp quân Dù kháng cự, bắn cháy vài chiến xa và Quân xa. Ngay sau khi vị Tổng thống cuối cùng của VNCH kêu gọi binh sĩ Miền Nam buông súng, vẫn còn giao tranh ở ngã tư Hồng Thập Tự và Lê Văn Duyệt, cách Dinh Độc Lập không xa. Bốn binh sĩ Dù quần thảo với địch quân lần chót trong khoảng 45 phút, đến hết đạn rồi tất cả cùng tự sát.
Những binh sĩ này nằm xuống trong giờ phút chung cuộc của Miền Nam tự do. Họ yên nghỉ khi tóc vẫn còn xanh, mộng đời còn chưa trọn. Họ thuộc về hằng trăm ngàn Chiến sĩ khác, hữu danh và vô danh, đã Vị quốc vong thân. Họ là hình ảnh những tấm gương kiêu dũng, nhưng cũng ít nhiều cô độc, trong cuộc chiến bi hùng của Quân đội Miền Nam.
Thanh Dũng