Saturday, April 1, 2023

Đàn Bò Vào Thành Phố (30/4/75) - fb Thảo Dân

Đàn Bò Vào Thành Phố (30/4/75)

fb Thảo Dân
fb Lê Minh Khôi
Những ngày cuối tháng Tư năm 1975, lớp lớp đoàn quân giải phóng ào ạt tiến về Saigon trong niềm vui còn sống tới ngày thống nhất, trong niềm hạnh phúc vô biên vì lý tưởng chiến đấu họ đã hoàn thành. “Ta đi trong muốn ánh sao vàng, rừng cờ tung bay rộn ràng bao mê say những bước chân dồn về đây. Sài Gòn ơi! Vững tin đã bao năm rồi một ngày vui giải phóng” (Đất nước trọn niềm vui- Hoàng Hà).
------------------- 
 
-------------------
 
 ----------------
........................... 

Đoàn quân giải phóng đã thắng 2 tên thực dân đế quốc lớn nhất thời đại, chỉ vừa bước chân về tới Saigon, sau men say chiến thắng là bộc lộ những hạn chế, những lạc hậu, đồng thời choáng ngợp về một thế giới sang giàu phồn vinh thật chứ không phải “giả tạo”. 
 
Những người lính Bắc Việt trẻ măng hớn hở rạng rỡ lần đầu được ngồi lên chiếc xe gắn máy, hoặc sự ngạc nhiên tột độ khi ngồi xuống một gian hàng bán đủ thứ mặt hàng vô cùng phong phú dọc hè phố Saigon, một phóng viên chiến trường phe cách mạng hào hứng, cầm chiếc máy ảnh được sản xuất từ phương Tây và tò mò bấm thử, một anh cán bộ đầu đội mũ cối, chân đi dép râu, mặc bộ quân phục ka ki Nam Định xanh lá rộng thùng thình phải thắt tới nút cuối cùng của chiếc xanh tuya, hãnh diện đeo chiếc kính mát đen sì và chiếc đồng hồ mới thửa trên cổ tay gầy rộc, vai đeo một chiếc radio mua vội. Rất nhiều tấm hình lưu trữ khoảnh khắc lịch sử này có thể dễ dàng tìm trên mạng.
 
Họ mau chóng thể hiện những hồn nhiên đến ấu trĩ, những ngơ ngác đến tội nghiệp, lâm vào bao tình huống dở khóc dở cười, trở thành nhân vật trong những câu chuyện hài hước mỉa mai của quân dân cán chính miền Nam. Vô số hài thoại qua những tập ngữ mới lạ, trở thành “ký hiệu” thể hiện sự coi thường, khinh bỉ đi sâu vào trí não người miền Nam. Trên sách báo và câu chuyện đời thường của người miền Nam từng sống thời hậu chiến, nó vẫn được, bị nhắc lại một cách đầy thành kiến, mà hậu sinh nếu không được giải thích thì sẽ không hiểu người ta nói gì.
 
-Cái nồi ngồi trên cái cốc => Chỉ ly cà phê phin (một vật dụng có từ thời Pháp ở cả 3 miền Nam, Trung và Bắc kỳ chứ không hề xa lạ).
 
-Cái lọc cà phê => Chiếc áo ngực của phụ nữ miền Nam.
-Đồng hồ không người lái 12 cửa sổ (đồng hồ Seiko thời đó chạy tự động, không lên giây như đồng hồ của Nga, ở mỗi vị trí ghi giờ, thay vì các con số thì đính một viên nhựa khối vuông giả hột xoàn, óng ánh như cửa sổ sáng đèn).
-Tivi, tủ lạnh chạy đầy đường.
-Kem ăn không hết phải đem phơi.
 
Món hàng khi đó bộ đội yêu thích, hay mua để đem ra Bắc được gói vào 3 từ “Đạp- Đồng- Đài” (Xe đạp- đồng hồ- radio).
 
Mỗi lần đọc thấy một hài thoại như vậy, tôi có buồn không?
Có. Rất buồn. Và xót xa.
Vì trong đoàn quân Bắc Việt đó, có ông ngoại tôi, một giảng viên chính trị của Học viện Quân sự, sau này đóng ở Đà Lạt, người đã từ chối những ưu đãi dành cho cán bộ Việt cộng lấy từ tài sản của quân dân chế độ Saigon, tới khi về hưu vẫn ăn cơm tập thể nằm giường cá nhân. Món quà tôi nhớ nhất mỗi lần ông về phép là chiếc mũ nhựa có thể gấp lại cho trong túi đi học, ngoài ra, không có gì cả. 
 
Tất cả những gì mà gia đình có được, là do sự đảm đang, tháo vát và cả sự nghiệt ngã với con cái của bà ngoại tôi mà có. (Cần lưu ý, nếu các bạn trẻ tìm hiểu về Học viện quân sự Đà Lạt trên Wikipedia, rất dễ nhầm tưởng rằng Học viện này là của chế độ cọng sản lập ra, vì người viết không rõ là do kiến thức kém hay cố ý nhập nhèm, nhưng trên thực tế, nó được tiếp quản từ chế độ VNCH, nơi này vốn là trường võ bị Quốc gia Đà Lạt, một cơ sở cao cấp đào tạo sĩ quan của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, tồn tại 25 năm, từ 1950- 1975, nơi xuất thân của rất nhiều tướng lĩnh tài ba). 
 
Ông ngoại cũng chính là người khi nói nói tới gia đình họ Ngô bao giờ cũng bằng một thái độ kính trọng, gọi là Cụ Diệm. Những ngày ông về hưu (ông đã cùng các cậu tôi rời quê sau khi cụ tôi mất), tôi may mắn được sống gần ông, được lục lọi tủ sách lúc nào mở ra cũng sực nức mùi băng phiến. Sách nước ngoài hầu như toàn văn học Xô viết, nhà văn Việt Nam ông yêu thích là Hữu Mai. Ông cho tôi đọc cả những cuốn sách phát hành rồi bị thu hồi như: Mùa Nhãn Chín (tôi đã quên tác giả), Ly Thân (Trần Mạnh Hảo), Những Thiên Đường Mù (Dương Thu Hương), khác hẳn với ông bố giáo điều và cả tin của tôi, luôn kiểm soát tất cả những gì tôi đọc và nghĩ, nên Truyện Kiều cũng thuộc vào danh mục sách cấm, tới mức tôi phải láu cá lột bìa cuốn Bất Khuất của Nguyễn Đức Thuận để bọc vào tất cả mọi quyển, mỗi khi bố tôi lảng vảng tới gần, tôi chỉ cần giả vờ lơ đãng gấp sách lại, để hiện lên cái bìa sách Bất Khuất to đùng tôi tỉ mẩn tô vẽ là che mắt được mắt bố. 
 
Bố tôi cả tin đến nỗi mỗi khi tôi bướng bỉnh, lại mắng, Mày đọc Bất Khuất cho lắm vào.
 
Trong đoàn quân đó có bố tôi, một anh bộ đội Trường Sơn suốt từ 1964 đến năm 1976 mới xuất ngũ. Tài sản mang về là mấy bộ kim châm cứu (kỷ vật của cô người yêu cũ ở chiến trường) và bệnh sốt rét kinh niên. Để chữa khỏi bệnh cho bố, gia sản nghèo nàn của nhà tôi sạch bách. Mẹ tôi phải bán đi cả chiếc kiềng bạc của em tôi, bán đi chiếc nón lá Hà Đông được tặng, chưa dám đội lần nào và vô vàn sáng trưa chiều tối lọ mọ đạp xe, đi bộ khắp hang cùng ngõ hẻm của huyện để tìm thuốc và về hì hụi ninh, sắc cho bố uống.
 
Có chú họ tôi, mà mỗi lần nhắc chú, mẹ tôi đều kể lại câu chuyện đêm trước chú đi B, được về nhà, đã ra ngó từng gốc cây trong vườn, đã chạy khắp các đường làng rồi chạy vào bế tôi, đứa cháu nội đầu tiên của chi (một nhánh trong nội tộc), khi đó mới vài tháng tuổi rồi lại hối hả chạy bộ lên chỗ tập trung. Câu nói của chú tới giờ mẹ tôi vẫn nhắc, Em nhớ nhà, nhớ làng, nhớ cháu lắm chị ơi, nhớ từ nồi nước giải giở đi. (Quê tôi hồi đó thường để một cái nồi đất to ở góc vườn, đi giải vào đó để pha ra tưới rau).
 
Có một đồng hương của tôi, sau khi giải ngũ về làng, lúc nào cũng ngẩn ngẩn ngơ ngơ, xa lánh mọi người, ai nói gì cũng chỉ khe khẽ cười nhạt, đêm đêm trùm chăn nghe đài BBC, người vợ trẻ đang tuổi khao khát hạnh phúc lứa đôi cặp bồ với hết người này người khác, ông cũng chỉ khe khẽ cười đau khổ. Hễ ai bất bình hộ mà bâng quơ nhắc nhở xa gần, thì ông thở dài, Cả làng, cả nước này bị lừa chứ nói gì một người đàn bà. Kệ người ta.
 
Bởi thế, tôi trân trọng và thương xót người lính Bắc Việt bằng một cảm xúc máu thịt chân thành. Đằng sau cái ngô nghê ấu trĩ đó, là sự thật đói nghèo của miền Bắc lúc bấy giờ. Những tiện nghi quá đỗi bình thường với dân miền Nam như quẹt gaz, máy casesstte, quạt máy, đồ chơi điện tử…tới những vật dụng của gia đình trung lưu như máy hát đĩa, ti vi, tủ lạnh, xe máy, ô tô…là một thế giới trong mơ, không có thực ở miền Bắc. Sự hợm hĩnh dốt nát của họ là để che đậy mặc cảm tự ti của kẻ chiến thắng biết mình chiến bại, bại vì thua sút đối thủ cả vật chất lẫn tinh thần. Những người có học hành, hiểu biết thì sớm giật mình, bàng hoàng nhận ra mình đã nhầm. Thế nên mới có một Dương Thu Hương ngồi sụp xuống khóc nức nở giữa đường phố Saigon, để bắt đầu giai đoạn nhận thức phản tỉnh triệt để. Có một người lính trong bài thơ Phan Huy: “Tôi còn nhớ sau cái ngày “thống nhất”/ Tôi đã vào một xứ sở thần tiên/ Nếp sống văn minh, dân khí dịu hiền/ Cơm áo no lành con người hạnh phúc…Trước mắt tôi một miền Nam sinh động/ Đất nước con người dân chủ tự do/ Tôi đã khóc ròng, đứng giữa thủ đô…”.
 
Câu hỏi đặt ra, Nếu bất kỳ ai trong số dân miền Nam mà sống trong lòng miền Bắc, được giáo dục như bao thế hệ người miền Bắc từ 1954 trở về sau này, liệu có khá hơn, hoặc khác hơn họ không? Tôi không dám chắc.
 
Nói về đói khổ ở miền Bắc những năm tháng đó, thì có lẽ chỉ cần lấy 2 ví dụ. Người phụ nữ tới kỳ kinh nguyệt, nếu không dùng giẻ rách từ quần áo cũ để thấm máu, thì sẽ dùng tro bếp gói vào trong miếng vải cũng từ đồ cũ, đóng làm khố cho qua những ngày khổ sở. Lương thực cũng thiếu đến nỗi, để ghìm khẩu vị lại, có nơi, người dân phải hấp vào nồi cơm một loại lá đắng, đắng không thể ăn thêm bát thứ 2. Câu chuyện thứ nhất, bà tôi kể. câu chuyện thứ 2 từ hồi ức của Lê Minh Hà trong tập Những triền xưa ai đi. Cuộc sống bần hàn như vậy, dễ hiểu rằng, những tiện nghi tối thiểu mang dấu ấn hiện đại không xuất hiện ở xã hội miền Bắc, trong hầu hết gia đình. Ai rất giàu mới có chiếc đài Orionton, mà mấy bác hàng xóm nhà tôi đọc là Ô ri ông tông. Xe đạp thì phải gắn biển số. Đó gần như là những thứ vật chất giá trị nhất. Huống hồ những thứ “xa xỉ” mang tính tiểu tư sản như phin pha cà phê hay áo ngực, quần lót cho phụ nữ.
 
Về văn hóa giáo dục thì sao?
Phạm Thanh Trúc

 
“ Nhìn qua phương Tây, bên ấy có xu hướng đặc tả lớp trẻ nhỏ và thanh thiếu niên là nạn nhân, những khổ đau mà các em phải nhận lãnh trong chính trị và xung đột quân sự là oan uổng vì trẻ thơ tượng trưng cho những gì thuần khiết và trong trắng. Thế nhưng những diễn ngôn bên phe xã hội chủ nghĩa thời Chiến tranh Lạnh thường biến hình ảnh thanh thiếu niên và thiếu nhi, cũng như nhi đồng “trở thành những chiến binh cách mạng gắn liền với lập trường chính trị của cuộc đấu tranh giai cấp ” (“Making Two Vietnams” by Olga Dror. ‘Việt Nam Nước Chia Hai Đàng’ trang 15 - Le Tung Chau dịch).
 
Nhận xét đó là xác đáng, với thiếu nhi của tất cả các nước XHCN nói chung và thiếu nhi Bắc Việt nói riêng. Ở đây, xin nhắc riêng về thiếu nhi và người dân Bắc Việt.
 
Trẻ em từ 6-9 tuổi nằm trong Đội Nhi đồng. Từ 9-15 tuổi trong Đội thiếu niên. Không phải đứa trẻ nào cũng dễ dàng được vào Đội Thiếu niên. Vì thế, bọn trẻ bằng mọi cách phải cố gắng hết sức của mình để được đeo khăn quàng đỏ, dấu hiệu nhận biết những cá nhân có tinh thần phấn đấu triệt để. Là một tổ chức nằm trong hệ thống chính trị nên Đội được giám sát bởi Đoàn Thanh niên (Ban đầu là Đoàn Thanh niên Lao Động, sau đổi thành Đoàn Thanh niên Cộng sản HCM), và Đoàn lại được sự kiểm soát, dẫn dắt sát sao của tổ chức đảng (Ban đầu cũng là đảng Lao động, sau đổi thành Đảng Cộng sản đúng với bản chất). Một người từ ấu thơ đến trưởng thành, một mặt bị giám sát bởi tầng tầng lớp lớp tổ chức, bị chính trị hóa, mặt khác lại phấn đấu trở thành thành viên của nó, coi đó là tiêu chí chứng minh mình ưu tú hơn thành phần còn lại. Đó là cả một hành trình gian khổ, khắc kỷ, loại bỏ tối đa những yếu tố cá nhân, để chỉ còn là một sản phẩm hoàn hảo của định hướng, nghĩ chung một dòng, nói chung một giọng. Cuộc đời trở thành những cuộc thi đua không có điểm dừng. Thi đua “Làng sạch đồng xanh”, thi đua làm “Kế hoạch nhỏ”, “Ngàn việc tốt”, thi đua chào mừng sinh nhật bác "Em yêu bác Hồ Chí Minh", sinh nhật đảng "Ngàn hoa việc tốt dâng Đảng quang vinh", thể hiện tình đoàn kết với miền Nam: "Em sẽ về thăm miền Nam Tổ quốc thành đồng yêu dấu", hoặc bày tỏ tình cảm với các lực lượng vũ trang: "Em yêu anh bộ đội". Bao quát tất cả là phong trào thi đua ‘Thực hiện 5 điều bác Hồ dạy”. Danh hiệu Cháu ngoan Bác Hồ là “chứng chỉ” sát hạch phẩm chất chính trị của các công dân tí hon. Và như thế, khái niệm ngoan, đồng nghĩa với sự vâng lời, tuân phục và sùng tín. Ở các lứa tuổi trưởng thành, vẫn là phong trào thi đua. Thanh niên “Ba sẵn sàng”, “Năm xung phong”, phụ nữ “Ba đảm đang”, “Giỏi việc nước đảm việc nhà”, Trí thức “Ba quyết tâm”, Quân đội “Ba Nhất” “Thi đua Quyết thắng”, Giáo dục “Hai tốt”, Nông nghiệp: “Gió Duyên Hải”, Tiểu thủ công nghiệp: “Gió Đại Phong”… Thi đua trở thành một thứ tiêu chí để đánh giá thứ hạng công dân, buộc họ phải vắt kiệt sức phấn đấu để thể hiện lòng trung thành và nhiệt tình cách mạng.
 
Chương trình giáo dục các môn xã hội gần như trùng khớp với quan điểm xuất bản văn hóa. Các ấn phẩm thơ ca nhạc họa dành cho thiếu nhi nói riêng và các tầng lớp nhân dân nói chung, cùng nhằm tới những mục tiêu: Giáo dục lòng yêu chế độ đồng nghĩa lòng yêu nước, lòng căm thù giặc Mỹ và tay sai, tinh thần đấu tranh giai cấp và cách mạng triệt để, lòng sùng bái lãnh tụ… Để đạt mục tiêu giáo dục, thậm chí, người ta không ngần ngại ngụy tạo những nhân vật anh hùng như Lê Văn Tám, Nguyễn Văn Bé, cô du kích Nguyễn Thị Kim Lai… Mọi công dân không có khái niệm bi quan nản lòng và mơ hồ dao động, hoặc ít nhất, không được tỏ ra như vậy, nếu không muốn gặp rắc rối, bị bêu riếu, xa lánh, kỳ thị, bị triệt đường học hành, làm ăn, sinh sống, bị dồn vào đường cùng. Trên thực tế, số người bi quan, dao động rất ít, thuộc về những người có học hành, hiểu biết hơn số đông còn lại.
 
Để đến với người đọc, tất cả sách báo đều được kiểm duyệt qua rất nhiều khâu từ bản thảo tới in ấn, xuất bản. Đường lối và phương châm giáo dục này hằn sâu trong trí não từ trẻ thơ tới khi trưởng thành, định hình nếp tư duy một chiều, định hướng, triệt tiêu phản biện, tin tưởng tuyệt đối vào những gì đã được giáo dục, dạy dỗ, tin vào số đông, bất kỳ ai sống khác, nghĩ khác là bị liệt vào thành phần bất hảo, cần phải giáo dục lại.
 
Từ đời sống thường nhật tới thông tin, văn hóa đều bị bưng bít. Đồng nghĩa với việc người miền Bắc nói chung và người lính Bắc Việt nói riêng, trở nên tức cười trong mắt những người anh em bên kia vĩ tuyến, những người nếu không phải đều được thụ hưởng cuộc sống văn minh Tây phương, cả về vật chất lẫn tinh thần, thì cũng không tới nỗi xa lạ với nó.
 
Người miền Bắc thành thực tin rằng đồng bào miền Nam đói khổ ngày đêm bị rên xiết dưới gót giày Mỹ ngụy, thành thực tin rằng, bằng máu xương của mình, sẽ giải phóng đồng bào, những người cùng dòng máu Lạc Hồng khỏi kẻ ngoại bang, sẽ xây dựng một đất nước Việt Nam thống nhất, độc lập tự do.
 
Vì thế, bao nhiêu lá đơn tình nguyện nhập ngũ viết bằng máu. Bao nhiêu chàng trai còi cọc chưa trổ ria mép đã thủ trong túi quần mấy kg gạch đá vào túi quần để đủ cân nặng ra chiến trường.
 
Vì thế, bao nhiêu cô gái buộc gọn mái tóc dài, xung phong tới nơi bom đạn, để lại những Rừng Cười con gái đầy ám ảnh, để ngày trở về, trễ muộn, nhan sắc tàn phai, chỉ tuổi tác là dày thêm mãi, tuổi già cô độc không chồng, không con, trên mình mang đủ loại tật bệnh. Bao nhiêu máu xương trải dọc Trường Sơn? Bao nhiêu trai gái độ tuổi yêu đương nằm xuống khi chưa từng có một nụ hôn, chưa từng cầm tay người khác giới?
 
Vì thế, giấy báo tử bay đầy mái rạ, mẹ vẫn tiễn chồng rồi tới con đi. Có ai mong làm Mẹ Việt Nam anh hùng.
Ngược lại, ở miền Nam, với không khí học thuật cởi mở, đề cao dân tộc tính, đề cao tinh thần dân tộc, giáo dục lòng tự hào về dòng dõi con Lạc cháu Hồng, tình yêu quê hương bản quán, thông qua những bài dạy luân lý nhẹ nhàng, kết hợp hài hòa các nội dung văn hóa dân tộc, văn minh Tây phương và luân lý Khổng Nho, không giáo dục lòng căm thù, không có thần tượng chính trị, được gia đình, nhà trường và xã hội bảo bọc, che chắn “dựng một chốn trú ngụ an toàn giữa hai lằn đạn” để sống hồn nhiên, phát huy tối đa những phẩm chất ưu tú, cống hiến cho Quốc gia và thành nhân, thành danh ở vào khi tuổi đời còn rất trẻ. Họ thành nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ, thành sĩ quan, thành lính trận, thành những nhà quản trị quốc gia, đồng thời họ có thể lặn ngụp trong phong trào hippie với triết học hiện sinh thời thượng từ nước Mỹ xâm nhập để đi tìm bản ngã. Đó là nền văn hóa giáo dục Dân tộc- Nhân bản- Khai phóng. Bên cạnh khơi gợi lòng tự hào về bản thân, quê hương, dân tộc, họ còn được thực hành đức tính khiêm nhu, lễ độ. Điều đó càng khiến cho miền Nam nhìn người bộ đội từ rừng tràn xuống như những kẻ đói khổ, quê mùa, dốt nát và hợm hĩnh, và hố sâu ý thức hệ càng lúc càng sâu rộng mãi thêm ra khi “cách mạng” tiếp quản miền Nam, và giam cầm quân dân cán chính VNCH trong những trại cải tạo...
 
So sánh về văn hóa- giáo dục giữa hai miền như thế, để lý giải phần nào nguyên nhân sự hồn nhiên, ngô nghê và cả tâm thế phức hợp, đan xen giữa thái độ ngạo mạn của bên thắng cuộc lẫn mặc cảm thua kém về văn hóa và vật chất trước kẻ chiến bại.
 
Tôi không dám hi vọng thế hệ từng đổ máu trong chiến tranh, những người bị ly tán gia đình, mất thân nhân sau 1975, những người phải rời bỏ quê hương xứ sở để tìm đường sống có thể quên đi thù hận. Tôi không dám hi vọng lớp người đi trước có cái nhìn thay đổi về đối phương, cho dù, tôi chứng kiến một số tình bạn đẹp khác chiến tuyến. Nhưng, tôi ao ước rằng, thế hệ tôi, thế hệ con cháu tôi hãy hiểu và nhìn nhau bằng cái nhìn nhân ái. Cả từ hai phía. Dù là con em bên này hay bên kia, thì cùng sống trên dải đất này, từ khi thống nhất, chúng ta đều cùng chung một nền giáo dục, chung một vòm trời. Chúng ta, vô tình hay hữu ý, vẫn được giáo dục để nuôi nấng lòng căm thù. Nhưng lòng căm thù có giúp quốc thái dân an không? Không. Có thay đổi được xã hội không? Không. Lịch sử không thể nào thay đổi, nhưng tương lai có thể thay đổi. Chỉ có thể viết một chương mới bằng tấm lòng nhân văn, nhân ái, nếu không, sẽ mãi là “Một nỗi buồn mênh mông sâu thẳm cho phận dân mệnh nước mình”, như lời một người bạn tôi.
 
(Bài viết có tham khảo tư liệu trong cuốn “Making Two Vietnams” by Olga Dror. Việt Nam Nước Chia Hai Đàng - Le Tung Chau dịch).
* Hình ảnh: Những người lính Bắc Việt trên đường phố Saigon, lấy từ internet.
Le Van Quy chia sẻ 
--------------
 
Mac Phi Hoang
KHI VẸM NÔ ĐI GIẢI PHÓNG
Khi Vẹm nô đi giải phóng
theo lệnh quan thầy Trung Xô
chúng trương lá cờ liềm búa
và hình giặc nước họ Hồ
Chúng tru bài kinh ma quái
như bầy thú dữ rừng hoang
“vô sản năm châu đoàn kết
cướp sạch của cải trần gian”
Rồi từ hang chồn ổ cáo
núi cao vực thẳm rừng sâu
chúng tràn lên về thành phố
hủy diệt sự sống hoa màu
Chúng là tốt đầu đánh mướn
không nhà, tổ quốc, quê hương
giành chiến thắng bằng mọi giá
gian trá, bạo tàn, vô lương
Chúng xưng anh hùng giải phóng
thủ đô nhân phẩm con người
trung tâm lương tri thời đại
chế độ ưu việt nhất đời

Chúng lên mặt khoe văn minh
dạy dân ta nếp sống mới
của loài khỉ đột tinh tinh
man rợ quê mùa rừng rú
Chúng làm đạo quân chiếm đóng
khủng bố trấn lột người dân
khai thác tài nguyên tổ quốc
trả nợ Nga Tàu chủ nhân
Bốn mươi năm lẻ trôi qua
nước non điêu tàn lở loét
dân tộc tan cửa nát nhà
bởi chúng tham tàn vơ vét
Thời gian bóc trần bộ mặt
chúng hiện nguyên hình súc sinh
những đười ươi hang Pác bó
con cháu vượn người Hù minh
Chúng biết không thể che đậy
người dân chẳng còn thơ ngây
chúng bèn ngang nhiên muối mặt
hóa thân thành đảng cướp ngày…
Phan Huy MPH
---------------
 
MỘT THỜI ...BI THƯƠNG VÀ LẠC HẬU!
Có những sự thật mà giới trẻ bây giờ không biết ! Hoặc có biết do chính cha mẹ chúng kể qua nhưng ...chúng không...cảm nhận được !
 
Một chuyện thương tâm
Những năm 1980, ai từng xuôi ngược trên con đường trước đó mang tên Quốc lộ số 4 nối liền miền Tây - Sài Gòn thì chắc vẫn còn nhớ rõ những cái "Trạm Thu Thuế" được lập ra để bắt giữ, tịch thu "hàng lậu". Hàng lậu lúc đó là vài ký thịt heo, dăm ba ký gạo, mấy chục trứng vịt, trứng gà..
 
Sau khi chiếm miền Nam, cs thi hành chính sách ngăn sông cấm chợ triệt để nghiêm ngặt. Sản vật có xuất xứ ở đâu thì chỉ được tiêu thụ tại chỗ, không ai được phép mang bất cứ thứ gì đi nơi khác nếu không có giấy phép do chính quyền địa phương xác nhận.
Mỗi ký gạo ở vựa lúa Đồng bằng sông Cửu Long nếu đưa được lên tới Sài Gòn thì lời gấp 3 lần, thịt heo, trứng và các loại nông sản khác cũng thế.
 
Thời điểm đó bắt đầu hình thành một tầng lớp dân buôn phụ nữ mà người ta gọi là bạn hàng chuyên đưa "hàng lậu" theo những chiếc xe đò lên "thành phố", sáng đi chiều về.
 
Miền Tây có ba đội xe đò đông đảo và nổi tiếng hơn cả là Cửu Long, Hậu Giang và Minh Hải, mỗi đội có hàng trăm chiếc chạy khứ hồi sáng sớm lên Sài Gòn rồi chiều về, có khi một hai hôm sau mới về.
Khi những chuyến xe chở đầy người và hàng hóa đến cái ngã ba chỗ rẽ vào Bắc Mỹ Thuận phía bờ Nam thuộc địa phận Tỉnh Cửu Long cũ thì giới tài xế, lơ xe và bạn hàng bắt đầu bước vào một trận chiến cam go với các Cán bộ Thuế vụ.
 
Trạm Mỹ Thuận lúc đó có hơn 10 cán bộ luân phiên túc trực 24/24 mặc dù đến 22g đêm thì Bắc ngừng chạy đến 5g sáng. Trưởng Trạm là Dũng biệt danh Dũng "Síp rin" do anh ta có chiếc Vespa Sprint mà từng con ốc đều là hàng origin vẫn còn lớp sơn gốc màu xám bóng loáng.
 

Trước khi xe đò chạy vô phía trong để xếp hàng chờ xuống Bắc qua sông thì phải ngừng lại trước Trạm để kiểm soát. Phụ xế cầm một xấp giấy là chứng từ hóa đơn giấy xác nhận của tất cả hàng hóa trên mui và trong xe vô Trạm trình báo. Một Cán bộ sẽ đi ra, cùng với Phụ xế leo lên xe lật cái bội gà này, ngó cái giỏ thịt heo kia rồi liếc vô xấp giấy cầm trên tay.
 
Tất cả quy trình đó chỉ làm cho có để qua mắt bàng dân thiên hạ, thật sự thì không có cách nào đối chiếu được từng món hàng có trùng khớp trọng lượng, số lượng, chủng loại với giấy phép hay không.
 
Sau khi "kiểm tra", cán bộ nhảy xuống xe tay cầm xấp giấy đi vô Trạm, Phụ xế đi theo và đây chính là lúc ngã giá, phân bua, nâng lên hạ xuống số tiền phải cống nộp khi xe từ Sài Gòn trở về. Nếu thỏa thuận suôn sẻ, Cán bộ hài lòng thì Phụ xế sẽ trở về xe thông báo mức đóng góp của mỗi bạn hàng tùy theo số lượng và giá trị hàng hóa của từng người.
 
Hôm nào cán bộ không vui thì sẽ hành chiếc xe đó đậu ngoài nắng chơi vài tiếng để giải sầu, ra quán ngồi rung đùi uống cà phê mặc cho mấy anh Phụ xế và lơ xe ngồi chồm hổm chung quanh ca bài con cá...
Nếu cảm thấy bực trong lòng, anh cán bộ sẽ phán một câu mà ai cũng sợ: "Sạt xe" ! Sạt xe có nghĩa là dỡ tất cả hàng hóa trên xe đem hết vô Trạm, giỏ hàng nào có giấy phép thì cho lấy ra, còn bao nhiêu thì tịch thu hết và thông thường thì hơn 90% số hàng trên xe bị mất trắng.
 
Tôi chứng kiến và nhớ rất rõ vào một buổi sáng năm 1982, một chị bạn hàng đoán chừng là gốc nông thôn khoảng 30 tuổi có gương mặt đẹp và trắng trẻo mặc áo bà ba bông tím với cái quần vải đen đi trên chiếc xe Hậu Giang đem 15 ký thịt heo thì bị Dũng Síp rin bắt, xách giỏ hàng đem vô Trạm.
 
Chị quỳ gối, hai tay nắm hai ống quần tên Trưởng Trạm vừa khóc vừa năn nỉ: "Anh Dũng ơi, hai đứa con của em bị bệnh đang nằm ở nhà không có ai chăm sóc hết. Anh cho em xin lại giỏ hàng này để em lên thành phố bán kiếm chút tiền lời mua thuốc cho con em rồi sẽ nghỉ, không đi buôn nữa. Thịt này em mua chịu, nếu về mà không có tiền trả cho người ta thì người ta cào nhà em. Em xin hứa từ nay về sau nếu anh còn gặp em một lần nữa thì em không xin anh gì nữa đâu. Nếu anh không tha cho em thì bữa nay em sẽ tự vận chết cho rồi chứ sống làm chi mà khổ quá..."
 
Mặc những lời than khóc ảo não của người đàn bà trẻ, Dũng Síp rin ngồi trơ trơ hút thuốc, mặt nhìn ra chỗ khác. Năn nỉ khóc than tới trưa mà không có kết quả, đầu chị cúi gằm lếch thếch đi xuống bến Bắc.
Gần nửa tiếng sau, chú xe lôi đạp chở khách từ dưới bến Bắc lên ngã ba nói rằng có một người phụ nữ vừa nhảy xuống sông tự vận khi chiếc Bắc ra tới giữa dòng, không ai kịp nhảy theo để cứu vì quá bất ngờ và nước ròng đang chảy mạnh, nếu mấy ngày sau cái xác mà nổi lên thì phải cách đây vài cây số.
 
Hai ngày sau người ta vớt được thi thể người bạc mệnh. Do đã chứng kiến sự việc buổi sáng hôm đó, lắng nghe và thương cảm với hoàn cảnh của chị bạn hàng có 15 ký thịt heo nên tôi không bất ngờ khi cùng mấy đứa bạn đến xem cái xác mà người ta chở bằng ghe máy đem vô bờ là một người đàn bà mặc áo bông tím với cái quần vải đen...
 
Ai đã sống ở vùng Mỹ Thuận vào giai đoạn đó thì sẽ nhớ câu chuyện trên đây.
Nghe nói sau khi Trạm Mỹ Thuận bị giải thể, Dũng Síp rin trôi dạt xuống miệt Rạch Giá mua chiếc tàu đánh cá giả dạng Ngư dân để cùng hàng chục đàn em đồng bọn dùng súng cướp những tàu chở hàng lậu từ bên Miên qua Hà Tiên - Rạch Giá gồm thuốc lá, vải vóc, rượu ngoại...
 
Sau đó hắn bị bắt và bị xử bắn vì đã từng giết người, cướp hàng. Có người lại nói bị lính Miên rình bắt được, bắn chết.
 
Chỉ biết chính xác là tên hung thần Dũng Síp rin đã bị bắn chết còn thật sự ai bắn thì không rõ...
*Quoc Gia Nguyen.
Trang Hoài niệm MN
--------------
 
Van Hoang
SÀI GÒN GIẢI PHÓNG TÔI
Nguyễn Quang Lập
Mãi tới ngày 30 tháng 4 năm 1975 tôi mới biết thế nào là ngày sinh nhật. Quê tôi người ta chỉ quan tâm tới ngày chết, ngày sinh nhật là cái gì rất phù phiếm. Ngày sinh của tôi ngủ yên trong học bạ, chỉ được nhắc đến mỗi kì chuyển cấp. Từ thuở bé con đến năm 19 tuổi chẳng có ai nhắc tôi ngày sinh nhật, tôi cũng chẳng quan tâm. Đúng ngày “non sông thu về một mối” tôi đang học Bách Khoa Hà Nội, cô giáo dạy toán xác suất đã cho hay đó cũng là ngày sinh nhật của tôi. Thật không ngờ. Tôi vui mừng đến độ muốn bay vào Sài Gòn ngay lập tức, để cùng Sài Gòn tận hưởng “Ngày trọng đại”.
 
Kẹt nỗi tôi đang học, ba tôi không cho đi. Sau ngày 30 tháng 4 cả nhà tôi đều vào Sài Gòn, trừ tôi. Ông bác của tôi dinh tê vào Sài Gòn năm 1953, làm ba tôi luôn ghi vào lý lịch của ông và các con ông hai chữ “đã chết”, giờ đây là triệu phú số một Sài Gòn. Ba tôi quá mừng vì ông bác tôi còn sống, mừng hơn nữa là “triệu phú số một Sài Gòn”. Ông bác tôi cũng mừng ba tôi hãy còn sống, mừng hơn nữa là “gia đình bảy đảng viên cộng sản”. Cuộc đoàn tụ vàng ròng và nước mắt. Ông bác tôi nhận nước mắt đoàn viên bảy đảng viên cộng sản, ba tôi nhận hơn hai chục cây vàng đem ra Bắc trả hết nợ nần còn xây được ngôi nhà ngói ba gian hai chái. Sự đổi đời diệu kì.
 
Dù chưa được vào Sài Gòn nhưng tôi đã thấy Sài Gòn qua ba vật phẩm lạ lùng, đó là bút bi, mì tôm và cassette của thằng Minh cùng lớp, ba nó là nhà thơ Viễn Phương ở Sài Gòn gửi ra cho nó. Chúng tôi xúm lại quanh thằng Minh xem nó thao tác viết bút bi, hồi đó gọi là bút nguyên tử. Nó bấm đít bút cái tách, đầu bút nhô ra, và nó viết. Nét mực đều tăm tắp, không cần chấm mực không cần bơm mực, cứ thế là viết. Chúng tôi ai nấy há hốc mồm không thể tin nổi Sài Gòn lại có thể sản xuất được cái bút tài tình thế kia.
Tối hôm đó thằng Mình bóc gói mì tôm bỏ vào bát. Tưởng đó là lương khô chúng tôi không chú ý lắm. Khi thằng Minh đổ nước sôi vào bát, một mùi thơm rất lạ bốc lên, hết thảy chúng tôi đều nuốt nước bọt, đứa nào đứa nấy bỗng đói cồn cào. Thằng Minh túc tắc ăn, chúng tôi vừa nuốt nước bọt vừa cãi nhau. Không đứa nào tin Sài Gòn lại có thể sản xuất được đồ ăn cao cấp thế kia. Có đứa còn bảo đồ ăn đổ nước sôi vào là ăn được ngay, thơm ngon thế kia, chỉ giành cho các du hành vũ trụ, người thường không bao giờ có.
 
Thằng Minh khoe cái cassete ba nó gửi cho nó để nó học ngoại ngữ. Tới đây thì tôi bị sốc, không ngờ nhà nó giàu thế. Với tôi cassete là tài sản lớn, chỉ những người giàu mới có. Năm 1973 quê tôi lần đầu xuất hiện một cái cassete của một người du học Đông Đức trở về. Cả làng chạy đến xem máy ghi âm mà ai cũng đinh ninh đó là công cụ hoạt động tình báo, người thường không thể có. Suốt mấy ngày liền, dân làng tôi say sưa nói vào máy ghi âm rồi bật máy nghe tiếng của mình. Tôi cũng được nói vào máy ghi âm và thật vọng vô cùng không ngờ tiếng của tôi lại tệ đến thế. Một ngày tôi thấy tài sản lớn ấy trong tay một sinh viên, không còn tin vào mắt mình nữa. Thằng Minh nói, rẻ không à. Thứ này chỉ ghi âm, không có radio, giá hơn chục đồng thôi, bán đầy chợ Bến Thành. 
 
Không ai tin thằng Minh cả. Tôi bỉu môi nói với nó, cứt! Rứa Sài Gòn là tây à? Thằng Mình tủm tỉm cười không nói gì, nó mở casete, lần đầu tiên chúng tôi được nghe nhạc Sài Gòn, tất cả chết lặng trước giọng ca của Khánh Ly trong Sơn ca số 7. Kết thúc Sơn ca số 7 thằng Hoan bỗng thở hắt một tiếng thật to và kêu lên, đúng là tây thật bay ơi!
 
Sài Gòn là tây, điều đó hấp dẫn tôi đến nỗi đêm nào tôi cũng mơ tới Sài Gon. Kì nghỉ hè năm sau, tháng 8 năm 1976, tôi mới được vào Sài Gòn. Ba tôi vẫn bắt tôi không được đi đâu, “ở nhà học hành cho tử tế”, nhưng tôi đủ lớn để bác bỏ sự ngăn cấm của ông. Hơn nữa cô họ tôi rất yêu tôi, đã cho người ra Hà Nội đón tôi vào. Xe chạy ba ngày ba đêm tôi được gặp Sài Gòn.
 
Tôi sẽ không kể những gì lần đầu tôi thấy trong biệt thự của ông bác tôi, từ máy điều hòa, tủ lạnh, ti vi tới xe máy, ô tô, cầu thang máy và bà giúp việc tuổi năm mươi một mực lễ phép gọi tôi bằng cậu. Ngay mấy cục đá lạnh cần lúc nào có ngay lúc đó cũng đã làm tôi thán phục lắm rồi. Thán phục chứ không ngạc nhiên, vì đó là nhà của ông triệu phú. Xin kể những gì buổi sáng đầu tiên tôi thực sự gặp gỡ Sài Gòn.
 
Khấp khởi và hồi hộp, rụt rè và cảnh giác, tôi bước xuống lòng đường thành phố Sài Gòn và gặp ngay tiếng dạ ngọt như mía lùi của bà bán hàng tạp hóa đáng tuổi mạ tôi. Không nghĩ tiếng dạ ấy giành cho mình, tôi ngoảnh lại sau xem bà chủ dạ ai. Không có ai. Thì ra bà chủ dạ khách hàng, điều mà tôi chưa từng thấy. Quay lại thấy nụ cười bà chủ, nụ cười khá giả tạo. Cả tiếng dạ cũng giả tạo nhưng với tôi là trên cả tuyệt vời. Từ bé cho đến giờ tôi toàn thấy những bộ mặt lạnh lùng khinh khỉnh của các mậu dịch viên, luôn coi khách hàng như những kẻ làm phiền họ. Lâu ngày rồi chính khách hàng cũng tự thấy mình có lỗi và chịu ơn các mậu dịch viên. Nghe một tiếng dạ, thấy một nụ cười của các mậu dịch viên dù là giả tạo cũng là điều không tưởng, thậm chí là phi lí.
 
Tôi mua ba chục cái bút bi về làm quà cho bạn bè. Bà chủ lấy dây chun bó bút bi và cho vào túi nilon, chăm chút cẩn thận cứ như bà đang gói hàng cho bà chứ không phải cho tôi. Không một mậu dịch viên nào, cả những bà hàng xén quê tôi, phục vụ khách hàng được như thế, cái túi nilon gói hàng càng không thể có. Ai đòi hỏi khách hàng dây chun buộc hàng và túi nilon đựng hàng sẽ bắt gặp cái nhìn khinh bỉ, vì đó là đòi hỏi của một kẻ không hâm hấp cũng ngu xuẩn. Giờ đây bà chủ tạp hóa Sài Gòn làm điều đó hồn hậu như một niềm vui của chính bà, khiến tôi sửng sốt.
 
Cách đó chưa đầy một tuần, ở Hà Nội tôi đi sắp hàng mua thịt cho anh cả. Cô mậu dịch viên hất hàm hỏi tôi, hết thịt, có đổi thịt sang sườn không? Dù thấy cả một rổ thịt tươi dưới chân cô mậu dịch viên tôi vẫn đáp, dạ có! Tranh cãi với các mậu dịch viên là điều dại dột nhất trần đời. Cô mậu dịch viên ném miếng sườn heo cho tôi. Cô ném mạnh quá, miếng sườn văng vào tôi. Tất nhiên tôi không hề tức giận, tôi cảm ơn cô đã bán sườn cho tôi và vui mừng đã chụp được miếng sườn, không để nó rơi xuống đất. Kể vậy để biết vì sao bà chủ tạp hóa Sài Gòn đã làm tôi sửng sốt.
 
Rời quầy tạp hóa tôi tìm tới một quán cà phê vườn. Uống cà phê để biết, cũng là để ra dáng ta đây dân Sài Gòn. Ở Hà Nội tôi chỉ quen chè chén, không dám uống cà phê vì nó rất đắt. Tôi ngồi vắt chân chữ ngũ nhâm nhi cốc cà phê đen đá pha sẵn, hút điếu thuốc Captain, tự thấy mình lên hẳn mấy chân kính. Không may tôi vô ý quờ tay làm đổ vỡ ly cà phê. Biết mình sắp bị ăn chửi và phải đền tiền ly cà phê mặt cậu bé hai mươi tuổi đỏ lựng. Cô bé phục vụ chạy tới vội vã lau chùi, nhặt nhạnh mảnh vỡ thủy tinh với một thái độ như chính cô là người có lỗi. Cô thay cho tôi một ly cà phê mới nhẹ nhàng như một lẽ đương nhiên. Tôi thêm một lần sửng sốt.
 
Một giờ sau tôi quay về nhà ông bác, phát hiện sau nhà là một con hẻm đầy sách. Con hẻm ngắn, rộng rãi. Tôi không nhớ nó có tên đường hay không, chỉ nhớ rất nhiều cây cổ thụ tỏa bóng sum sê, hai vỉa hè đầy sách. Suốt buổi sáng hôm đó tôi tha thẩn ở đây. Quá nhiều sách hay, tôi không biết nên bỏ cuốn gì mua cuốn gì. Muốn mua hết phải chất đầy vài xe tải. Giữa hai vỉa hè mênh mông sách đó, có cả những cuốn sách Mác – Lê. Cuốn Tư Bản Luận của Châu Tâm Luân và Hành trình trí thức của Karl Marx của Nguyễn Văn Trung cùng nhiều sách khác. Thoạt đầu tôi tưởng sách từ Hà Nội chuyển vào, sau mới biết sách của Sài Gòn xuất bản từ những năm sáu mươi. Tôi hỏi ông chủ bán sách, ở đây người ta cũng cho in sách Mác - Lê à? Ông chủ quán vui vẻ nói, dạ chú. Sinh viên trong này học cả Mác - Lê. Tôi ngẩn ngơ cười không biết nói gì hơn.
 
Chuyện quá nhỏ, với nhiều người là không đáng kể, với tôi lúc đó thật khác thường, nếu không muốn nói thật lớn lao. Tôi không cắt nghĩa được đó là gì trong buổi sáng hôm ấy. Tôi còn ở lại Sài Gòn thêm 30 buổi sáng nữa, vẫn không cắt nghĩa được đó là gì. Nhưng khi quay ra Hà Nội tôi bỗng sống khác đi, nghĩ khác đi, đọc khác đi, nói khác đi. Bạn bè tôi ngày đó gọi tôi là thằng hâm, thằng lập dị. Tôi thì rất vui vì biết mình đã được giải phóng.
NGUYỄN QUANG LẬP
 
Nhà văn Nguyễn Quang Lập một nhà văn gốc Quảng Bình, có một bài chia sẻ về cảm xúc của ông khi lần đầu tiên vào Sài Gòn trong bài viết với tên là Sài Gòn giải phóng tôi.
@Dan Van st
--------------
 
Comment:
* Hoài Thương Lâm
ĐMCS Bầy súc sanh giặc VC giặc nội xâm đảng CsVN bầy thái thú dịch giặc đcsVN tội đồ hồ tặc giặc hcm giặc đcsTQ giặc tầu phù bành trướng bắc kinh nhuộm đỏ tội ác đcsVN bầy thái thú dịch giặc cs nội xâm đầu trộm đuôi cướp man di mọi rợ con hoang giặc tầu phù đcsVN độc đảng độc tài đảng Cs đũi lừa tuyên truyền dối trá lừa đảo bịp bợm đê tiện đểu cáng điêu ngoa lưu manh gian tà xảo trá tà quyền giặc Cs quỷ đỏ quái thai quái thú giặc đcsVN con hoang giặc tầu phù thảm họa đại dịch giặc tộc cối dép râu đội bô cờ máu tháng búa liềm Bắc K đcsTQ bành trướng bắc kinh giặc tầu phù ngoai xâm đcsVN đầu trộm đuôi cướp man di mọi rợ con cháu hồ tặc giặc cs tầu tội đồ tội đồ giặc hcm uốngmáu Kinh tội ác cha già đẻ ra bầy quái vật súc sanh bầy đàn ký sinh trùng đcsVN băng đảng Cs trộm đuôi cướp man di mọi chui ra từ hang động pacbo bởi bố là quỷ đỏ đầu xỏ giặc cs tầu phù mọi rợ hồ tặc giặc hcm hồ cáo Mao Chồn Lùi hồ chí minh chui hang động ổ ấu dâm cấy ghép ra bầy quái thú đcsVN tội ác tội đồ giặc hcm uốngmáu Kinh mang tà thuyết cs ngoại lai Nga tầu bành trướng bắc kinh giặc tầu ngoại xâm vào Miền Bắc Việt nhuộm đỏ dịch giặc đcsVN bầy lũ BK giặc Cs đội bô dép râu chó Mao ~ hcm hồ chóMao tội đồ đầu xỏ quỷ đỏ dm đcsVN tay sai nô lệ bưng bô đội bô cờ máu tháng búa liềm bành trướng bắc kinh tội ác hcm tội đồ cha già đẻ đcsVN con hoang giặc Ác hồ tặc giặc hcm uốngmáu Kinh xua quân đội quần cs tầu đói nhăn răng dịch Bk gọi giặc hcm là cha già ĐmCs lội bộ đội bô..tiến thẳng, tiến nhanh >xâm lược cs xâm lăng cướp sát tàn bạo khủng bố cs tội ác đcsVN tội đồ hcm gây chiến tranh bành trướng nhuộm đỏ đcsVN giặc nội xâm cs xâm lăng cướp sát hơn 20 khi đã cướp chính quyền xong…! ĐMCS ĐMhcm mọi rợ tiếp tục cướp sát thiên đường miền Bắc XhCn xây sát trên xương máu đồng bào miền bắc trong các cuộc cải cách ruộng đất mà nạn nhân là bởi giặc tầu phù tội đồ hồ tặc giặc hcm uốngmáu Kinh thảm sát đồng bào dân tộc ViệtNam…!… xong…!…
 
Giặc Ác hồ tặc giặc hcm uốngmáu Kinh tiếp tục xua quân đội bô cờ máu tháng búa liềm bắc Kinh bành trướng nhuộm đỏ giặc đcsVN đội bô dép râu giặc hồ tặc CS tầu gây chiến tranh bành trướng nhuộm đỏ giặc cộng cờ è máu .. đội bô…lội bộ .. xẻ / dọc Trường Sơn đi Cướp Sát… !.. 
 
Ma lòng phơi phới dậy tương lai…!
Ra đi Ác đã dặn dò…! Dịch dịch Cs các con các cháu nhớ lời Ác hồ tặc cs tầu dạy…! … Cho dù:
…Đốt hết cả dãy ..Trường Sơn … ! Phải…. 
 
Đội quần què Cs tầu
bành trướng giặc Cs Bk cờ máu búa liềm hành quân đêm cướp sát phỏng giái cướp cạn Sài Gòn Hòn Ngọc Viễn Đông Miền Nam Quốc Gia VNCH Việt Nam Giàu Đẹp Tự Do Văn Minh gặp vận ’' Mai ..!’”
Nhượng chổ cho Thảm họa Mọi Rợ CS lên ngôi Cướp Sát…triền miên… chưa có hồi KẾT…!!!…
( ..30/4 …Đen ~ Quốc Hận Quốc Tang Vong Quốc …!…)…!…
 

No comments: