Hôm nay ngày 10 tháng 3 năm 1975, một ngày như mọi ngày, tôi đang ngồi trong Phòng hành quân của Trường Võ Bị Đà Lạt ôn bài vở. Chỉ còn ba tháng nữa là tôi xong cái bằng cử nhân, chuyện học bài khiến tôi bù đầu tóc rối.
-----------------
-Trung úy gọi Tiểu khu Darlac cho tôi.
Tôi bốc điện thoại quay số, chuông điện thoại mới reo được một tiếng đã có người trả lời với giọng hốt hoảng.
-Trung úy Hòa, Trung tâm hành quân Tiểu khu Darlac. Nghe.
Tôi nghiêm giọng.
-Thiếu tướng Chỉ huy trưởng Trường Võ Bị Đà Lạt, muốn nói chuyện với Đại tá Tỉnh trưởng.
-Thiếu tướng cần gì? Mà thôi, không kịp nữa đâu, xe tăng của Việt Cộng đã tràn vào tiểu khu rồi, tôi phải chạy.
Tôi nghe tiếng ống liên hợp rớt mạnh trên bàn, có thể Tiểu khu Darlac đã bị Việt Cộng tràn ngập rồi cho nên Trung úy Hòa phải bỏ chạy mà không kịp gác điện thoại.
Tôi cúp máy, quay người đứng nghiêm, giọng nói của tôi như lạc hắn đi.
-Trình thiếu tướng, xe tăng của Việt Cộng đã lọt vào trong Tiểu khu Darlac.
-Ai nói?
-Thưa thiếu tướng, Trung úy Hòa, Trung tâm hành quân Tiểu khu Darlac nói.
-Ông ta đâu rồi?
-Trình thiếu tướng, ông ấy vứt điện thoại chạy mất rồi.
Thiếu tướng Chỉ huy trưởng nhìn vào đồng hồ đeo tay, tôi thấy rõ gương mặt của ông bình thản như không có chuyện gì xảy ra. Ông lẩm bẩm:
-Mười một giờ mười.
Khi Thiếu tướng Chỉ huy trưởng đã đi ra khỏi phòng, tôi ngồi bệt xuống ghế, suy nghĩ về chuyện Trung úy Hòa bỏ chạy khỏi Trung tâm hành quân Tiểu khu Darlac. Nếu ông ấy chạy ra công sự phòng thủ để chiến đấu có thể Ban Mê Thuột vẫn còn, nhưng nếu ông chạy trốn vì sợ bị bắt làm tù binh, chắc chắn Ban Mê Thuột đã lọt vào tay Cộng Sản mất rồi. Bất chợt một tia sáng lóe lên trong đầu tôi, Sư đoàn 23 Bộ binh, sư đoàn chủ lực của cao nguyên đâu rồi? Tôi bốc điện thoại quay số Bộ tư lịnh Sư đoàn 23 ở Ban Mê Thuột. Đường dây điện thoại chỉ còn nghe tiếng u..u…vọng lại. Sau khi ghi chú cẩn thận vào nhật ký hành quân, tôi trình Thiếu tá trưởng Phòng hành quân diễn tiến tình hình của Ban Mê Thuột. Tôi đảo một vòng qua các phòng ban, mọi sinh hoạt của Trường Võ Bị Đà Lạt vẫn diễn ra bình thường, hình như chưa ai biết gì về tình huống xấu đang xảy ra ở Ban Mê Thuột. Tình huống xấu nhưng mà xấu thế nào? Còn hay mất không ai biết. Người duy nhất biết là Thiếu tướng Chỉ huy trưởng, bởi vì, ông thường xuyên liên lạc với phòng Ba của Bộ Tổng Tham Mưu bằng đường dây nóng.
Tôi quên luôn ăn trưa, vội vã đi họp bên Quân Trấn với cái bụng đói meo. Mấy ông sĩ quan bên Quân Trấn hỏi tôi:
-Ban Mê Thuột ra sao rồi trung úy?
-Tất cả mọi liên lạc với Ban Mê Thuột đều bị cắt đứt, tôi chỉ biết có một điều, lúc mười một giờ mười phút sáng nay, xe tăng của Việt Cộng đã vào bên trong Tiểu khu Darlac.
-Sao trung úy biết? Nguồn tin có đáng tin cậy không?
-Một phút trước đó, tôi nói chuyện với Trung úy Hòa ở Trung tâm hành quân Tiểu khu Darlac, chính ông ấy đã xác nhận xe tăng Việt Cộng đang tràn vào tiểu khu, sau đó ông ta quăng điện thoại bỏ chạy.
Một ông trung úy trong bàn họp nói:
-Chắc Ban Mê Thuột mất rồi.
Ông đại úy ngồi cuối bàn lên tiếng:
-Không biết khi nào quân mình mới tái chiếm Ban Mê Thuột.
Dứt lời ông ta thở dài rồi nói tiếp:
-Coi bộ đánh lớn tới nơi rồi.
Tôi lấy bì thơ đựng mật khẩu và mật hiệu trong đêm nhét vào túi áo, rời phòng họp.
Tôi nói, Thiếu tướng Chỉ huy trưởng Trường Võ Bị Đà Lạt biết rõ tình hình Ban Mê Thuột và Quân Đoàn II bởi vì một tuần sau đó, Trung tâm hành quân của trường đang ở lầu hai của tòa nhà chỉ huy, phải dời xuống tầng hầm đối diện với thư viện.
Trung tâm hành quân mới rộng gấp hai lần Trung tâm hành quân cũ, điều quan trọng là nó được thiết kế rất kiên cố, chìm sâu dưới mặt đất chừng bốn mét, trần đúc bê tông dày khoảng một mét. Nhìn Trung tâm hành quân mới tôi nghĩ thầm: “Hy vọng nó sẽ chịu được đạn pháo 130 ly hoặc hỏa tiễn 122 ly của Việt Cộng”. Ngay cửa ra vào Trung tâm hành quân, một binh sĩ Quân Cảnh, quân phục chỉnh tề, nón nhựa, súng colt đeo ngang hông đứng gác. Bên trong, hàng chục cái điện thoại, máy móc truyền tin sẵn sàng hoạt động, một bản đồ một phần năm mươi ngàn của miền trung và cao nguyên trung phần gắn trên tường, một tấm vải xanh với chữ “Mật” được kéo lại phủ kín tấm bản đồ. Giữa phòng có một cái bàn dài hình chữ nhật với hơn chục cái ghế, đây là chỗ dùng để hội họp, thuyết trình.
Tôi đang lu bu cùng với hai người hạ sĩ quan trực máy truyền tin dọn dẹp, sắp đặt bàn ghế sao cho thích hợp để làm việc, bất chợt, người Quân cảnh gác cửa Phòng hành quân đi đến bên tôi:
-Trung úy, có hai sĩ quan bên Tiểu khu muốn gặp ông.
Tôi bước ra khỏi phòng, trước mặt tôi một ông trung úy và một ông đại úy đang đứng trò chuyện với nhau, mỗi ông một điếu thuốc lá phun khói đầy trời. Tôi đưa tay chào kính vị đại úy rồi tự giới thiệu:
-Tôi, Trung úy Nguyễn Trọng Quân, Trung tâm hành quân Trường Võ Bị Đà Lạt, chào đại úy.
Vị đại úy lật đật vất điếu thuốc xuống đất, lấy mũi giày giậm lên, ông ta đưa tay chào lại tôi rồi nói với giọng nói của người miền Trung.
-Chúng tôi, Đại úy Luân và Trung úy Trí thuộc Trung tâm hành quân Tiểu khu Tuyên Đức, đến đây tăng phái cho Trung tâm hành quân Trường Võ Bị Đà Lạt. Chúng tôi đã trình diện Đại tá Tham mưu trưởng của trường, và được hướng dẫn đến đây gặp trung úy.
Tôi đưa hai ông quan vào Trung tâm hành quân. Ngoài hai cái ba lô đeo trên vai, mỗi ông còn xách theo một máy truyền tin PRC 25, tôi biết như vậy họ sẽ làm việc trực tiếp trên máy, không qua âm thoại viên.
Tin tức từ chiến trường cao nguyên đưa về mỗi ngày một xấu hơn. Khi Quân Đoàn II rút về Tuy Hòa theo ngã liên tỉnh lộ 7, Pleiku mất, Kontum coi như mất luôn. Theo huấn thị điều hành căn bản của bộ Tổng Tham Mưu, ba tỉnh còn lại của cao nguyên là Quảng Đức, Lâm Đồng và Tuyên Đức sẽ đặt dưới quyền chỉ huy của Thiếu tướng Chỉ huy trưởng Trường Võ Bị Đà Lạt, bởi vì ông là người có cấp bậc cao nhất trong ba tỉnh này. Riêng cá nhân tôi, gần bảy năm rồi chỉ biết lo chuyện phòng thủ Trường Võ Bị Đà Lạt, nhiệm vụ của tôi là theo dõi tất cả nhũng đơn vị bảo vệ trường đóng ở đâu, phân bố như thế nào để sẵn sàng yểm trợ hỏa lực khi cần thiết, chỉ chừng đó thôi. Ngoài ra, những đơn vị Địa Phương Quân của Tiểu khu Tuyên Đức, tôi hoàn toàn mù tịt. Ngay cả tên của những tiểu đoàn trực thuộc tiểu khu, tôi cũng chỉ biết một cách mù mờ, nói gì đến chuyện họ đóng ở đâu, di chuyển như thế nào. Đó là lý do khi lãnh nhiệm vụ trông coi ba tỉnh còn lại, Thiếu tướng Chỉ huy trưởng đã điều hai sĩ quan thuộc Trung tâm hành quân của Tiểu khu Tuyên Đức về tăng phái cho Trường Võ Bị Đà Lạt. Thiếu tướng Chỉ huy trưởng muốn nắm chắc trong tay những Tiểu đoàn tác chiến của Tiểu khu Tuyên Đức, khi ông trực tiếp điều động. Tưởng cũng nên biết, trước khi về Trường Võ Bị Đà Lạt, ông đã là Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ Binh ở Long Khánh.
Vừa đặt máy truyền tin xuống đất, hai ông sĩ quan hành quân của tiểu khu đã lục ba lô lấy ra nào là đặt lệnh truyền tin, khóa đối chứng, phóng đồ hành quân, nhật ký hành quân rồi mở máy PRC 25. Sau ba giờ lên máy, phối hợp làm việc, cặm cụi khoanh vùng, ghi chú, chúng tôi đã có điểm đóng quân của tất cả những tiểu đoàn Địa Phương Quân thuộc tiểu khu Tuyên Đức cũng như những điểm kích, đóng quân, của Trường Võ Bị Đà Lạt. Nhìn tấm bản đồ gắn trên tường dày đặc chi tiết, tôi biết mọi việc đã tạm xong. Đại úy Luân quay sang hỏi tôi:
-Ở đây, trung úy có nước sôi không?
-Bên Câu lạc bộ thiếu giống gì. Mà đại úy cần nước sôi để làm gì?
-Từ sáng đến giờ, bọn này chưa ăn uống gì hết, đói quá chừng. Tôi cần nước sôi để đổ vô gạo sấy.
-Nè đại úy, tụi mình kéo nhau qua Câu lạc bộ làm một dĩa cơm, sẵn đó thêm ly cà phê cho sáng suốt tinh thần.
Đại úy Luân phân trần:
-Tụi này đi một lần hai đứa không được, phải có một thằng trực máy. Hay là trung úy và Trung úy Trí đi ăn trước đi, khi quý vị về tôi sẽ đi sau.
Tôi dẫn Trung úy Trí qua câu lạc bộ, vừa đi vừa chuyện trò. Không hiểu tại sao, bỗng dưng tôi hỏi Trung úy Trí:
-Trung úy khóa mấy?
-À., khóa 6/68 Thủ Đức.
Tôi cười khoái chí, đổi cách xưng hô:
-Mẹ nó, mày với tao cùng khóa. Tao ở đại đội 62 gần ban quân nhạc, còn mày?
-Tao đại đội 65. Vậy mà từ sáng đến giờ, tao cứ tưởng mày là dân Võ Bị Đà Lạt.
-Hầu hết mọi người đều nhầm lẫn như mày. Gặp trường hợp đó, tao nhận luôn không đính chánh. Trung bình, mỗi năm Trường Võ Bị Đà Lạt có khoảng hai trăm năm chục sĩ quan tốt nghiệp. Năm sáu mươi tám là năm bọn mình đi lính, Trường Bộ binh Thủ Đức có chín khóa, mỗi khóa chẵn có khoảng hai ngàn sĩ quan, khóa lẻ có khoảng một ngàn, tính ra khoảng mười hai ngàn ông quan.
Tôi nhắc lại với Trung úy Trí:
-Đào tạo mười hai ngàn sĩ quan trong một năm, so với hai trăm năm chục, coi bộ sĩ quan tốt nghiệp Võ Bị Đà Lạt có giá hơn sĩ quan Thủ Đức của bọn mình nhiều.
Trung úy Trí với giọng đầy chán nản.
-Còn phải nói, sĩ quan Võ Bị Đà Lạt hơn hẵn sĩ quan Thủ Đức về mọi phương diện, ngoại trừ một điểm.
Tôi nói:
-Tao chẳng thấy ưu điểm nào hết.
-Tại mày không để ý đó thôi, sĩ quan Thủ Đức khi ra trường chết như rạ, chết nhiều đến nỗi đếm không kịp. Nếu không tin tao mày coi lại đi, mười hai ngàn sĩ quan năm sáu tám của bọn mình, giờ này còn được bao nhiêu? Được ba phần tư hay không? Nếu đúng, có nghĩa là hơn ba ngàn đã hy sinh, đã đền nợ nước. Như vậy, sĩ quan Trừ Bị Thủ Đức được trui rèn ngoài chiến trường, trưởng thành trong khói lửa, đem cái chết, đem mạng sống của mình đổi lấy kinh nghiệm, đó không phải là ưu điểm hay sao? Nếu không có sĩ quan Thủ Đức, ai sẽ chỉ huy một triệu lính của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Tôi và trung úy Trí ăn một bữa cơm không được vui vẻ cho lắm. Trung úy Trí ngửa cổ nốc một hơi bia.
-Ngày nào mày cũng ăn cơm ở đây?
-Không thường lắm đâu, chỉ vài lần trong một tuần.
Trung úy Trí nói:
-Ngày xưa, trước khi về Trung tâm hành quân Tiểu khu Tuyên Đức, tao ở Sư đoàn 22 Bộ Binh. Tiểu đoàn của tao đóng tại Tuy Hòa, mẹ nó, cả mấy tháng mới có thì giờ ăn một bữa cơm ra hồn như ở đây. Nói đến Tuy Hòa tao mới nhớ, mày có biết Quân Đoàn II đang trên đường Liên tỉnh lộ 7 di tản về Tuy Hòa hay không?
Tôi gật đầu, nói với Trung úy Trí:
-Biết chớ, đó là lý do tại sao mày và Đại úy Luân tăng phái cho Trường Võ Bị.
Trung úy Trí chấm dứt bữa ăn bằng một hơi bia.
-Tụi mình về cho Đại úy Luân đi ăn, chắc ông ấy đói lắm rồi.
Về đến Trung tâm hành quân chừng mươi phút, tôi nhận được điện thoại của bác Bảy (hai cái điện thoại class A của Trung tâm hành quân Trường Võ Bị, là điện thoại dùng để liên lạc khắp cả miền Nam Việt Nam, quân sự lẫn dân sự đều gọi được). Bác Bảy với giọng nói đầy lo lắng:
-Con và Cúc phải về Sài Gòn gấp, bác có chuyện quan trọng muốn nói với con.
-Chuyện gì vậy bác?
-Mình phải bỏ nước ra đi, không thể chờ đợi được nữa rồi.
Tôi nói với bác Bảy:
-Đi đâu? Đi sao được, con rời bỏ đơn vị sẽ bị coi như đào ngũ.
Giọng bác Bảy như lạc hẳn đi.
-Con Cúc đang ở đâu?
-Thưa bác, ở ký túc xá.
-Nếu con không đi được, bằng mọi giá con phải tìm phương tiện đưa Cúc về Sài Gòn.
Tôi hứa đại cho bác Bảy yên lòng.
-Bác yên tâm, con làm được.
Giọng của bác Bảy như nhẹ hơn.
-Bác tin ở con. Cho bác gởi lời thăm ba má con, thôi bác cúp điện thoại đây.
Tôi gác điện thoại. Như một cái máy, tôi quay số ban vận chuyển của phi trường quân sự Cam Ly. Đầu dây bên kia, một giọng nói khá quen thuộc.
-Alô, trung sĩ Trang nghe.
Mừng quá sức, tôi nhẹ giọng:
-Trung úy Quân, Trường Võ Bị Đà Lạt nè bạn, có việc cần nhờ bạn giúp đỡ.
-Chuyện gì vậy trung úy?
-Có chuyến bay nào về Sài Gòn không?
-Ông hỏi sao mà đúng lúc quá. Bốn giờ chiều nay có một chuyến C130, chỗ quen biết tôi mới nói với ông. Đừng tiết lộ cho ai biết.
-Cảm ơn ông bạn nhiều.
Tôi cúp điện thoại, ba chân bốn cẳng phóng Honda lên Ký túc xá, lôi Cúc ra xe. Cúc vừa chạy vừa nói:
-Để em lấy theo vài bộ quần áo.
Tôi nói như hét:
-Không kịp nữa rồi, bỏ hết, bỏ hết đi.
Khi tôi và Cúc đến phi trường Cam Ly đã thấy chiếc C130 đậu ở phi đạo. Một ông trung úy Không Quân đang đi vòng quanh chiếc C130 tựa như đang kiểm soát trước khi cho phi cơ cất cánh. Bốn cánh quạt của phi cơ vẫn chưa khởi động, tôi biết mình còn dư thời giờ
để lo liệu. Tôi nhìn ông trung úy một lần nữa cho chắc ăn, mặt mày của hắn sáng sủa, đẹp trai, thân hình cao lớn trong bộ quân phục áo liền quần của Không Quân.
Tôi la to:
-Nguyễn Văn Ly phải không?
Gã trung úy Không Quân nhìn tôi với gương mặt khinh khỉnh, cứ như là cả nước Việt Nam này chỉ có một mình hắn biết lái máy bay. Hắn trả lời cộc lốc:
-Không, trung úy nhìn lầm người rồi.
Tôi là người có trí nhớ rất tốt, chuyện này tôi mới biết khoảng mấy năm gần đây khi học đại học. Những bài vở từ chương trong lớp tôi học dễ dàng, thuộc vanh vách nhưng khi bước qua lãnh vực khoa học, phát minh, tôi lại u mê. Gã trung úy đứng trước mặt tôi đúng là Nguyễn Văn Ly, học chung lớp với tôi từ đệ thất ở trung học Trần Hưng Đạo Đà Lạt, đến năm đệ tam, hắn chuyển qua học bên Trường trung học Adran. Ngày xưa, khi tôi bị lũ bạn trong lớp hiếp đáp, hắn là người đứng ra bênh vực cho tôi.
Giống như chuyện mình bị tạt một gáo nước lạnh, tôi ngượng chín người vì có Cúc đứng bên cạnh. Giận thằng bạn đãng trí mau quên, tôi buông tiếng chửi thề:
-Mẹ nó, làm lơ máy bay chớ được cái mẹ gì mà bày đặt.
Gã trung úy Không Quân cười híp mắt, ôm lấy tôi.
-Tình cờ gặp lại mày, tao mừng muốn chết, mới đùa chút xíu mà đã giận rồi. Mày đưa cô bé này về Sài Gòn phải không?
-Sao mày biết?
Ly hỏi vặn tôi:
-Không lý mày với cô bé này đến phi trường để ngắm cảnh, hay là mày lại nói đến đây để thăm tao? Mà nè, mày vừa nói cái chữ gì? Mày nói tao là lơ máy bay phải không?
Tôi cười như chế giễu hắn.
-Lái vận tải cơ C130, cấp bậc phải là thiếu tá hoặc nếu là đại úy, phải có nhiều giờ bay. Cở trung úy như mày, đi theo máy bay chỉ có việc bưng cà phê cho sếp, hoặc để mấy sếp sai vặt chớ làm được gì.
-Nói cho mày biết, tao là hoa tiêu phụ ngồi ghế bên phải trong phòng lái, thiếu tá trưởng phi cơ ngồi bên trái. Không có tao, phi cơ muốn cất cánh coi bộ cũng hơi khó.
-Như vậy, mày là tài xế máy bay rồi.
Ly cười khoái chí.
-Đúng, tài xế chớ không phải là lơ.
Tôi hỏi nhỏ Ly:
-Công tác gì mà phải đem C130 lên đây?
Ly nhìn vào trong máy bay.
-Sáng nay, mười hai chiếc C130 chở một Liên Đoàn Nhảy Dù ra Đà Nẵng, khi trở về, chiếc của tao được lệnh ghé Đà Lạt để đem gia đình binh sĩ Không Quân về Sài Gòn. Để tao đưa bạn gái mày lên máy bay.
Tôi cải chính.
-Cúc là vợ chưa cưới của tao.
-Mày chậm tiến quá sức, bên Không Quân bọn tao chẳng có ai dại gì dùng chữ vợ hay vợ chưa cưới, mấy chữ này phải bỏ trong tủ sắt, khóa kỹ lại.
Tôi ôm Cúc, hôn nhẹ lên má của nàng:
-Em giữ gìn sức khỏe, đừng lo lắng, bận tâm gì về anh.
Khi Cúc đã bước qua khỏi cánh cửa khổng lồ sau đuôi máy bay, Ly nhìn tôi:
-Mày leo lên luôn, còn chờ gì nữa?
-Mày muốn tao đào ngũ? Đừng có bày đặt xúi dại.
-Tao không có xúi dại đâu, mày nghĩ lại đi cả cái Quân Đoàn II, binh hùng tướng mạnh như vậy còn phải di tản chiến thuật. Trường Võ Bị Đà Lạt bé tí tẹo của mày làm được cái gì, liệu có còn đứng vững một mình ở cao nguyên khi mà Phan Rang rơi vào tay Việt Cộng hay không? Nhiệm vụ của tao lên đây là để di tản gia đình binh sĩ Không Quân về Sài Gòn. Đà Lạt coi như đã mất rồi, mày cứ về Sài Gòn đi, mọi chuyện hãy tính sau.
Tôi nói:
-Cảm ơn lòng tốt của mày, tao phải ở lại trường thôi.
Ly siết chặt tay tôi.
-Ở lại mạnh giỏi, tới giờ tao phải bay rồi.
Trước khi bước đi, hắn nói nhỏ vào tai tôi:
-Tao xa Đà Lạt mới có sáu năm, hôm nay trở về đây hình như người đẹp của Đà Lạt biến đâu mất hết rồi.
-Tại sao mày nói vậy?
Ly lắc đầu ra vẻ khổ sở.
-Mày coi bộ chậm chạp vậy mà khôn, vợ xấu mới là vợ của mình.
Tôi chỉ muốn đạp cho hắn một đạp nhưng ngẫm nghĩ lại, nó chỉ nói lên sự thật mà thôi. Câu nói của Ly khiến tôi phải suy nghĩ. Tại sao tôi phải lấy một người vợ tuy là giàu có nhưng xấu, trong lúc mình có người yêu đẹp như mơ, lại yêu mình hết mực. Bỗng dưng, tôi nhớ đến cái cân tiểu ly dùng để cân vàng, khi hai bên dĩa cân đã bằng nhau, chỉ cần thêm một cọng tóc vào bên nào, dĩa cân sẽ nghiêng về bên đó. Lời nói của Ly nhẹ như sợi tóc nhưng nó giúp tôi giải đáp được câu hỏi, giải quyết được vấn nạn mà tôi phải cưu mang bấy lâu nay. Đột nhiên, ý tưởng phản bội Cúc để trở về với Dung thoáng qua trong đầu, tôi nói với Ly:
-Có chuyện quan trọng, tao phải nhờ mày. Lát nữa, mày nhớ nói với Cúc là tao sẽ ở lại luôn tại Đà Lạt với ba má tao. Tao sẽ không đi đâu hết, cho dù Đà Lạt có di tản. Nhớ nói giúp tao.
Gánh nặng ngàn cân đặt trên vai của tôi giờ đây đã được cất xuống. Trên đường về trường, tôi phóng Honda mà người cứ nhẹ như bay.
Sau khi Quân Đoàn II rút khỏi cao nguyên, tình hình chiến sự biến chuyển một cách mau lẹ, mau hơn sự suy nghĩ của mọi người.
Trung úy Trí với cây viết chì mỡ trên tay, vừa cập nhật tin tức mới nhất vào bản đồ gắn trên tường vừa nói với tôi:
-Quảng Đức mất rồi, Liên đoàn 24 Biệt Động Quân triệt thoái khỏi Quảng Đức đã đến được một khu rừng gần Bảo Lộc, họ xin Trường Võ Bị bốn chục chiếc trực thăng để bốc họ về Đà Lạt.
Tôi nói với Trung úy Trí:
-Mày yên chí, chuyện này tao đã trình với Thiếu tướng Chỉ huy trưởng rồi.
Trung úy Trí thắc mắc.
-Tao đâu có thấy chiếc trực thăng nào trong Trường Võ Bị, một chiếc cũng không có lấy đâu tới bốn chục chiếc để mà chở quân.
Tôi giải thích:
-Mày biệt phái nên không biết đó thôi, hơn chục cái điện thoại trên bàn, trong đó có hai cái điện thoại nóng. Một cái dùng để liên lạc trực tiếp với Phòng Ba của Bộ Tổng Tham Mưu, cái còn lại, trực tiếp với Sư đoàn 6 Không Quân vừa mới di tản từ Pleiku về đóng ở phi trường Phan Rang. Mấy chục chiếc trực thăng cùng với chiến đấu cơ của sư đoàn này, được đặt dưới quyền sử dụng của Thiếu tướng Chỉ huy trưởng Trường Võ Bị Đà Lạt.
-Như vậy thì, khi nào mình bốc Liên đoàn 24 Biệt Động Quân về trường?
Tôi chưa kịp trả lời, Trung úy Trí vừa nói vừa xoa hai tay với nhau.
-Đang không có thêm một Liên đoàn Biệt Động Quân phòng thủ Trường Võ Bị Đà Lạt, chắc ăn như bắp.
Tôi nói nhỏ với Trung úy Trí:
-Khi nào bốc hả? Mày qua hỏi Thiếu tướng Chỉ huy trưởng đi?
Trung úy Trí cười, tiếng cười đầy sảng khoái vang vọng khắp căn phòng.
-Mày định xúi con nít ăn cứt gà phải không? Tao đâu có dại đi vuốt râu hùm.
Tôi nói:
-Tao ở đây hơn sáu năm, chưa bao giờ thấy ông tướng cười, cả năm mới nghe được ông ấy nói vài tiếng. Mình muốn biết chuyện gì phải nghe lén rồi suy đoán thôi. Chuyện bốc Liên đoàn 24 Biệt Động Quân, tao đoán như thế này: Cả ngày hôm nay không có lệnh của thiếu tướng điều động trực thăng, có nghĩa là ông ấy không muốn bốc Liên đoàn 24 Biệt Động Quân về Trường Võ Bị Đà Lạt. Còn nói đến lý do tại sao không bốc Liên đoàn 24, nó thuộc về lãnh vực điều quân, làm sao mình biết được.
Đại úy Luân đang ngồi ở cuối phòng làm việc với hai người hạ sĩ quan truyền tin, ông ta vươn vai đứng lên đi về phía tôi và Trung úy Trí.
-Sư đoàn 7 của Việt Cộng phối hợp với xe tăng, đã chiếm xong Bảo Lộc, đang tràn vào Di Linh, cứ cái đà này vài ngày nữa sẽ tới Đà Lạt. Bảy tỉnh của cao nguyên mất hết sáu, chỉ còn có mỗi một mình Đà Lạt.
Đang nói chuyện, bất ngờ Đại úy Luân hô lớn:
-Nghiêm.
Tất cả mọi người trong Trung tâm hành quân đều bật dậy, đứng nghiêm như tượng đá.
Thiếu tướng Chỉ huy trưởng vừa bước vào phòng, theo sau ông ta là Đại tá Tỉnh trưởng rồi Đại tá Chỉ huy trưởng trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị. Ba người ngồi vào bàn họp hành quân ở giữa phòng. Thiếu tướng Chỉ huy trưởng nhìn vào tấm bản đồ trên tường rồi hỏi Đại úy Luân.
-Tình hình đến đâu rồi?
Tôi biết thiếu tướng hỏi để mà hỏi, thực ra ông đã biết hết mọi chuyện nhờ vào Phòng hành quân tại tư dinh.
Đại úy Luân với giọng nói chắc và rõ ràng.
-Trình thiếu tướng, Di Linh đã bị Việt Cộng chiếm rồi.
Thiếu tướng Chỉ huy trưởng hỏi tiếp:
-Tiểu đoàn 204 Trinh sát đang ở đâu?
Đại úy Luân nhanh chóng trả lời:
-Trình thiếu tướng, Tiểu đoàn 204 đang đóng quân gần Chùa Sư Nữ ở Trại Hầm.
Chần chừ giây lát như đang suy nghĩ chuyện gì, Thiếu tướng Chỉ huy trưởng quay sang nói với Đại tá Tỉnh trưởng:
-Bằng mọi giá, đại tá cho Tiểu đoàn 204 chiếm lại Di Linh.
Bầu không khí trong Trung tâm hành quân bỗng trở nên nặng nề, khi Đại tá Tỉnh trưởng cùng với Đại úy Luân đi về phía hệ thống truyền tin đặt ở cuối phòng.
Đưa tay chỉ trung úy Trí, Thiếu tướng Chỉ huy trưởng hỏi:
-Mấy ngày qua, trung úy và Đại úy Luân biệt phái cho Trường Võ Bị, ăn uống ở đâu?
-Trình thiếu tướng, chúng tôi có mang theo lương khô.
-Tạm thời như vậy đi, tháng này trung úy và Đại úy Luân sẽ lãnh lương của Võ Bị.
Vừa dứt lời Thiếu tướng Chỉ huy trưởng đứng lên đi ra cửa, thân hình của ông tuy to lớn nhưng với huyền đai đệ nhị đẳng Aikido khiến ông có tướng đi nhẹ nhàng lanh lẹ. Khi ngang qua mặt tôi, ông nói:
-Trung úy nhắc Phòng tài chánh, ứng lương cho hai sĩ quan biệt phái.
Khi Thiếu tướng Chỉ huy trưởng và hai vị đại tá đã rời khỏi phòng, mọi người đều thở ra nhẹ nhõm.
Nhân lúc rảnh rỗi, Trung úy Trí giảng cho tôi biết về sự hình thành của Tiểu đoàn 204 mà tiền thân của nó là Đại đội 302 Trinh sát. Đây là tiểu đoàn thiện chiến nhất của Tiểu khu Tuyên Đức, và cũng là tiểu đoàn chủ lực của Quân Khu II. Huyền thoại về Tiểu đoàn 204, tôi và mọi người dân Đà Lạt cũng đều biết rõ.
Khi Thiếu tướng Chỉ huy trưởng quyết định đem Tiểu đoàn 204 tái chiếm Di Linh, tuy sẽ chận được bước tiến quân của Cộng Sản trên Quốc lộ 20 nhưng Đà Lạt không còn quân trừ bị.
Đại úy Luân và Trung úy Trí cả hai cùng nhìn tôi, Đại úy Luân nói:
-Trước sau gì Đà Lạt cũng mất, tại sao mình không đưa hàng chục Tiểu đoàn Địa Phương Quân của Tiểu khu Tuyên Đức với quân số và đạn dược còn đầy đủ, tinh thần chiến đấu còn cao, đi giữ an ninh cho đoạn đường từ Đơn Dương băng qua đèo Ngoạn Mục xuống Sông Pha. Bảo vệ được đoạn đường chiến lược này, Sinh viên sĩ quan Võ Bị, Sinh viên sĩ quan Chiến Tranh Chính Trị, cũng như dân chúng Đà Lạt sẽ an toàn rút về Sài Gòn.
Tôi không có ý kiến, chuyện di tản do Thiếu tướng Chỉ huy trưởng quyết định, đúng hay sai và khi nào bắt đầu không phải là việc khiến tôi suy nghĩ.
Ngày hôm sau, thêm một ngày ba đứa tôi làm việc tối tăm mặt mày nhưng tất cả đều vui vẻ, vì chiều hôm đó, có tin tức báo về Trung tâm hành quân cho biết binh sĩ của Tiểu đoàn 204, kéo về Đà Lạt một chiếc xe Molotova của Việt Cộng do Liên Xô cung cấp, chiếc xe được để ngay nơi vòi phun nước gần cà phê Hạnh Tâm. Điều này chứng tỏ rằng, Tiểu đoàn 204 đang giao tranh với Việt Cộng ở Di Linh, và đã chận đứng được bước tiến quân của Việt Cộng trên Quốc lộ 20.
Khi mà ngoài trời đã tối mịt, ba đứa chúng tôi mới rảnh rỗi có chút thì giờ đổ nước lạnh vào mấy bao gạo sấy, ăn với thịt hộp, thêm chút mì gói bẻ vụn vì không có nước sôi. Câu lạc bộ sĩ quan đã đóng cửa từ sáng, không còn bán nữa. Ba thằng vừa ăn cơm vừa tán gẫu, đại úy Luân hỏi tôi:
-Mấy hôm rồi tôi thấy chỉ có trung úy trực Trung tâm hành quân của trường, một mình ông lo hết mọi chuyện, còn thì giờ đâu để nghỉ ngơi.
Tôi giải thích cho Đại úy Luân biết.
-Trường Võ Bị Đà Lạt có hai Trung tâm hành quân, một ở trong trường và một ở ngoài tư dinh của thiếu tướng. Trung tâm hành quân ngoài tư dinh của thiếu tướng do hai vị đại úy và hai hạ sĩ quan thay phiên nhau trực. Trung tâm hành quân trong Trường Võ Bị Đà Lạt do hai trung úy và hai hạ sĩ quan điều hành, tất cả được đặt dưới quyền chỉ huy của thiếu tá trưởng Phòng hành quân. Mấy hôm trước đây vì tình hình biến chuyển ở Liên tỉnh lộ 7, Phòng hành quân từ tòa nhà chỉ huy dời xuống đây, Trung úy Hàn thuộc Trung tâm hành quân của trường, phải vác máy PRC 25 đi theo thiếu tá trưởng Phòng hành quân. Một mình tôi phải cáng đáng tất cả mọi việc ở đây, không biết cho đến khi nào mới có thêm sĩ quan trợ giúp.
Đang thoải mái ngồi nghe tôi nói chuyện, bất chợt Đại úy Luân buông đũa đứng lên rồi hô to:
-Nghiêm.
Thiếu tướng Chỉ huy trưởng xuất hiện nơi cửa ra vào, ông nhìn quanh khi thấy tôi, ông ra lệnh:
-Trung úy, gọi Đại úy Đại đội trưởng Công Binh đến Trung tâm hành quân nhận lệnh, gọi ngay lập tức.
Tôi bốc cái điện thoại nội bộ nối trực tiếp với Đại đội Công Binh. Từ đầu dây bên kia, giọng nói của một người gốc Huế.
-Đại úy Thi, Đại đội Công Binh Trường Võ Bị Đà Lạt, tôi nghe.
Tôi nhỏ giọng:
-Tôi, Trung úy Quân Trung tâm hành quân Trường Võ Bị Đà Lạt, đại úy trình diện Thiếu tướng Chỉ huy trưởng gấp. Thiếu tướng đang ở Trung tâm hành quân của trường.
Tôi gác điện thoại rồi đứng nghiêm.
-Trình thiếu tướng, đã cho lệnh gọi Đại úy Thi rồi.
Thiếu tướng Chỉ huy trưởng gật đầu, quay người đi đến bục thuyết trình. Ông đứng nhìn tấm bản đồ gắn trên tường rồi hỏi trống không:
-Từ đây xuống cầu Đại Ninh, đường sá có an ninh không?
Đại úy Luân trả lời, giọng hơi rụt rè:
-Trình thiếu tướng, ban ngày an ninh hoàn toàn nhưng đêm đến khi binh sĩ của mình rút quân về căn cứ, du kích quân của Việt Cộng có thể xuất hiện hoạt động quấy phá.
Thiếu tướng Chỉ huy trưởng nói:
-Đại úy lệnh cho tất cả các đơn vị đóng dọc theo Quốc lộ 20, từ đầu đèo Prenn đến cầu Đại Ninh lo phần an ninh quốc lộ, binh sĩ đặt trong tình trạng báo động, sẽ có quân xa của mình di chuyển.
Đại úy Luân nói:
-Tuân lệnh.
Tôi hơi thắc mắc, quân xa nào của mình mà di chuyển vào giờ này.
Ngay lúc ấy, cửa phòng Trung tâm hành quân sịch mở mang theo con gió lạnh từ bên ngoài lùa vào, Đại úy Thi bước đi như là chạy đến trước mặt Thiếu tướng Chỉ huy trưởng, ông đưa tay chào kính.
-Đại úy Trần văn Thi, trình diện thiếu tướng.
Thiếu tướng nhìn Đại úy Thi từ đầu đến chân rồi hỏi:
-Đại úy có biết cầu Đại Ninh ở đâu không?
Đại úy Thi đưa tay xuống nhưng vẫn đứng nghiêm.
-Thưa thiếu tướng biết, cầu nằm ở Quốc lộ 20 trên đường về Sài Gòn, cách Đà Lạt khoảng năm mươi cây số.
-Đại úy đã thấy cây cầu ấy chưa?
-Thưa thiếu tướng, mấy năm trước tôi đã đi qua cây cầu ấy nhiều lần khi đi phép về Sài Gòn.
-Nó như thế nào?
-Trình thiếu tướng, cầu khá lớn, chiều dài của cầu có thể đến hai trăm thước, được đúc bằng bê tông cốt sắt khá kiên cố bắc ngang sông… hình như sông Đa Nhim thì phải.
Thiếu tướng Chỉ huy trưởng đi đến bàn họp hành quân, ông ngồi xuống rồi tiếp tục hỏi Đại úy Thi.
-Đại úy biết khá rõ về cây cầu, vậy phải cần bao nhiêu ký thuốc nổ để phá sụp cây cầu đó.
Đại úy Thi luống cuống ra mặt.
-Trình thiếu tướng, tôi cần có thì giờ đo đạc chân cầu, tính toán cẩn thận mới biết rõ cần bao nhiêu ký chất nổ.
Thiếu tướng Chỉ huy trưởng nhíu mày, chừng như suy nghĩ.
-Đại úy cho một con số phỏng chừng cũng được.
Sau một chút chần chờ, Đại úy Thi trả lời:
-Trình thiếu tướng, phải cần trên một tấn hợp chất C4, chuyên viên chất nổ của Công Binh mới giựt sập cầu được.
Giọng nói của Thiếu tướng Chỉ huy trưởng đột nhiên nghiêm lại, nghe như là một mệnh lệnh chứ không phải giọng lúc nói chuyện.
-Tôi muốn, đại úy đích thân dẫn lính Công Binh, đi phá cầu Đại Ninh cho tôi.
-Trình thiếu tướng, khi nào?
-Ngay bây giờ, đại úy thấy có gì trở ngại không?
-Trình thiếu tướng, không.
Tôi biết rõ, nếu Thiếu tướng Chỉ huy trưởng bảo Đại úy Thi nhảy vô lửa, ông ấy cũng nhảy ngay lập tức, sá gì chuyện đi đặt mìn phá hủy cây cầu.
Thiếu tướng Chỉ huy trưởng nhìn vào đồng hồ đeo tay.
-Bây giờ là tám giờ tối, đại úy có một giờ
để chuẩn bị chất nổ và chuyên viên, chín giờ khởi hành. Từ đây đến cầu Đại Ninh khoảng năm mươi cây số, mười giờ ba mươi đại úy sẽ có mặt tại cầu. Sau khi giựt sập cầu Đại Ninh, đại úy báo cáo kết quả về Trung tâm hành quân của trường.
Thiếu tướng Chỉ huy trưởng nhìn thẳng vào mắt của Đại úy Thi:
-Đại úy có gì hỏi không?
-Thưa thiếu tướng, chở một xe chất nổ di chuyển ban đêm không có hộ tống, rất dễ bị Việt Cộng bắn B40.
Thiếu tướng Chỉ huy trưởng chỉ tay về phía đại úy Luân.
-Đã có đại úy Luân, phòng hành quân của Tiểu khu lo phần an ninh lộ trình.
Như chợt nhớ ra điều gì, Thiếu tướng Chỉ huy trưởng nói với Đại úy Luân:
-Tiểu đoàn 277 của Tiểu khu Tuyên Đức, đã qua cầu Đại Ninh vào vùng hành quân chưa?
-Trình thiếu tướng tiểu đoàn trên đã qua cầu, đang tiến vào quận Di Linh.
-Tốt.
Vừa dứt lời, Thiếu tướng Chỉ huy trưởng quay sang nói với đại úy Thi:
-Đại úy về Đại đội Công Binh chuẩn bị, một giờ nữa sẽ khởi hành.
Khi Đại úy Thi rời khỏi Trung tâm hành quân, tất cả chúng tôi bắt đầu làm việc, theo dõi từng bước đi của ông ta rồi trình lên Thiếu tướng Chỉ huy trưởng.
Mãi đến 1 giờ sáng, tôi mới nhận được tin của Đại úy Thi nói qua máy truyền tin:
-Trung úy trình cho thiếu tướng biết, tôi đã giựt sập cầu Đại Ninh rồi.
-Tôi sẽ trình ngay lập tức nhưng đại úy phải về Trung tâm hành quân trình diện thiếu tướng, ông ấy đang chờ đại úy ở đây.
Ba giờ sáng, Đại úy Thi về đến Trung tâm hành quân. Sau khi nghe rõ Đại úy Thi tường trình đầy đủ về việc giựt sập cầu Đại Ninh, Thiếu tướng Chỉ huy trưởng mới chịu ra về. Tốn hơn bảy, tám tiếng đồng hồ, lại đích thân lo mọi việc chứng tỏ chuyện phá sập cầu Đại Ninh là một điều quan trọng trong kế hoạch di tản khỏi Đà Lạt của Thiếu tướng Chỉ huy trưởng.
Sau một ngày làm việc liên tục, chúng tôi tạm thời được nghỉ ngơi. Tôi đang mơ màng trong giấc ngủ chập chờn, bất chợt tiếng chuông điện thoại reo vang. Tôi nhìn đồng hồ, mới bốn giờ sáng mà điện thoại reo là có chuyện không ổn rồi. Tôi chụp cái
ống liên hợp.
-Trung úy Nguyễn Trọng Quân, Trung tâm hành quân Trường Võ Bị Đà Lạt, nghe.
Giọng của bác Bảy ở đầu dây bên kia, nghe không được rõ cho lắm.
-Bác có chuyện quan trọng cần nói với con.
-Dạ, con nghe đây bác.
-Độ mươi ngày trước đây, khi con Cúc về Sài Gòn, nó có nói với bác là chiếc máy bay C130 chở Cúc rộng thênh thang, trung úy lái máy bay lại là bạn của con nhưng con không chịu về, đúng không?
Tôi trả lời:
-Dạ phải.
Giọng của bác Bảy nói mà như là phiền trách:
-Bác đã nói với con là mình phải bỏ nước ra đi, vậy mà con không chịu nghe lời bác. Con có biết không, cái đám cố vấn Mỹ bạn của bác, tụi nó ngày nào cũng thúc giục bác phải ra đi càng sớm càng tốt. Hiện tại, bác đang ngồi ở phòng đợi của hãng hàng không Air France, tại phi trường Tân Sơn Nhất. Hai giờ nữa máy bay sẽ cất cánh, với bác mọi chuyện đều suôn sẻ, chỉ tội cho Cúc nó buồn vì không có con nhưng mà bác làm gì được bây giờ. Con với Cúc đã làm đám hỏi, hai đứa bây có duyên mà không có phận, khi bác và Cúc đi rồi, con được tự do hoàn toàn định liệu lấy đời mình.
Nghe bác Bảy nói, tôi mừng thầm trong bụng. Tôi nghĩ, sau này về được Sài Gòn, tôi có thế cưới Dung mà không một chút mặc cảm là đã phụ rãy Cúc. Tôi nói:
-Con cảm ơn bác.
-Còn điều này nữa, cho bác gởi lời thăm ba má con và mấy em của con. Tới giờ bác phải lên máy bay rồi, con ở lại mạnh giỏi.
Tôi nói thêm:
-Con chúc bác và Cúc lên đường bình an.
Cùng lúc ấy, tôi nghe được đường dây điện thoại bị cắt, chỉ còn tiếng u..u.. vọng lại.
Tôi gác điện thoại, nhắm mắt cố dỗ giấc ngủ để mai còn sức mà làm việc. Suốt ngày hôm ấy, chúng tôi lên máy chỉ theo dõi mọi biến chuyển về chuyện điều quân của Thiếu tướng Chỉ huy trưởng.
CÒN TIẾP /Phần Cuối
Huy Văn Trương
Huy Văn Trương
--------
Vĩnh biệt đồi 1515 - (Di tản của Trường Võ bị Đàlạt)/Phần cuối
Trương Văn Huy
Trương Văn Huy
Chiều hôm nay 31 tháng 3 năm 1975, tôi đang đứng tại tòa nhà chỉ huy. Sau khi nhìn quanh một vòng không thấy gì, tôi đi lần theo cầu thang xoắn ốc lên đến tầng hai của bộ chỉ huy. Sau lưng tôi là phòng làm việc của Thiếu tướng Chỉ huy trưởng, trước mặt tôi là Trung tâm hành quân cũ, hành lang phía trái và hành lang bên phải sâu hun hút, lờ mờ trong bóng tối, cửa nẻo đóng im ỉm không một bóng người. Những tia nắng vàng vọt, yếu ớt còn sót lại của buổi chiều mùa xuân lọt qua những ô cửa kính của bộ chỉ huy, màu vàng của nắng yếu đuối, nhợt nhạt không một chút sinh khí, tất cả chìm trong ánh sáng mờ mờ khiến cả tòa nhà như đã bị bỏ hoang lâu ngày.
Tôi bước tới gần khung cửa kính, bên ngoài là Vũ Đình Trường Lê Lợi xanh màu cỏ, ngay trước khán đài danh dự là cột cờ với cờ Quốc Gia vẫn còn tung bay phất phới. Hình ảnh của những sinh viên sĩ quan quỳ dưới bóng cờ này trong ngày lễ mãn khóa, với lời thề quyết tâm bảo vệ tổ quốc hãy còn vang vang đâu đó. Giờ đây, những sinh hoạt thường ngày của hàng ngàn sinh viên sĩ quan đã hoàn toàn biến mất. Từ hôm qua, sinh viên sĩ quan được trang bị như một người lính tác chiến với súng cá nhân M16, súng cộng đồng M60, thậm chí cả súng chống chiến xa M72, họ được đưa đi giữ an ninh lộ trình trải dài từ cầu Đất cho đến Đơn Dương. Khi sinh viên ra đi, họ bỏ lại ngôi trường trơ trọi một mình, không có sinh viên ngôi trường chỉ là cái xác không hồn, đứng im lìm trong nắng chiều hiu hắt.
Tôi nhìn ngôi trường, nơi mà tôi đã phục vụ hơn sáu năm trong đời quân ngũ của mình. Sáu năm, một khoảng thời gian không nhiều cho lắm, so với chiều dài của cuộc sống con người, thế nhưng khoảng thời gian ấy đủ để chiếm lấy một phần trong ký ức, đủ để khắc sâu vào tâm khảm của mình. Lòng tôi bỗng dưng chùng xuống, bùi ngùi thương cảm. Một chút luyến thương, khi biết mình sắp phải rời xa vĩnh viễn ngôi trường khiến tôi cảm thấy cay cay nơi mắt. Đêm nay hoặc chậm lắm là ngày mai, chúng tôi sẽ di tản. Ra đi là bỏ lại Đồi Bắc, bỏ lại cổng Nam Quan, bỏ luôn cả tòa nhà chỉ huy với Trung tâm hành quân, tất cả chỉ còn lại trong quá khứ vàng son một thuở. Tôi đi mà hành trang mang theo, chỉ là những ngày dài nhớ thương về ngôi trường trên đỉnh cao nguyên Lâm Viên.
Tôi bước dọc theo hành lang phía trái của bộ chỉ huy, để trở về Trung tâm hành quân mới. Khi gần đến nơi, đột nhiên tôi đổi ý rẽ vào thư viện. Cũng lại hoàn toàn im vắng, cho dù có đốt đuốc cũng không tìm ra một người. Mặc dù đã biết trước như vậy, tôi vẫn cảm thấy xốn xang trong lòng. Cái cảm giác như là đang xem một cuốn phim đen trắng, chiếu về cảnh ngày tận thế, mà trong đó kẻ sống sót duy nhất thẫn thờ đi lang thang hết dãy phố này qua dãy phố khác, với mục đích tìm cho được mầm sống, còn sót lại đâu đó. Một mình tôi đang đứng giữa hằng hà sa số sách và sách, chung quanh đó là bàn ghế sạch sẽ được săp xếp ngăn nắp gọn gàng. Tôi chọn một chỗ rộng rãi thoáng mát, thoải mái ngồi dựa ngửa, gác nguyên đôi bốt đờ sô lên bàn rồi đốt một điếu thuốc, khói thuốc chầm chậm, lơ lửng, là đà bay trong không khí. Giữa không gian tĩnh lặng không một tiếng động, giá như có một hạt bụi rơi, tôi tưởng rằng mình có thể nghe được. Tôi ngồi đó tận tình thưởng thức hương thơm của khói thuốc, thuận tay, tôi vớ lấy cuốn sách mà ai đó đang đọc nửa chừng còn để úp ngược trên bàn. Tôi bắt đầu đọc, đọc để quên đi chuyện di tản đang sôi động ở bên ngoài.
Được một đoạn ngắn, sức hấp dẫn lôi cuốn mãnh liệt của cuốn truyện khiến tôi quên hết mọi chuyện ở quanh mình. Tôi lạc vào thế giới của “Trại Đầm Đùn” lúc nào cũng không biết.
-Trung úy, trung úy.
Tiếng gọi của người hạ sĩ quan trực hành quân vang vang khắp căn phòng, kéo tôi về với thực tại.
-Tôi đây.
-Tôi tìm trung úy muốn hụt hơi. Trời đất, trong giờ phút dầu sôi lửa bỏng, phải bỏ của chạy lấy người đến nơi mà trung úy còn bình tĩnh ngồi đây đọc sách. Ông hay thiệt, mà nè sách gì vậy, có hay không?
Tôi không trả lời người hạ sĩ quan mà hỏi ông ta:
-Có chuyện gì?
-Trung úy Lợi, bên Công Binh của trường cần gặp trung úy.
-Mấy giờ rồi?
-Bảy giờ.
-Hai vị đại úy và trung úy thuộc Trung tâm hành quân của Tiểu khu, biệt phái cho trường ở đâu rồi?
-Họ đang theo dõi, cập nhật, bố trí của mấy tiểu đoàn Địa Phương Quân.
Tôi lẹ làng nhét cuốn truyện Trại Đầm Đùn vô túi áo jacket, rồi vội vàng phóng một mạch về Trung tâm hành quân. Cuốn sách trong túi áo của tôi, là cuốn sách duy nhất trong thư viện của trường Võ Bị được tôi đem theo, tất cả sách còn lại sẽ bị thiêu hủy dưới sức công phá của hàng ngàn ký chất nổ C4.
Trung úy Lợi đang đứng bên hông chiếc xe Dodge 4×4, ông ta nói với tôi:
-Tôi muốn kiểm chứng lại lần chót với Trung tâm hành quân.
-Chuyện gì?
-Bốn điểm trọng yếu trong trường mà tôi phải đặt mìn để phá hủy là tòa nhà bộ chỉ huy, nhà thí nghiệm nặng, thư viện và phạn xá, đúng không?
-Đúng.
-Coi như xong, với mấy xe Dodge đầy nhóc chất nổ C4, đủ sức cho tôi hoàn thành nhiệm vụ.
Giọng nói của Trung úy Lợi đột nhiên nhỏ lại chỉ vừa đủ nghe.
-Khi nào bọn mình dọt?
-Tôi mà biết được, giờ này tôi đã là chỉ huy trưởng rồi.
Nhìn nét thất vọng hiện rõ trên gương mặt của Trung úy Lợi, tôi an ủi.
-Phá sập xong Trường Võ Bị thì trung úy dọt, lúc đó cho dù ông có muốn ở lại cũng không được.
Trung úy Lợi nói với tôi:
-Phải chi giờ này Câu lạc bộ sĩ quan còn, bọn mình qua đó làm một ly cà phê trước khi chia tay với Trường Võ Bị.
-Tôi có cà phê nhưng không có nước sôi.
Trung úy Lợi hăng hái nói:
-Dễ ợt, giựt sập Trường Võ Bị tôi còn làm được, sá gì chuyện mấy cái ly nước sôi, để đó tôi lo.
Vừa nói Trung úy Lợi vừa đi vòng ra phía sau xe Dodge, ông ta lôi ra một bánh C4, thoáng chốc ngọn lửa xanh biếc bùng lên. Khi nước trong chiếc ca nhôm bắt đầu sôi, Trung úy Lợi đổ thẳng cà phê bột vào ca nước.
Chúng tôi uống cà phê mà như uống thuốc độc.
Nó đắng nghét, lợn cợn những hột cà phê nhỏ như những hột cát mịn bám đầy lưỡi. Đó là ly cà phê cuối cùng, mà tôi và Trung úy Lợi uống ở Trường Võ Bị Đà Lạt.
Gần chín giờ tối, hai Đại đội sinh viên sĩ quan cuối cùng rời khỏi trường theo cổng Tôn Thất Lễ. Cho tới giờ này, tôi biết rằng trong trường chỉ còn lại năm người vẫn còn đang làm việc tại Trung tâm hành quân, đó là hai hạ sĩ quan trực máy, hai sĩ quan hành quân của Tiểu khu Tuyên Đức biệt phái cho trường và tôi. Điều đặc biệt là bên ngoài vòng đai của trường, gồm có Tiểu đoàn An Ninh cũng như những đơn vị bảo vệ vẫn còn đóng quân tại chỗ, giữ an ninh cho trường, nói đúng hơn là giữ an ninh cho một cái xác không hồn.
Sáng nay, đoàn quân xa của trường đã chở tất cả gia đình binh sĩ trong trại gia binh của trường xuống Sông Pha, sau đó, quay về trường sẵn sàng đón thêm binh sĩ cũng như sinh viên sĩ quan của trường, chưa di tản lúc sáng.
Đang chăm chú theo dõi mọi diễn tiến của cuộc rút quân, tôi chợt nghe giọng nói của Thiếu tướng Chỉ huy trưởng vang lên đàng sau lưng tôi.
-Trung úy đi hỏi coi, trực thăng có đáp xuống Pr’line được không?
Tôi giật mình, lật đật đứng nghiêm chào thiếu tướng. Khi đã hiểu rõ câu hỏi của ông, tôi chạy đến sân cỏ trung đoàn sinh viên nơi có chiếc trực thăng của thiếu tướng đậu sẵn ở đó. Tôi hỏi vị đại úy lái chiếc trực thăng:
-Thiếu tướng muốn biết, trực thăng có đáp xuống Pr’line được không?
Vị đại úy lái trực thăng nói với tôi:
-Tối hôm nay trời nhiều sương mù, đáp được nhưng không an toàn.
Tôi đi trở lại Trung tâm hành quân.
-Trình thiếu tướng, vị đại úy lái trực thăng nói đáp được nhưng không an toàn.
Thiếu tướng Chỉ huy trưởng ra lệnh cho tôi:
-Cho trực thăng đến Pr’line, ở đó chờ lệnh mới.
Tôi biết, Pr’line là tên của ngọn núi cao nhất gần Cầu Đất, cách Đà Lạt khoảng hai mươi lăm cây số trên đường đi xuống Sông Pha. Ngày xưa, đây là trung tâm phát tuyến lớn nhất trong chiến tranh Việt Nam, trung tâm này do Mỹ thành lập, sau năm 1973 họ bàn giao lại cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Hiện tại, Sinh viên sĩ quan Võ Bị đã đóng quân tại căn cứ này từ hôm qua.
Một lần nữa, tôi lại phải chạy ra sân cỏ trung đoàn sinh viên, truyền lệnh cho vị đại úy lái trực thăng.
Khi tôi trở lại Trung tâm hành quân, Thiếu tướng Chỉ huy trưởng đang đi tới đi lui trong phòng, đầu cúi xuống như đang nhìn vào mũi giày của ông, bất ngờ ông đưa tay nhìn đồng hồ rồi nói:
-Xé và đốt tất cả bản đồ hành quân trên tường, phá hủy đường dây điện thoại.
Dứt lời, thiếu tướng ngồi xuống ghế nhìn chúng tôi làm công việc tiêu hủy tài liệu. Khi thấy mọi việc đã xong xuôi, ông nói:
-Đi.
Chúng tôi vai ba lô, súng M16, tay xách máy PRC25, đặc lệnh truyền tin, rời khỏi Trung tâm hành quân của Trường Võ Bị Đà Lạt, tôi nhìn đồng hồ đeo tay của mình : chín giờ rưỡi.
Thiếu tướng Chỉ huy trưởng bước lên chiếc xe jeep của ông, trên xe chỉ có tài xế và ông. Vị Đại úy Tùy viên, người vẫn thường theo ông như bóng với hình, hôm nay ông ấy ở đâu tôi không thấy. Có thể ông ấy đang ở ngoài tư dinh.
Chiếc xe jeep của phòng hành quân đậu cách xe của thiếu tướng chừng mươi thước, tôi bước tới nhìn vào xe rồi giật mình hỏi tài xế:
-Hai đứa nhỏ nào đây?
Người tài xế trả lời:
-Con của tôi đó trung úy.
Tôi nhìn hai đứa nhỏ khoảng mười ba, mười bốn tuối đang ngồi trong xe rồi tính nhẩm trong đầu, năm người của Trung tâm hành quân, tài xế nữa là sáu thêm hai đứa nhỏ vị chi là tám người, trong đó sáu người với đầy đủ ba lô súng đạn, thêm bốn máy truyền tin PRC25, chỗ đâu mà chứa cho hết. Tôi bấm đèn pin, rọi xuống sàn xe rồi hỏi tài xế:
-Còn cái bao gạo năm chục ký với mấy cái nồi này của ai? Phải bỏ lại thôi.
Người tài xế nói, giọng nói như là năn nỉ.
-Trung úy độc thân nên không biết, tôi bỏ bao gạo lại đây, ngày mai con tôi lấy cái gì ăn.
Tôi nhìn hai đứa nhỏ, rồi nghĩ tới mấy đứa em của mình đang ở nhà với ba má tôi. Ba má tôi, sống trong một căn nhà gỗ tồi tàn gần ba chục năm ở ngoại ô, vừa mới dọn về căn nhà khang trang ở phố chưa được bao lâu, ông bà tiếc của nên đi không đành. Tôi nói:
-Tất cả lên xe.
Chiếc xe jeep của Trung tâm hành quân, tôi là trưởng xa, ghế trước bên phải là ghế của tôi.
Đại úy Luân là người biết chuyện, ông chui vào xe ngồi phía sau tránh cho tôi tình trạng khó xử. Không còn thì giờ tìm hiểu để biết mọi người chen chúc như thế nào ở phía sau, có đủ chỗ hay không? Tôi nói với tài xế:
-Chạy theo xe của thiếu tướng.
Trên trời, con trăng mười tám hay mười chín tôi không rõ lắm treo lửng lơ, mặt trăng đã bắt đầu meo méo tỏa chút ánh sáng mờ mờ xuống khu đồi 1515. Trường Võ Bị Đà Lạt nằm trên ngọn đồi này. Xe jeep của tôi và của Thiếu tướng Chỉ huy trưởng không mở đèn, chạy chầm chậm đến cổng Nam Quan rồi quay đầu lại tòa nhà chỉ huy. Khi xe jeep chạy ngang qua Vũ Đình Trường Lê Lợi, tôi quay nhìn về phía tay phải, Đài Tử Sĩ chìm trong ánh trăng mờ vàng úa, tiếng kèn truy điệu gọi hồn tử sĩ vị quốc vong thân chừng như còn văng vẳng đâu đây. Tôi nhắm mắt, bịt tai cho đến khi xe băng qua hai ngôi nhà tiền chế của Tiểu Đoàn An Ninh, qua Liên Đoàn yểm Trợ rồi ra khỏi trường theo cổng Lý Thường Kiệt. Tôi nghĩ trong đầu, lát nữa đây hàng ngàn ký chất nổ C4 của Trung úy Lợi, sẽ giựt sập bốn điểm trọng yếu của Trường Võ Bị.
Khi chiếc xe jeep của tôi đến cổng tư dinh của Thiếu tướng Chỉ huy trưởng, ở gần ngã tư Phan Chu Trinh, tôi cho tài xế quay đầu xe lại đợi ở bên ngoài. Bên trong sân tư dinh đèn đuốc sáng choang, tôi thấy Đại tá Chỉ huy trưởng Trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị cùng với Đại tá Tỉnh Trưởng đang đứng trước hàng hiên. Chờ cho đến khi đoàn xe trong tư dinh bắt đầu chuyển bánh, tôi cho xe jeep của tôi chạy trước dẫn đầu. Điều tôi không ngờ được là dân chúng Đà Lạt đã di tản từ lúc nào, có thể là từ chiều. Người dân bỏ Đà Lạt ra đi bằng tất cả mọi phương tiện mà người ta có được, từ chiếc xe truck, xe du lịch, xe Lam, xe Honda, cho đến xe đạp thậm chí kể cả chuyện phải bồng bế, gánh gồng, tất cả chen chúc nhau trên đoạn đường từ Đà Lạt xuống Đơn Dương. Đoàn người di tản đông đến độ xe cộ chỉ chạy được với vận tốc không quá mười cây số một giờ. Với một đoạn đường khoảng ba chục cây số, phải mất gần ba giờ chiếc xe jeep của tôi mới tới được Eo Gió, chuẩn bị để đổ đèo Ngoạn Mục.
Đường đèo dài khoảng hai chục cây số, quanh co khúc khuỷu ôm theo triền núi, nhiều đoạn sườn núi thắng như vách đá dựng, người dân Đà Lạt di tản nếu vượt qua được đoạn đường này, xuống đến Sông Pha kể như đã vào vùng an toàn, không còn gì phải lo lắng.
Một giờ sáng ngày 1 tháng 4, cả đoàn xe bị kẹt trên đèo Ngoạn Mục hơn hai tiếng đồng hồ. Qua máy truyền tin, tôi biết được Việt Cộng bắn B40 vào một chiếc xe chạy đầu ở Sông Pha.
Tôi đứng ở đỉnh đèo Ngoạn Mục nhìn xuống chân núi, đoàn người di tản đi bộ dọc theo hai bên đoàn xe, đèn xe sáng rực cả một góc trời trông giống như là một con rắn lửa khổng lồ đang bò theo triền núi, để trườn mình xuống đồng bằng. Cái đầu của con rắn đã qua khỏi Sông Pha, trong khi thân của nó hãy còn ở đỉnh đèo Ngoạn Mục, và cái đuôi con rắn có thể còn ở đâu tận Đà Lạt.
Khi xe jeep của tôi đến một khúc cua gắt như cái cùi chỏ, lúc này xe chạy còn chậm hơn người đi bộ. Dưới ánh sáng của hàng ngàn ngọn đèn đủ mọi loại xe, tôi thấy một anh Sinh viên sĩ quan Võ Bị đứng trên một mô đất bên vệ đường, hai chân của anh xoạc ra theo thể thao diễn nghỉ, tay trái buông xuôi, tay phải ôm khẩu M16, báng súng chống vào bên hông, nòng súng hướng lên trời. Tôi xuống xe, đi bộ đến bên anh sinh viên, định hỏi tại sao anh ta không di chuyển theo đoàn quân mà lại đứng một mình ở đây.
Khi đến trước mặt anh sinh viên, tôi giật mình vì thấy đôi dòng lệ chảy dài theo khóe mắt của anh ta. Anh sinh viên với nét mặt u buồn, đôi môi mím chặt, đứng bất động nhìn theo đoàn người di tản đang từ từ trôi xuống đồng bằng. Nếu không có những giọt nước mắt lăn dài trên gương mặt buồn bã của anh sinh viên, tôi tưởng rằng mình đang đứng đối diện với một pho tượng được tạc bằng đá. Tôi không biết pho tượng đá đó khóc vì phải đời đời rời xa ngôi trường thân yêu, hay khóc vì cảnh sinh linh đồ thán.
Tôi nghĩ rằng, chẳng thà anh sinh viên khóc thành tiếng, có thể tiếng khóc sẽ làm vơi đi những uất hận, đớn đau chất chứa trong lòng. Đàng này, anh lại yên lặng nuốt cái uất ức vào lòng, nỗi đau tự nó sẽ nhân lên gấp bội.
Tôi tốt nghiệp Thủ Đức, chỉ làm việc ở Trường Võ Bị, vậy mà khi rời xa ngôi trường lòng tôi đau đớn như bị dao cắt huống gì Sinh viên sĩ quan Võ Bị Đà Lạt, bốn năm gắn bó với ngôi trường trên đỉnh ngọn đồi 1515. Tôi hiểu và cảm được cái đau của pho tượng đá trước mặt tôi.
Hơn một ngàn Sinh viên sĩ quan Võ Bị Đà Lạt ba lô trên vai, súng M16 cầm tay vừa di chuyển vừa bảo vệ dân chúng, chân đi nhưng lòng của họ còn để lại ở Trường Võ Bị, bởi vì tôi nghe một anh sinh viên với giọng nói như gào thét, đầy phẫn uất.
-Tại sao chưa đánh mà chạy.
Một anh sinh viên khác, nói mà như khóc:
-Phải ở lại bảo vệ Đà Lạt, bảo vệ Trường cho dù có chết. Không thể hèn như vậy được.
Hơn một ngàn trái tim với tinh thần kỷ luật cao độ, đó là một khối thép đồng nhất, một khối sức mạnh vô địch mà Thiếu tướng Chỉ huy trưởng Trường Võ Bị Đà Lạt đã đem xuống bảo vệ đèo Ngoạn Mục, vì đây là đoạn đường đèo trọng yếu, là con đường huyết mạch trong cuộc di tản của dân Đà Lạt. Một ngàn Sinh viên sĩ quan Võ Bị Đà Lạt, họ thà chết, hy sinh cho đến người cuối cùng, để dân chúng Đà Lạt an toàn di tản về Sài Gòn. Bởi vì, Bảo Quốc An Dân là bổn phận và trách nhiệm của họ.
Thêm một chi tiết khá quan trọng mà ít người biết đến, là khi người dân Đà Lạt đã đi quá Sông Pha vào được vùng an toàn thì Tiểu đoàn 204 trinh sát của Tiểu khu Tuyên Đức, đang còn giao tranh với Cộng quân tại Di Linh. Và Tiểu đoàn 277 của Tiểu khu Tuyên Đức đang trên đường tiến vào Di Linh. Hai Tiểu đoàn 204 và 277, với quân số chưa tới một ngàn người phải chiến đấu chống lại Trung Đoàn 812 là chủ lực quân của Khu 6 và Sư Đoàn 7 của Việt Cộng. Tôi tin rằng họ sẽ cầm chân Việt Cộng ở Di Linh ít ra cũng được vài ngày, đủ thời giờ cho dân chúng Đà Lạt di tản. Có một điều khiến tôi phải thắc mắc, nếu sĩ quan cũng như binh sĩ của hai Tiểu đoàn 204 và 277 biết được là họ đi vào mặt trận mà không có lực lượng trừ bị, không có yểm trợ của pháo binh, không quân, ngay cả việc tiếp tế đạn dược và lương thực cũng không có, liệu họ có đủ can đảm chiến đấu hay không khi biết mình là những cảm tử quân, chỉ có đi mà không có về. Cuối cùng là chuyện, nếu Cộng Sản tiêu diệt được hai tiểu đoàn thiện chiến nói trên, xe tăng của Việt Cộng cũng không làm sao vượt qua được sông Đa Nhim, vì cầu Đại Ninh đã bị giựt sập.
Trong suốt cuộc đời của tôi, đây là lần đầu tiên tôi chứng kiến một cuộc di tản vĩ đại, đầy đau khổ của người dân khi chạy trốn Cộng Sản. Dân Đà Lạt bỏ tất cả nhà cửa ruộng vườn, đất đai, chỉ với vài bộ quần áo và nắm cơm trên tay chạy về vùng Quốc Gia kiểm soát, chạy về những nơi chưa lọt vào tay Cộng Sản.
Khi tôi đến Sông Pha trời đã sáng hẳn, xe của Thiếu tướng Chỉ huy trưởng hãy còn xa tít ở phía sau, ông là người nằm trong toán quân đi bọc hậu ở chót cùng. Tất cả sinh viên sĩ quan cũng như binh sĩ của Trường Võ Bị Đà Lạt tập trung tại một bãi đất trống bên đường để nghỉ ngơi sau một đêm thức trắng. Riêng dân chúng Đà Lạt vẫn tiếp tục chạy về Phan Rang. Tôi quay đầu, ngước nhìn lại đỉnh đèo Ngoạn Mục, hai đường ống dẫn nước khổng lồ từ đập Đa Nhim đổ xuống Sông Pha lấp lánh dưới ánh mặt trời, những tia nắng đầu tiên trong ngày làm rõ thêm đoàn người đông như một đàn kiến, vẫn còn tiếp tục đổ xuống đèo.
Đà Lạt di tản gần như là hoàn hảo, không một tiếng súng nổ, không có cảnh chết chóc như Đại Lộ Kinh Hoàng ở Quảng Trị năm 1972, không chen lấn hoảng loạn như Quân đoàn II, khi triệt thoái về Tuy Hòa theo Liên Tỉnh Lộ 7 khoảng hai tuần lễ trước đây.
Từ Sông Pha về Sài Gòn, đi theo ngã Phan Thiết, rồi Bình Tuy, không còn khó khăn nguy hiểm. Ngày 4 tháng 4, Sinh viên sĩ quan Võ Bị Đà Lạt cùng quân nhân cơ hữu của trường được vận tải cơ C130, và trực thăng Chinook bốc từ Bình Tuy về Long Thành.
Nắm trong tay bốn chục chiếc trực thăng UH1, thêm vận tải cơ C130, trực thăng Chinook, được điều động từ Sài Gòn, Thiếu tướng Chỉ huy trưởng Trường Võ Bị Đà Lạt có thể bốc tất cả Sinh viên sĩ quan Võ Bị đem về Sài Gòn trong vòng vài tiếng đồng hồ. Tại sao ông không dùng máy bay vừa an toàn vừa nhanh chóng, mà lại dùng đường bộ. Lý do đơn giản và dễ hiểu nhất bởi vì ông không thể bỏ rơi dân Đà Lạt. Một trong nhiều lý do khiến Việt Nam Cộng Hòa thua Cộng Sản đó là tinh thần Nhân Bản, đã ăn sâu vào tâm khảm của người dân miền Nam, trong đó có Thiếu tướng Chỉ huy trưởng Trường Võ Bị Đà Lạt.
Trương Văn Huy
------------
Comment:
* Nguyễn Thế
Đêm
30/3/1975 … chiều 17 giờ 00 .4khoá 28,29,30,31 SVSQ trường VBQGVN đã đi
tản và dàn quân ngay Đèo Ngoạn Mục Đơn Dương chờ lệnh … ( Vĩnh biệt đồi
1515 . KBC 4027 )
No comments:
Post a Comment