Sunday, April 14, 2024

TRUNG ĐOÀN BÌNH THUẬN TẠI MẶT TRẬN PHƯỚC TUY Tháng 4-1975 - Cao H Sơn

TRUNG ĐOÀN BÌNH THUẬN TẠI MẶT TRẬN PHƯỚC TUY Tháng 4-1975
Cao H Sơn - Son H Cao

Hình : Phi trường Vũng Tàu, Bình Tú, Kim Hải Phan Thiết, Bãi trước, Bãi Sau Vũng Tàu
Qua rồi bốn mươi mốt năm ngày tàn cuộc chiến, nay hồi tưởng lại những ngày cuối cùng của Quân Dân Bình Thuận cũng cảm thấy rất tự hào cho những người Dân, Lính vùng biển mặn. 
---------------
Nhưng cũng không làm sao giấu được nỗi xót xa, bồi hồi trong tâm khảm khi chạnh nghĩ tới những bạn bè, đồng đội đã hy sinh trong giờ thứ 25 giữa lúc cả nước từ trên xuống dưới (trừ lính) gần như tìm đường lánh họa Cộng sản.
 
Tiểu đoàn 202/ĐP của Đại úy Huỳnh Văn Hoàng làm Tiểu Đoàn Trưởng đã đến đây từ khuya, phối hợp với Liên đội Bảo vệ Nông Trường Sao Đỏ, trước đây do Đại úy Huỳnh Văn Quý chỉ huy đóng tại Ba Hòn, vừa dọn bãi vừa giữ an ninh cho Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch, đồng thời di chuyển Thương Bệnh Binh ra bãi biển chờ tàu Hải quân vào đón. Đến trưa thì Tiểu Đoàn 275/ĐP của Thiếu tá Lê Văn Tư tại Kim Ngọc, Lại An, và Tiểu Đoàn 274/ĐP của Thiếu tá Trịnh Văn Bình là đơn vị đóng xa nhất tận Bầu Gia, Phú Hội, Mương Mán cũng đến được bãi biển Kim Hải.
 
Ngoài ra còn có Đại đội 954 ĐPQ của Đại úy Mai Xuân Cúc và nhiều Đại Đội khác của các Tiểu Đoàn 249/ĐP, 230/ĐP cũng đến được điểm hẹn. Nói chung thì hầu hết các đơn vị tại Nam Bình Thuận gần như có mặt đầy đủ tại đây trừ lực lượng cơ hữu của Chi Khu Hàm Thuận, trong số này có Đại đội 288/ĐPQ của Đại úy Phạm Văn Sáu theo Thiếu tá Dụng Văn Đối di tản từ chiều 18-4-75 bằng đường bộ tới Hàm Tân và bị Tiểu Khu Bình Tuy giải giới tại đây, coi như tan hàng mạnh ai nấy lo kể cả Đại bàng. Riêng Chi Khu Hải Long do Thiếu Tá Hàng Phong Cao làm Chi Khu Trưởng rời Mũi Né vào trưa ngày 18–4–75 bằng ghe chở nước mắm và chiếc thương thuyền Hương Giang từ Nha Trang vào bi kẹt bỏ lại. Các đơn vị tại Bắc Bình Thuận gồm 4 Chi Khu Tuy Phong, Hải Ninh, Phan lý Chàm, Hòa Đa và Liên đoàn 925/ĐP đóng tại Lương Sơn, phần lớn cũng được di tản vào Vũng Tàu bằng tàu Hải quân và ghe đánh cá tại các bến Cà Ná, Long Hương, Phan Rí Cửa, Hòn Rơm. Riêng Chi Khu Thiện Giáo coi như tan hàng trước ngày 16-4-75.
 
Tại bãi biển Kim Hải tình hình mỗi lúc một thêm căng thẳng. Trời về trưa càng oi bức ngột ngạt, gió biển vẫn không đủ xoa dịu nỗi cái nóng của hơi cát bốc lên từ bốn hướng. Theo đúng kế hoạch lui quân của Bộ Tư Lệnh vùng II Duyên Hải, đầu tiên là sự xuất hiện của Duyên Đoàn 28 Phan Thiết, từ ngoài khơi vào bốc các Thương Bệnh Binh của QYV Đoàn Mạnh Hoạch. Kế tiếp là đoàn tàu Ferro Ciment và tàu há mồm ào ạt ủi bãi trong lúc thủy triều đang lên cao, lần lượt bốc hết các đơn vị tại chỗ. Trong lúc đó nhiều chiến hạm kể cả chiến hạm Trần Khánh Dư HQ4 cũng tiến sát vào bờ, sẵn sàng nhả đạn yểm trợ cho các cánh quân bên trong, đang dồn dập ủi bãi đón người. Đại đội 4/229/ĐP do Trung úy Cao Hoài Sơn chỉ huy là đơn vị rút sau cùng vì làm nút chặn cho đoàn người rút ra biển. Ba chiếc Hải thuyền tiến vào bờ đón đại đội 4/229/ĐP lúc 1 giờ chiều cùng ngày 
 
Lúc này bãi biển Kim Hải trở nên vắng lặng. Cuộc di tản Chiến thuật của Tiểu Khu Bình Thuận và các đơn vị từ Phan Rang vào coi như kết thúc vào lúc 2 giờ trưa ngày 19-4-75 với sự thành công tuyệt diệu.
Trong giây phút sắp từ giã Phan Thiết yêu thương, bỏ lại sau lưng vợ con, cha mẹ, bạn bè, không biết bao giờ mới gặp lại, trái tim người lính trận bỗng dưng khựng điếng như vô cảm. Trên Soái Hạm Trần Khánh Dư HQ4, hiện đang có mặt Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh và Đại tá Ngô Tấn Nghĩa, bên trong những boong tàu hơn 6000 quân được vớt từ bãi Kim Hải.
 
Một ngày một đêm lặn lội trong máu lệ đạn bom, cái chết trước mắt đã làm cho ai nấy quên đi hết sự đói lạnh. Giờ này được ngồi yên trên tàu xa vùng khói lửa, ngắm nhìn trùng dương xanh thẫm, cái đói như từ trên trời xập xuống. Tôi ăn vội gói mì tôm sống chai ngắt nhạt nhẽo và uống ngụm nước lạnh múc ở suối hồi khuya còn sót lại trong bi đông, mới thấy lòng ấm lại đôi chút. Tình cờ đưa mắt nhìn lên boong tàu Trần Khánh Dư, tôi thấy Hải Quân Trung úy Nguyễn Văn Tạo là cậu họ. Tôi mừng quá đưa tay vẫy và hỏi lớn có gì ăn không? Chừng mười phút sau một gói giấy được ném qua tàu tôi, mở ra thật ngỡ ngàng với 4 con cá khô ét nướng và một vắt cơm. Thì ra thân phận người lính VNCH là thế đó, dù họ có là sĩ quan hay binh sĩ, là người lính kiêu hùng Dù, TQLC, LLĐB, BĐQ hay Nghĩa Quân, Xây Dựng Nông Thôn... là Bộ binh, Không quân hay người Lính Biển... thì nỗi cam khổ hiểm nguy, tất cả đều giống nhau không ai ngoại lệ.
 
Đang nằm gối đầu trên chiếc ba lô mơ mơ màng màng, nhớ lại những buồn vui đời lính, bỗng giật mình vì tiếng còi báo động từ Soái hạm HQ4 vang lên. Tôi nghe tiếng loa phát ra “Phi cơ địch xuất hiện, tất cả vào vị trí chiến đấu”. Tôi bật ngồi dậy như cái máy, thấy các anh lính Hải quân đang khoác vào mình chiếc áo phao màu cam, tiến đến các ổ súng Cao Xạ Phòng Không trên tàu trong lúc hệ thống Ra đa trên tháp chỉ huy không ngớt di động để tìm dấu vết phi cơ địch. Các tàu chở lính được lệnh tách rời Soái Hạm và hướng về Nam. Cuối cùng giờ chót phi cơ địch không tấn công đoàn tàu, nhưng Soái Hạm HQ4 vẫn ở lại vùng biển Phan Thiết để đoạn hậu bảo vệ đoàn tàu xuôi Nam.
 
Gần tối đoàn tàu qua mũi Kê Gà với tháp Hải đăng chiếu sáng cả một vùng biển. Mệt mỏi và say sóng, chúng tôi thiếp đi trong giấc ngủ chập chờn, tới lúc ánh mặt trời chiếu vào mặt mới thức giấc. Nhìn ra ngoài thì thấy đây là Bến Đình nhưng tàu còn bỏ neo ngoài biển chưa cặp bến vì còn chờ lệnh Quân Trấn Vũng Tàu. Thiếu tá Nguyễn Hữu Tiến, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu đoàn 229/ĐP, được sự ủy nhiệm của Đại tá Ngô Tấn Nghĩa lên bờ trước gặp Quân cảnh Quân Trấn Vũng Tàu để bàn kế hoạch giao nạp vũ khí, quân dụng cho Quân Trấn vì sợ chúng tôi làm loạn khi được lên bờ. Từng người một bị khám xét, và bị tịch thu tất cả mọi thứ kể cả bản đồ, địa bàn trước khi lên Bến Đình.
 
Chỉ có Thiếu tá Tiến là còn giữ được một khẩu Colt 45 và một máy PRC 25 dùng để liên lạc với Đại tá Nghĩa.
Hỡi ôi! Đánh trăm trận không chết vì đạn pháo mìn chông của VC mà nay đoàn lính trận Bình Thuận lại bị chết nhục bởi đám Quân cảnh trong giờ thứ 25 này, qua những lệnh lạc từ trên trời rơi xuống. Nhưng chúng tôi là những người lính có kỷ luật và tuyệt đối tuân lệnh cấp chỉ huy, nên không có chuyện gì xảy ra. Nhưng đây cũng là lý do làm cho một số anh em lên được bờ thì bỏ về Sài Gòn vì trong tay không còn vũ khí và quyền chỉ huy, khiến lính không ra lính quan không ra quan. Một số cảm thấy bị xúc phạm đến danh dự khi bị đám quân cảnh trấn lột thẳng tay.
Nhưng trái lại, đồng bào tại Đặc Khu Vũng Tàu đã dành hết sự ưu ái nồng nhiệt đón tiếp đoàn quân di tản từ Bình Thuận vào. Dọc theo Bãi Trước gần cầu tàu, các quày thức ăn cung cấp tự do cho mọi người. Xen lẫn trong số này có các quày của các Soeur bên Thiên Chúa Giáo và quý Ni Sư Linh Sơn Tự. Các món ăn chay vừa ngon vừa gợi nhớ, làm cho các quân nhân Phật tử cảm động muốn khóc vì nhung nhớ gia đình, không biết giờ này họ ra sao? Nói chung đồng bào và các đoàn thể ở Vũng Tàu cùng chính quyền đã tiếp đón thật nồng hậu những người con trở về từ giới tuyến. Mối ân tình sâu đậm ấy là những hình ảnh nồng nàn diễm tuyệt luôn theo tôi trong suốt cuộc hành trình không bao giờ phai lạt trong suốt cuộc đời còn lại.
 
Đoàn Quân xa gồm mấy chục chiếc luân phiên chở chúng tôi về Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp ở Bà Rịa. Khi đi ngang qua Đặc Khu Vũng Tàu có ghé lại, để các cô Nữ Quân Nhân ủy lạo, họ cấp phát cho mỗi người 5 gói mì tôm, của ít lòng nhiều nên chúng tôi vô cùng cảm động, nói lên được tình Huynh đệ Chi binh. Trưa 20-4-75 gần như các đơn vị di tản từ Phan Thiết vào đều có mặt tại Trung Tâm Huấn Luyện Quốc gia Vạn Kiếp Bà Rịa, tỉnh Phước Tuy, ngoại trừ một số ít bỏ ngũ trốn về Sài Gòn tìm thân nhân.
 
Tôi ước lượng có khoảng 10.000 người tập trung về đây, đủ các quân binh chủng, nhưng đông nhất là Tiểu khu Bình Thuận hơn 3000 ngàn người. Trong khi đó từng đoàn xe GMC chở đầy binh sĩ Sư đoàn 18/Bộ Binh của Tướng Lê Minh Đảo vừa từ Xuân Lộc rút về được tái phối trí phòng thủ Sài Gòn Vũng Tàu, chạy ngược về hướng Long Thành trên QL15. Cũng tại Trung tâm Vạn Kiếp, thấy có mặt Đại tá Lại Văn Khuy, Liên Đoàn Trưởng 925/ĐP (Bắc Bình Thuận) và Thiếu tá Nguyễn Quốc Quân Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu đoàn 212/ĐP. Sau khi chận đánh đoàn xe Tăng địch tại dốc Bà Chá Lương Sơn, đơn vị này rút quân theo lộ trình Lương Sơn, Sông Lũy ra Bàu Trắng trong mật khu Lê Hồng Phong để chờ tàu Hải quân đến đón. Đại úy Bá, Tiểu Đoàn Phó cùng một số binh sĩ vài chục người tách ra đi ngược về Lương Sơn tìm đường khác để đi, nhưng từ đó đến nay không nghe tin tức gì về toán quân này.
 
Sáng ngày 19-4-75, Đại Đội Trưởng Đại Đội 1/212/ĐP Đại úy Vĩnh là người trực tiếp chỉ huy phá chiến xa địch tại dốc Bà Chá Lương Sơn, cùng một số anh em dùng ghe nhỏ ra biển đón được 3 ghe giả cào lớn vào bờ rước toàn bộ BCH/Liên Đoàn 925/ĐP và binh sĩ còn lại của Tiểu đoàn 212/ĐP vào Vũng Tàu an toàn. Lúc này, Đại tá Khuy và Thiếu Tá Quân không mặc quân phục hiện cũng có mặt tại đó nhưng Thiếu tá Nguyễn Hữu Tiến được Đại tá Ngô Tấn Nghĩa chỉ định thay thế ông trực tiếp chỉ huy binh sĩ Bình Thuận trong thời gian ông về Sài Gòn xin lương bổng và tái trang bị cho đơn vị.
 
Ngày 21 tháng 4-75 hầu hết các đơn vị từ Bình Thuận di tản vào được chở ngược về Đặc Khu Vũng Tàu và tập trung tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Bãi Sau. Trung Đoàn Bình Thuận được thành lập và được tái trang bị vũ khí cùng quân trang quân dụng. Gạo được tiếp tế dư thừa nên một số đơn vị tính bán bớt để mua cá thịt cho anh em ăn. Ngày 22-4-75 Đại tá Nghĩa dùng trực thăng đáp xuống căn cứ TQLC Vũng Tàu mang theo 5 triệu đồng cấp phát tạm cho anh em mua thực phẩm, mỗi người nhận tạm 200 đồng/ngày. Ngày 5 tháng 4 lại mang đến thêm 2 triệu đồng nữa. Đích thân Th/tá Nguyễn Hữu Tiến nhận tiền và Tr/úy Cao Hoài Sơn tạm thời kiêm thủ qũy, giúp cấp phát số tiền này cho các binh sĩ Trung Đoàn Bình Thuận (Th/tá Tiến đã qua đời tại Úc vì bạo bệnh sau nhiều năm sống trong Trại tù CS ngoài Bắc). Quân số Trung Đoàn Bình Thuận lúc đó khoảng 3000 người gồm Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan, và Binh Sĩ các đơn vị tác chiến.
 
Riêng BCH/Tiểu Khu, BCH/Liên Đoàn 925/ĐP, và các BCH Chi Khu, An ninh Quân Đội, các ban ngành coi như tan hàng ngày 19-4-75, ngoại trừ “người Lính già Ngô Tấn Nghĩa, đã theo anh em đến giờ phút cuối cùng từ mọi nẻo đường” nên đã bị kẹt lại ở Sài Gòn dù ông có đầy đủ phương tiện để ra đi trong giờ phút cuối nhưng ông vẫn không đi khi những chiến binh của Bình Thuận còn đó. Riêng tôi ghi nhận không biết có thiếu sót vì thời gian đã quá lâu và không biết mình là nhân chứng nên không để ý nhiều, để ghi nhận sự có mặt của hầu hết các vị Tiểu Đoàn Trưởng như Thiếu Tá Tiến 229. Thiếu tá Bình 274, Thiếu tá Tư 275, Đại úy Hoàng 202 ...Không thấy các vị Chi Khu Trưởng nào có mặt tại đây ....
 
Trong ngày 25-4-75, Đặc Khu Vũng Tàu cấp cho Trung Đoàn Bình Thuận một xe Dodge, các Tiểu Đoàn nhận lại máy PRC 25 và bản đồ Tỉnh Phước Tuy. Lúc này bắt đầu hỗn loạn vì VC bắt đầu áp sát Thành Phố, pháo kích bừa bãi vào dân chúng đang tập trung tại sân vận động. Phi trường bị pháo kích liên tục làm tê liệt các chuyến bay. Tệ hại nhất là tại sân vân động, những người không nhà lại phải bồng bế nhau tháo chạy dưới làn pháo của VC. Hơn 10.000 người tại đây hoảng loạn kêu khóc rất thương tâm, không thấy ai có lấy một lời lên án hành động dã man này. Lương tâm loài người đâu rồi? Các đài BBC, VOA, RFI, RFA ... đâu không tố cáo tội ác chống nhân loại của Bắc Quân xâm lược này?Đạn bom lửa khói đã bắt đầu tiến vào đường phố, xác người cháy đen nằm trên lề đường, quân cướp giật lợi dụng hoành hành, làm cho tình hình thêm rối rắm. Tình hình trở nên nguy ngập khi Sư đoàn 18/BB được lệnh rút về Biên Hòa. Các Tiểu đoàn 274/ĐP của Th/tá Bình và 275/ĐP của Th/tá Tư, 202/ĐP của Đại úy Hoàng chỉ huy thuộc Trung Đoàn Bình Thuận được lệnh bung ra Long Hải làm tiền đồn chận giặc, bảo vệ phía Đông Bắc thành phố Vũng Tàu .Các Đại đội biệt lập và Tiểu đoàn 229/ĐP trách nhiệm giữ căn cứ TQLC làm phòng tuyến chính, tiếp ứng cho các đơn vị bảo vệ Vũng Tàu. Ngày 29-4-75, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn và một số tùy viên thân cận từ Biên Hòa dùng trực thăng đáp xuống căn cứ TQLC lúc đó do Trung Đoàn Bình Thuận trấn giữ. Buổi trưa cùng ngày lúc 10 giờ 30 sáng các vị đã “di tản chiến thuật” bằng trực thăng ra Hạm đội 7 Mỹ đang đậu ngoài khơi Vũng Tàu cùng lúc VC tấn công vào Long Hải. Trước sức tấn công dữ dội của địch và không có sự yểm trợ tối thiểu nào của Đặc Khu Vũng Tàu nên ba Tiểu đoàn 274/ĐP và 275/ĐP, và 202/ĐP đã lui binh về căn cứ TQLC cùng phòng thủ.
 
Trên QL15 dẫn vào Vũng Tàu, Cầu Cỏ May do TQLC đóng giữ bị VC tấn công dữ dội nhưng gặp sự chống trả mãnh liệt nên gây nhiều thương vong cho giặc. Tại căn cứ TQLC do Trung đoàn Bình Thuận trấn giữ, Cộng quân bắt đầu tấn công bằng lối tiền pháo hậu xung cổ điển. Trung đoàn đã đánh với giặc trận chiến cuối cùng vô cùng oanh liệt.Từng đơn vị địch như những con thiêu thân lao vào, ác liệt nhất là mặt phía tây có rừng dương liễu, và động cát. Xác địch nằm ngỗn ngang vì mìn bẫy và những lằn đạn chính xác của ta. Tới chiều gần tối biết không thể nào ngăn chặn được nữa, vì đạn dược có giới hạn . Trung đoàn Bình Thuận rút đi dọc theo bãi biển tiến về Bãi Trước. Chúng tôi bỏ lại tất cả chỉ mang theo đạn dược, vũ khí nhẹ và lương thực vì vũ khí nặng không còn đạn nên phá hủy trước khi rút.
 
Chúng tôi chiếm ngọn núi Nhỏ có tượng Chúa ngó ra biển làm vị trí phòng thủ. Đây là một căn cứ quân sự mà quân đội Nhật Hoàng đã xây dựng trước đây hồi Đệ nhị Thế chiến (có tài liệu nói do người Pháp xây dựng). Trong đó có hệ thống giao thông hào, hầm trú ẩn kiên cố và có giếng nước. Dân chúng xung quanh kéo đến đây lánh nạn rất đông trên vài ngàn người.
Lại một đêm dài không ngủ đi qua rất chậm như những đêm dài VN suốt 20 năm chinh chiến trên quê hương khổ đau. Tiếng súng trong thành phố vẫn tiếp diễn không ngớt, kéo dài tới cả buổi sáng ngày 30-4-75 và cuối cùng là lệnh đầu hàng của Tổng thống hai ngày Dương Văn Minh. Kết thúc vận hội của dân tộc VN tự do, bước vào ngưỡng cửa của thế giới đói nghèo.
 
Hơn bốn mươi năm qua rồi, nhưng lịch sử cận đại của nước Việt vẫn còn đó chứ không sang trang như nhiều người đã ngộ nhận lúc ban đầu. Hãy nói lên những sự thật của lịch sử để tự trọng và xứng đáng là người cầm bút, là người Lính hay ít nhất cũng là một bình dân lương thiện. Đó là cách duy nhất đền đáp lại mối ân tình đối với người chiến sĩ một đời hy sinh hạnh phúc và mạng sống của mình cho đời.
 
Người Lính Bình Thuận, những Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, Cán bộ Cảnh Sát... một đời xứng đáng để các thế hệ sau trân quý, noi gương. Chúng ta đã không lầm lẫn khi viết bất cứ một trang sử nào nói về “Sự hy sinh cao quý của người lính VNCH”.

No comments: