Phần I
Xưa Nay Chinh Chiến Mấy Ai Về
35 năm qua nhanh như một giấc ngủ muộn màng, tôi thức dậy với thân thể rã rời và đầu óc mệt mỏi. Tôi cứ tưởng mọi chuyện trong đời sống rồi sẽ nhẹ nhàng theo nhau qua đi như giòng nước trên sông vẩn vơ đâu đó, cuối cùng sẽ theo nhau về biển khơi và mất hút Nhưng không, niềm đau cứ như lớn lên trong tâm tưởng mỗi khi nghĩ về đất nước,
nghĩ về những tháng ngày cùng bạn bè thuộc cấp trong đơn vị,cùng chia nhau những niềm vui và nỗi khổ, những lúc đó tôi bỗng dưng như thấy mình hụt hẩng đang trên đà rơi xuống vực sâu thăm thẳm, chỉ còn đau thương, chỉ còn những giọt nước mắt thương nhớ, tăm tối và chua xót với một khoảng nợ nần đối với bạn bè, thuộc cấp mà tôi chưa trả được, chỉ còn lại một mình với tiếng rên siết nho nhỏ uất nghẹn, một mình tôi với tôi.
Những ai đang sống trong câu chuyện kể của tôi hôm nay, xin hảy tha thứ cho tôi, nếu có những gì tôi kể không được chính xác. Câu chuyện của những người làm lính trận đi mãi không về và một phần đoạn đời của người viết thay vì bố cục của chuyện kể. Và tôi hiểu, chỉ còn một cách này thôi, tôi mới hy vọng những tháng ngày còn lại nhẹ nhàng hơn, thanh thản hơn đôi chút. Sau gần 7 năm tìm kiếm tin tức tôi nghĩ cũng đủ rồi và bây giờ xin mời quý vị cùng tôi đi vào câu chuyện kể.
Phải rồi, câu chuyện sẽ được bắt đầu vào thời điểm: ngày 6 tháng 6 năm 1983…
Ngày 6 tháng 6 năm 1983: Người Tù được phóng thích.
Hắn bước qua cổng trại tù Thượng Đức với bộ đồ vải thô màu xanh lam và chiếc nón lá một người dân ở xã Đại Lãnh Quảng Nam cho hắn, mặt mày thực trầm tĩnh trong cái khối óc lãng đãng vô số sự đời và việc đời đang vội vã trở về với tâm trạng: hôm nay hắn được phóng thích khỏi trại tù với một tội trạng không có tên. Những tháng ngày đầu tiên của 8 năm tù ở, hắn nhớ rõ ràng là một cuộc tranh thắng nặng nề gay go, dai dẳng trong sự lựa chọn- chết hay sống.
Và 8 năm còn lại sau đó trôi qua với hắn thực nhẹ nhàng chẳng có chi phải khó khăn, những sinh hoạt thường ngày của một tội nhân trong lao tù Cộng Sản: lao động nặng nề, ăn thiếu , ăn đói, thiếu thuốc hút, thiếu thuốc trị bịnh, bị đập, bị đánh, còng đứng, còng ngồi, bị chửi bới, bị sĩ nhục, cải tạo tư tưởng v.v…những điều này không thể tàn phá xác thân và tâm hồn hắn được bởi hắn đã cương quyết chọn lựa cho hắn - Sống, hắn phải sống vì hắn chưa giải quyết được bổn phận của hắn, cả mấy tháng trời từ ngày đất nước mất, đơn vị tan tành bước vào cổng tù tội, hắn đã sống dật dờ thê thảm của một kẻ không còn trí óc, suốt ngày lừ đừ không nói không rằng, với cặp mắt hình như có một tấm màn lờ mờ che phía trước có nhìn nhưng không thấy rõ ràng một thứ chi. Đêm đêm nhắm mắt với những giấc mơ thua trận, bị rượt, bị đuổi bắt, hàng chục trận đánh cứ tiếp nối trong giấc ngủ chập chờn, cuối cùng trận nào cũng thua và bị bắt làm tù binh.
Hơn 3 tháng tinh thần sa sút đến khốn đốn, đầu óc hắn dần dần trở lai một cách vững vàng hơn, hắn nhớ rõ ràng chỉ có những phút đầu trước khi vào giấc ngủ là tâm hồn hắn lại trong sáng nhất dù rằng cũng có những lúc hắn buồn, hắn đau đớn. Nhưng rõ ràng có ý thức chiến đấu với bản thân, trước mắt hắn hình tượng Đức Mẹ vô cùng rõ ràng, nét mặt hiền hoà, bao dung với nụ cười nhẹ nhàng khuyến khích, dẫu rằng hắn là người ngoại đạo: con hãy trân qúy đời sống mà bề trên đã cho con, từ đó trong nghĩ tưởng hắn hình dung lần lượt ra nét mặt của người thân trong gia đình: Ông nội, bà nội, bố mẹ và các em hiện rõ dần cho đến khi thực rõ trước mắt hắn… và hắn nguyện cầu cho gia đình được bằng an trong sự chở che nào đó, cứ như thế và mọi đêm đều như thế, và hắn yên tâm đi vào giấc ngủ thực bằng an và những năm tháng dài sau đó trôi đi nhẹ nhàng, dễ chịu hơn.
Sáng nay trên cao trời thực hiền hòa với màu xanh nhẹ nhàng đẹp đẽ, hắn thở hắn hít vô cùng thoải mái và tự nhủ: ngày tháng nào rồi cũng qua thôi, một khoảng thời gian không dài mấy, một đoạn đường cũng chẳng quá xa nữa, hắn lại trở về với gia đình.
Đoàn người đang trên quảng đường dài: Thượng Đức, xã Đại Lãnh hướng về trung tâm huấn luyện Hòa Cầm, cùng với mấy người bạn trong những năm tháng cùng sống chung trong các trại tù với hắn: Trại Kỳ Sơn, Phú Ninh, Thượng Đức rồi Trại Giữa v.v.. cũng được cho về như hắn, họ cười nói huyên thuyên, thỉnh thoảng hắn nhìn họ và nhìn ra xa hơn vùng rừng núi sau lưng, nơi hắn đã gần 9 năm lặn lội, lục tìm, nơi đó hắn đã qua những buổi sáng mùa Đông mưa lạnh, những ngày Hạ nắng cháy như thiêu đốt thịt da.
Họ quyết định cùng nhau đi bộ về thành phố. Không cần phải xe đò, honda ôm, họ muốn nóí chuyện với nhau thực nhiều, tâm sự thực nhiều trước khi chia tay người mỗi ngã: Anh về miền Trung, Huế, Quảng Trị, Phú Yên, tôi về Tây Ninh, Châu Đốc, Cà Mau… Mỗi đứa rồi sẽ mỗi đường về đâu đó họ cũng chưa biết. Đoạn đường rút ngắn nhanh chóng, thời gian bao lâu, khoảng đường dài bao nhiêu, chúng tôi đã bước vào địa phận của thành phố Đà Nẵng, và bây giờ đang trên đại lộ Hoàng Diệu đông người, kẻ qua người lại họ vui vẻ, tò mò nhìn chúng tôi và nói nhỏ với nhau- Họ là những người ở trại tù nào đó được phóng thích về, có nhiều người muốn hỏi chuyện chúng tôi nhưng chắc họ e ngại. Họ cẩn thận cho chúng tôi tiền để làm phương tiện về quê nhà, chúng tôi vô cùng xúc động chỉ xin cám ơn và cảm thông tâm trạng họ những người còn thương yêu những người lính Quân lực VNCH…
Câu chuyện của Gia đình Niên trưởng Đỗ Hữu Tùng:
Người con gái từ trong ngưỡng cửa một căn phố trên đường Hoàng Diệu vội vã bước ra nhỏ nhẹ xin lỗi mọi người và hỏi một người bạn của chúng tôi anh Nguyễn Đình Thái, anh người Huế nhưng sinh sống và làm việc ở tiểu khu Quảng Trị, tính tình vui vẻ:
- Xin lỗi có phải các anh vừa mới được ra tù.
- Dạ phải.
Chị nói thực nhỏ:
- Xin lỗi, cho em hỏi: các anh có ai thuộc đơn vị Thủy Quân Lục Chiến không? Có, Thái chỉ vào tôi.
- Nếu các anh không phải bận rộn, gia đình em hân hạnh mời các anh vào nghỉ chân một lúc có được không?
Thái nhìn bạn bè hỏi ý kiến. Anh Phù Chí Phụng và Nguyễn Văn Lợi nhanh nhẩu
- Các bạn có đồng ý không?
Chúng tôi thấy cũng chẳng có chi phải vội vàng, hấp tấp đều gật đầu, đồng ý.
Bước vào căn nhà, tôi kín đáo nhìn quanh, đây là một căn nhà kiến trúc theo lối cổ, nghiêm trang, bình thường. Cô dẫn chúng tôi vào nhà giữa nơi đây có bộ bàn trường kỹ nhiều ghế và mời ngồi, vui vẻ nói, các anh chờ em một tí nghe. Chừng vài phút cô hướng dẫn một bà cụ và vài người chị trong gia đình đến chào hỏi chúng tôi. Bà cụ cười nói.
- Hân hạnh chào và chúc mừng các anh đã qua được những ngày tháng lao đao, hôm nay được trở về với gia đình. Và chúng tôi cũng hân hạnh mời các anh ở lại dùng cơm với gia đình chúng tôi, nghỉ ngơi rồi sáng mai đi có được không? Đồng ý nghe. Chúng tôi lúng túng trả lời câu hỏi của cụ: thưa cụ cho chúng cháu cám ơn thôi.Cụ xúc động nói.
- Thú thực với các anh gia đình chúng tôi muốn được mờì các anh dùng một bữa cơm với tấm lòng, ngoài ra cũng có câu chuyện cần hỏi thăm các anh, mong các anh nhận lời. Tôi thưa với cụ, anh em bọn cháu sẽ ở lại dùng cơm với cụ nhưng xin phép cụ và gia đình sau khi dùng cơm xong chúng cháu xin từ giả.
Cụ yên tâm, thôi vậy cũng được, cầu mong chúng ta sẽ lại còn gặp nhau.
Cụ bảo cô con gái pha trà mời khách, thú thực chúng tôi ai cũng cảm thấy yên tâm và thoải mái qua từng lời nói, cử chỉ của moị người trong gia đình này dẫu rằng họ chưa hề quen biết với chúng tôi bao giờ.
Cụ nhìn từng người một và nét mặt thoải mái như được đón người thân trở về sau những tháng năm dài tù tội. Các cháu có ai cần thuốc men gì không, cụ lần lược hỏi qua những người bạn của chúng tôi một cách cảm thông, dễ mến. Sau cùng cụ hỏi nhỏ.
- Xin lỗi ai là người lính Thủy Quân Lục Chiến? Chúng tôi nhìn nhau, một chút trao đổi nhưng không ngần ngại, tôi nói nhỏ.
- Cháu là Thủy Quân Lục Chiến.
Cụ vui vẻ.
- Giữa các anh em bác có thể nói chuyện với cháu có gì bất tiện không?
- Dạ, bác cứ nói.
- Vâng, bác cám ơn, trên dáng mặt buồn bã như không còn niềm vui cụ kể cho chúng tôi nghe câu chuyện về một người lính.
“-Trong gia đình bác cũng có người con trai đi lính Thủy Quân Lục Chiến, nghe như là anh ấy ở Lữ đoàn 369/TQLC sau khi không còn chức vụ chỉ huy một đơn vị (tuy rằng cụ đã lớn tuổi nhưng riêng trong suy nghĩ của tôi, cụ thực vô cùng tinh tế, ý nhị khi nói chuyện về người con của mình). Trước ngày 30 tháng 3 năm 1975, vào khoảng ngày 17, 18 tháng 3 năm 1975 bác biết Tùng đã theo Lữ đoàn chuyển quân về Đà Nẵng, nhưng Tùng cho biết anh vô cùng bận rộn không thể ghé thăm gia đình được, hồi đó thành phố Đà Nẵng như đang sống trong cơn sốt kinh hoàng, trên đường phố đông người chạy ngược chạy xuôi hớt hơ, hớt hải. Cứ như thế, liên tục không làm ăn mua bán mà chỉ tìm đường về trong nam, cho đến chiều ngày 29 tháng 3 năm 1975 súng đạn nổ rang, ầm ỉ liên tục từ hướng phi trường Non- Nước dội về, người ta cho gia đình bác biết chiến trận lớn đang diễn ra giữa TQLC và Việt Cộng, cả gia đình như đang ngồi trên đống lữa, đang lo sợ nhiều thứ: sợ cho Tùng , sợ cho TQLC, sợ chiến trận xảy ra lớn quá nguy hiểm cho thành phố, đến không ai nhớ phải ẩn núp vào những nơi đã chuẩn bị trong nhà, suốt đêm đó hoả châu được thắp sáng trên trời mé bên phía An Hải. Qua đêm kinh hoàng đó, sáng hôm sau bọn nhỏ trong nhà quyết định đi tới nơi vừa xảy ra chiến trận hôm qua để tìm Tùng. Đang kể tự dưng bác im lặng một lúc thật lâu và thở dài…nơi đó không có Tùng, không có con của bác cho đến nay có lẽ Tùng đã không còn sống.. và giòng nước mắt nóng đổ dài trên má người mẹ với hơi thở yếu ớt uất nghẹn…
Non Nước - Đà Nẵng - Những ngày cuối tháng 3 1975
Trong căn phòng trở nên nặng nề, chỉ còn tiếng khóc nho nhỏ của người con gái…
- Cháu ơi! Cháu là Thủy Quân Lục Chiến, cháu có biết Tùng ở đâu không? Tùng có còn sống không?
Tôi cúi đầu thực lâu để dằn xuống sự xúc động và chua xót nghĩ về những người lính trận đã hy sinh, hy sinh từ gia đình đến sinh mạng và hy sinh đến cả bổn phận đối với người thân người yêu, nhưng khi ra đi lại không nói được một lời, dù chỉ một lời từ giã, để tạ tội với những người thân yêu trong gia đình
Tôi ngẩn lên nhìn cụ, tôi nhìn thực kỹ những đường nét quá đau thương đang còn vết hằn sâu trên đó dù ngày tháng gần chín, mười năm qua đã cố phôi phai.
- Thưa bác, anh Tùng con của bác cấp bậc gì?
- Anh ấy là Trung tá.
- Thưa bác, có phải là Trung Tá Đỗ Hữu Tùng không?
- Đúng rồi, là Trung tá Đỗ Hữu Tùng.
- Cháu là thuộc cấp của niên trưởng Tùng, NT Tùng cũng là
đàn anh của cháu, cháu và NT đã có nhiều thời gian sống gần gũi trong cùng đơn vị. Sau khi anh ấy không còn giữ chức vụ LĐT/LĐ147, anh đã về Lữ đoàn 369 để phụ tá cho người bạn cùng khóa 16 Võ Bị Đà lạt với anh, NT Nguyễn Xuân Phúc. Dẫu rằng mất chức, nhưng anh vẫn vui vẻ, hăng hái làm việc bên cạnh người bạn thân của mình… 9 năm trước, trước khi chiến trận xảy ra ở phi trường Non- Nưóc chừng 2 tiếng đồng hồ, lúc đó khoảng hơn12 giờ trưa ngày 29 tháng 3 năm 1975 cháu đã nói chuyện với NT Tùng bằng máy truyền tin, ngày đó cháu là Trưởng ban 3 của TĐ9/TQLC. Trong lần nói chuyện đó anh cho cháu biết sẽ có một đơn vị nhỏ của TĐ2/TQLC đón đơn vị cháu phía bên kia sông Hàn, và TĐ9/TQLC sẽ được tiếp lên tàu để về Cam ranh, nhưng rất tiếc sự tiên liệu hoàn hảo đó của một một Cấp chỉ huy lại không may mắn được thực hiện và cũng chẳng bao giờ được thực hiện. Sau đó cháu và NT Tùng không bao giờ còn nói chuyện và gặp nhau nữa. Và bác cũng đã biết sau trận đánh đó cháu bị bắt và vào tù cho đến hôm nay.
Người đàn bà ngậm ngùi nhìn tôi, cô gái đứng sau lưng ngưng tiếng khóc và nói rất nhỏ.
- Thưa, em có thể được biết tên anh không?
- Dạ, tôi tên Tịnh, tên Đoàn Văn Tịnh.
- Anh Tịnh, anh Tùng là anh rễ của bọn em.
Tôi quay lại nhìn người con gái, trong dáng mặt hiền hoà và buồn phiền đó tôi thấy quen thuộc, đúng rồi quá quen thuộc, tôi nhắm mắt hình dung tới một người, người đàn bà mãnh mai và hiền hoà nhâu hậu có nét mặt và dáng dấp tựa như người con gái đang đứng sau lưng tôi…Chị Liên vợ anh Tùng
- Bác ơi, cháu muốn hỏi chuyện này.
- Cháu muốn hỏi về chuyên chi?
- Chị Liên bây giờ đang ở đâu, cháu có thể biết được không?
Bà cụ ngạc nhiên, sao cháu lại biết Liên, có vẻ thân thiện như vậy.
- Thưa bác ngày đó… Cháu và anh chị Tùng đã quen biết nhau lâu lắm rồi…
“ Vào cuối năm 1967, sau 2 năm chấm dứt thụ huấn tại Quân trường Võ Bị Đà Lạt, chúng tôi có được 2 tuần nghĩ phép rồi sau đó từ giã gia đình về đơn vị, tôi tình nguyện gia nhập Binh chủng Thủy Quân Lục Chiến nên trình diện ở BTL/TQLC số 15 Đường Lê Thánh Tôn, Sài Gòn. Có một tuần theo học khóa huấn luyện kỹ thuật leo lưới ở Trung Tâm Huấn Luyện TQLC và từ đó được phân chia về Tiểu đoàn tác chiến.
“… Ngày đó tôi được phân phối về TĐ5/TQLC với 2 người bạn cùng khóa 22, Dương Công Phó và Nguyễn Trúc Tuyền. Tôi được Tiểu đoàn chỉ định về Đại đội 4 Tiểu đoàn 5 TQLC đang nghĩ quân tại quận Giáo Đức Mỹ Tho. ngay chiều hôm đó tôi trình diện người Đại úy ĐĐT/ĐĐ4, anh có dáng dấp thực nho nhã, nét mặt nghiêm chỉnh, đẹp trai, có làn da ngâm ngâm, tên anh- Đỗ Hữu Tùng. Sau những thủ tục và những lời dặn dò nhẹ nhàng như tâm sự, tôi dùng cơm tối với anh. Từ sau đó, tôi đi vào chiến trận với đời sống của một người lính trận thực sự, chức vụ Trung đội trưởng Trung đội 3/ ĐĐ4/ TĐ5/ TQLC. Chiến trận liên miên không ngưng nghỉ, dù rằng TĐ5 vừa mới tạo một chiến thắng lớn hôm qua tại chiến trường Giáo Đức, trên kinh Rạch Ruộng Quân khu 4, rồi một chiến thắng nữa vào cuối tháng chạp ở Bồng Sơn. Đúng ngày mồng 3 tết Mậu thân đơn vị lại vội vàn cuốn gói di chuyển về Quy Nhơn, lên máy bay C.23 nhắm hướng của đất trời thẳng tiến mà mục đích gì có lẽ mọi cấp nhỏ như chúng tôi chưa thể biết được, thôi thì đủ chuyện đoán mò đoán mẫm, qua những ô kính nhỏ trên thân máy bay tôi thấy phía dưới là núi rừng, đất đỏ trùng trùng điệp điêp: ồ, cao nguyên…tôi thầm nói với mình như vậy. Tự dưng đoàn tàu hình như trở hướng quay về trái và thẳng tiến Sài gòn đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất.
Chúng tôi rời máy bay nhanh chóng chỉnh tề hàng ngũ trung đội, lên nhận lệnh. Trong dáng vẻ nghiêm trọng Đại úy ĐĐT ban lệnh: Việt Cộng đã chiếm Sài Gòn, chúng ta có nhiệm vụ tái chiếm càng nhanh càng tốt, đơn giản. Chúng tôi vừa nghe lệnh vừa vẽ lối tiến quân, mục tiêu, vị trí của bạn, của địch…khu vực Chợ Lớn.
Trên tấm bản đồ thành phố với những ô vuông lớn đầy màu sắc: xanh, đỏ, đen, vàng của bút màu. Trận nào rồi cũng chỉ là chiến trận mà thôi, 3 ngày, 4 ngày là xong và chiến thắng không mấy khó khăn, gà đá trên đất nhà mà. Mồng 8 tết tháng giêng âm lịch cùng với các đơn vị bạn nhanh chóng trả lại Thủ đô cho dân chúng Sài Gòn: dọn dẹp sạch sẽ, tu sửa hư hại để trở lại với đời sống bình thường, còn chúng tôi tiếp tục lên xe GMC về đường Bạch Đằng Gia Định tạm nghỉ quân, chờ lệnh hành quân tiếp.
Một đêm nghỉ ngơi bình an và thoải mái, sáng hôm sau thức giấc khá muộn, tề chỉnh quân phục lên nhận lệnh ở BCH/ ĐĐ. Người Đại đội trưởng gọn gàng với quân lệnh: Khuya nay chúng ta di chuyển ra Phi Trường Tân Sơn Nhất và sẽ đáp máy bay về giải tỏa Cố Đô Huế ( người lính TQLC thiệt là hết biết chỉ trong gần một tháng mà bước chân đã dẫm lên cả 5 vùng chiến thuật từ Vùng 4: Mỹ Tho, Giáo Đức, Vùng 3: Bà Điễm , Cũ Chi, Vùng 2 với những rừng dừa bạt ngàn Bồng Sơn, Tam Quan, Quy Nhơn, trở lại Biệt khu Thủ đô với trận Tết Mậu thân và nay lại về giải tỏa Cố Đô Huế vùng 1 Chiến thuât ). Tin này đến với tôi đúng ý muốn vì tôi lại may mắn được dự trận chiến chiếm lại vùng quê hương mình, nơi tôi được sinh ra, lớn lên, học hành, bè bạn, giòng sông, những con đường ngày xưa tôi và bạn bè đã rong chơi, chiếc cầu trường tiền màu trắng bạc, từng góc phố quá sức quen thuộc và thân ái, nhất là có một điều tôi cần biết: cha mẹ và anh chị em tôi đang còn sống hay mất trong cuộc chiến này, tự dưng tôi trở nên lo lắng vô cùng, nhắm mắt thực buồn tôi thầm đọc nho nhỏ cho mình nghe:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.
Tôi im lặng cố che dấu những âu lo trong tận lòng mình, không có tí bình yên.Có ai đó vỗ nhẹ lên vai tôi, tôi giậc mình nhìn quanh không còn ai hết những ngườn bạn Trung đội trưởng: anh Vinh, Đính, Lan luôn cả anh Đức ĐĐP đã về tự bao giờ, chỉ còn lại một mình tôi với người ĐĐT. Niên Trưởng Tùng cười và hỏi, suy nghĩ gì vậy, tôi vụng về xấu hổ trả lời nho nhỏ “không”.
- Có bà xã của anh tới thăm, Tịnh vô ăn cơm với anh chị nghe.
- Cám ơn NT, NT với chị cứ dùng cơm, tôi về có được không?
- Không được, NT Tùng vừa cười vừa nói, thôi bỏ đồ lên cái bàn này và vào đây ăn cơm.”
Và từ hôm đó tôi biết về chị Liên, chị ra trường Cán sự Y tế và làm việc ở BV Từ Dũ, chị nói với tôi như thế.Trước mắt tôi chị Liên là một người đàn bà hiền lành, nói năng nhỏ nhẹ, có thể nói chị vui vẻ, nhân hậu và cứ mỗi lần chị Liên có dịp ra vùng hành quân thăm NT Tùng, tôi thường được anh chị mời lên ăn chung một bữa cơm, lần sau hết khi LĐ.258 đóng ở Cù hoan Quảng Trị, lúc đó NT Tùng đang giữ chức vụ LĐP/ LĐ.258 và tôi làm Ban 3 /LĐ thay cho NT Mai Văn Tấn khóa 21 bận tham dự khóa học ( vào khoảng tháng 6 năm 1974 – 12 năm1974). Chị lại ra Cù Hoan thăm anh và anh chị lại mời tôi dùng cơm, đó là lần sau hết tôi ăn cơm chung với NT Tùng và chị Liên. Lần đó chị trở lại Sài Gòn với tâm trạng không mấy vui… thưa bác cháu và anh chị Tùng quen nhau như thế đó.”
Chúng tôi xin từ giã và rời căn nhà ấm cúng mà cũng quá tội nghiệp này, căn nhà trên đường Hoàng Diệu, thành phố Đà Nẵng. Và cũng từ nơi đó bọn người 6, 7 đứa chúng tôi cũng ngậm ngùi chia tay nhau người mỗi ngã tìm đường về quê nhà.
Ngay từ chiều hôm đó, tôi đáp chuyến xe lửa Đà Nẵng về Huế, đáng ra tôi về Sài Gòn với gia đình nhưng tôi muốn về thăm lại cố hương sau gần 9 năm dài tù tội, thăm người em gái duy nhất còn ở lại nơi đây, cô tên Bé lặn lội nuôi chồng, nuôi bầy con còn quá nhỏ cùng với người cha chồng già nua tội nghiệp, Thanh chồng cuả Bé là sĩ quan phòng 7 kỹ thuật, cấp bậc Đại Uý ở tù trên Bình Điền- Huế, tháng năm dài thăm thẳm, không biết sẽ đến lúc nào Thanh mới được trở về với vợ con. Tôi muốn thay mặt gia đình tôi để thăm em, sống với gia đình em với các cháu vài ngày, tạo cho em một niềm tin, em còn có anh và cả gia đình của chúng ta và tặng em một chút quà duy nhất còn lại mà tôi đã cẩn thận gìn giữ mang theo từ ngày đi làm người tù (chiếc nhẫn vàng y một chỉ, tôi nghĩ em rất cần trong những năm tháng khó khăn ) rồi sau đó trở về với gia đình ở Sài Gòn mà không hối hận vì bổn phận làm anh.
Và bất ngờ cũng nhờ chuyến đi về Huế này, tôi lại biết chuyện đau buồn của gia đình mình trong những năm tôi ở tù, người cha thân yêu đã mất sau một cơn bệnh ở vùng kinh tế mới, gia đình đã cố dấu, không cho tôi biết từ năm 1977, năm đó mẹ và em tôi từ trong nam ra thăm tôi ở trại 2 Kỳ Sơn Quảng Nam.
Ngày 13 tháng 6 tôi về tới nhà, sau gần 2 ngày với chuyến tàu hỏa trời ơi đất hởi không thể tưởng tượng ra được: ngày nay trên Quê hương mình có những chuyến tàu lữa lạ lùng như vây.
Về tới Sài Gòn, gặp lại mẹ và các em vẫn bằng an mạnh khỏe đó là điều hạnh phước trong tôi. Nghỉ ngơi 2, 3 hôm tôi lên đường tìm việc làm dẫu rằng trong người chẳng có một loại giấy tờ gì đáng kể để chứng minh thân phận mình, còn các em bảo tôi anh cứ yên tâm ở nhà một hai năm nghĩ ngơi, bọn em lo được, nhưng tôi thì nghĩ chỉ có việc làm mình mới khỏi mất công ngồi suy nghĩ nhiều chuyện không ích lợi gì, và mới giữ đươc phong cách thong giong tự tại của con người mà thôi.
Nên tôi với thằng bạn, cùng sống chung ở trại tù Kỳ Sơn, Thượng Đức, hắn tên Đinh Văn Xiêm trước ở đơn vị Thiết giáp, chúng tôi quyết định đặt cái thùng gổ nhỏ gần ngả tư xa lộ với hàng chữ: “sửa chữa Robinet, hệ thống ống nước tại gia”, ngày ngày khách hàng cũng có nhiều, những người đàn bà đi chợ qua về gọi 2 ông thợ bất đắc dĩ về nhà sữa giùm bếp nước, ống nước, đâm ra cái việc kiếm sống và giải quyết tiền bạc nho nhỏ theo kiểu này không khó.
Hắn cười bảo với tôi, đơn giản với công việc không cần học nhiều, không phiền phức với mọi người sinh hoạt chung quanh và nhất là chẳng lộn xộn gì với công an đường phố, để bị bắt bẽ về luật lệ, tiền bạc hối lộ cũng không cần, ngày 2 bữa áo cơm dễ chịu, miễn là người chủ nhà đồng ý cho anh em mình đặt cái tủ nhỏ không choán lối đi ra, đi vô của họ. Buổi chiều dọn dẹp đẩy cái thùng vào góc nhà gởi tạm, thế là xong, ngày ngày hai anh em vui vẻ làm việc và tha hồ chuyện trò, trời trăng mây nước.
Có tí phương tiện, tôi lại lên đường đi tìm chị Liên, nơi tới đầu tiên là bệnh viện Từ Dũ, nhiều lần người ta đã trả lời, chị Liên không còn làm việc ở đây nữa. Tôi muốn tìm chị để biết bây giờ chị đang làm gì, thằng Vũ đứa con duy nhất của anh chị đang sống ra sao, tôi nhớ Vũ ốm yếu lắm, gần một năm trôi qua, không ai biết chị ở đâu.
Tôi đã không còn làm nghề thợ sửa ống nước mà theo người cô họ đi buôn bằng tàu buồm. Một chuyến đem hàng từ Huế về Sài gòn giao hàng cho các vựa ở Chợ lớn xong là cô lên thanh tóan tiền bạc, còn tôi tiếp tục đặt hàng từ những nơi sản xuất, từ các công ty ở Sài gòn, trả tiền bạc đến ngày họ giao hàng nhập vào kho chờ đủ số các mặt hàng là hẹn tàu, thuê người bỏ xuống, chiếc tàu có trọng tải từ 200 đến 250 tấn, ở các bến cảng Bình Đông hay Chánh Hưng bên quận 9. Xong xuôi tàu ra cửa biển Vũng tàu thẳng đường về Huế, tôi tiếp tục phân phối cho con buôn ở chợ Đông Ba và các chợ chung quanh xong, sau đó cô thanh tóan tiền bạc với họ theo sổ sách. Và lại tiếp tục công việc chạy khắp nơi Huế, Quảng Trị để lục lọi tìm mua hàng hóa. Công việc quá sức vất vả và nguy hiểm vì đó là những loại phế liệu chiến tranh như: tôn, ri sắt, nhôm, vỏ đạn, đít đạn v v.từ Huế, từ Quảng Trị, bọn Công an gọi là đồ quốc cấm. Còn hàng Sài Gòn thì lại trốn thuế, hối lộ cho nhân viên thuế. Cứ việc trốn chui, trốn nhũi và công an cứ việc lùng bắt thâu mãi lộ giống như buôn lậu.
Hơn một năm trường như thế, tôi không đi buôn với cô nữa và trở về Sài Gòn, xuống ga xe lữa cuối đường Nguyễn Thông, đói bụng nhưng tôi leo lên chiếc xích lô đạp vì muốn về nhà nghỉ ngơi. Khi chạy ngang qua chợ Trương Minh Giảng nhớ là chưa sắm quà cho mẹ và các em, tôi nói người phu xích lô cho tôi xuống và đi vào chợ để mua quà. Qua mấy hàng trái cây bên ngoài là đến cửa chợ, vừa qua khỏi bậc cấp hình như có ai đó vổ nhẹ trên vai áo, tôi quay lại: ô, ô chị Liên, chị vui mừng: anh Tịnh phải không? Phải, chị có khoẻ không, và đang làm gì. Chị chỉ tay về cái tủ mỹ phẩm cạnh đó cười nói, chị bán những thứ này đây. Nhìn sơ qua những thứ chị bán, tôi yên tâm vì như vậy thì đời sống về vật chất có thể tạm ổn cho chị và cháu.
Hai chị em ngồi xuống cái bàn bán nước giải khát bên hông chợ gần tủ mỹ phẩm chị bán, kêu nước uống và chuyện trò. Tôi hỏi chị về có tin tức gì về anh Tùng hay không, chị buồn bả nói cho tôi nghe:
”Sau ngày chiến trận ở Non Nước, chị nghe mấy người em trong gia đình qua bãi Non Nước tìm anh Tùng nhưng không có, sau đó chị về nơi đó cùng với gia đình đi rất nhiều nơi để hỏi về tin tức anh, cứ vậy suốt mấy năm trời từ nơi này qua nơi khác, bạn bè, người quen, người thân vẫn không có manh mối gì. Chị khóc và bảo rằng: Tại sao vậy, họ đi đâu, họ về đâu, anh Phúc, anh Tùng người ta nói với chị họ đi với nhau, nhưng họ đi đâu. Nghe tin, ngày TQLC kéo quân về Đà Nẵng ngày 17 tháng 3 năm 1975, ngày 22, 23 chị muốn ra Đà Nẵng nhưng không ra được vì không có máy bay, trong nhà bảo Tùng bận rộn không về nhà mẹ chị được. Lúc đó anh làm chi vậy, em có biết không, nói cho chị nghe đi”.
Giữa chợ đông người, tôi cúi đầu đưa mấy ngón tay quẹt lẹ những giọt nước mắt sắp rơi xuống, nhưng cũng không tránh khỏi tiếng nấc nghẹn trong cổ họng, tôi không giám nhìn lên chị.
Trong phút giây khoảnh khắc đó, tôi lại tự trách mình sao ngày đó đang học hành thuận lợi, một đời sống đầy đủ, với tâm trạng hăng say tiến về một tương lai sáng sũa, sống yên lành như chim trời thảnh thơi ngoài đồng nội mà tôi lại nỗi khùng cắt ngang tình nguyện lao vào quân đội, vào Võ Bị, rồi vào TQLC, để gần như suốt cuộc đời còn lại chỉ còn nghe tiếng khóc than đau thương, liên tục chứng kiến những hình tượng ly tang của thuộc cấp, của bè bạn và những người thân người yêu của họ, và phải giải quyết hàng trăm tình cảnh quá đau thương đến điên loạn, cho nhiều gia đình có người thân làm lính trận .
Trước mắt tôi, vô vàn sự việc tang thương như đang trở về. Ngày đó, một ngày sau chiến trận mậu thân, cùng với các đơn vị bạn chiếm lại Kinh Thành Huế trả về cho người dân Cố Đô giữa nỗi mừng vui lẫn với đau buồn vì cuộc thảm sát của VC vừa mới xảy ra hôm qua. Tiểu đoàn 5/TQLC lại lặng lẽ lên đường về hâu cứ, được một cuộc đón tiếp buồn thảm của vợ con cha mẹ trong trại gia binh của Tiểu Đoàn, những tiếng hét thất thanh của những người vợ mất chồng, con mất cha, cha mẹ mất con, hình ảnh đó tôi đã rùng mình khiếp đảm.
Sau đó Tiểu đoàn 5 chuẩn bị cho một cuộc hành quân tiếp.Kế hoạch, cẩn thận bí mật hơn, tất cả sĩ quan, binh sĩ cắm trại trăm phần trăm 2 ngày trước khi lên đường. Nhưng không hiểu tại sao, lúc 3 giờ sáng khi chiếc xe đầu của đoàn xe vừa mới lăn bánh ra khỏi cổng trại, hàng trăm thân nhân từ trại gia binh nằm lăn ra giữa đường, cương quyết không cho xe qua. BTL phải xuống giải quyết lúc 10 giờ và hứa với thân nhân binh sĩ, đây chỉ là cuộc nghỉ quân ở rừng sát và thân nhân được phép đến đó để thăm và sống với binh sĩ và đoàn xe lui vào hậu cứ để chuẩn bị một cuộc hành quân như đã hứa.
Rồi đến TĐ9/TQLC, sau chuyến Hành quân Lam sơn 719, 810 đơn vị đụng trận trên sông Ba Lòng, đoàn máy bay phải quay đầu về đáp xuống phi trường Biên Hòa thay vì đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất như kế hoạch, đợi đêm xuống mới nhắm hướng hậu cứ TĐ9/TQLC chạy về, đoàn xe mới dừng trước sân Đại Đội , tôi bước xuống xe đi vào văn phòng giữa những la hét khóc than, đòi trả chồng trả con, quanh tôi hình ảnh điêu tàn như ngày tận thế, chưa kịp ngồi xuống ghế, một bà mẹ già lao thẳng vào người tôi với sắc mặt nhạt nhòa mất hết thần sắc, tay níu lấy vai tôi, tay nắm lấy ngực áo tôi hét lên, hảy trả lại con cho tôi, hảy trả lại con cho tôi, con ơi là con, mẹ biết tìm con nơi đâu và bà ngất xỉu.
Những năm tháng đó tôi đang lớn lên với tuổi 21, 22, 23, 24 tôi đã làm gì, tôi đã biết gì. trong tôi còn lại những rưng rưng và vụng về đau khổ.
Hôm nay, sau nhiều năm tháng làm một người tù khổ sai không tội danh trở về đây vẫn chưa đủ, vẫn còn nhận chịu những nhục nhằn, khốn khó vì những đau thương vần còn đang hiện diện.
- Chị Liên, chị Liên, bình tỉnh lại nghe tôi nói,
- Vâng, chị xin lỗi.
- Trong những ngày tù tội, tôi cũng từng đau khổ, cũng từng điên loạn. Nhưng có lúc tỉnh ra, tôi tự hỏi mình- nên sống hay chết. Cuối cùng tôi quyết định- phải sống, cũng như chị sau những tháng ngày dài đau khổ vì mất mác qúa nặng nề, chị đã cương quyết phải sống để lo cho con cho thằng Vũ, vậy chúng ta phải luôn tỉnh táo trong mọi lúc, bất cứ hoàn cảnh nào để còn đối phó với đời sống quá sức tàn nhẫn. Tôi sẽ nói cho chị nghe một câu chuyện. Chị lau nước mắt và chờ nghe tôi nói:
Ngày đó anh Tùng có nhiệm vụ phụ tá cho anh Phúc để điều động Lữ Đoàn về Đà Nẵng, với mục đích đánh chiếm lại ngọn đồi 1062. Nơi mà Bộ Binh, Nhảy Dù, Biệt Động Quân đã có quá nhiều mất mát. Ngày đó tôi cũng đã tự hỏi mình, đây là chuyện thật hay đã bị Mỹ đánh lưà, bởi vì chúng ta đang làm một công việc quá vô ích và nguy hiểm có thể đi vào mất nước: tại sao lại vội vàng bỏ giới tuyến Quảng trị và sâu hơn nữa là bỏ Huế để kéo quân về đây đánh chiếm lại cáí ngọn đồi 1062 vô tích sự này để làm gì ? đến nỗi khi được lệnh rút quân khỏi giới tuyến Quãng Trị, tôi hỏi LĐ- Lệnh cho chúng tôi rời khỏi vị trí, nếu đơn vị thay chúng tôi không tới kịp thì sao, Lữ đoàn bảo – cũng bỏ tuyến mà đi.
Ngày 27/3/1975 anh Tùng và anh Phúc gọi Thiếu tá Thạnh và tôi đang đóng quân trên dãy núi Sơn gà xuống BCH /LĐ tại Đại Lộc Quãng Nam, gọi là họp. Xuống tới BCH Lữ đoàn, các anh cho biết 5 tiểu đoàn TQLC còn lại trên giới tuyến Quãng Trị đã tan tành một cách đau khổ. Địch quân lợi dụng sự rối loạn của dân chúng, đã dồn dập tấn công, pháo kích các Tiểu đoàn không lên được tàu và họ đang di chuyển về hướng cửa Tư Hiền phía nam cửa Thuận An chừng 60 cây số. Đó là một lường cát mõng không nơi che dấu, không chỗ ẩn nấp, hoàn toàn bị cô lập, lại càng không thể tác chiến được chỉ làm bia cho hỏa lực của địch. Tôi giậc mình hỏi NT Phúc, tại sao vậy, tại sao vậy và tôi cũng tự hỏi mình tại sao vậy? tại sao lại tan tành một cách nhanh chóng dễ dàng lạ lùng vậy?... và tin lại đưa tới tấp: Thiếu tá Nguyễn Tri Nam thằng bạn cùng khóa 22 VB, Đại úy Tô Thanh Chiêu người bạn đã cùng chúng tôi từng chiến đấu trong đơn vị được tặng cho mỹ danh TĐ5 Hắc long “xuống đông, đông tỉnh, lên đoài, đoài tan” họ vừa tử trận. Ôi..! Anh Tùng đưa tôi ra ngoài nói nhỏ, cẩn thận coi chừng chúng ta cũng sẽ chịu chung số phận như Lữ đoàn 147.
Mọi sự kiện xảy ra trước mắt rõ ràng và chính xác như 1+1=2. Người Mỹ đang cùng VC toa rập đưa TQLC vào ngõ cùng với mục đích bán đứng miền nam Việt nam. Họ đã làm theo sự yêu cầu của quân Bắc việt như một điều kiện trao đổi: triệt TQLC là con đường ngắn nhất để chiếm lấy miền Nam
Biết vậy, nhưng không ai tránh khỏi thảm cảnh đó, nhất là đối với một cấp chỉ huy có tinh thần trách nhiệm trước sự tan tành của Tổ quốc và danh dự của một sĩ quan, bên cạnh tình thương yêu thuộc cấp từng sống chết với đơn vị. Nên thà có chết thì chịu chung cái chết cuả đơn vị và thuộc cấp. Buồn thực, đến những giây phút cuối cùng giẫy chết của đơn vị, mà lòng tôi vẫn còn vô cùng đau xót vì sự chiến đấu thật sự quá cô đơn của bản thân và sự hy sinh không cần tính toán của thuộc cấp trước họng súng địch.
Chị có biết không, tôi có thể nói với chị rằng, nếu anh Phúc và anh Tùng không vì trách nhiệm, không vì danh dự thì tôi nghĩ rằng các anh đã rời khỏi bãi biển Đà nẵng không khó, vì tôi biết môt cách chắc chắn rằng, các anh có trực thăng, nhưng vì là cấp chỉ huy, nên các anh phải có trách nhiệm lo cho các đơn vị còn kẹt lại, không thì số nhiên liệu này dễ dàng đưa các anh qua khỏi Quảng Ngãi và ung dung tìm phương tiện di chuyển về nam.
À quên nữa, tôi nhớ hôm bị chúng bắt đem về quận 1 Đà Nẵng sau 2 ngày hỏi cung, một buối sáng họ gọi tôi ra bàn giấy và báo cho tôi biết rằng: Vì chính sách nhân đạo cuả đảng, anh được cho về, chờ khi nào Cách mạng gọi thì đến để nghe thông báo. Trên đường đến nhà người quen ở Nại Hiên tây, tôi bất ngờ đã gặp những người lính cuả mình (TĐ9 và TĐ6) họ tập trung ở 2 trại bán gổ trên chợ Nại Hiên tây để chờ ngày tìm đường về quê nhà, các anh cho tôi biết có 2 người lính TQLC đã tự sát ở gần chủng viện, nếu về Đà Nẵng thăm bác, tiện thì chị ghé lại hỏi thăm ở chủng viện coi như thế nào nghe.
Tôi nghĩ cho đến hôm nay vẫn không có một tin tức gì của anh ấy, thì anh đã không còn nữa. Chị cứ yên tâm như vậy để lo cho Vũ, chẳng nên suy nghĩ mệt mõi lắm mà không có ích lợi gì.
Sau đó tôi kể cho chị nghe ngày ra tù , bất ngờ đi ngang qua phố Hoàng Diệu được cô em chị và bác gái đã đón tiếp nồng hậu với một bữa ăn trong gia đình rất thâm tình, chị vui mừng lắm khi nghe tôi nói về gia đình chị ở Đà Nẵng.
Còn chuyện này nữa, khi nào chị về Đà Nẵng cho tôi kính gởi lời cám ơn và thăm bác cùng các anh chị trong gia đình luôn bằng an, mạnh khoẻ. Tôi từ giả chị và hẹn khi nào thuận tiện sẽ ghé thăm chị và thằng Vũ.
Sau ngày tháng đó, tôi lo buôn bán đậu phộng ở tuốt Đức Hòa, Đức Huệ, Lộc Ninh thỉnh thoảng lâu lắm mới ghé thăm chị và chị đã trở lại làm việc ở bệnh viện Từ Dũ, và tôi sau những ngày dài buôn bán cũng trở về mở lớp dạy học tại nhà trước những mùa thi cử, mỗi năm dạy học chừng 4 tháng vì tôi rất yêu thích học trò và công việc dạy học. Hôm rời đất nước đi Mỹ vào tháng 6 năm 1994, tôi có ghé lại thăm chị, chị cho biết hồi này thằng Vũ lớn lắm rồi, tôi mừng cho chị và cháu.
NT Hồ Ngọc Hoàng và Người chinh phụ: Chị Nga
Tôi chưa hề cùng chung Đơn vị với NT Hồ Ngọc Hoàng, anh xuất thân khóa 19 Võ Bị Đà Lạt, thỉnh thoảng sau ngày hành quân trở về tôi gặp anh thời gian này anh phục vụ ở Trung tâm huân luyện TQLC, tuy có ít gặp gỡ nhưng chúng tôi rất mến nhau, có lần 2 anh em ngồi ăn cơm tối gần chợ Thủ đức NT tâm sự: anh không mấy vui vẻ và may mắn trong đời sống quân ngũ, anh không hiểu hình như có chuyện gì đó cấp trên không thích anh thì phải và anh không nói nhiều về chuyện này…chỉ buồn buồn thở dài, anh khuyên tôi cẩn thận xử sự với các sĩ quan trong đơn vị, nhất là các người cấp lớn hơn, phiền toái lắm em biết không…Tôi nhìn người đàn anh của mình lòng buồi rười rượi, dạ, em nhớ rồi, mà niên trưởng cũng không nên buồn nhiều nghe.
Tháng 7 năm 2007, Hội TQLC Georgia mở Đại hội TQLC khắp nước Mỹ và thế giới. Hội đưa lên báo chí đăng bài thông báo và mời các chiến hữu TQLC cùng gia đình có liên hệ với TQLC về tham dự. Bất ngờ trong số quý chiến hữu khắp nơi về tụ hội, tôi đã gặp chị Hồ Ngọc Hoàng nơi mở Hội, qua sự giới thiệu của vợ tôi, tôi vô cùng vui mừng chào hỏi.Chị nói, đọc trên báo thấy bài thông báo của Hội TQLC ở Georgia chúng tôi mừng rỡ cùng đến tham dự hội với các cháu. Chị đến đây với 3 người con: 2 trai, 1 gái các cháu đều đã trưởng thành khôn lớn và đã lập gia đình, có đến 5 đứa cháu nội ngoại, có công ăn việc làm tốt.
Hôm đại hội rất tiếc đông đảo TQLC tham dự, có luôn cả Thiếu tướng Tư lệnh Bùi Thế Lân và Đại tá Tư lệnh phó Nguyễn Thành Trí cùng nhiều NT và chiến hữu từng sống trong cùng với đơn vị với NT Hồ Ngọc Hoàng, vì quá bận rộn với công việc, tôi đã quên một chuyện cần thiết là lên máy vi âm giới thiệu sự có mặt cuả chị Hoàng và các cháu trong Đại hội. Sau Đại hội vài tháng thu xếp xong công việc còn lại, theo địa chỉ chị cho, vợ chồng chúng tôi tìm đường tới thăm chị. May mắn tôi lại được gặp đầy đủ chị và các cháu vào một ngày chủ nhật. Chị vui vẻ đón chúng tôi ở căn nhà vùng Stones Mountain, thủ phủ Atlanta- Georgia.
Đặt đĩa trái cây lên bàn thờ người đàn anh và nhìn tấm hình chụp ngày anh còn là Sinh viên sĩ quan trường Võ Bị Đà Lạt, lòng tôi quá buồn phiền, chua xót. Tôi thầm khấn nguyện” Hôm nay vợ chồng em đến thăm Niên trưởng và gia đình, em đốt nén nhang cầu mong anh được luôn an vui nơi cõi vĩnh hằng, hộ trì cho vợ con gặp nhiều may mắn và hạnh phúc trong cuộc sống ngày nay nơi xứ người. Còn em, em không hiểu lần gặp nhau của chúng ta 32 năm về trước có phải đó là lỗi lầm của em không, có phải là nguyên nhân để đưa tới cái chết của NT trong chiến trận ngày đó bởi vì em không đứng trên nóc cao của chủng viện để quan sát làm sao thấy được đoàn TQLC/TĐ6 của NT mà liên lạc gọi vào ráp tuyến chiến đấu, để xảy ra sự mất tích của NT. Nếu đúng vậy, hay dù là do mạng số, em cũng đều nhận lỗi trước Niên trưởng. Ôi, chuyện một người lính ngậm ngùi khấn nguyện trước một người lính trận đã trả xong nợ cho Tổ quốc, thực quá đỗi xót xa cho thân phận của những người lỡ làm lính trận”.
Cắm nén hương lên bát nhang, tự dưng tôi thấy chung quanh tôi đang có một sự tĩnh lặng đến mức lạ lùng, tôi quay lại hai người đàn bà nhìn nhau đầy nước mắt và các cháu cúi đầu im lặng. Tôi thở một hơi dài thực mạnh, ngồi xuống bên cạnh vợ và lên tiếng :
- Hôm nay không ai đi làm phải không chị ? Chị dạ nho nhỏ và gậc đầu. Với giọng nói người Nam, vui vẽ thoải mái và dễ thân thiện, chị lần lược kể cho vợ chồng tôi nghe về chuyện ngày xưa khi anh chị mới gặp nhau, về tính tình và sự thương yêu vợ con cuả NT Hồ Ngọc Hoàng, về con cái, về những ngày vui, về chuyện chị và các con vất vã cực nhọc gần mười mấy năm trời trên chính quê hương mình cũng như khi bước chân lên đất Mỹ xa lạ, thực quá xa lạ. Và hôm nay các cháu đã trưởng thành có vợ có chồng con cái với đời sống êm đềm vững vàn. Chị cám ơn trời đất đã dung rũi để chị và các cháu có ngày hôm nay. Tôi thở ra, nhẹ nhàng như vừa tìm thấy được điều mình muốn tìm.
Và bất ngờ chị hỏi tôi:
- Anh Tịnh ngày còn ở đơn vị anh có biết anh Hoàng không?
- Dạ có, không những biết mà còn rất thân thiện vì anh là NT của tôi, anh ấy rất mến và thương tôi, hôm nay tới đây thăm chị và các cháu tôi có vàì chuyện cần nghe chị nói.
- Chuyện chi vậy anh.
- Chuyện về sự mất tích của Niên trưởng.
- Ồ, sao anh biết?
- Ngày đó…” lúc 1giờ 30 ngày 29 tháng 3 năm 1975 Theo sự quyết định của Thiếu Tá Tiểu đoàn trưỏng kéo quân về chủng viện Sơn Trà bố trí và lập đội hình chuẩn bị Trận đánh mất còn giữa TĐ9/TQLC với quân Bắc Việt. Tôi đứng trên sân thượng của chủng viện để quan sát điều động bố trí và theo dõi tình hình địch, thấy một đơn vị TQLC đang di chuyển xa xa từ phía tây, sau khi liên lạc được biết đây là một cánh quân của TĐ6 do thẩm quyền Hồ Ngọc Hoàng chỉ huy, liên lạc NT cho tôi biết gần 1 đại đội, NT nói, cách chừng 1 giờ trước đây thấy có một đơn vị lớn TQLC đi về phía này nên NT đang đi tìm, tôi nói với NT cho dừng lại nghỉ ngơi và bố trí tại chổ chờ. Tôi dặn người lính truyền tin cứ ở trên sân thượng và tôi xuống lầu 2 báo cho thiếu tá Thạnh biết, sau một hồi hội ý anh Thạnh đồng ý đưa toán quân của TĐ6 vào vị trí phòng thủ mặt bắc, nơi mà chúng tôi đánh giá không nặng nề khi lâm trận và như vậy là chúng tôi có sự vững vàn phòng ngự, chỉ thiếu lực lượng tiền đồn và lực lượng trừ bị là hoàn chỉnh ( Xin xem lại bài viết Trận chiến sau cùng của TĐ9 Mãnh hổ trên trang Web của TQLC )…2 giờ30 địch tiến đánh bằng Thiết giáp và bộ binh yểm trợ, đang giao tranh, lúc trời sắp tối có 2 chiếc tàu từ ngoài khơi chạy vào bờ biển, đại đội 2/TQLC sau nhiều lần xin lệnh, cuối cùng TĐT bằng lòng cho đạp hàng rào di chuyển về phía bãi nước để xuống tàu, nhưng không thành vì tự dưng tàu de lui và giông ra khơi…Đơn vị tan hàng, số đông anh em lội theo tàu ra biển khơi và chết nhiều lắm.Chúng tôi, số còn lại chừng 40,50 người quay về phía Nghiã trang An Hải bố trí và tiếp tục chiến đấu, và cũng từ đó tôi và NT Hoàng không còn gặp nhau nữa.
- Anh Tịnh, tôi có thể kể chuyện này với anh không? Tôi vui vẻ: chị cứ kể, gần 32 năm mới gặp lại cố nhân tôi vừa nói vừa chỉ tay lên tấm hình của anh.
-“Những năm sau ngày mất nước, tôi và các con vẫn tiếp tuc ở lại trong trại Nguyễn Văn Nho, vì anh biết một mẹ 3 con còn quá nhỏ thì tôi có thể đi đâu, về đâu để mà kiếm sống… Ngày tháng cứ trôi qua trong đợi chờ. Kiếm đường sinh sống đã vô cùng khó khăn vất vã, mà sự đợi chờ ngày càng mòn mõi vô vọng. Nhưng tôi và các con không thể và không nên rời đây lỡ anh ấy có về thì biết đâu mà tìm, tôi cũng biết rằng không hy vọng, nhưng anh ấy là người chồng thân yêu của tôi, người cha kính mến của các con tôi, nên cứ như vậy tôi cố chạy ngược chạy xuôi, những ngày không không lại về ngoại, về nội xin giúp đỡ để nuôi con chờ chồng.
…Hơn 10 năm trôi qua, bất ngờ một hôm tôi không nhớ ngày tháng nào của năm 1986, chị ngừng lại môt chút suy nghĩ cố nhớ, hình như là tháng 4, phải rồi tháng 4 năm 1986, một buổi chiều chị Liên vợ anh Trung tá Tùng ghé thăm tôi và chị kể cho tôi nghe: “…Tôi có một người quen, ngày xưa anh ấy cũng là thuộc cấp và đàn em của anh Tùng, anh cho biết vào chiều ngày 29 tháng 3 năm 1975, sau khi chiến trận ở chủng viện Sơn Trà chấm dứt ,có 2 người lính TQLC đã tự sát bằng lựu đạn gần chủng viện, tôi nghĩ rằng chắc là anh Tùng và anh Phúc rồì, nên tôi đã vội vàng về Đà nẵng, tôi và các em tìm đến chủng viện hỏi thăm, các dì Phước hướng dẫn tôi đến gặp lại bà Xơ Trưởng viện nhân hậu năm xưa và tôi kể cho bà nghe câu chuyện đau lòng của mình, để bà thông cảm và chỉ dẫn …
- “Đúng, có chuyện đó thực, bà Xơ già dáng mặt có quá nhiều nét hằn cuả thời gian chậm rãi kể cho chúng tôi nghe: “ngày đó năm xưa cũng ngày này đây, ngày 29 tháng 3 năm 1975 chúng tôi còn nhớ, một đơn vị quân đội lớn lắm, nhiều người lắm, họ kéo về đây đào hầm hố chung quanh chủng viện, người đơn vị trưởng cho chúng tôi biết họ là Thủy Quân Lục Chiến, ông xin phép chúng tôi được bố trí quân ở đây, vì chủng viện có vị trí và lầu đài kiên cố cũng như hàng rào vô cùng thuận lơi để tác chiến và quân Bắc Việt sắp tấn công vào đây. Chúng tôi vui mừng vì sự quyết tâm chiến đấu của họ, dù biết rằng khi chiến trận xảy ra chủng viện rẽ tan tành hư hại nhưng không còn cách nào khác hơn, chúng tôi đã điều động tất cả các Xơ, các Dì nấu cơm và thức ăn cho các anh ăn uống để các anh có sức mà chiến đấu, lúc đó khoảng 3 giờ trưa của ngày 29 tháng 3 năm 1975.
Trời ơi khiếp đảm, súng nổ vang trời những quả đạn lớn từ thiết giáp VC liên tục dội vào chủng viện cùng những tiếng nổ lớn từ những khẩu súng của TQLC bắn trả, tiếng la hét thất thanh của đàn bà, tiếng òa khóc của con nít núp trong chủng viện, ôi kinh hoàn như ngày tận thế, cứ thế cuộc giao tranh kéo dài đến khi trời sắp tối, sau đó TQLC rút ra khỏi chủng viện, tôi không biết họ đi đâu, về đâu giữa đêm tối hôm đó… , Mọi người trong chủng viện còn đang bàng hoàn run sợ, lúc đó khoảng gần 8 giờ tối có 2 người lính ăn mặc như những người lính TQLC hồi trưa, bước vào cửa chủng viện và xin gặp cha Trưởng viện để yêu cầu được cha làm phép trước khi họ tự tử, tôi nói với các anh:
- Nhà thờ không làm phép đó, Thiên Chúa không chấp nhận tự tử.
Nhưng người lính có dáng dấp cao lớn, trẻ lắm bảo tôi rằng:
- Họ là người ngoại đạo, cha không làm lễ chúng con cũng tự tử mà thôi, cuối cùng Cha hỏi ý chúng tôi, tôi trả lời:
- Xin cha cho họ rước lễ, chúng ta không có thì giờ nữa đâu, sẽ gặp nguy hiểm với VC và cha chấp thuận.
Chị biết không, họ vô cùng bình tỉnh và quá can đảm, họ đã quì trên bậc thềm này đây im lặng cúi đầu nhận lễ, sau lễ xong họ lễ độ chào và cám ơn cha cùng mọi người và đi ra cửa nhà nguyện, đến khu vườn bên hông nhà thờ, các anh dặn chúng tôi đừng theo họ nguy hiểm… Sau đó 2 tiếng nổ dữ dội gần như một lúc, người săn sóc vườn nhà thờ chạy vào cho biết họ đã tự sát, mọi người trong nhà thờ từ tôi đến cha đều rưng rưng khóc. Tôi cho mấy Dì và anh giữ vườn ra săn sóc cho các anh. Tới nơi, giữa vùng khói bụi mù mịt tôi thấy thân xác họ nằm 2 nơi không xa nhau mấy ngực rách nát, máu me tung tóe. Tôi nhanh chóng cho đẫy bộ bàn ghế đá đào huyệt và chôn họ vội vàn với 2 tấm khăn trải giường, rồi đẩy bộ ghế đá trở lại vị trí cũ. Vì tôi nghĩ rằng họ có phúc duyên với nhà thờ và nhà thờ muốn họ được yên tỉnh, an nghĩ nơi đây với hy vọng sẽ có một ngày thân nhân họ sẽ tới đây tìm họ. May mắn điều tốt lành đó hôm nay đang xảy ra, chúc chị và gia đình tìm lại được người thân của mình.”
Bà Xơ đồng ý cho chúng tôi khơi mộ, nhưng bác giữ vườn bảo với mọi người công việc này không nên thực hiện bây giờ có thể nhà thờ và mọi người sẽ gặp khó khăn, theo bác nên chờ đến tối thì hay hơn, tốt nhất là khoảng 3, 4 giờ sáng, là khoảng thời gian vừa đào mộ vừa di chuyển ra khỏi nhà thờ thuận lợi nhất, mọi người đồng ý với bác.
Chị Liên và gia đình trở về nhà sửa soạn những đồ cần dung, theo ý chị sau khi khơi mộ xong sẽ đưa anh Tùng và anh Phúc an táng một nơi khác theo kế hoạch dự trù cẩn thận.
Đoàn người trở lại chủng viện lúc 2, 3 giờ sáng ngày 30 tháng 3 năm 1986, chủng viện đã sẵn sàng công việc đào mộ, thuận lợi vì ngày đó nhà thờ an táng các anh quá vội vàn hơn nữa đây là vùng cát pha nhiều hơn đất, nên chỉ khơi chừng 9 tấc hay 1 thước là đã thấy tấm khăn giường,và họ cẩn thận chuyển từng mãnh quần aó trận còn đầy màu máu thâm đen và toàn bộ phần xương cốt từng người lên 2 tấm vải trắng trải trên cát, mọi người vội vàn bỏ hài cốt từng người vào 2 chiếc quách nhỏ bằng gỗ, chị Liên chấp hai tay cám ơn bà Xơ già cùng mọi người, họ nhanh chóng rời khỏi chủng viện lúc đó hơn 4 giờ sáng, trong đêm tối đoàn người di chuyển bằng xe tới một nơi cách xa đó hơn cả chục cây số, nơi đó là một gò đất cao rộng lớn theo kế hoạch dự trù, họ ngồi xuống nghỉ ngơi chờ sáng.
Màu hồng của ánh nắng ban mai dần lên cao ở chân trời, đoàn người lại bắt đầu công việc, mở quách và đem hai tấm vải trải lên thảm cỏ còn đọng sương mai và sắp xếp những mẫu xương đúng thứ tự. Chị Liên ngồi xuống cạnh hài cốt thầm nguyện chồng cho chị tìm được xác thân anh. Sau một hồi chăm chú cẩn thận từng dấu vết ở phần xương sọ, hai hàm răng và tay chân của các bộ hài cốt, chị ngẫn mặt đầy nước mắt nhìn lên khoảng trời cao đau đớn kêu lên: không phải anh, không phải xác thân anh, Tùng ơi. Chị khóc ngất…trong niềm tin tưởng và hy vọng đã bay cao. Mọi người cúi đầu ngậm ngùi chua xót.
Hai huyệt mộ đã đào sẵn, một lần nữa đoàn người lại làm lễ an táng cho những người Chiến sĩ vô danh trên một ngọn đồi xa lạ với lời nguyện cầu của người đàn bà đau khổ: “mong các anh được bằng an nơi cõi vĩnh hằng và xin tha lỗi cho tôi “.Chị đứng lên nhìn về phía trời xa thăm thẳm qua màn nước mắt, chị mơ hồ thấy anh và người bạn đang nối gót đoàn quân…
Nơi đây, người ta cho tôi biết là Gò Cà. Chị diễn tả một người quá cao và một người quá thấp, không thể là anh Tùng hay anh Phúc. Cuối cùng chị khuyên tôi, chị ra đó thử coi có thể nào là anh Hoàng không?
Những gì chị Liên kể, tôi cẩn thận uống vào trong trí nhớ, trong tôi niềm hy vọng sống dậy một cách mãnh liệt, tôi thầm nói nhỏ với mình, vậy là em có thể gặp anh rồi , em sẽ về nơi đó ngay, anh yên tâm, em và các con suốt đời thương yêu anh, Hoàng ơi. Từng giây, từng phút từ đêm đó tôi và các con thao thức không ngủ được, chờ trời mau sáng mẹ con tôisẽ về nội về ngoại, về những ai có thể giúp cho chúng tôi có đủ phương tiện tìm chồng.
Tất cả thu xếp nhanh chóng gọn nhẹ, rút kinh nghiệm của chị Liên tôi mang theo những trang bị cần thiết để tìm dấu vết chồng. Ngày đó ngày mười mấy tháng 5 năm 1986 tôi lên đường về Đà nẵng với cháu đây, chị đưa tay chỉ vào người con trai đầu, cháu tên Hồ Lê Trấn Quốc hồi đó Trấn Quốc được 14 tuổi…với chuyến bay vào buổi chiều. Chừng 8 giờ đêm máy bay hạ cánh ở phi trường Đà Nẵng, hai mẹ con tìm nhà trọ nghỉ ngơi, cho cháu ăn uống. Còn tôi, tôi đang sống trong niềm hy vọng bao la, với những diễn tiến như thực sự đang trải dài trước tầm nhìn với vô vàn hạnh phúc: Anh Hoàng, chúng ta sắp gặp nhau, anh chờ em, chỉ sáng mai thôi.
Mới 8 giờ sáng, tôi và cháu đã có mặt trước căn nhà trên phố Hoàng Diệu. Vợ chồng người em gái chị Liên đã tiếp đón mẹ con tôi vui vẻ và nhiệt tình. Sau đó mọi người cùng lên đường tiến về ngọn đồi thấp và rộng, nơi an táng hai bộ hài cốt của hai người lính TQLC vô danh. Tôi nhìn quanh trên khoảng đồi rộng lớn này, vô số những nắm mộ lớn nhỏ san sát cạnh nhau, những tấm mộ bia bằng đá, bằng xi- măng, cũng có những tấm bia bằng gổ tạm, tự dưng lòng thấy quạnh hiu không biết họ có nhìn anh, những người lính màu áo rằn ri xa lạ không. Chịu khó chút nữa thôi, em và con sẽ đưa anh về Nam, nơi đó anh sẽ thường xuyên có các con và có em bên cạnh, tội nghiệp anh quá.
Hai mẹ con tôi theo vợ chồng cô em gái chị Liên quanh co một hồi tiến tới trước 2 ngôi mộ nhỏ, đất còn mới. Người con gái cho biết đây là hai ngôi mộ của các anh ấy. Tôi gật đầu đặt đồ đạc xuống, thắp vội nén hương đưa nén hương lên ngang tráng kính cẩn nguyện cầu: ”hôm nay chúng con nguyện cầu ân trên cho chúng con may mắn tìm được chồng, được cha, chúng con xin thành kính biết ơn.Anh Hoàng, phù hộ và thương yêu con và em nghe anh, mẹ con em dù có cực nhọc thế nào em cũng luôn hạnh phúc, vui mừng tìm được anh và đưa anh về nam. Xin phù trợ cho em. và cho phép em được khai mộ.”
Hai người đàn ông vừa cuốc vừa xúc đất nhanh chóng, chắc sắp tới áo quách họ đào cẩn thận và xúc chậm hơn. Một người leo xuống huyệt mộ, còn một người đứng trên họ chuyền tay nhau lần lược đưa hai chiếc quách lên mặt đất, mở nắp quách và sắp hai bộ hài cốt lên hai tấm drap và mời chị nhận diện. Chị ngồi xuống trước từng bộ hài cốt và nhận diện, đúng một bộ cao và một bộ thấp hơn nhiều, chị nghĩ bộ hài cốt cao hy vọng đúng là anh, chị cẩn thận dùng khăn lau chùi thực sạch sẽ, nhất là phần xương sọ và hai hàm răng. Xong, chị mở tuí xách lấy bàn chải và kem đáng răng, chị bóp kem vào bàn chải và đánh răng cho bộ hài cốt cao, chị đổ nước sạch sẽ, cúi đầu thực thấp nhìn cẩn thận từng chiếc răng. Chị im lặng một hồi và lắc đầu nhẹ. Chị thở ra và tiếp tục với bộ hài cốt thấp chị cũng làm như vậy, cuối cùng chị đứng lên quay lại nhìn con và chị òa khóc: “con ơi, không phải ba con”. Hai Mẹ con ôm nhau và họ cảm thấy tự dưng vô cùng cô đơn, xa lạ vì nơi vùng đất này chắc chắn không có anh Hòang, không có người chồng thân yêu của chị. Chị nhờ người an táng lại cho những người chiến sĩ đau khổ này.
Một nén hương thắp lên với lời tạ lỗi khẩn thiết của người chinh phụ đau thương nguyện cầu mong các anh được an vui nơi cõi Vĩnh hằng.
Một lần nữa các anh lại trở thành chiến sĩ vô danh, không biết các anh có nghĩ gì không nơi cõi xa xôi nào đó, hởi những người chiến sĩ vô danh.
Chị rưng rưng ngừng câu chuyện kể, một vài giọt nước mắt nóng lại lăn xuống trên má người đàn bà đã quá dạng dày đau khổ, chị nói nhỏ.
- Anh Tịnh, không hiểu tại sao khi tôi ngồi xuống bên cạnh những bộ hài cốt này, rõ ràng tôi không có một chút feeling nào hết đó là chồng tôi.
Tôi hỏi chị:
- Xin lỗi chị, làm sao chị xác nhận không phải là Niên trưởng.
- Bởi vì: người này cao lắm, măc dù anh cũng cao nhưng không cao bằng, anh Hoàng có cái răng khểnh lớn, rõ ràng, còn hàm răng của người này gần như đều đặng có thể có tí khểnh nhưng không rõ ràng. Lại nữa, như tôi nói với anh, khi tôi ngồi xuống bên cạnh người này, tôi không có chút feeling nào hết đó là chồng tôi.
- Chị Nga, còn áo quần và tấm thẻ bài ở đâu?
- À, anh hỏi tôi mới nhớ, không thấy có tấm thẻ bài nào hết, còn những mãnh áo quần phải khó khăn lắm mới nhận ra có những bệt màu sóng biển, gần như nó đã trở thành màu đất, phải cẩn thận vì nắm hơi mạnh là nó mũn nát.
Tôi nghĩ rằng có lẽ sức công phá của trái lựu đạn đã làm tan nát hoặc bay mất tấm thẻ bài. Nhưng tôi không nở giải thích chỉ gây thêm nỗi đau đớn cho người sống.
…Và cũng từ ngày đó, người chinh phụ tội nghiệp và đáng thương này chừng 2, 3 năm một lần chị trở lại cố hương. Chị về nơi đó, nơi dãi cát trắng dài, trước mắt có vùng biển xanh bao la đến chân trời vô tận, như một cuộc ước hẹn với chồng: “Hoàng, em lại về thăm anh đây, đốt nén hương với những lời thầm nguyện: yên vui cho chồng nơi cõi xa xôi, có cần chi xin cho em được biết”. Và chị tiếp tục cuộc hành trình về quê hương chồng- Huế, để thăm người thân và trên đường về nam chị lại cũng ghé nơi vùng biển đó chào từ giả chồng trước khi về Mỹ, về với cuộc sống tha phương nơi quê người. Chị bảo, đó là niềm an uỉ còn lại chị có thể tạo cho anh niềm an vui, những người con của chị cũng đồng ý thông cảm với tâm trạng của mẹ, nên các cháu vui vẻ giúp thêm phương tiện cho những chuyến đi của chị.
Nghe xong câu chuyện của chị Nga kể, tôi ngẫn người, hình dung trước mắt những sự việc và hình ảnh quá sức thảm thương của những người chinh phụ phụ lặn lội tìm chồng, và thầm trách mình: “ôi, sao ngày đó mình vô ý một cách đáng trách và không nhớ gì hết khi nói với chị Liên về 2 người lính đã tự sát bằng lựu đạn ở gần khu vực chủng viện.”
Tôi nhớ, buổi sáng hôm đó là ngày 30 tháng 3 năm 1975… vì quá mõi mệt sau đêm chiến trận, chúng tôi đã ngủ quên thức giấc quá trể, lúc đó đã gần 9 giờ sáng mới rời khỏi căn nhà ngủ tạm, bốn thầy trò định tìm đường về nam, trước khi về chúng tôi muốn tới chủng viện, nơi xảy trận chiến hôm qua, một lần được nhìn lại tàn tích của trận đánh cuối cùng một đời làm lính, nhưng vừa rời khỏi nhà chừng cây cố chúng tôi đã bị bắt… và họ dẫn chúng tôi tới chủng viện, nơi đó họ đã tập trung những người lính TQLC bị bắt còn lại… vừa TĐ6, vừa TĐ9/TQLC. Anh em nói nhỏ cho tôi biết “tối qua có 2 người lính của mình tự sát, hình như một người là Thiếu úy Hùng mới về ĐĐ2 và một người lính mang đồ ăn cho Thiếu úy”…như vậy đó, trong lúc gặp chị Liên có quá nhiều việc và những xúc động tôi chỉ nói với chị, có 2 người lính đã tự sát gần chủng viện mà không nói rõ phần sau, sự hớ hên của mình đã đưa tới công chuyện vất vã kiếm tìm. Tôi không ngờ chị Liên lại lẳng lặng lên đường về nơi đó tìm anh Tùng. rồi chị Nga…
Tôi thở dài nói cho chị Nga biết về chuyện mình đang suy nghĩ. Chị im lặng một lúc và nói thôi chuyện qua rồi, nhưng lúc đó anh cũng chưa rõ ràng, và bọn này cũng sẽ đi tìm mà thôi, tôi cám ơn chị. Như vậy tôi đã rõ những bộ hài cốt này và 2 người lính tự sát năm xưa là ai rồi, cũng nhờ sự thiếu sót của mình mà tôi đã biết ra Hùng đang phiêu bạc nơi đâu, âu cũng là mạng số.Chị lập lại nhiều lần, nơi đó gọi là Gò cà, Gò cà …thời gian qua quá lâu và chị không sống ở Đà Nẵng nên chị không biết gò Cà nằm ở nơi nào, khi tôi hỏi chị.
Phan I
Atlanta,Viết xong ngày 13 tháng 3 năm 2011
Tân An Đoàn Văn Tịnh
Nguồn Thủy Quân Lục Chiến
Share Hoài Niệm T.TT
No comments:
Post a Comment