Hai mươi năm chinh chiến, QLVNCH đã có 250.000 người, gục ngã trước đạn thù và nửa triệu thương binh chịu đời bất hạnh vì một phần cơ thể đã gửi lại sa trường. Hiện nay Chính Phủ cũng như QLVNCH không còn nữa, nhưng trong tâm tư của mọi người được sống sót qua cuộc đổi đời mạt kiếp, thì lý tưởng và danh dự của Người Lính, càng được sáng tỏ, trong niềm hãnh diện chung của quân-dân Miền Nam.
Lịch sử của một quốc gia là những gì trung thực, mà người dân của nước đó đã ghi chép không hề thêm bớt. Nhờ vậy ta mới biết được về cuộc nội chiến của Hoa Kỳ, xảy ra từ năm 1861-1865, cùng với thái độ của dân chúng và chính quyền nước Mỹ tại Miền Bắc là kẻ thắng trận, đã không hề lên án, bỏ tù hay trả thù những người Miền Nam bại trận. Ðã vậy, Hoa Kỳ còn ghi ơn tất cả những chiến sĩ của hai miền vừa nằm xuống trong cuộc chiến, vì lý tưởng riêng của họ.
Thế chiến 2 kết thúc, Tòa Án quốc tế Nuremburg, chỉ kết tội những Ðầu Sỏ trong phe Trục, mà không hề bắt bớ hay gây khó khăn cho quân nhân các nước Ðức-Ý-Nhật.. Năm 1920, Lãnh tụ kháng chiến quân Libya là Tướng Mukhta, bị người Ý bắt và tử hình. Nhưng chính Tổng Tư Lệnh Ý tại Bắc Phi, là người đã ở lại pháp trường, để lo lắng hậu sự cho vị anh hùng dân tộc Libya, vốn là kẻ thù của người Ý lúc đó.
Tại VN, khi thực dân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền tây Nam Phần năm 1867, sau đó là thành Hà Nội năm 1873. Các tướng lãnh thủ thành đương thời là Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu.. đã oanh liệt tử tiết theo thành mất và được kẻ thù là người Pháp, tôn kính mặc niệm như chính các tướng lãnh của họ. Sau rốt là số phận của 500.000 quân nhân Mỹ đã tham chiến tại VN, trong số này hơn 50.000 người tử trận. Ngày nay các chiến sĩ trên đã được quốc dân Hoa Kỳ trả lại công lý và danh dự, để họ hiên ngang ưỡn ngực, cũng như an giấc nghìn thu, bên cạnh ông cha, một đời liệt sĩ. Tất cả đã chết cho lý tưởng quốc gia, sống vinh quang và yên nghỉ trong danh dự.
Người lính VNCH trong suốt hai mươi năm binh lửa cũng vậy, đã phơi gan trải mật để bảo vệ cho đất nước và mạng sống của đồng bào, bị cộng sản quốc tế Bắc Việt xâm lăng giết hại. Tóm lại gần hết cuộc chiến, ở đâu có cộng sản khủng bố cướp bóc giết hại dân lành, là ở đó có sự hiện diện của người lính Miền Nam. Ở đâu có bóng cờ vàng ba sọc đỏ, là ở đó người dân trong vùng chiến nạn, tìm đủ mọi cách trốn thoát sự kềm kẹp của giặc cộng, để trở về vùng quốc gia, nhờ che chở đùm bọc. Ai có làm lính tác chiến hay người cán bộ áo đen Bình Ðịnh Nông Thôn, Cán Bộ Xã Hội.. mới biết được thế nào là nỗi thống khổ, trên đe dưới búa, cá nằm giữa dao thớt, người dân tay không hứng hai lằn đạn bạn thù, của người VN trong thời ly loạn. Có là người dân bị kẹt trong vùng xôi đậu, lửa khói bom đạn, mới thấu hiểu đời người lính gian khổ chết chóc muôn trùng. Có là người dân quèn, nghèo sống đời cay cực, mới thương xót cho cảnh ba đồng, ba cộc, của kiếp lính Miền Nam.
Nhức nhối và mai mỉa nhất, đó là hiện tượng “thuyền nhân tị nạn” sau ngày 30-4-1975, ngoài tuyệt đại đa số nạn nhân đích thực của CSQT, trong số này không thiếu mặt những tên tuổi lớn một thời chạy theo VC đâm sau lưng người lính, những nhà văn, nhà báo, cha cố.. kể cả thành phần suốt đời chỉ biết sống ký sinh vào xã hội.. cũng lợi dụng danh nghĩa người lính, để được tị nạn chính trị. Ứa gan hơn là những tên VC trà trộn trong hàng ngũ những người vượt biên, vượt biển, sau khi tới được bờ đất hứa, chúng trở mặt ngay, để lộ diện thành công an, cán bộ, đảng viên như ngày nào.. để nạt nộ, hăm dọa đồng hương, qua cái đòn “nếu theo Ngụy”, sẽ không được về VN để thăm nhà, như đã thấy tới độ mù mắt khắp nơi tại hải ngoại.
Trong nỗi chịu đựng hy sinh âm thầm nhưng thảm nhất là người lính đã không bao giờ được một lời an ủi tử tế của hậu phương, để yên tâm tiếp tục cầm súng giết giặc bảo vệ cho người dân. Trái lại họ còn bị muôn ngàn bất hạnh đeo đuổi suốt cuộc chiến. Thật vậy, khi cầm súng thì cô đơn, nửa đường bị hậu phương, đồng minh và lãnh đạo phản bội bán đứng. Ngày trở về thì bị giặc trả thù đầy đoạ, rồi chết thầm trong đói nghèo tủi nhục.
Tiếp tay với những tâm hồn thác loạn, ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản, là bọn báo chí quốc tế bất tài, a dua, xu thời. Nhờ vậy mà cộng sản Bắc Việt, mới có cơ hội tung hoành một mình một cõi, thao túng vẽ vời huyền thoại, bóp mép lịch sử, để đầu độc các thế hệ VN đang sống trong sự kềm kẹp của chế độ bạo tàn, độc đảng. Nhưng rồi gieo gió thì phải gặt bão, chính sự khoắc lác dại khờ trên, đã đưa toàn bộ đảng cộng sản VN chìm trong cái vũng bùn ô nhục, khi bí mật lịch sử lần lượt được mọi phe phái bật mí và hồi tưởng.
Câu chuyện tướng Nguyễn Ngọc Loan, trong trận Tết Mậu Thân 1968 ở Sài Gòn, vì không thể chịu nỗi hành động dã man, đẩy các trẻ em trong xóm ra làm lá chắn đỡ đạn cho đồng bọn tẩu thoát. Vì quá tức giận không kềm chế được, nên tướng Loan đã rút súng Rouleau ngắn nòng, bắn chết tên VC chỉ huy là Bảy Lốp, tại ngã ba Vườn Lài (góc đường Vạn Hạnh, Minh Mạng và Vĩnh Viễn), trước mặt phóng viên Mỹ là Eddie Asams, nên đã chụp được tấm hình này, đem bán rao khắp thế giới và nhận được giải thưởng quốc tế.
Sau ngày 30-4-1975, Tướng Loan tới tị nạn tại Hoa Kỳ, đã bị bọn phản chiến cùng với giới truyền thông Mỹ làm lớn chuyện. Thậm chí có Elizabeth Holtzman (nữ dân biểu DC bang New York) và Dân biểu Harold Sawyer (CH bang Michigan), đã kiện cáo, đòi Chính phủ Mỹ trục xuất tướng Loan ra khỏi Hoa Kỳ, vì tội vi phạm nhân quyền nhưng bị thất bại .
Trước và sau ngày tướng Loan từ trần 14-7-1998, người phóng viên chụp tấm hình năm xưa Eddic Adams, đã viết một bài báo xin lỗi tướng Loan, về sự ray rứt hối hận của mình, trong đó có đoạn “ông đã làm công việc của ông, còn tôi làm bổn phận của tôi”. Ngày tướng Loan qua đời, Eddic lại viết thêm một bài báo khác đăng trên tờ Times, đồng thời gởi tới một vòng hoa phúng điếu, trên đó có đính một danh thiếp viết tay “General, I ‘am so,so,so.. sorry”.Bao nhiêu đó chắc cũng đủ làm nhức óc những tên “sống nhờ người tị nạn” nhưng lúc nào cũng viết lách, làm báo ca tụng VC.
Ðau đớn nhất là trận Hạ Lào 1971, cho dù các đơn vị đã tham chiến như SĐ Dù, TQLC, Sư Ðoàn 1 BB, Lữ Ðoàn 1 Thiết Kỵ và Liên Ðoàn 1 BĐQ có bị tổn thất nặng nề. Nhưng cuối cùng QLVNCH cũng đã đạt được mục đích của cuộc hành quân, là phá hủy gần như toàn bộ các cơ sở hậu cần, tiếp liệu tại các mật khu, binh trạm tại đây. Lúc đó, chỉ có Ðại Úy Trương Duy Hy, Pháo đội trưởng PĐC/44, tham dự cuộc hành quân, tại căn cứ Hỏa lực 30, là tác giả quyển Hồi ký “Tử thủ Căn Cứ Hỏa Lực 30, Hạ Lào” là viết sự thật. Ngoài ra tất cả bọn phóng viên Mỹ đều ở Khe Sanh, hằng ngày nhìn cảnh máy bay tải thương xác lính và thương về tới tắp. Từ đó chụp hình, diễn dịch rồi gửi về nước, nói là QLVNCH đã thảm bại tại Hạ Lào, giống như hồi Tết Mậu Thân.
Riêng làng báo Sài Gòn cũng vậy, vì không có ai vào tận chiến trường để chứng kiện sự thật, nên chỉ đành “ăn cắp tin từ báo Mỹ” rồi Mao Tôn Cương, viết rằng: “VC đâu có quân số đông đảo để đánh QLVNCH, mà chỉ sử dụng hỏa pháo. Ở đây làm gì có kho tàng như tình báo đã báo cáo láo. Tóm lại QLVNCH vì sợ hỏa lực của VC nên bỏ chạy”. Có đọc những tin tức của báo chí Sài Gòn lúc đó, mới thấy máu của người Lính Miền Nam đã đổ suốt cuộc chiến, để bảo vệ cho đám thú vật này, thật là uổng phí và tội nghiệp cho những kẻ đã nằm xuống truớc ngày 30-4-1975.
Nhưng người lính VNCH từ trước tới nay chỉ biết có cầm súng để chiến đấu giữ nước và bảo vệ sinh mạng cho người khác, chứ không quen viết lịch sử để ca tụng một chiều. Cho nên nếu có được một tiếng cảm ơn hay sự hồi phục danh dự, thì đó cũng chỉ là sự phản tỉnh của thế giới tự do khi đã biết được sự thật cùng ý nghĩa của cuộc chiến mà người Miền Nam phải bán mạng để chống ngăn giặc Bắc xâm lăng tới giờ phút cuối cùng. Ngoài ra còn có sự tưởng tiếc muộn màng của đồng bào hậu phương, đối với người chiến sĩ VNCH, khi chính bản thân và gia đình người dân, qua cuộc đổi đời, cũng đã trở thành nạn nhân tận tuyệt, của một chế độ bạo tàn, của những con người không có nhân tính, mà hôm qua chính người dân coi như thần thành, nên đã công khai giúp và theo chúng, đâm sau lưng đồng đội, đồng bào mình.
NGƯỜI LÍNH VNCH BỊ TRÍ THỨC THIÊN TẢ ÐÂM SAU LƯNG :
Trong lúc đất nước đang lâm nguy vì giặc xâm lăng phương Bắc, trong lúc gần hết thanh niên nam nữ thuộc mọi tầng lớp của xã hội miền Nam, không phân biệt sang hèn, kinh thượng, bỏ nhà, bỏ lớp, bỏ hết tương lai của tuổi trẻ và đời người để lên đường ra biên cương chống giặc thù. Giữa lúc đất nước lầm than, muôn người khốn khổ vì chiến tranh do Hồ Chí Minh và cộng sản mang từ Liên Xô-Trung Cộng vào để giày xéo non sông tổ quốc, thì tại hậu phương Miền Nam có một số người tự nhận mình là trí thức, giáo sư, tu sĩ, hầu hết đều đang độ xuân thì, mập mạnh nhưng lại tìm cách đứng bên lề cuộc chiến bằng đủ mọi lý do để được hoãn dịch, trốn nghĩa vụ làm trai trong thời tao loạn. Nếu vì sợ chết mà trốn đi lính, thì cũng còn có thể tha thứ nhưng những hạng người này, không bao giờ chịu để yên cho đồng bào và đất nước mình, đang trăn trở trong cơn đau bom đạn, hận thù, đói nghèo và ly biệt. Họ hoàn toàn không thông cảm cho ai hết, ngoài cái lý tưởng đã thu lượm được, qua sách báo tây phương phản chiến và các kinh điển nhật tụng của thiên đàng xã hội chủ nghĩa, trong lúc được sống ở hậu phương, thừa mứa vật chất, đàn bà và thời gian để đâm thọt, phá hoại.
Trong Tạp Chí Làng Văn số 235 xuất bản tháng 3-2003, tác giả Lâm Lễ Trinh có viết bài ‘MTGPMN nói gì về Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Lực Lượng Thứ Ba và Chính khách Lưu Vong Miền Nam ?” . Bài viết này tác giả trên đã dựa vào tài liệu của VC, từ ba quyển ký ức của Võ Nguyên Giáp và bộ sách “chung một bóng cờ” của tập đoàn MTGPMN gồm Nguyễn Hữu Thọ, Trần Nam Trung, Trần Bạch Ðằng, Nguyễn Thị Bình..
Nhờ bài viết trên, ta mới biết, trong lúc đồng bào và chính phủ NVN đau khổ hấp hối vì bị Thế giới và Mỹ phản bội bán đứng cho CSQT, thì tại hậu phương, các chính khách con buôn của VNCH, đã múa rối bỉ ổi và chạy theo bợ đít VC để mong kiếm chút bã lợi danh sau cuộc đổi đời. Phan Nhẫn, một cán bộ VC hoạt động tại Paris viết :Thích Thiện Châu và Mạn Ðà La, lãnh đạo Phật giáo tại Pháp là phe ta, có liên lạc mật thiết với Thích Thiện Hoa. Thiện Châu đã về chầu Hồ và Mác năm 1998. Ở đây còn có cố đạo cấp tiến Nguyễn Ðình Thi, lập cái tổ chức lấy tên là “Communauté Vietnamienne” thường tụ họp với VC cũng như Trương Bá Cẩn, Lý Chánh Trung trong nước. Năm 1969, Hồ về với tổ Mac, các cố Nguyễn Ðinh Thi (Pháp), Vương Ðình Bích (Tây Ðức) và Trần Tam Tĩnh (Canada), đã tổ chức phát tang cáo Hồ thảm thiết.
Cũng lời Phan Nhẫn kể “Ngoài ra Ta còn đuợc sự hợp tác của các sĩ quan Sài Gòn, nguyên xuất thân từ lính khố xanh, khố đỏ Pháp, đang sống lưu vong tại Ba Lê như Ðổ Khắc Mai, Nguyễn Hữu Khương, Vương Văn Ðông, Nguyễn Văn Châu, Trần Ðình Thi.. Tất cả bọn lính Tây trên đều nói là rất hối hận vì đã lỡ làm quan tại VNCH, nay hối ngộ nên xin đảng cho gia nhập, để chuộc lại những lỗi lầm. ‘ Miền Nam đầy rẫy sâu bọ như vậy, làm sao chúng ta không mất nước ? Hung hăng nhât trong bọn nay là Trần Ðính Lan, do thâm thù VNCH đã trục xuất hắn về Pháp, sau khi lộ tẩy vụ muốn NVN trung lập, để thực dân trở lại. Bởi vậy từ năm 1966, Lan lập tại Paris cái gọi là “Forces Libres du VN”, tận trung với “bác đảng” tìm đủ mọi cách quậy phá chính phủ QG. Khôi hài nhất là câu chuyện mà Nhẫn kể với giọng xỏ lá “thậm chí lúc bi bạo bệnh, Lan xin với đảng, phủ cho mình Lá Cờ Máu”, để nở mặt khi xuống âm ty trình diện Hồ. Ngay lúc Ban Mê Thuột bị Bắc Việt cưỡng chiếm vào tháng 3-1975, Lan đã gọi điện thoại
chúc mừng
và lập đoàn đại biểu mang hoa tới mừng đảng tại Paris, khi nghe tin Rợ Hồ đã hoàn toàn chiếm được Miền Nam trưa ngày 30-4-1975, sau lệnh bắt QLVNCH buông súng rã ngũ của TT hai ngày “Dương Văn Minh”. Cũng trong bộ sách này, Phan Nhẫn đâu có tha các chính khứa xôi thịt của VNCH, đã chạy sang Pháp như Âu Trường Thanh, Hồ Thông Minh, Nguyễn Hữu Châu.. luôn to miệng nhận là “Lực lượng thứ ba”, thành phần của nhóm đối lập Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Ðức, Lý Quy Chung, Lý Chánh Trung.. Cuối tháng 12-1972, Mỹ dội bom Hà Nội và Bắc Việt, bọn chính khứa trên la lối phản đối kịch liệt. Rồi khi Hiệp định ngưng bắn được ký kết, cuối năm 1973, bọn phản chủ tại Paris lại lập “Uỷ ban nhân dân đòi thi hành HĐ Paris 1973” cùng lúc với “Ủy ban đòi hòa bình và dân chủ”. Nhưng đau đớn nhất, là sự khinh bỉ của chính VC đối với bọn khoa bảng “giá trị không bằng cục phân” kể trên, qua lời chửi yêu của Phan Nhẫn “Bọn chúng biết là khi Mỹ rút ,VNCH sẽ sụp đổ, nên đòi trung lập, hòa giải, hòa hợp với đảng ta, để có cơ hội trở về tham chính . Nhưng điều mai mỉa với chúng, là đảng ta có bao giờ muốn thế”.
Ðể kết thúc bộ sách coi như vĩ đại nhất của đảng ta, bằng những lời thố lộ tâm huyết, của ba đại chính khứa NVN gồm Nguyễn Hữu Có, Nguyễn Xuân Oánh, Dương Văn Minh . Nhẫn ghi “Có nói, đảng phải thông báo ra nước ngoài, để kẻ thù cũ cắn rứt lương tâm mà quay về “bác”. Còn Oánh thì cảm thấy thoải mái, sau khi thoát được sự kềm kẹp của Mỹ Nguỵ. Riêng TT Minh công bố hãnh diện được làm công dân xã nghĩa VN .“Ðó là thực chất của những khuôn mặt và tổ chức chính trị “lực lượng thứ ba đối lập” , đã giúp giáo cho CSQT, tiêu diệt chính quyền Quốc Gia tại NamVN, rồi cuối cùng chính những người phản bội, cũng nhận chịu hậu quả thảm khốc về vật chất và tinh thần như mọi người, thêm vào đó là bia đá nghìn thu và bia miệng loan truyền miên viễn, tiếng xấu xa, không làm sao rửa sạch, cho dù ngày nay vẫn còn ít người tuyên bố “Nhờ Minh ra lệnh đầu hàng sớm, họ mới sống sót”. Hỡi ôi sống như cuộc sống của cả nước VN hiện nay, kể cả người Việt lưu vong, thì được sống thêm cũng đâu có ý nghĩa gì .
Ngày nay ai cũng biết, cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai (1955-1975) rất đa dạng, phức tạp, khó có thể định nghĩa cho trọn vẹn. Nói chung tùy theo lý tưởng, ai muốn gọi thế nào cũng đều có ý nghĩa riêng với người trong cuộc. Cho nên với người Miền Nam VN, thì đây là một cuộc chiến đấu chống xâm lăng. Cuộc chiến này hoàn toàn khác biệt với cuộc phân tranh của hai họ Trịnh Nguyễn vào thế kỷ thứ 17, lúc đó chỉ là cuộc tương tàn nồi da xáo thịt để tranh giành quyền lãnh đạo của đất nước. Trái lại cuộc chiến lần này, người Miền Nam chiến đấu, vừa để tự vệ, vừa bảo vệ phân nửa mảnh đất VN, để khỏi bị Bắc Việt nhuộm đỏ bằng chủ thuyết cộng sản. Nhưng với bọn trí thức thiên tả, phản chiến nằm vùng lúc đó, lại trắng trợn phỉ báng, gọi QLVNCH là lính đánh thuê cho Mỹ.
Chính bọn trí thức thiên tả này, đã lợi dụng tự do báo chí ngôn luận của VNCH, để viết lách, bôi nhọ, xuyên tạc, tuyên truyền phá nát hậu phương, đâm sau lưng chiến sĩ tuyền tuyến, đang liều chết để bảo vệ đồng bào, trong đó có cả sinh mạng ký sinh của chúng.
No comments:
Post a Comment