Tuesday, February 21, 2023

Chinh Chiến Điêu Linh 1972 (13-25) Kiều Mỹ Duyên




----------------------------

November 19th, 2021
Kiều Mỹ Duyên – Chinh Chiến Điêu Linh (kỳ 13)
Cao nguyên sương mù hay khói súng?

Ngày xưa, hễ báo nào đăng bài thì báo đó trả tiền nhuận bút cho đến khi tôi viết cho báo Công Luận và báo Hòa Bình thì lương rất cao so với công chức hay tư chức lúc bấy giờ. Tôi rất say mê làm báo. Tôi đam mê viết từ nhỏ, thấy việc gì cũng có thể viết thành đề tài. Nhìn cô giáo mặc áo dài, mỗi ngày một áo khác nhau, tôi cũng có thể viết thành một bài. Lúc nào tôi cũng quan sát, lắng nghe người khác đối thoại, tôi cũng có thể viết được một bài, họp ở chùa, ở nhà thờ, tôi cũng có thể viết báo. Tôi không viết truyền thông mơ mộng lên cung trăng, tôi viết về người thật việc thật, viết hoài không hết, cần gì bay lên Trời, hay bay lên cung Trăng thăm chị Hằng. Tôi sống thật, thương thì nói là thương, ghét ai thì im, không nói ghét, vì người nào cũng có điểm dễ thương của họ. Họ không thích mình tại vì mình không khéo léo, thế thôi. Kiều Mỹ Duyên

Sau khi bắt lại liên lạc vô tuyến với Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II, suốt ngày hôm đó tại căn cứ Tân Cảnh, các chiến sĩ của Trung Ðoàn 42 Bộ Binh đã anh dũng đẩy lui nhiều đợt xung phong mãnh liệt của Cộng quân có quân số đông gấp ba lần và được yểm trợ bởi 60 chiến xa T54 cùng với một trung đoàn pháo. Cuộc chiến đấu hào hùng này đã kéo dài suốt 24 tiếng đồng hồ không ngừng một giây phút. Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II theo dõi những diễn tiến tại Tân Cảnh cho đến 19 giờ 45 phút ngày 24 tháng 4 thì một lần nữa mất liên lạc với căn cứ này. Và theo tin của một số binh sĩ và đồng bào vừa thoát khỏi quận Dakto thì Cộng quân đã tràn vào căn cứ Tân Cảnh vào lúc tối ngày 24.

Trong lúc đó, tại quận Dakto, Trung tá Lò Văn Bảo chỉ huy lực lượng Ðịa Phương Quân vẫn tiếp tục kháng cự với Cộng quân, mặc dù đã có lệnh di tản chiến thuật khỏi nơi này. Trung tá Bảo gốc người Thái vùng Bắc Việt, ông gọi máy vô tuyến về Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu nói rằng ông sẽ quyết chiến với địch quân, chết chứ không lùi bước. Rồi sau đó cũng như Ðại tá Ðạt, người ta không biết số phận của Trung tá Bảo như thế nào vì mọi liên lạc đều bị gián đoạn.

Chờ hai ngày ở phi trường Pleiku dưới trời nắng cháy và cát bụi, đến ngày thứ ba tôi mới được theo máy bay quan sát lên Kontum. Máy bay bay giữa những cụm mây trắng, bên dưới là núi rừng trùng trùng điệp điệp. Pleiku cách Kontum chừng 45 cây số đường bộ.

Sau khi Tân Cảnh và Dakto di tản chiến thuật, thành phố Kontum ngày càng chịu áp lực nặng nề của Cộng quân. Con đường duy nhất nối liền Kontum và Pleiku đã bị cắt đứt. Phi trường Kontum bị pháo kích vào mỗi ngày. Phương tiện còn lại duy nhất là máy bay quân sự. Hôm trước đến Phòng Báo Chí của Quân Ðoàn để xin phương tiện, gặp mấy người từ Kontum về, một anh nói với tôi:
– Cô nên mặc áo giáp, đội nón sắt vì trên Kontum Việt Cộng pháo kích dữ lắm, pháo như mưa. Xuống máy bay là phải chạy tìm chỗ nấp liền. Nên kiếm cái ba lô để mang theo thức ăn. Các tiệm ăn trên Kontum đều đóng cửa hết.

Tôi nghĩ chết sống có số. Với tôi, nhiều khi mang áo giáp, đội nón sắt rồi nặng quá chạy không nổi thì cũng chết. Ngày đầu chờ máy bay, tôi còn mang theo bánh mì và một bộ quần áo. Nhưng chờ đợi mãi, đến ngày thứ ba, khi leo lên máy bay, tôi chỉ mang cái máy ảnh, ít thuốc cần thiết và băng cá nhân. Người nữ phóng viên chiến trường không cần mang son phấn nên hành trang cũng nhẹ bớt phần nào.

Có những đoạn máy bay bay thật thấp. Tiếng người phi công nói qua ống nghe:
– Cô nhìn xuống mặt đường, có mấy chiếc xe đò bị Việt Cộng giựt mìn còn xác nằm bên đường đó.

Con đường ngoằn ngoèo bên dưới thật vắng, không có bóng một chiếc xe nào đang di chuyển. Thỉnh thoảng thấy một vài chiếc xe hàng bị lật. Trước đây vài ngày, nghe nói có nhiều xe hàng liều mạng chở người tị nạn từ Kontum về Pleiku, giữa đường bị Việt Cộng giựt mìn hoặc từ trên núi bắn B40 xuống.

Máy bay bay ngang một làng nào đó. Khắp làng không thấy bóng dáng một người dân. Tôi hỏi người phi công:
– Sao không thấy một người dân nào cả? Ðây cách Kontum chừng bao nhiêu cây số và đang ở về hướng nào?

Người phi công chấm một dấu đỏ trên bản đồ ghi dấu vị trí hiện tại của máy bay và đưa tấm bản đồ về phía tôi:
– Dân đã được di tản rồi. Cô không nhìn thấy những hố bom B52 dưới kia sao? Còn cách Kontum 20 cây số về hướng Nam.

Hai người xạ thủ đại liên nói đùa với tôi:
– Nếu thấy Việt Cộng, tụi tôi nhường súng cho cô bắn.

Kontum 1972, những người Thượng tị nạn – Ảnh: Eye Ubiquitous / Universal Images Group qua Getty Images

Tôi nhìn xuống bên dưới, có 3 chiếc xe mang cờ Công giáo, chiếc đi giữa chở một cái hòm, hình như là một đám tang. Về sau tôi được biết người chết là một thanh niên, một trong những người đang ngồi ở phi trường đợi máy bay để rời Kontum, rồi bị pháo kích mà chết.

Hôm đến Phòng Báo Chí của Quân Ðoàn II, gặp Ðại úy Vượng, ông khuyên:
– Cô lên Kontum thì nên chuẩn bị sẵn cho một cuộc chạy bộ. Hãy mang giày nào cho dễ chạy. Trên đó không có xe cho cô di chuyển. Có mượn được xe cũng không có xăng. Xuống phi trường, cô phải chạy bộ vào thành phố, chỉ chừng 3 cây số thôi. Tại Kontum, bây giờ, một giọt xăng quý như một giọt máu.

Vậy là tối hôm đó tôi tìm mua một đôi giày Bata để chuẩn bị cho một cuộc chạy bộ từ phi trường vào thành phố. Nhưng rồi cũng may, trực thăng hạ cánh cách toà hành chánh tỉnh chừng một cây số. Thế là tôi chỉ đi bộ vào phố chứ khỏi chạy bộ. Lúc đó Việt Cộng đang pháo vào phi trường. Những đoàn người trên đường ra phi trường phải dừng lại. Một người trong nhóm đó thở dài:
– Trời ơi, Việt Cộng pháo vào phi trường mãi. Không biết bà con của mình đợi ở đó có sao không!

Tôi đến đây nhằm ngày Chủ Nhật, chỉ có con đường ra phi trường là còn có người di chuyển. Hằng ngàn người, đa số là vợ con của quân nhân và công chức tụ tập trước MACV để xin máy bay di chuyển. Phải có giấy của Ðại tá Tỉnh Trưởng ký trước, rồi đến xin giấy của Ðại tá Mỹ ở MACV. Bao giờ cầm được giấy lên máy bay mới biết chắc mình được đi. Giấy được đi phải là giấy ưu tiên một. Ðối với máy bay Mỹ, mọi người giữ được kỷ luật như vậy, còn với máy bay Việt Nam, dân cứ ào lên, ào lên. Không có cách gì để giữ cho được trật tự.

Cách đây vài hôm ở phi trường Cù Hanh, hơn 10 ngàn người tràn lên một chiếc máy bay. An Ninh, Quân Cảnh không thể nào ngăn cản được. Một ông Trung tá rút súng bắn dọa một phát, viên đạn vô tình lại trúng vào cánh máy bay sao đó mà máy bay không cất cánh được. Và người ta lại kiên nhẫn ăn, ngủ ngay tại phi trường để chờ. Tội nhất là những đứa bé sơ sanh, phải dầm mưa dãi nắng và chịu đói khát, đau ốm đã bao nhiêu lâu rồi. Vấn đề tiếp tế cho Kontum ngày càng trở nên khó khăn, tất cả chỉ còn trông chờ vào Chinook. Những nhu yếu phẩm cần thiết làm sao có đủ cho đồng bào tị nạn chạy về từ Dakto, Tân Cảnh.

Tôi đến toà hành chánh tỉnh Kontum vào lúc 10 giờ sáng. Quân nhân, công chức tụ họp từ tầng dưới lên cả trên lầu. Họ chia ra từng nhóm, người nào cũng nói về chuyện di tản. Họ đến đây để xin giấy di chuyển cho gia đình. Tôi đang đứng ở cầu thang hỏi thăm mấy người ở đây thì Ðại tá Nguyễn Bá Thìn, Tỉnh Trưởng Kontum đi ra, thấy tôi ông chào hỏi và nói:
– Bây giờ tôi đi thăm các trại tạm cư, cô có đi không? Cô nên viết để kêu gọi giúp đỡ cho hoàn cảnh này.

Tôi lên xe của Trung tá Ðổ, Tiểu Khu Phó, hướng về các trại tạm cư. Trường học và các cô nhi viện được trưng dụng để làm trại tiếp cư. Chúng tôi ghé lại một trường học. Trên sân trường, người Thượng nằm, ngồi dưới các gốc cây, họ vừa chạy về từ Dakto, Tân Cảnh. Nét mặt người nào cũng có vẻ ngơ ngác trông thật tội nghiệp.

Trong khi Ðại tá Thìn hỏi thăm những cán bộ Bình Ðịnh Nông Thôn về vấn đề phân phát gạo cho đồng bào tị nạn, thì tôi đi chụp hình và tìm những người Thượng biết nói tiếng Việt để hỏi thăm. Mấy người này đến từ làng Konkring. Tôi nghe tiếng Ðại tá Thìn hỏi:
– Ty Y tế có rắc thuốc không?

Gần 10 năm làm báo, đây là lần đầu tiên tôi thấy một ông Ðại tá Tỉnh Trưởng đi kiểm soát nhà cầu của một trại tị nạn. Vấn đề giữ được vệ sinh ở trại này thật là khó khăn. Cán bộ thì ít, người tị nạn thì đông. Tất cả nhân lực đang dồn vào chiến trận, vào việc di tản dân Kontum đi nơi khác và tiếp cư dân nơi khác về Kontum. Mỗi người được lãnh 500 gram gạo một ngày, nhưng không dám ăn hết, để dành lại một ít phòng hờ ngày mai không được phát gạo nữa. Thời chiến chinh, ai mà biết được những gì sẽ đến trong ngày mai.

Vào lúc 16 giờ ngày 29 tháng 4, một phi cơ quan sát trong lúc bay trên không phận Dakto, bỗng nhiên thấy ánh sáng của một tấm kiếng từ dưới đất chiếu lên. Phi công liền xuống thấp để quan sát thì thấy một đám đông đang tụ họp quanh khu chợ Dakto và ra dấu hiệu cấp cứu. Khi phi cơ xuống thấp hơn nữa, thấy đám đông đó là khoảng 200 binh sĩ của ta. Những người này đang làm dấu hiệu cho phi cơ đáp xuống. Phi công định đáp xuống một bãi trống phía Tây của chợ, nhưng địch biết được ý định đó nên bắn lên máy bay như mưa và đồng thời mở đợt tấn công vào đám binh sĩ của ta đang bị vây.

Ðược tin báo của máy bay quan sát, Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II tin rằng nhóm 200 binh sĩ đang bị vây khốn ở chợ Dakto gồm có Bộ Tham Mưu của Ðại tá Ðạt và binh sĩ của Trung Ðoàn 42 Bộ Binh trên đường di tản khỏi căn cứ Tân Cảnh. Vì vậy, cuộc giải vây cho nhóm 200 người đang cầm cự với địch đã được thực hiện với ưu tiên một.

Ngày hôm sau, Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II đưa được Ðại tá Lê Ðức Ðạt, Tư Lệnh Sư Ðoàn 22 Bộ Binh cùng với 200 binh sĩ từ chợ Dakto về căn cứ của Quân Ðoàn. Cùng đi với Ðại tá Ðạt, có Trung tá Nghiêm Kế, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 22 Công Binh Chiến Ðấu, một đơn vị yểm trợ của Sư Ðoàn 22.

Ký nhi viện Vincent cũng là một trong những trại tạm cư. Chúng tôi đến thăm vào buổi trưa, các Dì Phước đều mặc áo màu xanh, lúp màu xanh và đang làm việc rất bận rộn. Có mấy Dì Phước ngồi ghi tên những người mới đến vào danh sách. Người tị nạn ở đây đa số là người Thượng từ các buôn ở mạn Bắc của Kontum chạy về.

Tôi ngồi xuống bên cạnh một Dì Phước rất trẻ, nói được tiếng Bana (Bahnar). Sinh hoạt chung với họ rồi nói được tiếng của họ. Ký nhi viện này ở bên cạnh trường trung học Quenot của Cha Trường. Trường học thật khang trang đẹp đẽ. Những cây phượng trong sân nở hoa đỏ rực. Xác hoa phượng phủ đầy các lối đi.

Ðại tá Thìn hỏi các Dì Phước:
– Vấn đề vệ sinh ở đây làm cho các Sơ vất vả lắm phải không?

Một Dì Phước trả lời:
– Người Thượng họ tắm cả ngày, tắm nhiều hơn mình nữa, nhưng họ không có quần áo để thay. Có một bộ đồ là họ mặc cho đến khi rách, chứ không giặt giũ gì cả. Mà muốn giặt cũng không có đồ để thay.
Tôi hỏi Dì Phước:
– Thưa Sơ, trại này hiện có bao nhiêu người?
– Ðã tiếp nhận hai ngày nay là 950 người. Số người mới đến còn đang lập danh sách.
Một Dì Phước quay lại hỏi tôi:
– Cô có nghe tin gì về Konkring không? Có mấy Sơ ở Konkring cũng thuộc về Saint Vincent de Paul, ở đây chúng tôi không được tin tức gì hết, chắc bị Việt Cộng bắt giữ lại hết rồi.

Các Dì Phước ở đây nhắc đến những người ở Konkring một cách quan tâm và thương mến. Buổi loạn ly bom đạn đâu có tránh ai, Việt Cộng đâu có chừa ai.

Rời trại tạm cư ở ký nhi viện Saint Vincent, chúng tôi đến thăm một trại tạm cư khác tại một trường trung học. Chúng tôi đến lúc đồng bào đang ăn cơm. Thức ăn thật đơn giản: rau luộc và một món mặn. Vợ chồng, con cái ngồi bẹp xuống nền của lớp học. Họ ăn một cách ngon lành, nhưng trên mặt vẫn còn những nét sợ hãi vì đoạn đường họ đã vượt qua và những hiểm nguy họ đã gặp.
Tôi hỏi một người đàn bà ngồi gần cửa:
– Chị chạy mấy ngày mới tới đây?

Người đàn bà đặt chén cơm xuống, nhìn tôi rồi trả lời:
– Ði 4 ngày trong rừng, mới ló đầu ra là gặp ngay Việt Cộng. Chạy đến chảy máu chân cũng không hay. Về tới đây mới biết mình còn sống.

Một ông cụ ngồi nhìn chén cơm mà không ăn, nước mắt rưng rưng:
– Mấy đứa con tôi thất lạc hết rồi. Không biết chúng còn sống hay đã chết. Ngày nào tôi cũng đi tìm chúng nó. Có ai thấy chỉ giùm tôi.

B-52 Mỹ ném bom sau lưng Kontum. Những người lính Thượng ngồi trong hàng rào thép gai nhìn những đám khói xám bốc lên bầu trời. Ảnh: Eye Ubiquitous / Universal Images Group qua Getty Images

Tỉnh Kontum có khoảng 50 ngàn dân, gồm 30 ngàn người ở thành phố và 20 ngàn người rải rác các quận chung quanh. Người Thượng ở trong những làng mạc xa xôi hẻo lánh. Trong khi dân Kontum di tản về Pleiku hoặc Sài Gòn, dân ở các làng, các quận lại đổ về Kontum tị nạn. Những gia đình giàu có đã đi hết rồi, bây giờ còn lại đa số là gia đình của quân nhân và công chức. Phía bên Mỹ thông báo rằng, đến ngày 1 tháng 5, họ không cấp phương tiện để di tản đồng bào nữa.

Ngày 29 tháng 4, một vị Thượng Tọa dẫn 5 ngàn tín đồ đi bộ từ Kontum về Pleiku. Ðoàn người ngày đi đêm nghỉ, cuối cùng cũng về tới Biển Hồ. Nhà cầm quyền Kontum lo lắng rất nhiều về việc di tản, nhưng không đủ phương tiện. Tướng Ngô Dzu cũng rất khổ tâm về việc này. Một ngày chỉ có 4 chiếc Chinook tiếp tế.

Sự tiếp tế nhỏ giọt nên cũng đến ngày thành phố Kontum không có điện vì thiếu dầu, một số dân trong các làng đói vì thiếu gạo. Bây giờ Kontum đã bị cô lập, cuộc sống của những người còn lại ở đây chỉ mong vào sự tiếp tế của máy bay mỗi ngày.

Thành phố Kontum chỉ mới hoang vắng, nhưng vẫn còn nguyên vẹn. Nguyên vẹn với nét đẹp của một thành phố miền Cao Nguyên. Dòng sông Dakbla vẫn lặng lờ uốn khúc quanh co, và trên bờ, màu hoa phượng vĩ vẫn rực rỡ trong khói lửa chiến tranh đang bao trùm thành phố.

Buổi sáng tôi ra phi trường để gửi bài về toà soạn thì chợt bắt gặp một tà áo xanh, màu áo xanh đồng phục của những nữ tiếp viên hàng không Air Việt Nam. Người con gái có đôi mắt to và đen, nét mặt buồn như muốn khóc. Nàng có vẻ lạc lõng giữa một rừng người đang chờ di tản ở phi trường và hình như đang tìm kiếm một người nào đó. Khi đi ngang qua chỗ Ðại úy Hoà và tôi đang đứng nói chuyện với nhau, người con gái dừng lại ấp úng hỏi vị sĩ quan:
– Thưa Ðại úy, Ðại úy có thể cho tôi biết trong số thương binh mà Ðại úy đã di tản về các bệnh viện có Thiếu úy Nguyễn… không?

Ðại úy Hoà, Quân Y, nhìn người con gái một lát rồi chậm rãi trả lời:
– Tôi làm sao nhớ hết được. Nếu cô cho tôi thêm số quân, đơn vị của người đó, tôi sẽ tìm giùm cho cô. Chừng nào cô mới có chuyến bay trở lại đây?

Người nữ tiếp viên có vẻ mừng rỡ:
– Thiếu úy Nguyễn… , thuộc Trung Ðoàn 42, tôi không nhớ số quân của anh ấy. Sau khi Tân Cảnh di tản, tôi không được tin tức gì của anh ấy nữa. Tôi tình nguyện bay đường Sài Gòn-Kontum mỗi ngày hai chuyến, sáng và chiều, để lên đây mong kiếm được tin tức của anh. Nhưng mỗi lần máy bay hạ cánh có một tiếng đồng hồ, nên tôi chỉ lẩn quẩn hỏi thăm ở trong phi trường này mà thôi.

Ðại úy Hoà hứa với người nữ tiếp viên hàng không:
– Tôi sẽ hỏi phòng hành quân giùm cô. Ðồng thời tôi sẽ dò xem danh sách của thương binh. Trưa nay, lúc máy bay của cô đáp xuống, tôi sẽ ra đây trả lời cho cô. Hiện nay, những người sống sót của Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Sư Ðoàn 22 và Bộ Chỉ Huy của Trung Ðoàn 42 đóng ở Tân Cảnh đã về đây hết, tôi cũng sẽ hỏi thăm giùm cô.

Sau khi người nữ tiếp viên trở lại máy bay về Sài Gòn, Ðại úy Hoà làm đúng lời hứa, đã đi nhiều nơi để dò thăm tin tức. Nhưng tên của người sĩ quan này không có trong danh sách những thương binh, cũng không có mặt trong số những người về từ Tân Cảnh. Vậy chỉ còn một là thất lạc trong rừng, hai là bị lọt vào tay Cộng sản, ba là đã chết mất xác.

Tôi thấy Ðại úy Hòa có vẻ ái ngại khi đến giờ phải ra phi trường gặp lại người nữ tiếp viên hồi sáng. Các phi trường Kontum và Pleiku bị pháo mỗi ngày, nhưng nàng vẫn tình nguyện bay lên đây ngày hai chuyến, với hy vọng có chút tin tức hay được gặp lại người yêu.

Buổi trưa tôi từ chối không đi cùng Ðại úy Hoà ra phi trường. Tôi sợ phải nhìn thấy những giọt nước mắt và nét tuyệt vọng trên khuôn mặt hiền lành của người con gái đó. Tôi sợ một câu trả lời từ miệng mình thốt ra là một sự thật phũ phàng dập tắt hết mọi niềm hy vọng. Tình yêu của người con gái đó quá đẹp và quá hiếm trong những ngày ly loạn như hôm nay.
KMD, 1972 - xem tiếp kỳ 14
----------
 
Chú thích Ảnh/Cầu Dakbla bắc qua sông cùng tên là lối vào trung tâm Kon Tum
 
Kiều Mỹ Duyên – Chinh Chiến Điêu Linh (kỳ 14)
Bên dòng sông Dakbla
“Đường về Pleiku phải qua đèo Chu Pao đỉnh núi 953m trông xuống sông Dak Yeul với những cao độ thẳng đứng. Chỉ còn mỗi đường này là sinh lộ, nhưng sinh lộ phải qua điểm chết: Đèo Chu Pao. Hai đại đội của Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù do Nguyễn Lô (Tiểu đoàn phó) chỉ huy mở một đường đi qua điểm chết với chấp nhận tỷ lệ thiệt hại 50% quân số. Và cũng như bao lần của mười năm chiến trận, Lô mở được cửa ngõ về Pleiku, dân và quân theo đó rút đi. Rút đi khỏi địa ngục, vì Kontum không còn là thành phố sống, người dân thất thần dáo dác giành giựt nhau kiếm một chỗ trực thăng ở sân vận động… Giữa bụi mù và tiếng nổ đại pháo, cảnh người sống cuồng loạn đổ xô vào lòng trực thăng bất chấp tiếng súng thị oai của quân cảnh. Họ chen nhau như nước tràn qua đê vỡ để đến gần, đến gần hơn chút nữa ngưỡng cửa trực thăng, và lúc tay vừa chạm được khối sắt xám phủ bụi đỏ, chân cong lên sắp bước vào lòng của “hy vọng sự sống” thì một cơn sóng khác, đạp họ ngã xuống, kéo hút ra xa…

Kontum cháy ngọn lửa hồng lên cao hẳn khỏi rừng xanh. Chỉ còn mỗi hình ảnh bình yên nơi thành phố đang bùng lửa này là hàng phượng đỏ hoa gần câu lạc bộ ngã cành xuống mặt nước sông Dakbla mờ sương khói. Nhưng phượng cũng có màu đỏ – Màu của máu.” (Phan Nhật Nam, Mùa Hè Đỏ Lửa)

Buổi chiều đầu tiên ở Kontum, tôi đến bên bờ sông Dakbla thăm một đoàn người vừa mới về từ quận Dakto đang tạm dừng chân tại đây. Sau khi căn cứ Tân Cảnh bị Cộng quân tràn ngập, Dakto được lệnh di tản chiến thuật. Trung tá Lò Văn Bảo, Quận Trưởng Dakto, gọi máy về tiểu khu nói ông sẽ tử chiến chứ không chịu lùi bước. Nhưng dù sao lệnh vẫn là lệnh. Trung tá Bảo và Bộ Tham Mưu của ông là những người di tản sau cùng vì còn phải phá hủy những thứ gì không thể để lọt vào tay địch.

Rút ra khỏi quận Dakto, Trung tá Bảo chỉ huy một đoàn khoảng 500 người gồm có sĩ quan, binh sĩ, gia đình binh sĩ và thường dân. Một đoàn nhắm vào rừng mở đường máu mà về Kontum. Ðoàn người vượt rừng, vượt suối, vừa dìu dắt nhau vừa chống cự với địch quân đang truy đuổi. Họ đi suốt 4 ngày và 3 đêm liên tiếp trong rừng với bao nhiêu hiểm nguy chờ chực.
Khi tôi đến, Trung tá Bảo đang họp Bộ Tham Mưu của ông dưới những gốc phượng bên dòng sông Dakbla. Trung úy Nhiên, một bên tai bị băng vì trúng miểng B40, kể với tôi:
– Ngay ngày đầu, cố vấn Mỹ cho máy bay đến bốc Trung tá Bảo, nhưng ông nhất định không bỏ anh em. Ngày hôm sau cố vấn Mỹ lại cho thêm trực thăng đến bốc hết cả Bộ Tham Mưu, nhưng Trung tá Bảo nhất định không bỏ đồng bào lại.

Trung tá Lò Văn Bảo gốc người Thái ở Bắc Việt, xuất thân từ khóa 8 Võ Bị Ðà Lạt. Dáng người cao lớn và đôi mắt rất sắc, biểu lộ một ý chí mãnh liệt. Khi đoàn người di tản vào rừng, chiến xa của Cộng quân rượt theo truy kích, nhưng không vượt qua một con suối sâu được nên phải dừng lại. Trung tá Bảo di tản khỏi căn cứ mà dẫn theo được một đoàn 500 người gồm cả đàn bà con nít và bảo vệ cho họ được an toàn quả là một điều đáng khâm phục. Các phóng viên chiến trường có mặt tại Kontum, khi đánh tin điện về, đều gọi Trung tá Bảo là người hùng của Dakto.

Trung úy Nhiên kể tiếp:
– Ban đêm, con nít bị vắt cắn khóc quá, thành ra chúng tôi bị lộ mục tiêu, nên lại bị Cộng quân đuổi theo sát. Có một đoạn, chúng tôi chạy xuyên qua mật khu của địch, may mà không bị phát giác. Tối đến, đoàn người phải dừng chân cho đàn bà, trẻ con nghỉ lấy sức. Sĩ quan và binh sĩ rải ra thành một vòng tròn chung quanh dân để bảo vệ cho họ. Dừng lại ở đâu là phải đào hố ngay tại đó. Nếu không đào hố để nấp đạn thì chắc chết khá nhiều. Cũng may gặp rừng rậm, cây chằng chịt, nên ngăn cản đạn cho chúng tôi được phần nào.

Một ông Trung úy khác tiếp lời:
– Chúng tôi liên lạc với Tiểu Khu, và mỗi lần nghe tiếng máy bay trên trời là mắt người nào cũng sáng lên một niềm hy vọng. Nhưng rồi máy bay chưa đủ để bốc chúng tôi. Ban đêm, có một lần, nằm ngủ ngay trên dây điện thoại của địch thả trong rừng, nhưng vẫn để nguyên, vì sợ cắt ngay thì lộ mục tiêu. Sáng hôm sau khi tiếp tục lên đường mới cắt dây.

Ngày đầu, chúng tôi thiếu nước, phải nhịn khát một ngày, không dám ra suối vì sợ Việt Cộng đợi sẵn. May quá, chiều hôm đó trời mưa, chúng tôi hứng nước mưa từ các lá cây mà uống. Tuy có nước uống, nhưng lại bị ướt mèm. Chỉ tội cho đàn bà và trẻ con. Trẻ con chịu lạnh không được khóc cả buổi.

Ði xuyên rừng như vậy cho đến ngày thứ tư thì đàn bà và trẻ con bắt đầu kiệt lực. Trong giây phút tuyệt vọng đó thì chúng tôi bỗng nghe tiếng máy bay. Từ dưới đất nhìn xuyên qua những tàn cây trên cao, chúng tôi hơi thất vọng vì thấy chỉ có một chiếc máy bay thôi. Nhưng liền sau đó, những chiếc khác nối đuôi nhau bay đến. Chiếc bay dẫn đầu định đáp xuống liền bị Cộng quân bắn cháy. May mà phi hành đoàn xuống đất được an toàn. Trung úy Nhiên chạy ra dẫn phi hành đoàn vào rừng, anh bị trúng miểng của một trái B40 ở bên tai. Phi hành đoàn gồm 4 người Mỹ, tất cả đều bị thương, nhưng không nặng lắm. Những chiếc còn lại thấy tình hình không thể đáp xuống được bèn nghiêng mình bay trở về. Làn mưa đạn của Cộng quân còn bắn theo dữ dội. Chúng tôi lại mong ngóng từng giây, từng phút.

Trung tá Ðổ có mặt tại đó, bây giờ mới góp chuyện:
– Từ lúc bắt được vô tuyến, biết được các cậu bị vây khổn trong rừng, tôi tự hứa bất cứ giá nào cũng phải bốc cho được các cậu về an toàn. Mỗi lần đi họp mà nghe chưa có đủ máy bay để tiếp cứu là tôi thất vọng. Suốt mấy ngày mấy đêm tôi không ăn, không ngủ với các cậu.

Trung tá Ðổ đã suýt chết một lần vì lo cứu đoàn người này. Ngày nào ông cũng bay trên trời để liên lạc và trấn an anh em bên dưới. Một hôm máy bay trúng đạn rớt gần khu vực của Việt Cộng, dưới làn mưa đạn của địch, Trung tá Ðổ và phi hành đoàn chạy thoát được vào một đồn của Nghĩa Quân gần đó.

Ngày sau, được yểm trợ đầy đủ, 19 chiếc trực thăng đáp xuống một bãi trống gần nơi đoàn người đang chờ đợi. Ðàn bà, trẻ con được bốc đi trước. Trung Tá Bảo là người về sau cùng. Về Kontum, ông và các sĩ quan cùng binh sĩ của ông tạm đóng quân bên bờ sông Dakbla.

Sáng hôm sau tôi lại gặp Trung tá Bảo ở các trại tạm cư, ông đi thăm đồng bào ở Dakto chạy về. Một sĩ quan đi với Trung tá Bảo nói với tôi:
– Bây giờ chúng tôi không có cách gì liên lạc được với gia đình, nhờ cô viết giùm lên báo là tất cả sĩ quan của Chi Khu Dakto đã về tới Kontum đầy đủ và đang tiếp tục chiến đấu. Như vậy gia đình của chúng tôi được yên lòng.

Tôi hứa sẽ làm điều đó. Hy vọng gia đình các anh sẽ đọc được những dòng này trên nhật báo Hoà Bình trong những số tới. Ðến hôm nay, không còn phương cách nào để liên lạc giữa Kontum và Pleiku, ngoại trừ đường dây điện thoại quân sự, đường dây duy nhất phải để ưu tiên cho việc hành quân.

Buổi chiều tôi ra bãi đáp trực thăng để về Pleiku. Chưa kịp lên máy bay thì bị một trận pháo như mưa. Quân nhân vào hầm sẵn sàng chiến đấu. Những người đang chờ máy bay ngồi đông nghẹt cả phi trường chạy tán loạn như một đàn ong vỡ tổ. Có người chạy bỏ quên cả con dại đang nằm bên mấy xách hành lý. Có người trúng đạn đổ ruột vẫn còn cố lết trên mặt đất.

Một quả pháo trúng ngay ngôi nhà thờ mà đêm qua tôi xin các sơ tạm trú. Một quả khác trúng ngay cô nhi viện, nơi mới chiều hôm qua, cũng vào giờ này, tôi đến thăm đồng bào tị nạn ở đó. Bởi vậy, tôi nghĩ mọi người đều có số. Tôi nhớ một người lính đã nói: ‘Nếu viên đạn đã khắc tên tôi, viên đạn sẽ tìm đến tôi. Thời gian gần đây, tôi thường xuyên có mặt từ chiến trường này qua chiến trường khác, biết bao lần thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, cho nên tôi vẫn có niềm tin như vậy.
 
CÒN TIẾP/Kỳ15
KMD, 1972

------------------------- 


Kiều Mỹ Duyên – Chinh Chiến Điêu Linh (kỳ 15)

Polei Kleng
“Đến tiễn đưa tượng đài về an vị ở San Jose, nhiều thế hệ, người sinh ra ở Việt Nam, người sinh ra ở Mỹ, mặt người nào cũng vui. Sự hy sinh của các chiến sĩ được ngưỡng mộ, được nhắc nhở. Vong linh các anh chiến sĩ Công Binh Chiến Đấu, Thiết Giáp, Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến v.v. linh thiêng xin về đây chứng giám lòng thành của người Việt Nam tị nạn Cộng Sản ở hải ngoại hay ở trong nước vẫn còn nhớ đến các anh. Xin các anh phù hộ cho chúng tôi có một ngày trở về quê hương khi Việt Nam thật sự có Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền và Tự Do Tôn Giáo.” (Kiều Mỹ Duyên)

Polei Kleng là tên của một ngọn đồi lớn nằm về phía Tây Bắc của thành phố Kontum khoảng 22 cây số. Chung quanh Polei Kleng có những đồi thông nhỏ khác nằm rải rác, tạo nên một khung cảnh thật thơ mộng. Trên đồi Polei Kleng, có căn cứ hỏa lực do quân đội Mỹ thiết lập rất kiên cố. Doanh trại của căn cứ xây theo hình tam giác, hệ thống giao thông hào chìm, nổi và 13 lô cốt bao chung quanh trại, từ trên máy bay nhìn xuống rất đẹp. Căn cứ này cũng mang tên là Polei Kleng, và tên Việt là Lệ Khánh.

Sau khi quân đội Hoa Kỳ rút về nước, căn cứ này giao lại cho Việt Nam và hiện do Tiểu đoàn 62 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng trấn giữ. Phía Tây Bắc của Lệ Khánh có một làng Thượng với chừng 100 nóc nhà, và hầu hết những đàn ông Thượng trong làng này đều là lính của Tiểu đoàn 62 Biệt Ðộng Quân. Có thể nói hết hai phần ba quân số của tiểu đoàn là người Thượng. Ðại đội 1 là đại đội nòng cốt của tiểu đoàn do Thiếu Úy Kchong làm Ðại Ðội Trưởng. Thiếu Úy Kchong từ lực lượng Dân Sự Chiến Ðấu do Hoa Kỳ thành lập và huấn luyện, sau chuyển qua Tiểu Ðoàn 62 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng. Kchong mới 22 tuổi, anh là một sĩ quan can trường và hành quân rất giỏi.

Chỉ huy Tiểu Ðoàn 62 là Ðại Úy Bửu Chuyển, dáng người cao lớn, nước da trắng hồng. Một lần Tướng Lam Sơn đến thăm trại, gọi ông theo kiểu Huế: ‘Mệ Chuyển’. Tiểu Ðoàn Phó là Trung Úy Phan Thái Bình, dáng người dong dỏng cao, rắn rỏi, đôi mắt linh động, và các sĩ quan khác của tiểu đoàn như Thiếu Úy Lê Văn Anh, Thiếu Úy Nguyễn Văn Tám… đều là những sĩ quan trẻ rất kiên cường.

Lệ Khánh được tổ chức như một làng nhỏ, có bệnh xá khám bệnh cho các gia đình Thượng ở chung quanh trại. Có trường học, thầy giáo là người Thượng. Có trại gia binh, không phải nhà, mà là những căn hầm như những công sự phòng thủ, nhưng rộng rãi cho vợ con của một số quân nhân Thượng. Trại cũng có những vườn rau xanh, có câu lạc bộ nằm trên đồi rất thơ mộng, người trong trại gọi là câu lạc bộ Mây Trên Ðồi.
Trong những ngày làm phóng sự chiến trường ở Cao Nguyên, hôm qua tôi xin tháp tùng theo một chuyến bay nào đó để nhảy xuống Lệ Khánh nhưng bị từ chối. Lý do từ chối là vì sau khi bị đẩy lui trong một cuộc tấn công đẫm máu vào Lệ Khánh, Cộng quân nhất định muốn san bằng căn cứ này, nên mỗi ngày tiếp tục pháo vào từ 3 đến 4 ngàn quả đạn đủ loại. Bởi vậy, trực thăng khó có thể đáp xuống được.

Tôi xin thẳng với Trung Tướng Ngô Dzu, đương kim Tư Lệnh Quân Ðoàn II, nhưng ông cũng từ chối và hứa đợi đến lúc nào tình hình khả quan hơn. Tôi cám ơn hảo ý của ông và trong lòng tự hứa, không đến được hôm nay, thì cũng sẽ đến một ngày nào đó để gặp và viết về những người chiến sĩ đã đánh những trận đánh để đời trong Quân Sử Việt Nam Cộng Hòa.

Cộng quân đã pháo vào trại Lệ Khánh suốt tuần nay với hàng ngàn đạn 82 ly và hỏa tiễn 122 ly. Vào lúc 20 giờ 15 phút ngày 7 tháng 5, sau một đợt pháo dữ dội hơn những ngày vừa qua và kéo dài đến nửa đêm, liền sau đó Cộng quân đã ào ạt xung phong vào ba mặt: Ðông, Ðông Bắc và Ðông Nam.

Ngay lúc trận chiến khởi đầu, Ðại Tá Nguyễn Văn Ðương, Chỉ Huy Trưởng Biệt Ðộng Quân của Quân Khu II bay trực thăng vòng vòng trên trời, vừa để quan sát trận đánh vừa để khích lệ tinh thần binh sĩ. Sau khi liên lạc với Tướng Ngô Dzu, Ðại Tá Ðương gọi máy cho Ðại Úy Bửu Chuyển, Chỉ Huy Trưởng trại Lệ Khánh, đang chỉ huy trận đánh bên dưới:
– Tất cả Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn đang theo dõi sự chiến đấu của anh em. Kể từ giờ phút này, anh đã được Quân Ðoàn thăng cấp Thiếu Tá.

Suốt đêm đó, Tướng Dzu, Ðại Tá Lê Quang Bình, Tham Mưu Trưởng Quân Ðoàn II và ông John Paul Vann, Cố Vấn Trưởng Quân Ðoàn II bay trực thăng trên căn cứ để quan sát những diễn biến của trận đánh.

Từ nửa đêm cho đến 6 giờ sáng, Cộng quân xung phong trên 10 lần, quyết tâm tràn ngập căn cứ này, nhưng cuối cùng phải rút lui, bỏ lại hơn 300 xác rải rác trên khắp các hàng rào phòng thủ. Ðến 7 giờ sáng, Cộng quân dội tiếp vào một trận mưa pháo kéo dài hơn một tiếng đồng hồ để mở đầu cho đợt xung phong lần thứ hai. Lần này có 20 chiến xa T54 dẫn đầu tràn vào các công sự phòng thủ của những chiến sĩ Biệt Ðộng Quân Biên Phòng đang anh dũng chống trả từ lúc nửa đêm đến giờ chưa một giây ngừng nghỉ.
Một toán 5 chiếc T54 tiến vào từ hướng Tây Bắc đã lọt vào bãi mìn chống chiến xa. Cuối cùng, đợt tấn công thứ hai này, Cộng quân cũng bị thiệt hại nặng nề nên phải rút lui. Và theo những tài liệu tịch thu được tại chiến trường, Cộng quân đã chọn Lệ Khánh để đánh chiếm làm quà kỷ niệm cho ngày chiến thắng Ðiện Biên Phủ. Bởi vậy một tuần trước đây, địch quân đã gia tăng áp lực chung quanh căn cứ này một cách rõ rệt.

Buổi chiều cùng ngày, lúc 18 giờ 20 phút, Trung Tướng Ngô Dzu bay trực thăng trên trại Lệ Khánh để ‘gắn lon’ cho Ðại Úy Bửu Chuyển, Chỉ Huy Trưởng trại Lệ Khánh. Cặp lon Thiếu Tá mới toanh và hai chai rượu champagne được thả từ phi cơ xuống. Trung Úy Phan Thái Bình, Tiểu Ðoàn Phó cùng 20 chiến sĩ Biệt Ðộng Quân Biên Phòng khác cũng được thăng cấp và tưởng thưởng tại mặt trận.

Tôi nghĩ rằng trong lịch sử chiến tranh của nhiều quốc gia, chắc chưa bao giờ có một cảnh ‘gắn lon’ độc đáo như vậy. Hai bông mai bạc từ trên trời rơi xuống, xuyên qua làn mưa pháo của địch quân, nở trên vai áo của người hùng biên trấn Tây Nguyên.

Ông John Paul Vann là cố vấn quân sự Hoa Kỳ của Quân Ðoàn II. Ông mang cấp bậc Ðại Tá, nhưng vì giữ chức vụ cố vấn bên cạnh Tư Lệnh Quân Ðoàn, nên Bộ Quốc Phòng Mỹ cho ông giải ngũ để khỏi trở ngại về vấn đề cấp bậc. Ông Vann là một cố vấn quân sự có một vị thế và cuộc sống riêng tư rất đặc biệt. Người ta đồn rằng ông là bạn thân của Tổng Thống Nixon, có uy tín ngang hàng với Kissinger, cho nên ông là cố vấn quân sự có nhiều quyền hạn đặc biệt trong những quyết định về sự yểm trợ của quân đội Hoa Kỳ.

Nhưng miền Nam Việt Nam và cả Hoa Kỳ nói nhiều đến ông, không phải vì chức vụ cố vấn, mà vì đời sống tình cảm riêng tư của ông nhiều hơn. Trong thời gian ở Cao Nguyên này, một người con gái má đỏ, môi hồng đã thay đổi cuộc đời của ông. Sóng gió của mối tình muộn và đầy ngang trái này đã âm hưởng mạnh mẽ tận Hoa Thịnh Ðốn, vì ông là nhân vật quyền thế đương thời.

Và một ngày, giữa lúc Cao Nguyên khói lửa ngút trời, ông Vann đã nói lên tâm sự của mình, sự thổ lộ cũng xem như là một chọn lựa:
– Sau khi tình hình của Cao Nguyên sáng sủa, tôi sẽ làm đám cưới với nàng. Tôi sẽ ở lại đây với nàng cho hết cuộc đời và Việt Nam sẽ là quê hương thứ hai của tôi.

Bởi vậy, bạn bè của ông thường nói rằng, ông đang phục vụ một cách hăng say cho quê hương Việt Nam của ông, chứ không phải đang làm cố vấn cho một quốc gia bạn. Tôi gặp ông John Paul Vann trong một buổi sáng tại Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II khi đến đây cùng với một ký giả người Anh của tờ Sunday Times để xin phương tiện ra chiến trường.

Ông Vann khoảng chừng 50 tuổi, dáng người cao lớn, ông không nói tiếng Việt nhưng hình như hiểu tiếng Việt, bởi vì khi nghe một sĩ quan của Phòng Báo Chí nói với tôi sáng nay không còn chiếc trực thăng nào cho báo chí, ông Vann đã vui vẻ hỏi tôi có muốn dùng chiếc trực thăng của ông không. Ông vẫn được tiếng là người rất niềm nở với giới ký giả. Tôi đã có lần nhìn thấy chiếc trực thăng riêng của ông Vann trên bãi đáp, chiếc trực thăng này sơn màu trắng, mũi nhọn, thân dài, có hình dạng khác hẳn với những chiếc trực thăng của quân đội thường dùng. Chưa quen biết nhiều, nên tôi không muốn nhận sự giúp đỡ của ông, cũng một phần tôi nghĩ rằng, một chiếc máy bay đặc biệt như vậy, chắc súng và hỏa tiễn phòng không của địch thích nhắm vào để lập chiến công.

Sau này, một lần về Sài Gòn, ông có đến toà soạn báo Hòa Bình thăm tôi, nhưng lúc đó tôi đang về làm phóng sự Ở miền Tây. Ông Vann trước là cố vấn quân sự của Vùng IV, nên ông gọi điện thoại về Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn IV để nhờ những người quen tìm đến gặp và chuyển lời thăm tôi. Một thời gian sau, tôi nghe tin ông tử nạn vì máy bay bị bắn trong lúc bay thị sát mặt trận ở Cao Nguyên.

Trại Lệ Khánh vẫn anh dũng chống trả trước bao nhiêu đợt tấn công của địch quân ròng rã gần một tháng trời. Lần lượt Charlie, Tân Cảnh rồi Dakto thất thủ. Muốn tiến vào Kontum, địch quân phải san bằng Lệ Khánh. Khi mở đầu cuộc tổng công kích vào toàn vùng Cao Nguyên, giai đoạn đầu tiên là một chiến dịch mà Cộng quân đặt tên có tính cách kích động tâm lý là chiến dịch ‘Poko Dậy Sóng’. Poko là một dòng sông nằm phía Tây Quốc Lộ 14, cách Lệ Khánh khoảng 7 cây số và cách Kontum chừng 20 cây số. ‘Poko Dậy Sóng’ là chiến dịch đánh chiếm một loạt các căn cứ trong vùng Tam Biên, mà Lệ Khánh là điểm cuối cùng.
Một buổi sáng, khi nắng ban mai chưa đủ ấm để làm tan hết sương mù của miền rừng núi, trại Lệ Khánh lại một lần nữa rung chuyển vừa bởi đạn pháo, vừa bởi tiếng động cơ của một đoàn chiến xa T54 của địch quân. Pháo phủ đầu rồi khinh binh của địch theo chiến xa tiến vào như thác lũ. Ðịch quân dùng cả những đại pháo của ta mà chúng lấy được ở Dakto như đại bác 105 ly, 155 ly để bắn vào Lệ Khánh.

Thiếu Tá Bửu Chuyển và tất cả chiến sĩ của Tiểu Ðoàn 62 Biệt Ðộng Quân không hề nao núng. Ðã đội lên đầu chiếc Mũ Nâu, mặc bộ đồ trận màu hoa rừng là đã sẵn sàng chờ đợi những giây phút như ngày hôm nay. Và tiểu đoàn đã anh dũng chiến đấu, chiến đấu cho đến giây phút mà người chiến sĩ còn có thể chiến đấu.
Những ngày mở đầu, địch chỉ pháo từ 500 đến 1,000 quả 82 ly và 105 ly. Những ngày về sau, cường độ pháo kích tăng lên đến mức khủng khiếp, từ 10 ngàn đến 15 ngàn quả. Ðại Tá Nguyễn Văn Ðương, Chỉ Huy Trưởng Biệt Ðộng Quân của Quân Khu II, Ðại Tá Nguyễn Bá Thìn, Tỉnh Trưởng Kontum và Tướng Lý Tòng Bá, Tư Lệnh Sư Ðoàn 22 Bộ Binh đã thường xuyên bay trên Lệ Khánh, cố gắng đáp xuống nhưng không thể nào thực hiện được. Nhất là Ðại Tá Ðương, ông lo lắng cho các binh sĩ của mình đang ngày đêm chịu từng đợt tấn công nặng nề của địch.

Ngày thứ 20, tính từ ngày đẩy lui địch quân đợt đầu, pháo của địch dội vào tới mức không thể đếm được nữa. Kho đạn đã bị cháy. Trung Tâm Hành Quân bị đạn 155 ly phá sập. Ðạn dược, lương thực và nước chỉ dự trữ đủ dùng trong 3 tháng. Lệ Khánh hoàn toàn bị cô lập. Không tiếp tế, không tải thương được. Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn hỏi trên máy:
– Các anh còn chịu được không?
Thiếu Tá Chuyển trả lời:
– Chúng tôi vẫn chiến đấu.

Một tuần sau, toán cố vấn quân sự liên lạc về Kontum. Một cuộc oanh kích dữ dội do máy bay của Không Quân Mỹ đảm trách để dọn một bãi đáp khẩn cấp ngay trong trại. Hai chiếc trực thăng loại nhỏ, từ bên ngoài luồn vào Lệ Khánh với một độ bay thật thấp để tránh pháo, và không một lời giã từ, toán cố vấn vội vã lên trực thăng ra khỏi trại.

Tiểu Ðoàn 62 Biệt Ðộng Quân vẫn tiếp tục chiến đấu. Những người bị thương nặng thì nằm ở bệnh xá. Những người bị thương nhẹ được băng bó rồi tiếp tục cầm súng trở lại phòng tuyến của mình. Vợ con của các binh sĩ cũng được phát súng, phụ giúp quan sát, canh phòng, tải đạn, tải thương…

Có thể nói gần một tháng trời, Lệ Khánh không có ban đêm. Mỗi ngày khi mặt trời khuất bóng, những trái hỏa châu được máy bay thả xuống liên tục soi sáng cả một vùng chung quanh trại. Tướng Lý Tòng Bá đưa một tiểu đoàn Pháo Binh nằm tại hướng Ðông Lệ Khánh, bên kia sông Poko, để yểm trợ cho căn cứ này.
Pháo yểm trợ bắn trùm chỉ cách quân trú phòng có 20 thước. Xác của địch quân rải đầy chung quanh hàng rào phòng thủ đã hơn 20 ngày nay. Thây người chết sình thối và mùi thuốc súng pha trộn với nhau làm cho Lệ Khánh đầy đặc cả tử khí.

Từ ngày thứ 20 về sau, Quân Ðoàn II cho lệnh Lệ Khánh được xử trí tùy theo tình hình. Liên lạc truyền tin khó khăn vì ăng-ten dù không căng lên được. Các cao điểm chung quanh Lệ Khánh đã bị chiếm và đặt súng lớn. Ăng-ten dù căng lên là bị pháo trúng ngay.
Ngày thứ 25, Thiếu Tá Bửu Chuyển và Ðại Úy Phan Thái Bình bàn thảo với nhau. Cuối cùng Thiếu Tá Chuyển quyết định rút. Ðại Úy Bình đồng ý nhưng cảnh giác:
– Ra là đụng nặng lắm.
Trong suốt thời gian này, Ðại Úy Bình đã nhận xét kỹ và thấy rằng, trong 13 lô cốt chung quanh trại, chỉ có lô cốt số 13 là khu vực tương đối ít bị pháo nhất. Bởi vậy anh đề nghị, nếu có ra, nên ra hướng này.
Một hạ sĩ quan thủ kho đạn dược được lệnh kiểm xem còn có bao nhiêu đoạn Bangalo. Còn đúng 13 đoạn. Tất cả tiểu đoàn được lệnh chuẩn bị sẵn sàng, kể cả gia đình binh sĩ. Hành trang gọn và nhẹ, chủ yếu là súng đạn. Tất cả những tài liệu cần thiết đều được hủy.

Ðúng 4 giờ sáng, 13 đoạn Bangalo nối thành một ống dài xuyên qua những lớp hàng rào kẽm gai chằng chịt ở hướng lô cốt số 13. Ðịch vẫn pháo như mưa vào trại.

Thiếu Tá Chuyển ra lệnh. Tiếng nổ của Bangalo chìm mất trong tiếng pháo ầm ầm của địch. Một ánh lửa xanh biếc chói mắt bừng lên, cả chục lớp hàng rào kẽm gai đã bị Bangalo xé ra một đường dài.

Thiếu Úy Kchong, Ðại Ðội Trưởng Ðại Ðội I được lệnh dẫn đại đội mở đường máu tiến ra trước. Thiếu Tá Chuyển cùng Bộ Chỉ Huy theo sau, tiến về hướng Ðông. Ðại Úy Bình dẫn một cánh với gia đình binh sĩ vừa tiến ra là đánh chiếm ngay một ngọn đồi nhỏ gần đó, phá được ổ đại liên của địch để yểm trợ cho cánh của Thiếu Tá Chuyển. Sau đó, hai bên tách ra, cánh của Ðại Úy Bình đi về hướng Bắc.

L19 vẫn bay quan sát trên cao. Người phi công gọi:
– Nam Bình, anh ở đâu trả lời.
Ðại Úy Bình:
– Tôi vừa ra khỏi trại.
Máy bay L19:
– Tăng địch đã vào trại, đông như kiến.
Ðại Úy Bình hét lên:
– Cho bom dập xuống.
Máy bay L19:
– Nhận rõ. Chờ xem.

Từng chiếc phản lực theo nhau bay đến. Lượn trên cao vì phòng không của địch như đan lưới. Những cánh chim bằng của Không Ðoàn Biên Trấn đã từng vào sanh ra tử nên biết bao kinh nghiệm. Những chiếc phản lực nối đuôi nhau chúi xuống. Những tiếng nổ rung chuyển cả một vùng đồi núi. Lệ Khánh chìm trong biển lửa.

Ðại Úy Bình gọi L19 nhờ dẫn đường. Không nghe trả lời, nhìn lên, thấy máy bay đã trúng đạn đang bốc cháy. Một cánh dù bung ra. Cầu cho anh đừng rơi vào tay địch. Ngày hôm sau, khoảng 4 giờ chiều, cánh của Thiếu Tá Chuyển và cánh của Ðại Úy Bình gặp nhau. Họ mới rời Lệ Khánh được chừng 5 cây số. Ðịch bám theo sát, vừa đi vừa đánh. Ðàn bà và trẻ con di chuyển rất chậm. Trẻ con khóc la nên bị địch theo hoài. Còn chừng hai cây số nữa mới đến sông Poko. Thiếu Tá Chuyển ra lệnh đi tiếp và nói với Ðại Úy Bình:
– Anh vẫn theo hướng Bắc và giữ mặt Bắc cho tôi.
Hai cánh chia tay. Vừa đi chừng 500 thước thì Ðại Úy Bình nghe bên cánh của Thiếu Tá Chuyển có tiếng súng nổ rền. Ðại Úy Bình chụp máy hỏi:
– Anh đụng nặng không?
Thiếu Tá Chuyển:
– Tôi bị tụi nó vây rồi.
Ðại Úy Bình:
– Cần tôi tiếp không?
Thiếu Tá Chuyển:
– Không. Dẫn anh em đi đi.

Sau đó Ðại Úy Bình không còn liên lạc được với Thiếu Tá Chuyển nữa. Và bây giờ cánh của anh bị chận đánh. Hình như ở đâu cũng có địch. Anh dàn quân, vừa đánh vừa di chuyển. Ra tới bờ sông Poko, gặp lúc mùa khô, nước cạn ngang ngực. Cả đoàn người cố băng qua sông. Ðại Úy Bình cùng với một toán còn đứng lại trên bờ đánh cản hậu. Một người đàn bà Thượng đai đứa con trước ngực trúng đạn nằm chết bên bờ sông, đứa bé vẫn còn ngậm vú mẹ mà bú sữa. Cái hình ảnh đó làm cho người chiến sĩ kiên cường như Ðại Úy Phan Thái Bình cũng thấy tim mình se lại. Anh ra lệnh cho một người lính Thượng ẵm đứa bé đưa qua sông, tìm cách gửi vào một làng Thượng gần đó. Ðịch đuổi tới, dàn súng cối 61 ly trên bờ bắn như mưa xuống đoàn người đang vượt qua Sông Poko không dậy sóng, mà nước sông Poko chỉ nhuộm đỏ bởi máu của đàn bà và trẻ con vô tội.

Bờ bên kia có căn cứ của Liên Ðội 385 Ðịa Phương Quân. Ðơn vị này yểm trợ cho đoàn người qua sông. Khi ra đi, cánh của Ðại Úy Bình gồm có 360 người. Qua khỏi sông Poko, chỉ còn 97 người. Phần thất lạc, phần chết, phần bị địch bắt. Ðại Tá Ðương, Ðại Tá Thìn và Tướng Bá đã đợi sẵn. Ðại Tá Ðương ôm chầm Ðại Úy Bình an ủi và ngạc nhiên khi thấy anh vẫn mang lon Trung Úy. Ðại Úy Bình giải thích:
– Cặp lon rơi giữa hàng rào nên không ra lấy được.
Ðại Tá Thìn đích thân mở một lon nước ngọt cho Ðại Úy Bình, và mọi người vào Trung Tâm Hành Quân nghe Ðại Úy Bình thuyết trình diễn tiến trận đánh Lệ Khánh, cùng chỉ rõ những đường nào mà chiến xa của địch có thể tiến vào Kontum. Sau đó Ðại Tá Ðương gắn lon cho Ðại Úy Bình và ra lệnh cho xe đưa 97 người về Kontum, nhưng Ðại Úy Bình thỉnh cầu:
– Tôi và các anh em xin ở lại đây thêm vài hôm nữa để chờ đón những người thất lạc. Tôi tin tưởng thế nào cũng có người trở về được.

Những ngày kế đó, bên bờ sông Poko, từ sáng khi trời còn mờ sương cho đến tối khi sương mù lại xuống dày đặc, một người đứng bên này nhìn qua bờ bên kia để mong ngóng, mặc cho pháo của địch từ bên kia bắn qua. Ðại Úy Phan Thái Bình vẫn kiên nhẫn đứng chờ trong sương lạnh. Ðã ba ngày qua, nhưng anh tin rằng thế nào cũng đón được anh em. Khi bóng đêm buông xuống, Ðại Úy Bình nghe có tiếng nước khua động, có người đang lội qua sông. Một, hai, rồi ba, rồi bốn… Ðại Úy Bình nép mình sau gốc cây, chờ cho mấy bóng người vừa lên bờ, hỏi nhỏ:
– Biệt Ðộng Quân?
Mấy cây súng châu lại định bắn, nhưng tiếng nói quen quá, một người hỏi lại:
– Ðại Úy hả?
Ðại Úy Bình bước ra. Hai bên chạy ào đến ôm nhau. Một người với giọng còn xúc động:
– Em tưởng Ðại Úy chết rồi. Núp trong rừng, nghe tụi nó đi ngang nói chuyện với nhau: ‘Ðã giết được tiểu đoàn trưởng và tiểu đoàn phó ác ôn rồi’.
Người này là hạ sĩ quan Truyền Tin của Thiếu Tá Bửu Chuyển, anh kể:
– Thiếu Tá bị thương. Chúng bắt dẫn đi, ông không chịu đi, bị chúng bắn chết tại chỗ.

Khi địch lục ba lô trên xác một người lính, thấy bộ đồ trận có gắn lon và bảng tên của Ðại Úy Bình và khuôn dấu của tiểu đoàn, nên tưởng tiểu đoàn phó cũng đã tử thương.

Gọi báo tin cho Ðại Tá Ðương ở Kontum, Ðại Úy Bình nghẹn ngào:
– Bửu Chuyển chết rồi.
Ðại Tá Ðương sững sờ, ông hy vọng Bửu Chuyển sẽ về. Nhưng bây giờ ông biết, ông đã mất đi một sĩ quan ưu tú, gan lì nhất trong binh chủng.

Tháng 4 năm 1975, Ðại Tá Nguyễn Văn Ðương chung số phận với những đồng đội của mình. Sau 13 năm tù cải tạo, ông cùng gia đình đến Hoa Kỳ ngày 26 tháng 5 năm 1992 trong đợt HO10, hai tuần trước ngày tác phẩm ‘Ðại Úy’ đưa đến nhà in. ‘Ðại Úy’ là cuốn hồi ký dày gần 300 trang của Trung Tá hồi hưu James E. Behnke, viết về cuộc chiến đấu anh dũng của Tiểu Ðoàn 33 Biệt Ðộng Quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, mà hồi đó, Ðại Úy Nguyễn Văn Ðương là Tiểu Ðoàn Trưởng và Ðại Úy James E. Behnke là cố vấn của tiểu đoàn. Cho đến năm 1992, hai người bạn cũ mới gặp lại nhau, hai người vẫn gọi nhau một cách thân mật là Ðại Úy như ngày nào còn bên nhau, cùng vào sinh ra tử.
CÒN TIẾP /Kỳ 16
KMD, 1972
 
-------------------------
 
Kiều Mỹ Duyên – Chinh Chiến Điêu Linh (kỳ 16)

Trên đỉnh Chu Pao
Chư Pao ai oán hờn trong gió
Một tấc khăn tang ,một tấc đường

“Tôi mơ ước có một ngày tôi trở về nhà, sống trong khu vườn rộng mênh mông của cha mẹ để lại với các cháu của tôi còn đang ở Việt Nam. Nếu có một ngày hoa nở rực trời, người người đều yêu thương nhau, giúp đỡ lẫn nhau, một ngày nắng ấm, một ngày không có thù hằn, một ngày chỉ có tiếng cười giòn tan, một ngày với tiếng chim hót líu lo trong rừng cây xanh mướt, một ngày không lo âu, gạo đầy lu, nhà nhà đều hưởng thái bình… Mộng và thực không cùng với nhau. Thôi thì cứ mơ ước cho cuộc đời thăng hoa.” Kiều Mỹ Duyên

Cao Nguyên là một phần đất thật đẹp của quê hương. Nếu không phải vì tình trạng chiến tranh, Cao Nguyên quả là một nơi tuyệt vời cho những người muốn sống gần với thiên nhiên. Kontum được xem như là một thị trấn tiêu biểu của vùng này. Kontum có những ngôi nhà xưa, xây từ lúc người Pháp mới đến đây khai phá, có những đồn điền cà phê xanh mướt, có dòng sông Dakbla nước chảy lững lờ, có những con đường phố với hai hàng phượng vĩ, mùa Hè hoa đỏ rực một màu, có những quán cà phê của những cô Thái trắng, cả cà phê và chủ nhân đều làm say lòng khách ghé đến. Nhưng hôm nay, Cao Nguyên lửa đạn ngút trời, tôi đến đây mỗi ngày ăn gạo sấy và đi thăm các trại tạm cư của đồng bào tị nạn, đi thăm các căn cứ hỏa lực đang ngày đêm chiến đấu với địch quân để giữ cho Kontum, thành phố được nguyên vẹn, cuộc sống được yên lành.

Từ Kontum, tôi trở về Pleiku bằng trực thăng vì nghe tin một trận đánh dữ dội vừa xảy ra trên đỉnh núi Chu Pao và quân ta đã hoàn toàn làm chủ tình hình tại hai căn cứ hỏa lực 41 và 42 cách thành phố Pleiku 15 cây số về hướng Bắc, ở vị trí trấn đóng ngay ngõ vào thành phố. Nếu hai căn cứ này phải di tản chiến thuật, thì Pleiku sẽ một sớm một chiều rơi vào tay địch. Vì vậy, trong hai ngày qua, những trận đánh đẫm máu đã diễn ra tại đây, khiến cho tất cả phóng viên chiến trường trong và ngoài nước đều dồn hết về hai căn cứ này.

Chúng tôi đi bằng đường bộ dưới sự hướng dẫn của Trung Tá Nghiêm thuộc Khối Chiến Tranh Chính Trị Quân Ðoàn II. Những phóng viên ngoại quốc người nào cũng mặc áo giáp, đội nón sắt và mang ba lô trên vai như những người lính chiến, chỉ khác là những chiếc máy hình trên tay thay thế cho súng cá nhân mà thôi. Ba lô của họ đầy đủ lương khô và nước uống. Họ cẩn thận cũng phải, vì đây là xứ lạ quê người, và đang đi vào một vùng rừng núi, một vùng đang giao tranh, bom đạn có thể chụp xuống bất cứ lúc nào.

Ðại Úy Hồ Ðắc Tùng, Tiểu Ðoàn Trưởng của Tiểu Ðoàn 3/Trung Ðoàn 44 thuộc Sư Ðoàn 23 Bộ Binh được yêu cầu thuyết trình về trận đánh khốc liệt vừa xảy ra ngày hôm qua tại đây. Ðại Úy Tùng xuất thân khóa 20 Võ Bị Ðà Lạt. Dáng người nhỏ, gầy, mắt sáng, nói tiếng Anh lưu loát.

Chúng tôi được mời xuống hầm chỉ huy của căn cứ hỏa lực 41. Ðại Úy Tùng bắt đầu trình bày những diễn tiến:
– Cộng quân thừa hiểu rằng, muốn tiến vào Pleiku, chúng phải đánh chiếm hai cửa ải là căn cứ 41 và căn cứ 42 trước tiên. Vào lúc 1 giờ 30 đêm hôm trước, Cộng quân pháo chừng 500 quả vào căn cứ rồi một đại đội đặc công của Sư Ðoàn 2 Sao Vàng và một trung đoàn trợ chiến, Trung Ðoàn 9P, có thêm trung đoàn pháo yểm trợ đã mở một cuộc tấn công đẫm máu vào căn cứ này. Cộng quân tiến vào từ hướng Ðông. Lúc đó cánh quân của tôi ở phía Tây đánh dạt chúng qua.

Ðặc công của Việt Cộng còn trẻ, chừng 15, 16 tuổi, nhưng đã chích thuốc kích thích nên rất liều mạng. Chúng mang vào khoảng 50 ký lô chất nổ để phá căn cứ. Chúng tôi được Pháo Binh Dù yểm trợ, bắn rất chính xác. Trên không còn có L19 và C7 thả hỏa châu soi sáng cả một vùng cho F105 oanh kích địch.

Lúc đó áp lực của Cộng quân thật quá nặng, tôi nhờ tần số của Dù liên lạc với Mỹ xin tia laser. Ðến 2 giờ kém mười phút, một chiếc C130 bay đến lượn vòng vòng trên trời ở hướng của địch. Khoảng 6 giờ sáng, phía bên địch tiếng súng thưa thớt dần rồi im bặt. Sáng hôm đó, chúng tôi phải chôn 160 xác Việt Cộng ở chung quanh căn cứ, lát sau tìm thấy thêm 40 xác bên bờ suối đằng kia cùng với những vết máu rải rác trên mặt đất từ đây vào trong rừng.

Ngừng một lát, giọng Ðại Úy Tùng có vẻ bùi ngùi:
– Ðại Úy Lịch thuộc Sư Ðoàn Dù chết ngay trên hầm này. Một xạ thủ giữ cây đại liên trên nóc hầm vừa trúng đạn gục xuống, ông nhào tới ôm cây đại liên quạt tiếp vào toán đặc công đang xung phong vào cho đến khi ông trúng đạn quỵ xuống.

Tôi hỏi Ðại Úy Tùng:
– Ðại Úy có thể cho biết tác dụng của tia laser? Loại máy bay nào được trang bị tia sáng này?
Ðại Úy Tùng giải thích:
– Tia laser bắn gần thì cháy, xa thì bị mù mắt. Lúc đó, chính tôi cũng lấy làm lạ, vì đây là lần đầu tiên, tôi thấy máy bay C130 cứ lượn qua, lượn lại về hướng quân địch mà không thấy động tịnh gì hết. Sáng ra chôn xác mới hiểu, địch bị bắn mù mắt, cứ đi luẩn quẩn một chỗ. Tia laser hiếm lắm, chỉ trang bị cho phi cơ Mỹ.

Tôi được mời ở lại căn cứ ăn cơm lính, gạo sấy với đồ hộp. Cơm chưa kịp ăn thì ầm, ầm… những tiếng nổ long trời lở đất. Tôi nhìn thấy những bao cát trên nóc hầm rung rinh như muốn sập xuống. Máy truyền tin trong hầm chỉ huy làm việc không ngừng: căn cứ 41 đang bị pháo kích. Tôi nghĩ rằng có thể mình sẽ được chứng kiến tại chỗ một trận đánh ác liệt sắp diễn ra, vì cái chiến thuật cổ điển của Cộng quân, ‘tiền pháo hậu xung’. Pháo chừng vài trăm quả là có thể có màn xung phong vào căn cứ. Tôi chuẩn bị máy hình và chờ đợi. Nhưng rồi trận pháo kích chấm dứt mà không thấy địch tấn công.

Chúng tôi rời hầm chỉ huy. Những cây cột gần miệng hầm bị trúng đạn cháy còn vết đen. Mùi máu vẫn còn phảng phất trong không khí. Những vũng máu đã khô rải rác trên mặt đất. Máu của địch và của những chiến sĩ đã giữ vững căn cứ này.

Chúng tôi ăn cơm bên cạnh miệng hầm. Ðại Úy Tùng nói:
– Ngồi đây nếu có gì cô chạy xuống hầm cho tiện. Dưa chuột, cà chua, các thức ăn tươi này là của lính tôi mua lại trong các buôn Thượng gần đây. Chừng nào kiếm không có chút rau trái mới phải ăn toàn đồ hộp.
Sau bữa cơm, tôi đề nghị với Ðại Úy Tùng và sĩ quan tùy viên của Trung Tướng Ngô Dzu là cho tôi đi thăm căn cứ 42. Ðại Úy Tùng nói:
– Lên trên đó pháo kích dữ lắm. Áo giáp, nón sắt tôi chỉ còn một cái, tôi cho cô mượn.
Tôi ngỏ ý cám ơn:
– Xin nhường cho tùy viên của ông Tướng. Tôi mang những thứ đó nặng quá chạy không nổi đâu. Lỡ bị Việt Cộng bắt thì còn khổ hơn là trúng đạn nữa.

Ði làm phóng sự từ chiến trường này qua chiến trường khác, lâu ngày tôi mới nghiệm thấy một điều: thường ở trong những hoàn cảnh cận kề với sự hiểm nguy, người ta hay đùa cợt để cho tinh thần bớt căng thẳng, cho quên đi những lo âu đè nặng trong tâm hồn, hoặc là thoát ra khỏi hiện tại bằng những mộng mơ nào đó. Cũng như hồi nãy khi vừa dứt pháo kích, đi ra khỏi hầm chỉ huy, tôi thấy một người lính từ hố cá nhân nhảy lên ngồi bên miệng hầm, nhìn trời ngâm thơ tựa hồ như sinh hoạt ở đây vốn rất bình lặng:
Bây giờ em ở Pleiku
Cỏ xanh là núi mây mù là sương

Tôi không biết có phải hai câu thơ này là của chính anh sáng tác hay không, nhưng chắc chắn trong giờ phút ấy, anh đang nghĩ đến một người con gái nào đó. Và những giây phút lãng mạn trong tình huống này có lẽ giúp cho người lính chiến thoải mái hơn là ngồi lo âu không biết là địch sẽ trở lại tấn công lúc nào.

Chúng tôi đến căn cứ hỏa lực 42 khi căn cứ này cũng vừa bị một trận pháo dữ dội. Mọi người đang bận rộn với công việc của mình. Người thì đang ăn cơm, người thì đang tu bổ lại những hầm mới bị pháo làm hư hại. Tôi ngỏ ý với Ðại Úy Tùng muốn gặp một chiến sĩ nào xuất sắc nhất của đơn vị. Ðại Úy Tùng chấp thuận ngay.

Mọi người kéo vào hầm chỉ huy. Cứ mỗi lần vào hầm chỉ huy là mỗi lần tôi suýt bị bể trán vì lo quan sát chung quanh mà quên khom mình xuống chui qua cửa hầm. Trung sĩ Nguyễn Văn Tạ đứng nghiêm chào ông Tiểu Ðoàn Trưởng của mình và ngồi đối diện với tôi.
Anh đánh giặc lì nhất đơn vị nhưng lại có vẻ lúng túng khi ngồi nói chuyện với một nữ phóng viên. Tôi mở lời ngay cho anh được tự nhiên:
– Anh làm ơn kể lại cho tôi nghe trận đánh hào hùng của các anh vừa rồi trên núi Chu Pao.

Anh Tạ có vẻ vui vẻ khi nghe tôi hỏi về chuyện đánh nhau, anh vừa nói vừa diễn tả bằng bộ điệu:
– Hôm đó, lực lượng Dù đã chiếm được nửa đỉnh đồi. Trên cao, tụi Việt Cộng còn giữ trên đó, và đồi bên kia có khoảng một trung đoàn của tụi nó chiếm giữ. Sáng hôm sau, Ðại Ðội Trưởng của tôi cho một trung đội kéo qua đánh đồi bên kia. Việt Cộng cách chúng tôi khoảng 700 mét. Vừa lên lưng chừng đồi là đụng ngay tụi nó. Tôi cho cánh quân bên trái ép qua, cây đại liên đi giữa hai tiểu đội…

Anh Tạ diễn tả lại trận đánh trên núi Chu Pao một cách hào hứng như người đang kể lại một trận cầu quốc tế. Nhưng đây không phải là kết quả tranh tài của một trận túc cầu, mà những gì đạt được đều phải đổi bằng xương máu và cả sinh mạng của mình.
Anh kể đến lúc trận chiến đã tàn:
– Sáng ra, chúng tôi không thấy Việt Cộng nữa. Chúng bỏ lại rất nhiều xác trong các hầm và trên hai đỉnh đồi mình đã chiếm được.
Tôi hỏi anh Tạ:
– Nghe nói anh đã bị thương bốn lần mà vẫn xin đi tác chiến. Những vết thương của anh đã lành hẳn chưa?
– Ðã lành rồi. Tôi bị thương một lần ở đầu, một lần ở ngực, một lần ở tay và mới đây là ở sau lưng. Một lần tôi bị thương rồi mà còn bắt được một tên Việt Cộng dẫn về và lấy được một cây CKC nữa.

Anh Tạ đúng là mẫu một người lính chiến. Cuộc đời anh như đã gắn liền với binh nghiệp. Anh xem đơn vị cũng như gia đình thứ hai của mình. Những vết thương trên người anh là những huy chương có giá trị thực sự, tạo cho anh niềm kiêu hãnh và sức chiến đấu bền bỉ như đỉnh Chu Pao đã qua bao tháng ngày mưa gió.

Núi Chu Pao có đỉnh cao 1,059 mét, nằm về phía Bắc và cách Pleiku chừng 17 cây số. Ðỉnh Chu Pao cũng giống như một vọng gác trên cao nhìn xuống, canh chừng Quốc Lộ 14, con đường nối liền giữa hai thành phố Pleiku và Kontum. Nếu địch chiếm được đỉnh Chu Pao là nắm được con đường huyết mạch 14 trong tay và cô lập thành phố Kontum một cách dễ dàng. Bởi vậy, đã có nhiều trận đánh ác liệt xảy ra tại đây giữa ta và địch để giành quyền kiểm soát đỉnh núi này.
Tháng 6 năm 1972, quyền kiểm soát đỉnh Chu Pao lại rơi vào tay quân địch. Khởi đầu là Trung Ðoàn 53 thuộc Sư Ðoàn 23 Bộ Binh tăng viện cho Kontum bị phục kích trên một tuyến đường dài 5 cây số, từ Sở Trà cho đến Chu Pao. Cả một đoàn xe vận chuyển của Sư Ðoàn 23 cùng các đơn vị Thiết Giáp đều bị kẹt lại ở đây.
Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân được tăng cường để giải tỏa cũng bị vây trên một ngọn đồi. Liên Ðoàn 7 Biệt Ðộng Quân từ Pleiku lên, rồi Liên Ðoàn 22 Biệt Ðộng Quân kéo đến tăng cường.

Khoảng giữa tháng 6, Tiểu Ðoàn 62 Biệt Ðộng Quân lên nhận 3 vị trí của Liên Ðoàn 7. Bàn giao xong, sáng hôm sau được lệnh tổ chức lại các vị trí phòng thủ. Buổi chiều, Tướng Trần Văn Hai, trước là Chỉ Huy Trưởng Biệt Ðộng Quân, hiện là Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn II đến thị sát chiến trường bằng đường bộ.
Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 62 là Ðại Úy Lê Thanh Phong, khóa 20 Võ Bị Ðà Lạt, thay thế Thiếu Tá Bửu Chuyển chết trong trận Lệ Khánh. Tiểu Ðoàn Phó vẫn là Ðại Úy Phan Thái Bình.
Tướng Hai cho gọi Ðại Úy Phong đến:
– Anh Hai, với tư cách là đàn anh trong binh chủng Biệt Ðộng Quân đến thăm. Anh Hai muốn lên căn cứ 41, phải đi bằng cách nào?

Ðại Úy Phong trình bày:
– Chỉ có cách đi bọc trong rừng.
Một toán mở đường, hộ tống Tướng Hai lên căn cứ 41 gặp Ðại Tá Lại Ðức Dung đang chỉ huy căn cứ 41 để bàn cách giải tỏa Chu Pao. Từ căn cứ 41 trở về, Tướng Hai đến Bộ Chỉ Huy của Tiểu Ðoàn 62 nói với Ðại Úy Phong:
– Ngày mai, Tiểu Ðoàn 62 bắt đầu từ vị trí này, đánh dọc theo Quốc Lộ 14, làm sạch sẽ, bắt tay với căn cứ 41. Anh Hai muốn đi bằng xe đến căn cứ 41 chứ không phải đi trong rừng nữa.

Lời nói nhỏ nhẹ của ‘anh Hai’ cũng như quân lệnh.
Vị trí của Tiểu Ðoàn 62 Biệt Ðộng Quân đến căn cứ 41, đi theo Quốc Lộ 14 chỉ có một cây số thôi, nhưng những đơn vị đến đây trước, cũng như Tiểu Ðoàn 62 bây giờ, đã gọi đoạn đường này là ‘khúc xương khó nuốt’.

Ðại Úy Phong và Ðại Úy Bình bàn thảo kế hoạch. Cuối cùng Ðại Úy Bình nhận lãnh chỉ huy trận đánh này. Anh họp tất cả cấp chỉ huy trong tiểu đoàn lại:
– Dọc Quốc Lộ 14, cỏ mọc cao và rậm rạp. Ðịch đào hố nấp ở dưới làm thành những chốt yểm trợ cho nhau. Cái khó là mình không thấy địch, cứ ló lên là bị bắn. Tôi sẽ cho một trung đội đi về phía trái giả đánh. Hai trung đội khác nấp để quan sát và ghi nhận vị trí địch. Sau đó sẽ cho pháo tập trung dập vào các chốt chừng 20 đến 30 phút, rồi chuyển pháo về các cây 82 ly của địch trong rừng để khóa họng, không cho yểm trợ chốt ngoài này. Chỉ trang bị súng, lựu đạn. Bò lên. Ném lựu đạn vào hố. Nhảy xuống, bốc xác quăng ra. Chiếm hố. Ðánh chốt kế. Ðạn dược dưới này sẽ tiếp lên.

Trận đánh diễn ra đúng như kế hoạch, phá được chốt đầu cũng là chốt chính, lấy được một cây 61 ly và gây cho 6 Cộng quân tử thương, trong đó có một C trưởng (đại đội trưởng). Ðại Úy Phan Thái Bình đọc cho tôi nghe mấy câu thơ đề sau tấm hình một người con gái trong túi áo của C trưởng:
Ngày nào trái đất ngừng xoay
Trái tim ngừng đập, tình này vẫn yêu
 
Chốt đầu tiên là chốt chỉ huy, có dây điện thoại thả dài vào trong rừng để gọi pháo. Chiếm được chốt này cũng như đập được đầu rắn, Tiểu Ðoàn 62 tiếp tục một cách hữu hiệu, toán đi trước đánh chốt, chiếm chốt, toán đi sau đến giữ chốt cho toán trước đánh tiếp lên. Và như con sâu đo, những chiến sĩ gan lì của Tiểu Ðoàn 62 Biệt Ðộng Quân đã làm sạch sẽ ‘khúc xương khó nuốt’ trong vòng 2 ngày, bắt tay với căn cứ hỏa lực 41.

Tướng Trần Văn Hai từ Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II gọi xuống khen:
– Anh Hai cho 3 ngày, mấy em làm có 2 ngày. Giỏi.
Những ngày sau đó, trận chiến bắt đầu chuyển động. Với sự yểm trợ của Không Quân, 3 ngày sau, Tiểu Ðoàn 62 bắt tay được với Tiểu Ðoàn 96. Quốc Lộ 14 bắt đầu khai thông. Các đơn vị ở dưới đánh lên, trên Chu Pao đánh xuống, nắm lại được cái đòn gánh, mà hai gánh hai đầu là Pleiku và Kontum.
CÒN TIẾP /Kỳ 17
KMD, 1972
 
-----------------------
 
Kiều Mỹ Duyên – Chinh Chiến Điêu Linh (kỳ 17)

BIÊN TRẤN
Căn cứ hỏa lực 5 nằm ngay ngã ba tam biên Việt Miên Lào, cách căn cứ Tân Cảnh chừng 5 cây số về phía Tây. Cũng trong những ngày chiến trường Cao Nguyên sôi động, tôi theo trực thăng từ Pleiku đến thăm Bộ Chỉ Huy của Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Dù đang đóng ở căn cứ này. Cùng đi trên chuyến trực thăng, có một sĩ quan Chiến Tranh Chính Trị và Bác Sĩ Lê Thành Ý thuộc Bệnh Xá Biệt Ðộng Quân của Quân Khu II.
Căn cứ hỏa lực 5 nằm trên một đỉnh đồi, khi trực thăng sắp đáp xuống, người phi công ân cần căn dặn tôi:
– Xuống máy bay là phải chạy vào giao thông hào ngay tức khắc. Việt Cộng thích chỗ này lắm, chúng pháo suốt ngày suốt đêm.
Trực thăng đáp xuống, người phi công nhìn thấy mấy vị sĩ quan đứng đón ở bãi đáp không ai mặc áo giáp, đội nón sắt gì cả, anh lắc đầu:
– Nguy lắm, nguy lắm!

Người phi công cười giòn, vẫy tay chào rồi cất cánh. Anh mới trở về Việt Nam sau hai năm du học ở Hoa Kỳ. Anh em trong Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Dù nghe có khách đến thăm đều ra chào hỏi vui vẻ. Những người tôi được gặp mặt hôm nay gồm có Trung Tá Phan Văn Huấn, Liên Ðoàn Trưởng; Bác Sĩ Ngô Thế Vinh, Y Sĩ Trưởng của liên đoàn; Thiếu Tá Lân, Thiếu Tá Vũ Xuân Thông (tài tử trong phim Người Tình Không Chân Dung) và những sĩ quan trẻ như Ðại Úy Ðào Minh Hùng, Ðại Úy Trần Văn Thọ, Ðại Úy Nguyễn Sơn… Các anh em trong lực lượng này đội mũ xanh, mặc quần áo trận màu hoa rừng. Sống ở rừng núi quanh năm nên người nào tóc cũng dài, nước da ngăm đen và ai cũng hiếu khách.

Trung Tá Phan Văn Huấn và Bác Sĩ Ngô Thế Vinh hướng dẫn tôi đi thăm bệnh viện của liên đoàn. Bệnh viện xây kiên cố. Nghe một người bạn nói là Bác Sĩ Vinh được đề cử đi du học ở Hoa Kỳ nhưng anh từ chối không đi. Anh nói với bạn bè:
– Trong lúc chiến trường còn khốc liệt như thế này, mình đâu thể bỏ anh em mà đi.

Trung Tá Phan Văn Huấn là một người Huế trầm lặng. Anh nói giọng Huế đặc. Xuất thân khóa 10 Võ Bị Ðà Lạt, lên đến cấp bậc và chức vụ này, hẳn đã trải qua bao nhiêu là trận mạc. Anh nói cho tôi nghe tình hình chiến sự của vùng Tam Biên và đưa tôi đi thăm một vòng chung quanh căn cứ.

Liên Ðoàn 81 đóng quân rải rác ở sườn đồi, trong rừng và dưới chân núi. Trung Tá Huấn kể lại một chiến công của anh em Biệt Kích Dù:
– Cộng quân đã chuẩn bị đánh Cao Nguyên từ lâu rồi. Trước khi chiến trường này bùng nổ, vào đầu tháng Hai năm 1972, liên đoàn hành quân ở vùng Tam Biên, Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn đóng ở căn cứ Tân Cảnh. Liên đoàn thả quân lục soát dọc một vùng biên giới Việt Miên Lào và khám phá Cộng quân đã mở sẵn một con đường từ Tam Biên, xuyên qua núi phía Nam căn cứ Tân Cảnh, cách Quốc Lộ 14 chừng 2 cây số để tiến quân đánh thẳng về Quân Ðoàn II. Con đường này được Cộng quân chuẩn bị rất khéo, chúng đốn hết cây lớn để mở đường, chừa lại những cây nhỏ dùng ngụy trang. Những cây nhỏ không trở ngại gì cho chiến xa, bởi vậy dù cho trực thăng có bay thật thấp ở trên ngọn cây cũng không thể nào thấy được một con đường đã chuẩn bị sẵn. Con đường như một lưỡi dao gí thẳng vào yết hầu của Quân Ðoàn II.

Sau đó Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Dù giao lại căn cứ 5, căn cứ 6 và căn cứ Charlie cho Sư Ðoàn 22 Bộ Binh, vì lúc đó mặt trận phía Bắc Tây Ninh bị áp lực của địch quân khá nặng. Việt Cộng chiếm Lộc Ninh và di chuyển rất nhanh về bao vây An Lộc. Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Dù được lệnh rời Tân Cảnh về giải vây cho An Lộc. Trung Tướng Ngô Dzu, Tư Lệnh Quân Ðoàn II xin Dù tiếp viện. Sư Ðoàn Dù đưa Tiểu Ðoàn 11 Dù lên trấn đóng tại Charlie, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Ðình Bảo (nhân vật trong bài ‘Người ở lại Charlie’ của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh), và đánh một trận lẫy lừng khi căn cứ này bị địch quân dùng biển người tràn ngập.

Khác với Bác Sĩ Vinh và Trung Tá Huấn là những người trầm lặng, Trung Úy Y Sĩ Lê Thành Ý tính tình vui vẻ, phóng khoáng. Ông có dáng người cao lớn, giống như một lực sĩ hơn là một họa sĩ. Vậy mà bàn tay cầm dao mổ của ông cũng là bàn tay cầm cây cọ để sáng tác nhiều bức sơn dầu không thua gì những họa sĩ chuyên nghiệp. Nhưng nói đến bác sĩ Lê Thành Ý, những người quen biết không ai quên được một ca mổ gay cấn nổi tiếng của ông tại chiến trường Tây Nguyên này.

Người ta còn nhớ trận Pleime của những người hùng biên trấn Biệt Ðộng Quân Biên Phòng vào mùa Hè năm 1971. Sau khi Cộng quân bị đẩy lui bởi sức kháng cự mãnh liệt của các chiến sĩ Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng dưới quyền chỉ huy của Ðại Úy Giác, bên ta có một người lính trẻ mới 28 tuổi, gốc người thiểu số, bị một trái M79 ghim vào bắp chân. Tiểu đoàn không dám tản thương về Quân Y Viện Pleiku vì sợ trái đạn phát nổ bất cứ lúc nào trong khi di chuyển.
Ðược điện thoại cấp báo, Bác sĩ Lê Thành Ý đang có mặt tại Pleiku, không một chút do dự, ông mời một bác sĩ Mỹ cùng đi, nhưng bác sĩ này từ chối. Bác sĩ Ý gọi cho các bác sĩ ở Quân Y Viện Pleiku là Bác sĩ Bùi Thế Khải, Bác sĩ Nguyễn Huy Ðạt, Bác sĩ Nguyễn Thúc Cường và Bác sĩ Phong để nhờ các vị này sẵn sàng cấp cứu cho mình, nếu cuộc giải phẫu của ông không thành công. Các bác sĩ này sẽ túc trực tại Quân Y Viện Pleiku và chờ tin: bệnh nhân sống là bác sĩ sống, nếu trái đạn nổ, bệnh nhân chết đã đành, bác sĩ giải phẫu sẽ mất hai cánh tay và bị trọng thương từ cổ lên toàn mặt.

Vừa đến trại Pleime, Bác sĩ Lê Thành Ý cho làm một phòng mổ dã chiến bằng bao cát vây chung quanh giường của thương binh, chỉ chừa một cửa sổ hình chữ L. Cùng đến Pleime với bác sĩ Ý, có Bác sĩ Xuân thuộc Tiểu Ðoàn 50 Chiến Tranh Chính Trị. Bác sĩ Xuân đi theo để phòng cấp cứu bác sĩ Ý nếu cuộc giải phẫu thất bại và săn sóc cho bác sĩ Ý trên đường chuyển về Quân Y Viện Pleiku.

Phòng mổ dã chiến đã sửa soạn xong. Mấy chuyên viên đạn dược đang đứng chờ. Trực thăng tải thương đậu sẵn trên bãi đáp. Bác sĩ Lê Thành Ý đi tới, đi lui ngoài sân, hút thuốc không ngừng. Một lát, ông dừng lại nói với một ông Cha người Mỹ:
– Xin Cha hãy cầu nguyện cho tôi.
Cha vỗ vai ông và nói:
– Tất cả mọi người ở đây sẽ cầu nguyện cho bác sĩ khi bác sĩ bắt đầu mổ.

Bác sĩ Lê Thành Ý bước vào phòng, mặc áo giáp, đội nón sắt, đưa hai cánh tay qua khung cửa nhỏ của bức tường làm bằng bao cát. Nét mặt của bác sĩ Ý lúc này rất thản nhiên, tay cầm cây dao mổ, ông bắt đầu đùa với tử thần.

Trong phòng yên lặng đến nghẹt thở. Ngoài hành lang, mọi người đều cầu nguyện theo tôn giáo của mình. Mười lăm phút sau, viên đạn M79 đã nằm gọn trong bàn tay khéo léo của Bác sĩ Lê Thành Ý. Mấy chuyên viên đạn dược lập tức mang viên đạn ra ngoài. Một lát sau, những người đang chờ đợi đằng trước nghe một tiếng nổ lớn, cửa phòng mở và Bác sĩ Ý bước ra. Ðám đông ào tới, người bắt tay, người ôm vai… để bày tỏ sự vui mừng của mình cùng với sự cảm kích lòng can đảm và vị tha của một người y sĩ.

Hiện nay bác sĩ Khải ở Pháp, bác sĩ Ðạt ở New York, bác sĩ Cường ở Seattle, bác sĩ Phong ở Úc. Dù có dịp nào gặp lại nhau hay là không, nhưng chắc chắn họ không thể nào quên được những kỷ niệm của những ngày ở Cao Nguyên khói lửa mịt mờ.

Trong số những người này, Bác Sĩ Ngô Thế Vinh hiện ở tại miền Nam California, là người có nhiều tình cảm gắn bó với miền núi rừng này nhất. Lúc còn đi học, anh là chủ bút tờ Tình Thương của Ðại Học Y Khoa Sài Gòn. Sau khi ra trường, anh sáng tác đều đặn trong những năm đầu: Mây Bão (1963), Bóng Ðêm (1964), Gió Mùa (1965) và Vòng Ðai Xanh (1971). Tác phẩm Vòng Ðai Xanh được thành hình trong khoảng thời gian ở Cao Nguyên, anh là Y Sĩ Trưởng của Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Dù. Núi rừng và sinh hoạt của những sắc dân thiểu số là những đề tài ít người nhìn đến với một tình cảm sâu sắc như anh. Bởi vậy, với tôi, Vòng Ðai Xanh là một âm bản tuyệt hảo của một nhiếp ảnh gia yêu mến thiên nhiên và là một bản cáo trạng đanh thép lên án sự chà đạp quyền bình đẳng của con người.

Sau khi đi thăm một vài nơi đóng quân của Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Dù, tôi theo chân Trung Tá Huấn trở về doanh trại và được anh em mời ăn cơm trưa. Bữa cơm dã chiến thật đặc biệt với món thịt rừng, gồm thịt nai, thịt thỏ, do anh em săn về phơi khô làm lương thực. Mọi người vừa ăn vừa nói chuyện vui vẻ. Thiếu Tá Thông nói chuyện vui nhất, làm mọi người quên mất những trận pháo kích có thể chụp xuống căn cứ bất kể lúc nào.

Buổi tối tôi trở về Kontum, tạm trú trong một chủng viện. Các dì phước ở đây dặn dò:
– Nếu nghe pháo kích thì chạy xuống hầm. Hầm ở đằng kia kìa.

Chủng viện ở xa trung tâm thành phố, ban đêm khung cảnh tĩnh mịch và khí hậu thật trong lành. Tôi mở cửa sổ, mùi thơm của hoa bưởi, hoa trà từ ngoài vườn theo gió vào tận trong phòng. Rồi một giấc ngủ thật ngon lành trong gió mát và hương hoa của miền rừng núi. Nửa đêm, chợt tỉnh giấc vì những tiếng nổ long trời hình như ngay ngoài cửa sổ. Tôi biết là mình đang bị pháo kích. Chừng nửa giờ sau, tiếng pháo im bặt. Bên ngoài ánh trăng vẫn chiếu sáng trên những chùm hoa bưởi trắng ngần, hương thơm của hoa càng về đêm càng ngạt ngào trong gió. Cái chết chỉ trong đường tơ kẽ tóc. Và tôi thấy mình thích mùi hoa bưởi từ dạo đó.

Sáng hôm sau, tôi dậy thật sớm, ra sân đứng nhìn những mảnh đạn vương vãi khắp nơi. Dấu tích một quả đạn pháo nổ gần nhất chỉ cách nơi tôi ngủ không quá 10 mét. Các anh em trong Liên Ðoàn 81 lái xe từ căn cứ 5 đến chủng viện mời tôi đi uống cà phê. Một anh nói:
– Ðêm qua nghe pháo kích, xem tọa độ, thấy đạn rơi vào chủng viện, anh em chúng tôi lo cho cô lắm.
Tôi cười:
– Cám ơn các anh. Ông thầy tử vi nói tôi sống lâu lắm.

Chúng tôi uống cà phê tại một quán cà phê nhỏ nằm bên dòng sông Dakbla. Người ta nói con sông này đặc biệt là nước chảy ngược dòng. Khi chưa đến Kontum tôi nghe nói như vậy, trong lòng nghĩ khi đến đây, phải ra đứng bên bờ sông Dakbla để nhìn xem nước có chảy ngược dòng hay không. Nhưng đến đây bao nhiêu lần rồi cũng quên mất chuyện đó.

Chủ nhân của quán cà phê nhỏ này là một cô Thái trắng. Bàn tay bưng tách cà phê có những ngón thật nõn nà. Các cô Thái trắng có một vẻ đẹp đặc biệt, nét đẹp của một bông hoa rừng, đẹp tự nhiên và có một chút gì man dại, dễ thu hút và ngây ngất lòng người. Chủ quán đẹp, cà phê Kontum ngon tuyệt vời, khách đến đây là những chàng trai chiến trường đi chẳng tiếc ngày xanh. Hôm nay ngồi đây uống một ly cà phê, nhìn nhau, nếu có một chút tình cảm nào đó, thì cũng chỉ là bèo nước tương phùng. Rời quán rồi, có thể vĩnh viễn không bao giờ gặp lại.

Vừa trở về Pleiku, tôi sững sờ khi nghe tin Ðại Úy Ngô Tùng Lam, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 72 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng vừa tử trận tại Benhet. Căn cứ Benhet là một trong những căn cứ hỏa lực trấn đóng dọc vùng Tam Biên, là một trong những cái chốt làm gai mắt Cộng quân nhất trong mưu đồ tiến chiếm Kontum.

Ðại Úy Ngô Tùng Lam trước ở bên Lực Lượng Delta và năm 1968 đã nổi tiếng là người hùng trong lần giải tỏa mặt trận Cây Thị. Ðại Úy Lam là bạn rất thân của Bác sĩ Lê Thành Ý.

Tôi chỉ gặp Ðại Úy Lam có một lần cách đây hai tháng. Hôm đó Bác sĩ Ý đưa tôi đi thăm Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Dù bằng đường bộ, nhưng đường mất an ninh nên phải trở về Pleiku. Chạy ngang qua phố thì gặp xe của Ðại Úy Lam. Ðại Úy Lam ngừng xe và nhảy qua xe của chúng tôi. Bác sĩ Ý giới thiệu:
– Ðại Úy Ngô Tùng Lam, người hùng đang trấn đóng ở Benhet.

Ðại Úy Lam dáng gầy, để ria mép. Tôi định nhường cho ông ngồi ở ghế trước, nhưng ông đã nhanh nhẹn phóng lên ngồi ở đằng sau. Ðại Úy Lam có nụ cười thật tươi và nói chuyện vui như pháo nổ. Chúng tôi ghé lại uống cà phê ở một quán bên bờ hồ, cạnh doanh trại của Ðại Ðội 2 Quân Y. Chúng tôi nói chuyện về chiến tranh, về văn nghệ. Ðại Úy Lam lắng tai nghe bản ‘Tấm Thẻ Bài’. Tiếng hát của Thanh Thúy từ một máy cassette nhỏ của quán cà phê. Ông nói ông rất thích bài này, mà phải là Thanh Thúy hát mới thấm. Và ông kể chuyện tình của ông mới đến hồi chấm dứt gần đây:
– Tôi yêu một người con gái đã 5 năm mà chưa một lần nắm tay. Khi nghe tin nàng sắp lấy chồng, tôi một mình từ Pleiku lái xe về Ðà Lạt để gặp nhau lần cuối. Tôi ngồi lặng lẽ nhìn nàng, uống một ly cà phê, chúc phúc cho nàng rồi trở về căn cứ.

Ðại Úy Lam nhìn ra mặt hồ, thở dài:
– Nàng đi lấy chồng, nhưng tôi vẫn yêu nàng.
Bác sĩ Ý là người thích cười đùa vui vẻ nhất, mà lúc đó cũng ngồi im lặng nhìn những ánh đèn của nhà ai bên kia đồi. Những ánh đèn mờ mờ ảo ảo, chập chờn trong sương đêm của miền rừng núi.

Từ hôm về nhìn mặt người yêu lần cuối, vài tuần sau, Ðại Úy Lam tử trận tại Benhet trong một lần tấn công ác liệt của Cộng quân. Ðêm chúng tôi ngồi uống cà phê và nghe ông kể chuyện tình buồn của người lính chiến, đó là lần thứ nhất cũng là lần cuối tôi gặp ông.
Một Ðại Úy Ngô Tùng Lam với những chiến sĩ anh hùng của Tiểu Ðoàn 72 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng ở Benhet; một Thiếu Tá Bửu Chuyển; một Ðại Úy Phan Thái Bình, với những anh em dũng cảm của Tiểu Ðoàn 62 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng ở trại Lệ Khánh; một Trung Tá Lò Văn Bảo với những người lính Ðịa Phương Quân can trường của Chi Khu Dakto; một Trung Sĩ Nguyễn Văn Tạ, chiến sĩ xuất sắc của Tiểu Ðoàn 3/ Trung Ðoàn 44 của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh ở căn cứ hoả lực 41 và 42; một Trung Tá Nguyễn Ðình Bảo với những chiến sĩ Dù oai hùng ở Charlie; một Trung Tá Phan Văn Huấn với anh em Biệt Kích Dù 81 ngạo nghễ ở căn cứ hỏa lực 5; một Y Sĩ Trung Úy Lê Thành Ý xả thân vì người ở Pleime… là những chất liệu sống động đã tạo nên một chuỗi huyền thoại về những người hùng biên trấn Tây Nguyên của một thời chinh chiến.
Chú thích Ảnh/ Căn cứ 5 hỏa lực
CÒN TIẾP/Kỳ 18
KMD, 1972
 
----------------- 
 
Kiều Mỹ Duyên – Chinh Chiến Điêu Linh (kỳ 18)

Qua cơn bão lửa
Có bao giờ trong hầm hố dưới gạch ngói đổ nát, trong hoang vu giữa hai trận pháo, người dân An Lộc đã cất tiếng hát Ca Khúc Da Vàng của Trịnh Công Sơn?
“Hãy sống giùm tôi, hãy nói giùm tôi, hãy thở giùm tôi
Thịt da này dành cho thù hận, cho bạo cường cho tham vọng của một lũ điên.”

Những ca từ ấy nếu từ vị trí nạn nhân thì chính các Công trường 5, 7, 9 với Lữ đoàn 203 Tăng Thiết Giáp của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam mới là lũ điên. Vì sao phải pháo kích tàn nhẫn lên đất của quê hương, nơi sinh sống của đồng bào cùng tiếng nói, cho mục đích của Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh? Thiên bút ký thứ 18 của Kiều Mỹ Duyên gói trọn bi tráng của một miền đất mang những tên Lộc Ninh, Thanh An, Phước An, Thanh Hòa, Thanh Bình, Bình Phước và An Lộc.

Khác Phan Nhật Nam tập trung vào trận Đồi Gió của Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù trong Mùa Hè Đỏ Lửa, Kiều Mỹ Duyên nhìn An Lộc rộng hơn, với dồn nén âu lo và phập phồng. Càng vào sâu, hy vọng và tuyệt vọng trộn làm một: sống và chết. Bằng một trái bích kích pháo hay một càng trực thăng thả tiếp tế. Trần Vũ
Khi Cộng quân mở cuộc tổng công kích toàn diện vào miền Nam Việt Nam mùa Hè năm 1972, người ta nói rằng, Tướng Võ Nguyên Giáp đang làm một cuộc phiêu lưu bằng xương máu của 13 sư đoàn quân Bắc Việt. Sau khi lửa đạn đã ngút trời từ Bến Hải chạy dọc theo rặng Trường Sơn vào tận miền Cao Nguyên Trung Phần, một thị trấn nhỏ bé nằm về hướng Bắc của Sài Gòn và cách Sài Gòn khoảng 95 cây số được những bàn tay máu của Bắc Việt khoanh tròn trên bản đồ quân sự: An Lộc.

Ký giả Joseph Alson của báo Los Angeles Times, người đã theo dõi trận An Lộc từ ngày khởi đầu, đã tuyên bố:
– So với Khe Sanh năm 1968, An Lộc còn ghê gớm hơn nhiều, ngay như Thiếu Tướng James Hollingsworth, Cố Vấn Trưởng Quân Ðoàn 3, một vị cố vấn quân sự nổi tiếng gan dạ như thế mà vẫn chưa dám đặt chân xuống An Lộc. Không như Khe Sanh hồi đó, ngày nào cũng có vài vị khách đến thăm. Báo Los Angeles Times cũng viết: ‘Cường độ pháo kích tại Khe Sanh còn quá nhẹ so với An Lộc. Khi lực lượng phòng thủ ở Khe Sanh năm 1968 là Thủy Quân Lục Chiến Mỹ thì chúng ta đau khổ gọi nơi đây là ‘Ðịa Ngục Khe Sanh’. Nhưng khi chúng ta biết đang có một cuộc tử thủ tại An Lộc còn ghê gớm hơn cả Khe Sanh, thì chúng ta lại thờ ơ, lãnh đạm, nói đến với một giọng điệu kẻ cả. Giả sử như quân đội Mỹ đang tử thủ tại đây, thì chắc cả nước Mỹ phải khóc nức nở chứ không phải thờ ơ lãnh đạm như đối với những chiến sĩ của Việt Nam Cộng Hòa đang chiến đấu tại An Lộc bây giờ.’

Ðầu tháng 4 năm 1972, một cuộc hội thảo về Bình Ðịnh Phát Triển cho các cấp từ Tư Lệnh Quân Khu, Tỉnh Trưởng, Quận Trưởng, Ty Sở Trưởng của toàn miền Nam được tổ chức tại Trung Tâm Huấn Luyện Cán Bộ Vũng Tàu. Ngày khai mạc có Tổng Thống, Thủ Tướng và toàn thể nội các tham dự.

Sau ngày khai mạc, tình hình chiến sự tại Quảng Trị và Kontum đã trở nên nghiêm trọng. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho các Tư Lệnh Quân Khu I và Quân Khu II, cùng các vị tỉnh trưởng của hai vùng này trở về ngay tức khắc. Như vậy cuộc hội thảo chỉ còn các cấp chỉ huy hành chánh và quân sự của Vùng III và Vùng IV.

Sáng ngày 5 tháng 4, Ðại Tá Trần Văn Nhựt, Tỉnh Trưởng Bình Long đang dự hội thảo thì Trung Tướng Cao Hảo Hớn, Trung Tâm Trưởng Trung Tâm Bình Ðịnh Phát Triển Trung Ương cho người mời Ðại Tá Nhựt đến, ông nói:
– Tổng Thống chỉ thị anh trở về Bình Long gấp. Bình Long đang bị đánh nặng.

Lúc đó là 10 giờ sáng. Vì đã có hẹn với mấy ty, sở trưởng chờ ở Bãi Sau để ăn cơm trưa, Ðại Tá Nhựt ghé qua báo tin và ăn vội chén cơm trước khi lên xe trở về. Cơm dọn ra, không ai muốn cầm đũa. Nét mặt người nào cũng nặng vẻ lo âu. Tin từ Trị Thiên, tin từ Cao Nguyên, chiến cuộc thế nào họ đã biết. Bây giờ trong lúc họ đang ở đây, Bình Long bắt đầu những ngày lửa đạn.

Bình Long ngày trước là quận Hớn Quản. Năm 1960 được mở rộng và đổi thành tỉnh Bình Long. Dân số khoảng 80 ngàn người, sống rải rác trên 102 ấp, 22 xã của 3 quận Lộc Ninh, Chơn Thành và thị trấn An Lộc. Một phần ba đồng bào ở đây làm trong các đồn điền cao su, họ sống trong những căn nhà gạch do đồn điền xây cất. Một phần ba sống bằng nghề buôn bán, làm cây và một phần ba còn lại là đồng bào Thượng và Miên, họ sống trong các buôn, chung quanh có những hàng rào thiên nhiên do họ tạo lên và được bảo vệ bởi các trung đội Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân tuyển mộ tại chỗ, vì vậy họ quyết tâm sống chết với làng mạc của họ. Dưới con mắt của một tỉnh trưởng, Ðại Tá Nhựt cho rằng đây là nơi lý tưởng để áp dụng chính sách Ấp Chiến Lược của thời Ðệ Nhất Cộng Hòa.

Từ các căn cứ hậu cần nằm trong lãnh thổ của Cao Miên, một lực lượng khoảng 30 ngàn quân gồm các đơn vị chủ lực là Công Trường 5, Công Trường 7, và Công Trường 9, được yểm trợ bởi 100 chiến xa, 2 trung đoàn pháo binh và một tiểu đoàn đặc công tràn qua biên giới Việt-Miên mà mục tiêu là tỉnh Bình Long. Muốn tiến vào Bình Long, Cộng quân phải san bằng Lộc Ninh, một tiền đồn sát ngay biên giới, một tấm bình phong che chở cho Bình Long. Mặc dù với một quân số quá nhỏ bé so với lực lượng của địch, 2 đại đội Ðịa Phương Quân, 2 tiểu đoàn Bộ Binh, 1 tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân và 30 thiết giáp, nhưng Lộc Ninh đã anh dũng chống cự. Ðại Úy William Smith, cố vấn quân sự của quận này, trong 3 ngày liên tiếp sau đó đã nỗ lực xin phi pháo yểm trợ tối đa để cầm chân địch hầu có thời gian di tản dân chúng. Những người đã chứng kiến sự chống trả dũng mãnh của các chiến sĩ Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân tại Lộc Ninh đều ca ngợi tinh thần chiến đấu của họ không thua gì những binh chủng chủ lực khác của miền Nam. Ðại Úy Jeff Gaynor, một cố vấn quân sự, tuyên bố:
– Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân chỉ được huấn luyện và trang bị để đánh lại với du kích quân Việt Cộng nằm vùng mà thôi. Nay đánh với quân chính quy của BắcViệt, họ đã tỏ ra cố gắng rất nhiều.

Vừa lên xe , Ðại Tá Nhựt thúc tài xế chạy như bay trên đường về Bình Long. Qua Bình Dương, tới Lai Khê, khi qua trạm đổ xăng dành cho trực thăng, Ðại Tá Nhựt thấy có hai người đứng ở trước trạm vẫy tay về phía xe của mình. Ra lệnh cho tài xế quẹo vào, ông thấy Trung Tá Nguyễn Thống Thành, Tiểu Khu Phó và Trung Tá Corley, cố vấn quân sự của Tiểu Khu đứng đó. Hai người này nhận ra ông vì lá cờ đuôi nheo màu xanh nón beret của Thủy Quân Lục Chiến cột trên cần ăng-ten xe jeep của ông. Trung Tá Thành nói:
– Quốc Lộ 13 bị đứt tại Tân Khai rồi, không đi đường bộ được đâu.

Ðại Tá Nhựt hỏi qua tình hình, rồi cho tài xế mang xe về Chơn Thành. Ông vào bãi đáp lấy trực thăng vừa bay vừa liên lạc về Bình Long, biết Lộc Ninh đang bị đụng nặng. Ông cùng Trung Tá Corley bay lên Lộc Ninh, liên lạc với Thiếu Tá Nguyễn Văn Thịnh, Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng, đồng thời liên lạc với Ðại Tá Nguyễn Công Vĩnh, Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 9 Bộ Binh để nắm vững tình hình rồi bay tuốt qua biên giới, lên tận Snoul quan sát xem địch có chuyển vận chiến xa và pháo binh đổ thêm vào mặt trận hay không. Ðại Tá Nhựt không nhìn thấy một dấu hiệu chuyển quân nào của địch ở vùng này, chỉ thấy một đoàn thiết giáp của mình đang trên đường về giải cứu cho Lộc Ninh. Giữa Snoul và Lộc Ninh có một căn cứ của Sư Ðoàn 5 Bộ Binh và Thiết Ðoàn I Kỵ Binh trấn đóng. Trên đường về tiếp viện cho Lộc Ninh, thiết đoàn này đã bị chận đánh giữa đường.

Khi từ Snoul bay về, ở trên cao nhìn xuống, Ðại Tá Nhựt đau lòng khi thấy Lộc Ninh và Trung Ðoàn 9 chìm trong khói lửa vì pháo của địch. Cũng nhờ chính đích thân bay quan sát qua tận Snoul, nên chiều hôm đó, máy bay trinh sát của Mỹ thấy một đoàn xe be của dân đi lấy cây về, xe be nào cũng có một cần trục đằng sau để chuyển cây lên xuống, máy bay Mỹ tưởng là Cộng quân kéo thêm pháo đánh Bình Long nên xin lệnh oanh kích. Ðại Tá Nhựt can thiệp kịp thời, cứu một số dân khỏi chết oan ức.

Tối hôm đó, Ðại Tá Nhựt bay xuống Chơn Thành. Tình hình của Chơn Thành vẫn còn yên ổn. Tại đây, gặp lại các vị ty, sở trưởng vừa từ Vũng Tàu về tới, ông hỏi:
– Sao không họp nữa mà về?
Một trưởng ty đáp:
– Sau khi Ðại Tá về rồi, Tổng Thống cho lệnh hủy bỏ cuộc hội thảo, mọi người ai về nhiệm sở và đơn vị của mình.

Sẵn trực thăng, Ðại Tá Nhựt bốc luôn mấy vị này về An Lộc và cùng chịu trận với nhau trong suốt thời gian bị Cộng quân vây hãm sau này.

Cuối cùng thì một tiền đồn nhỏ bé như Lộc Ninh không chịu nổi những trận mưa pháo khủng khiếp và một cuộc xung phong biển người của địch nên đành di tản. Ngày 7 tháng 4, Công Trường 5 tràn ngập Lộc Ninh. Tiếp theo là Bố Ðức, Katum, Thiện Ngôn và Tống Lê Chân, một chuỗi tiền đồn nằm dọc biên giới Cao Miên của 3 tỉnh địa đầu Quân Khu 3 là Phước Long, Bình Long và Tây Ninh đều phải di tản chiến thuật.
Sau khi chọc thủng phòng tuyến thứ nhất của quân trú phòng, Cộng quân tiến thẳng về mục tiêu: Bình Long. Chúng chia ra, Công Trường 9 từ Lộc Ninh kéo về, có nhiệm vụ ‘công đồn’, Công Trường 7 mai phục trên Quốc Lộ 13, chặng đường từ Chơn Thành đến Bình Long để ‘đả viện’. Còn Công Trường 5 vẫn ở lại Lộc Ninh chờ xa luân chiến với Công Trường 9.
Và An Lộc đã sẵn sàng ứng chiến. Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Sư Ðoàn 5 Bộ Binh do Tướng Lê Văn Hưng làm Tư Lệnh đã dời về đóng trong doanh trại cũ của Tiểu Khu Bình Long để chứng tỏ quyết tâm của miền Nam sẽ giữ Bình Long với bất cứ giá nào. Trái đạn pháo kích đầu tiên phóng vào thị xã An Lộc lúc 9 giờ sáng ngày 5 tháng 4, làm chết ông già gác cổng bệnh viện. Ðó là người chết đầu tiên vì pháo kích tại đây.
Cả thị trấn bỗng nhiên như một đàn ong vỡ tổ. Học trò bỏ lớp chạy về nhà. Hàng quán, tiệm buôn, chợ búa đều thu xếp dọn hàng, đóng cửa. Ðến khoảng trưa thì thị trấn trở nên vắng vẻ và mọi người bắt đầu nghĩ tới chuyện làm hầm trú ẩn. Qua hôm sau, ngày 6 tháng 4, từng đoàn người từ các làng xóm chung quanh An Lộc kéo về thị trấn tị nạn. Ða số là người Thượng từ các buôn ở xa. Ấp Nhà Bò có khoảng 200 gia đình Thượng, chỉ còn một người sống sót, người đàn ông Thượng bồng đứa con trai đang bị thương nặng cố gắng chạy về tới bệnh viện An Lộc.

Những trận mưa pháo đã bắt đầu dội vào thị trấn, phần lớn là hỏa tiễn 122 ly. Quân số của Tiểu Khu Bình Long lúc đó có khoảng 700 Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân. Chủ lực là Trung Ðoàn 9 thuộc Sư Ðoàn 5 Bộ Binh của Ðại Tá Nguyễn Công Vĩnh và Thiết Ðoàn I Kỵ Binh đã bị hao hụt nặng sau trận Lộc Ninh, Trung Ðoàn 52 thuộc Sư Ðoàn 18 Bộ Binh của Trung Tá Nguyễn Văn Thịnh đóng ở cầu Cần Lê, rút về còn chừng 300 người và Trung Ðoàn 7 Bộ Binh của Trung Tá Lại Ðức Quân.

Trước tình hình ngặt nghèo đó, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Ðoàn 3, ra lệnh rút Trung Ðoàn 8 thuộc Sư Ðoàn 5 Bộ Binh do Trung Tá Mạch Văn Trường chỉ huy để tăng cường cho An Lộc. Ðồng thời buổi trưa ngày 6 tháng 4, Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Văn Biết, được trực thăng vận đổ xuống phi trường Bình Long. Các chiến sĩ Biệt Ðộng Quân chia làm hai cánh tiến vào thành phố. Dân chúng đứng hai bên đường đón chào một cách vui mừng và mang nước, thức ăn ra cho những người mới đến. Cái thị trấn nhỏ bé bỗng chốc tràn đầy cả lính.

Ngày 9 tháng 4, lần lượt các đồn Quản Lợi, Xa Cam, Xa Cát và Xa Trạch, nằm trong vòng từ 1 đến 7 cây số chung quanh An Lộc đã lần lượt thất thủ. Cường độ pháo kích ngày càng tăng và số thường dân, binh sĩ bị thương đưa vào bệnh viện đã đến mức đáng lo ngại. Ngoài phố, dân chúng canh chừng những lúc ngưng pháo kích, vội vàng mua sắm những thứ cần dùng để dự trữ. Những người ở nhà lo làm hầm trú ẩn. Các cao ốc đều được các đơn vị chia ra trấn đóng. Công viên Tao Phùng trở nên một căn cứ hỏa lực của pháo đội thuộc Sư Ðoàn 5 Bộ Binh.

Những trận pháo đầu tiên làm cho người dân An Lộc khiếp đảm. Nhưng mấy ngày sau thì họ đã bắt đầu có kinh nghiệm và ‘lì đòn’ rồi. Họ đã bắt đầu nghe được tiếng ‘đề pa’ từ hướng nào và phân biệt loại đạn gì. Một bà khoe, đạn của Việt Cộng dễ biết lắm, cứ nghe tiếng rít gió là đạn bích kích pháo 82 ly, tiếng xèo xèo như chiên trên chảo nóng là đạn 105 ly, có tiếng hú như còi xe cứu thương là hỏa tiễn 122 ly… Mọi sinh hoạt đều bị giới hạn. Mặc dù có nhiều người nhún vai cho rằng ‘trời kêu ai nấy dạ’, nhưng họ cũng chỉ dám rời khỏi hầm những lúc cần thiết và không xa quá. Cái hầm bây giờ gắn liền với mọi người như cái mai của con rùa.

Từ 3 ngày nay, những người bị thương vì pháo kích tràn ngập cả bệnh viện. Những người chở vào trước được nằm trên giường. Những người vào sau thì nằm la liệt trên nền nhà, tràn ra cả ngoài hành lang. Một người đàn bà Thượng có thai hơn 8 tháng, bị thương ở bụng, cố gắng sanh, nhưng đứa con chỉ mới ra được cái đầu thì chết ngộp vì người mẹ đã kiệt sức tắt thở. Những người tị nạn từ các nơi khác chạy về, họ không có phương tiện gì để làm hầm hố trú ẩn cho được chắc chắn như người trong thị trấn.

Tội nhất là những người Thượng. Khi chạy đến đây, một số chỉ quấn cái khố trên người. Những vết thương của họ được cột lại sơ sài bằng một miếng vải hay bằng lá chuối. Họ đi bộ, khiêng nhau, dìu nhau, đói khát và một số gục ngã giữa đường. Những người đến được bệnh viện thì vết thương đã làm mủ, hôi hám. Những người bị thương nằm trong bệnh viện trúng pháo một lần rồi, nên mỗi lần có pháo kích, họ như một đàn ong bị lửa, chạy như điên từ phòng này qua phòng khác để tìm nơi trú ẩn, nhưng đến đâu cũng nghe đạn rít trên đầu.
CÒN TIẾP /Kỳ19
KMD, 1972
 
-------------- 
 
Kiều Mỹ Duyên – Chinh Chiến Điêu Linh (Kỳ 19)

Qua cơn bão lửa (tiếp theo)
Bình Long quê hương tôi chìm trong máu, lửa, hoang tàn
Bình Long thân yêu ơi, Bình Long hai tiếng thảm thương
Thương rất nhiều đồng bào vô tội ngã gục

Đã nửa thế kỷ trôi qua sau khi Bình Long quê hương tôi phát trên đài phát thanh Sàigòn những ngày này. Vẫn là một buồn bã. Vô hạn. Nhưng câu “Bình Long thân yêu ơi, Bình Long hai tiếng thảm thương”, chỉ một câu này thôi, xoá hết “Nở ngàn hoa chiến công ta dâng lên Người” của Huy Thục, Đại tá Quân đội Nhân dân. Trần Vũ
 
Khoảng 4 giờ sáng ngày 13 tháng 4 năm 1972, cả thị trấn An Lộc, quân cũng như dân, đều co mình lại dưới hầm trú ẩn vì một loạt pháo khủng khiếp với chừng 500 trái toàn là hỏa tiễn 122 ly phóng liên tục vào thị trấn. Quân phòng thủ biết ngay đó là dấu hiệu địch sắp tấn công. Sau trận pháo kích, khoảng 6 giờ 45 phút, một đoàn chiến xa từ 3 mặt xông thẳng vào thành phố. Chúng chia ra mỗi toán chừng 15 chiếc, trong đó có cả M41 và M113 của ta mà địch lấy được ở Lộc Ninh.
 
Bị tấn công bất ngờ bằng chiến xa, tuyến phòng thủ phía Bắc của An Lộc đã bị thủng. Một số chiến xa lọt vào trên các đường phố, hạ nòng súng đại bác 100 ly bắn phá dữ dội. Nói đến chuyện bắn hạ chiến xa địch, một người có công trạng đầu tiên mà ít ai biết đến đó là một anh Nhân Dân Tự Vệ. Khi thấy chiến xa địch nghênh ngang tiến vào, anh này giận quá, chĩa cây M72 bắn một phát cho đỡ tức, không ngờ phá thủng một lỗ bên hông chiếc T54 và xe bốc cháy. Tin được báo lên, Ðại Tá Nhựt liền ra lệnh xuất kho, mang hết M72 ra phát cho các đơn vị. Niềm tin tăng lên nhanh, và những người được trang bị M72 bắt đầu hào hứng lùng bắn tăng của địch.
 
Một điều làm cho chính những lực lượng phòng thủ ở An Lộc cũng ngạc nhiên về chiến thuật của địch quân, những chiếc chiến xa đầu tiên hùng hổ xông vào thị trấn rồi ngơ ngác, lạc lõng, chạy khơi khơi giữa đường để 15 chiếc vừa T54 vừa PT76 bị quân ta bắn hạ, sau đó, khoảng 3 ngàn khinh binh tùng thiết mới tràn vào tấn công. Người ta nói sự thiếu phối hợp này của địch là một may mắn cho An Lộc, nếu không, cái thị trấn nhỏ bé này với một quân số phòng thủ quá chênh lệch, chưa chắc đã qua khỏi đợt tấn công đầu tiên. Nhưng nếu xét cho cùng, thì đây là kết quả một kinh nghiệm làm việc của Ðại Tá Nhựt. Khi được báo cáo đầy đủ danh sách những tên nằm vùng, ông để yên không đụng tới. Giờ phút cuộc chiến bắt đầu căng thẳng, mới ra lệnh bắt trọn. Bởi vậy, khi chiến xa địch tiến vào, chúng không có người hướng dẫn. Một phần những lực lượng tùng thiết của địch bị trực thăng võ trang làm cho chậm lại, một phần nhờ sử dụng loại đại bác 105 ly gắn trên máy bay AC130, trực xạ xuống mục tiêu rất chính xác. Theo kinh nghiệm, Ðại Tá Nhựt cho rằng Cộng quân rất sợ loại đại bác này.
Tuy vậy, với lực lượng hùng hậu, khoảng gần trưa, địch đã chiếm được một phần ba thành phố về phía Bắc. Ðó cũng là khu vực đông dân cư và khu vực buôn bán chính của thị trấn. Dân chúng trong vùng vừa bị địch chiếm đã bất chấp bom nổ trên đầu, đạn bay dưới đất, bồng bế, dắt nhau chạy ùa qua phần đất còn lại của quân ta.
 
Mặc cho súng phòng không đan thành một màn lưới lửa trên bầu trời An Lộc, Không Quân can thiệp tối đa. Bom nổ từng chuỗi dọc theo những đường tiến quân của địch. Những cao ốc vừa bị địch chiếm bị trúng bom, gạch ngói tan tành, chôn vùi luôn những người không chạy ra kịp.
 
Mấy chiến xa T54 bốc cháy, làm thành những cột khói đen mờ mịt. Từng đoàn người già trẻ, lớn bé, máu me bê bết, người chạy, người lết vào bệnh viện. Tiếng la, tiếng khóc, tiếng kêu gọi nhau bị chìm mất trong tiếng bom đạn nổ không dứt. Và chỉ trong buổi sáng hôm nay, một thị trấn bé nhỏ với 15 ngàn người dân hiền hòa, đang sống yên ổn bình lặng bỗng chốc biến thành một địa ngục giữa chốn trần gian.
 
Buổi chiều cùng ngày, khi tiếng súng đã thưa dần, một vài người dân từ dưới hầm bò lên, chỉ mới sau một buổi, họ không còn nhìn ra thành phố thân yêu của họ nữa. Nhưng hai phần ba thành phố vẫn còn đứng vững. Niềm tự hào là mặc dù lực lượng của hai bên quá chênh lệch, phía địch quân, vòng trong, vòng ngoài gồm một lực lượng 30 ngàn quân chính quy, với chiến xa và trọng pháo đủ các loại, từ bích kích pháo 82 ly, đến hỏa tiễn 122 ly, quân ta chống trả một cách anh dũng, với quân số chưa đến 8 ngàn, không chiến xa, không trọng pháo, chỉ nhờ vào tinh thần quyết chiến và sự yểm trợ của Không Quân để kéo lại thăng bằng.
 
Bây giờ An Lộc đã trở thành một địa ngục, và cái trung tâm của địa ngục này là bệnh viện của thành phố. Những người còn nguyên vẹn sau bao nhiêu đợt mưa pháo thì cuộn mình lại như con cuốn chiếu nấp kỹ dưới hầm. Những kẻ bị thương đều tìm cách lết vào bệnh viện. Nhưng họ đến đây để được gì hơn? Thuốc men đã cạn, người sống, người chết nằm chen lấn nhau từ phòng này qua phòng khác. Những xác chết sình lên, những vết thương làm mủ hôi hám, máu me, tiêu tiểu lai láng giữa nền nhà. Ðiều quan trọng nhất mà họ quên là bom đạn đâu có phân biệt được nhà thương hay trại lính. Các bác sĩ làm việc ngày đêm trong bệnh viện với một tình trạng thiếu thốn và khổ cực. Y Sĩ Ðại Úy Nguyễn Văn Quý phải dùng những sợi nylon của bao cát, sát trùng bằng nước sôi để thay chỉ may vết thương khi giải phẫu.
 
Buổi sáng ngày 16 tháng 4, giữa lúc tình hình căng thẳng như vậy, một niềm vui chợt đến với mọi người. Tin Lữ Ðoàn I Dù, dưới quyền chỉ huy của Ðại Tá Lê Quang Lưỡng và Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Dù, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Phan Văn Huấn đang được trực thăng vận đổ xuống tiếp viện cho An Lộc. Hai lực lượng cùng đổ quân xuống Ðồi Gió và tiến vào thị trấn. Mặc dù đồi này đã được một đại đội Ðịa Phương Quân và một đại đội Biệt Ðộng Quân trấn giữ, nhưng Tiểu Ðoàn 6 Dù của Trung Tá Nguyễn Văn Ðỉnh vừa nhảy xuống là trúng pháo của địch, tổn thương khá nặng. Nhìn những chiến sĩ Dù và Biệt Kích Dù thận trọng từng bước di chuyển, người dân ở đây thấy vững niềm tin hơn. Bộ Chỉ Huy của Lữ Ðoàn I Dù đóng chung với Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu của Ðại Tá Nhựt, và trấn giữ mặt Nam. Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Dù trấn ở mặt Bắc của thành phố, tiếp giáp với phần mới bị địch quân chiếm giữ.
 
Sau đợt tấn công thứ nhất, những trận pháo kích dữ dội lại tiếp tục, ngày cũng như đêm, với số lượng cỡ 3, 4 ngàn trái pháo mỗi ngày. Nhưng chuyện pháo kích đã trở nên bình thường, bởi vì đến hôm nay, lo sợ vì pháo kích đã tuột xuống hàng thứ hai, thứ ba. Những điều lo sợ trước mắt là lương thực, nước uống và có thể một trận dịch nào đó sẽ xảy ra bởi tình trạng cuộc sống thê thảm như thế này. Tội nhất là những đứa bé sơ sanh, người mẹ vì lo sợ quá đã tắc sữa, mà sữa hộp thì tìm đâu cho ra trong giây phút này. Quốc Lộ 13 vẫn bị Công Trường 7 đắp mô, đóng chốt, kiểm soát trên một đoạn dài 20 cây số, giữa Chơn Thành và An Lộc. Việc tiếp viện bằng đường bộ không thể thực hiện được một sớm, một chiều. Mọi người trông chờ một con đường khác: thả dù. Và những điều mong chờ đã đến. Một buổi sáng đẹp trời, những bành dù từ trên máy bay C130 thả xuống. Những bành dù đầu tiên là súng đạn. Những bành sau mới có lương khô. Tinh thần từ dân đến quân lên rất cao. Sự phấn kích không phải chỉ đơn thuần vì súng đạn và thực phẩm được tiếp tế, mà những người đang tính tuổi đời của mình từng giây từng phút trong cái địa ngục trần gian này biết rằng những người ở ngoài không quên họ.
 
Những ngày sau đó, pháo của địch vẫn đều đặn rót vào thành phố, Cộng quân không mở một cuộc tấn công nào đáng kể. Người ta đoán rằng sau đợt tấn công thứ nhất, Công Trường 9 đã bị nát, nên rút ra để chấn chỉnh trước khi tung vào một đợt tấn công khác hầu dứt điểm An Lộc để kịp có một thủ đô hầu ra mắt chánh phủ lâm thời của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đúng vào ngày 20 tháng 4 năm 1972 như kế hoạch địch đã vạch ra.
 
Người dân An Lộc không vui vẻ tí nào khi nghe cái thị trấn nhỏ bé của mình được chọn làm thủ đô. Và giả sử như những bàn tay đạo diễn đầy máu kia có thể chiếm An Lộc để ra mắt một chính phủ trên đống gạch vụn điêu tàn này, thì làm sao xác của hàng trăm người dân vô tội còn nằm vất vưởng nơi đây có thể vỗ tay chào mừng chính phủ cách mạng của những người đến đây giải phóng họ?
 
Ðó là theo cung từ của một số tù binh mà ta bắt được và trong ba lô của mỗi tù binh đều có một bộ quân phục mới toanh, họ cho biết được phát để dành mặc vào ngày ra mắt chính phủ lâm thời.
 
Suốt đêm ngày 10 và rạng ngày 11 tháng 5 năm 1972, một trận pháo kích tưởng chừng như thành phố An Lộc sẽ sụp luôn xuống lòng đất. Có lẽ cả trung đoàn pháo của địch cùng nhắm vào đây mà khai hỏa một lần. Ðại Tá Nhựt đã thức giấc từ hồi nào, tiếng của ông điều quân qua máy truyền tin lớn hơn mọi khi vì tiếng pháo nổ ầm ầm không dứt. Phòng tuyến của quân ta đã chia sẵn: hướng Bắc An Lộc, trong khu phố đã bị đổ nát vì đợt tấn công lần đầu được trấn giữ bởi Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Dù, hướng Ðông Bắc do Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân. Hướng Ðông do hai đại đội Ðịa Phương Quân cùng mấy trung đội Nghĩa Quân và Nhân Dân Tự Vệ, hướng Tây có Trung Ðoàn 8 và Trung Ðoàn 9 của Sư Ðoàn 5 Bộ Binh và Trung Ðoàn 52 của Sư Ðoàn 18 Bộ Binh, hướng Nam có Lữ Ðoàn I Dù trấn đóng. Các đơn vị này, tính đến hôm nay, không có đơn vị nào còn nguyên vẹn. Trung Ðoàn 9 bị nặng nhất ở trận Lộc Ninh. Trung Ðoàn 52 tổn thất lớn khi rút lui khỏi căn cứ HồngTâm. Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân cũng thiệt hại sau khi đổ quân vào An Lộc. Lữ Ðoàn I Dù có Tiểu Ðoàn 6 bị trúng pháo nặng khi vừa đổ quân xuống Ðồi Gió và bị chận đánh trên đường vào thị trấn, nhưng lực lượng này đã lập nhiều chiến công nhất. Chỉ có Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Dù là ít bị thiệt hại, vì họ có một lối đánh rất đặc biệt. Những chiến sĩ Biệt Kích Dù đục tường, đánh luồn từ nhà này qua nhà khác, dùng kỹ thuật giao chiến trong thành phố, đánh cận chiến, lưỡi lê và lựu đạn, lấy độc trị độc: đánh đặc công, đánh du kích.
 
Khoảng 4 giờ 30 sáng thì cường độ pháo kích đã tăng lên đến mức cực điểm. Có thể nói trong cái thành phố này, không có tấc đất nào là không bị đạn pháo rơi xuống. Khoảng 4 giờ 45 phút, Ðại Tá Nhựt tập họp các ty sở trưởng của các cơ sở hành chánh và bằng một giọng bình tĩnh, nhưng ai cũng hiểu là đã đến lúc rồi, ông ra lệnh cho mọi người sẵn sàng chiến đấu.
 
Khoảng 5 giờ thì tiếng pháo thưa dần, báo hiệu một đợt tấn công sẽ bắt đầu. Xe tăng của địch từ hướng Nam và Tây Nam tiến vào. Bộ Binh địch tấn công ào ạt ở hướng Tây và Ðông Bắc. Công Trường 5 đã từ Lộc Ninh kéo về phối hợp với Công Trường 9 quyết chiếm An Lộc. Không Quân yểm trợ tối đa. Tiếng mini-gun và tiếng của đại bác 105 ly từ trên các trực thăng và máy bay AC130 tạo nên một chuỗi âm thanh kỳ quái giữa lưng trời. Tiếng bom nổ át hẳn tiếng đạn pháo kích. Từ một anh Nhân Dân Tự Vệ đến một chiến sĩ Dù, mọi người đều chiến đấu một cách quyết liệt. Họ biết sự sống còn là trong giây phút hiện tại. Cả thế giới đang nhìn về cái thành phố bé nhỏ này. An Lộc còn hay mất là một ảnh hưởng chính trị lớn lao cho cả hai bên.
Khoảng 5 giờ 30 sáng, mọi người nghe những tiếng gió rít từ trên trời, khác hẳn với tiếng pháo, ban đầu còn nhỏ, sau tiếng rít lớn dần và một chuỗi những tiếng nổ long trời lở đất. Cả thành phố An Lộc rung rinh như muốn vỡ ra từng mảnh. B52 đang ‘trải thảm’. Loạt bom đầu tiên thả xuống sát vào tuyến phòng thủ của quân ta. Rồi những loạt bom khác tiếp nối, tạo thành một vòng khói lửa bao quanh thành phố An Lộc.
Khi trời hừng sáng tiếng pháo gần như đã dứt. Tuyến phòng thủ của Dù vẫn y nguyên, 5 chiếc T54 nằm như 5 đống sắt trước phòng tuyến. Ðiều đáng nói là Ty Cảnh Sát Bình Long đã bị 4 chiếc T54 tiến vào trước Bộ Chỉ Huy rồi mà vẫn bắn hạ được 2 chiếc, 2 chiếc còn lại phải tháo lui. Phòng tuyến của Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân và Nhân Dân Tự Vệ vẫn giữ được nguyên vẹn, mặc dù quân số bị tổn thất. Ðịch quân chiếm thêm được Ty Công Chánh và Ty Chiêu Hồi. Một sĩ quan cố vấn quân sự Mỹ cho biết, để yểm trợ cho An Lộc trong ngày hôm qua, đã có tất cả 26 phi vụ B52 được thực hiện. Có những phi vụ yểm trợ cho chiến trường Trị Thiên và Cao Nguyên, đang giữa đường, phải đổi hướng bay về An Lộc. Mỗi phi vụ có 3 chiếc B52, mỗi chiếc mang 54 ngàn cân bom. Có thể nói đây là một ngày ‘trải thảm’ lớn nhất trong lịch sử pháo đài bay B52. Ðại Tá Trần Văn Nhựt cho rằng, B52 vốn là không quân chiến lược, nhưng đã sử dụng ở An Lộc như không quân chiến thuật.
 
Trước ngày Cộng quân tấn công đợt này, Tiểu Khu Bình Long bắt sống được Thiếu Úy Nguyễn Thế Hòa, thuộc Tiểu Ðoàn Ðặc Công 228 của Công Trường 5, nên đã biết rõ kế hoạch tấn công của địch.
 
Cuộc chiến tạm lắng dịu. Mức độ pháo kích ngày nào nhẹ thì chừng một hoặc hơn một ngàn quả. Có ngày cũng 3, 4 ngàn quả. Ngày nào pháo kích nhẹ, Ðại Tá Nhựt đi vòng vòng thăm hỏi và kiểm soát từng công sự phòng thủ. Bởi vậy ông nắm vững tình hình, nên khi có chuyện gì, lệnh lạc của ông rất hợp tình, hợp lý. Ngoài việc lo phòng thủ, trên cương vị một tỉnh trưởng, ông còn phải lo cho dân chúng trong thị trấn. Vấn đề lương thực, thuốc men và bệnh tật trong những điều kiện như thế này, quả thực là một gánh nặng trên vai ông.
 
Những ngày đầu, sự lo sợ vì pháo kích và chờ đợi địch tấn công làm cho người ta quên đi những vấn đề khác. Bây giờ cuộc chiến thật là quái lạ. Ðịch và ta có nơi chỉ cách nhau một con đường. Bên ta có ai buồn buồn xách súng M79 bắn qua bên kia vài phát, địch bắn trả lại vài phát, cũng bằng M79. Các khu trục A37 của ta dội vài chục trái bom xuống vòng vây bên ngoài, địch phóng vào thành phố vài chục trái hỏa tiễn trả đũa.
Mọi sinh hoạt không xa quá cái hầm trên 10 thước. Tiền bạc không dùng trong việc mua bán nữa, mà thuốc lá trở thành một loại tiền tệ mới. Thuốc lá có thể đổi lấy gạo, thức ăn, máy móc, đồng hồ… Ðiều mà người ta lo sợ đã thấy trước mắt: dịch tả. Hàng chục trẻ em hai mắt trũng sâu, người gầy như bộ xương rồi lả đi mà chết. Một người đàn ông Thượng vạm vỡ, chỉ mới ói mửa và tiêu chảy một ngày là chết. Ðích thân Ðại Tá Nhựt phải liên lạc với Sài Gòn để xin tiếp tế thuốc.
 
Ðịch vẫn pháo kích đều đặn vào An Lộc. So với những ngày trước, có ngày cường độ pháo kích lên đến 10 ngàn quả, bây giờ chỉ còn trên một ngàn. Người dân An Lộc nay cũng như người sống trong một miền mưa dầm, nếu đợi tạnh mưa rồi mới ra khỏi nhà thì đợi đến bao giờ, cho nên đến hôm nay, thành phố đã thấy một vài sinh hoạt. Cứ ‘đội pháo’ mà đi, trời kêu ai nấy dạ.
CÒN TIẾP /Kỳ 20
KMD, 1972
------------------
 
 
Kiều Mỹ Duyên – Chinh Chiến Điêu Linh (kỳ 20)
  MƠ CHÚT ÁNH MẶT TRỜI
Giấc mơ người tị nạn là quay về cố hương, nhưng than ôi, quê hương chưa thật sự thanh bình, người tị nạn hưu trí ở khắp nơi trên thế giới có về Việt Nam ở được không? Nếu ở quê nhà mà câm không nói gì, thấy cảnh bất bình mà nhắm mắt làm ngơ thì không phải là con người có sự công bình, nhưng nếu thấy cảnh bất bình lên tiếng thì nhà tù mở rộng, đừng nghĩ người tị nạn bây giờ có quốc tịch Mỹ, Anh, Pháp, Úc về Việt Nam nói gì thì nói, nhà tù vẫn chờ đợi quý vị đó. (Kiều Mỹ Duyên)

Tôi đứng bên giường bệnh của Trung Tá Dương ở trại sĩ quan cao cấp tại Tổng Y Viện Cộng Hoà. Hôm nay trông ông đã khỏe hơn. Trung Tá Dương có hứa với tôi lúc nào khỏe, ông sẽ kể cho tôi nghe một niềm ước mơ của ông, một ước mơ thật là nhỏ, gần như vô nghĩa và đã hơn nửa đời người, chưa bao giờ ông nghĩ có lúc mình lại ước mơ một điều như vậy. Trung Tá Dương châm một điếu Bastos Quân Tiếp Vụ, rồi bằng một giọng rất linh động, ông kể lại cho tôi nghe những ngày khốn khổ đã qua.

Lúc 3 giờ 30 sáng hôm đó, tôi ra lệnh cho Chi Ðoàn 3/1 Thiết Kỵ di chuyển về phía Nam của Lộc Ninh. Còn tôi thì vẫn nằm tại ngã ba Bố Ðức. Khoảng 4 giờ sáng Chi Ðoàn 3/1 còn cách Lộc Ninh chừng 2 cây số, đến cua Chùm Bao thì bị mìn. Hai thiết giáp bị hư. Ðịch mới chôn mìn hồi đêm. Trời vừa sáng thì thêm một chiếc M41 bị Việt Cộng bắn cháy ngay trên bãi mìn. Cùng lúc đó, tôi được lệnh của Tướng Hưng phải về tiếp viện cho Lộc Ninh gấp. Tôi lên xe để thúc chi đoàn cố gắng vượt qua khỏi chỗ đó.

Tôi ngồi trên thiết quân vận để đốc chiến và định đi theo về hướng của Chi Ðoàn 3. Di chuyển được 2 cây số, tôi nghi thế nào cũng bị phục kích, nên ra lệnh đi vòng vào rừng cao su về phía Tây. Khi còn cách sau lưng Chi Ðoàn 3 chừng một cây số rưỡi, tôi thấy đằng trước nhiều bóng người lố nhố, chưa biết là địch hay bạn. Tôi lấy ống nhòm để quan sát thì Việt Cộng núp trong rừng, một bên hông của đoàn xe, bắn một trái B40 vào ngay xe tôi làm tài xế bị thương nặng, xe bốc cháy ngay. Tôi vừa nhảy ra khỏi xe, chúng bồi thêm một phát nữa bay nắp pháo tháp. Hai xe đằng sau tiến tới, vừa dập lửa vừa dàn ra bắn yểm trợ. Việt Cộng không dám xông ra. Chiếc thiết quân vận sau khi dập tắt lửa rồi vẫn sử dụng được. Tôi trở lại xe điều động chi đoàn phía Bắc kéo về. Lúc đó trên mặt tôi đã bị những mảnh đạn nhỏ ghim vào.

Trung Tá Dương ngừng lại một lát, đưa tay sờ lên má, tưởng như những mảnh đạn còn ghim trên mặt. Ông lại châm thêm một điếu thuốc Bastos nữa.

Chúng tôi được lệnh tấn công để chiếm đồi Lộc Tấn.
Lúc đó pháo binh ở Lộc Ninh đã hết yểm trợ cho chúng tôi rồi. Mấy cây 105  quỵ hết vì pháo của địch. Tiểu Ðoàn 74 Biệt Ðộng Quân đã bỏ căn cứ Alpha. Chúng tôi tấn công và chiếm được hai phần ba ngọn đồi. Ðịch vẫn bám chặt. Chúng rất đông, trùng trùng, điệp điệp. Lúc đó tôi thấy đóng quân ban đêm trong rừng cao su không có lợi, nhưng không thể nào theo Quốc Lộ 13 mà về Lộc Ninh được. Nhìn tình hình, tôi biết mình đã bị vây. Sau này mới biết các đơn vị của địch lúc đó gồm Công Trường 5, Công Trường 7, Công Trường 9, một trung đoàn pháo và một trung đoàn thiết giáp.
Xe tăng của chúng không dám đương đầu với chúng tôi, chỉ dàn ra ở phía Tây Nam Lộc Ninh. Việt Cộng sợ mang chiến xa đương đầu sẽ bị bên mình có Không Quân yểm trợ tiêu diệt. Cho nên địch chỉ dùng bộ binh chận thiết giáp của mình ở phía Bắc, không cho về cứu Lộc Ninh.

Bởi vậy, khi chiếm xong hơn phân nửa ngọn đồi, tôi thấy không thể đóng quân ở đây được, nên cho lệnh rút về ngã ba Bố Ðức. Chúng tôi còn 4 khẩu 105 ly, sau khi bắn hết đạn, tôi xin lệnh phá hủy rồi đi bọc về hướng Ðông, định đến đêm sẽ băng qua Quốc Lộ 13 để tiến về xã Lộc Thiện.

Chiều hôm trước, Ðại Úy Chi Ðoàn Trưởng bị thương ở mặt, tôi chỉ định Ðại Úy Mai Ðình Thành làm Chi Ðoàn Trưởng. Chi Ðoàn Phó lại tử thương, Trung Úy Chu Văn Tần thay thế. Chi Ðoàn của Ðại Úy Thành băng qua Quốc Lộ 13, chiếm một ngọn đồi nhìn xuống xã Lộc Thiện, nhưng sau đó bị Cộng quân chận lại. Ðịch quân tràn ngập các ngọn đồi và vây chặt một chi đoàn thiết giáp vào giữa.

Tôi hướng dẫn Bộ Chỉ Huy Thiết Ðoàn đi theo tôi về hướng Tây Nam, qua các hàng phòng thủ, địch bắn vào xe tôi nhiều phát nhưng không trúng. Anh xạ thủ của tôi bị một băng AK hớt đứt 3 ngón tay. Mấy xe đi đằng sau bắt đầu bị rối loạn hàng ngũ và sau đó thì bị thất tán. Tôi tiến về hướng Tây Nam, ở đây thấy rất nhiều hầm hố phòng thủ, hình như là hậu tuyến của địch quân. Tôi thấy dưới chân một ngọn đồi, có một tên đang nằm võng và một tên khác đang nấu nước. Hai tên này có lẽ là bệnh binh, thấy chúng tôi xuất hiện bất ngờ, mặt mày tái xanh, vừa chạy vừa té bò càng.

Lúc đó tôi chỉ còn hai xe. Quan sát các đồi chung quanh, tôi thấy địch đã bố trí xong cả rồi, nên tôi phải đi vòng qua hướng Tây, sát với khu rừng Cấm. Gọi là rừng Cấm vì Việt Cộng cấm dân đến đây đốn cây làm củi. Tôi liên lạc với L19, xác định vị trí của tôi, để nhờ dẫn giùm mấy chi đoàn thất tán về vị trí tôi, nhưng không có xe nào ra khỏi vòng vây được.

Tôi định tìm đường chạy vòng qua Lộc Thiện để hướng về phía Nam của sân bay Lộc Ninh, nhưng đi được một đoạn thì đã thấy Cộng quân giăng hàng đón chúng tôi và vây lại. Tôi cho lệnh phá máy truyền tin, lấy gạo sấy mang theo, tập trung lại còn 24 người cả Biệt Ðộng Quân và Thiết Giáp. Chúng tôi bỏ xe, hướng vào rừng tìm đường mà tránh sự truy kích của quân địch. Chúng tôi lẩn tránh trong rừng một ngày, một đêm. Ðến 6 giờ sáng ngày 7 tháng 4 thì bị lọt vào lực lượng trừ bị của Cộng quân cách Lộc Ninh chừng 3 cây số, và bị chúng bắt giữ.

Trung Tá Dương kể chuyện rất mạch lạc, như những sự việc vừa mới xảy ra ngày hôm qua. Thỉnh thoảng ông dừng lại, châm điếu thuốc rồi kể tiếp.

Chúng tôi bị trói hai tay đằng sau lưng bằng dây kẽm. Chúng thẩm vấn qua loa rồi bảo tôi gọi Ðại Tá Vĩnh ra đầu hàng. Một lát sau chúng bảo với tôi là Ðại Tá Vĩnh cũng đã bị bắt rồi. Chúng mở dây kẽm cột tay cho tôi, hai cổ tay đã sưng húp. Chúng bắt tôi cởi giày ra, tôi nói không có giày, tôi không đi chân trần được. Chúng cho tôi mang giày nhưng tháo dây buộc giày ra. Như vậy lại càng khó đi hơn nữa.

Ði mất một ngày và một đêm, chúng đưa tôi đến một trại giam gần Quốc Lộ 7, cách Snoul chừng 10 cây số về phía Tây Nam. Ðến trại này, tôi bị cùm hai chân vào một cái cùm gỗ. Cùm làm bằng hai tấm gỗ dày, mỗi tấm có khoét hai hình bán nguyệt. Tôi và một anh lính Biệt Ðộng Quân khánh thành bộ cùm của trại đầu tiên. Anh lính này nói với tôi, chúng nghi em là sĩ quan nên nhốt chung với Trung Tá.

Mỗi ngày chúng lôi tôi lên một cái chòi nhỏ để thẩm vấn về tình hình Lộc Ninh. Bị thẩm vấn suốt ngày từ sáng tới chiều, nên tối đến, khi trở về trại, xỏ chân vào cùm xong, nằm ngã xuống đất là ngủ thiếp đi, mặc cho muỗi rừng và kiến cắn đầy cả mặt mũi, chân tay.

Hai hôm sau có một toán khác bị dẫn đến nhốt chung. Sáng ngày mồng 10, chúng đưa Ðại Úy Trúc, Tiểu Ðoàn Phó Tiểu Ðoàn 74 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng và tôi ra Quốc Lộ 7, ngay Mimot, và đưa vào doanh trại của Bộ Tư Lệnh Dã Chiến của Công Trường 5. Chúng lại thẩm vấn về tình hình quân sự và bắt tôi đi trong rừng cao su để quay phim.

Ngày hôm sau thì Ðại Tá Vĩnh được giải tới. Bốn hôm sau nữa, chúng đưa Ðại Tá Vĩnh, Ðại Úy Trúc và tôi lên xe jeep, xe của Trung Cộng, giải về trại giam phía Tây Bắc Mimot. Chúng dùng dây xích, xích cổ ba chúng tôi lại với nhau.

Bị xích ở trong trại này chừng một tuần lễ, chúng bắt đầu tuyên truyền và dụ hàng. Dụ chúng tôi vào Phong Trào Liên Minh Dân Chủ của Luật Sư Trịnh Ðình Thảo thì sẽ cho làm thành viên và đời sống sẽ khá hơn. Chúng tôi chẳng có ai đáp ứng, nên sau đó, cứ chừng 2, 3 giờ sáng, chúng lại kêu lên thẩm vấn. Hai ba tên cán bộ thay nhau thẩm vấn một người. Thẩm vấn xong lại dụ hàng, nhưng không có kết quả.

Chúng thay đổi phương pháp tuyên truyền. Mỗi ngày, vào buổi trưa, chúng bắt tất cả anh em chúng tôi tập trung lại ngồi nghe đài của Việt Cộng khoảng 45 phút. Chúng tôi ngồi nghe mà đầu óc thì cứ nghĩ chuyện đâu đâu, nên chúng bắt nghe hôm nay, ngày mai phải tóm tắt lại. Nhưng rồi chẳng ai nhớ gì để mà trả bài.
Một cánh tay của Trung Tá Dương không cử động theo ý muốn được vì đang chuyền Dextrose. Khi kể lại những ngày tháng bị đày ải trong lao tù, đôi mày của ông nhíu lại vì vẫn còn xúc động.

Ðến tháng 7 chúng mới cho mỗi người một cái võng. Tối ngày 26 tháng 7, tới giờ đi ngủ, tôi lấy ống tre, chổi quét nhà và mấy khúc gỗ bỏ vào võng, đắp chăn lại, để khi lính gác đi kiểm soát, chúng tưởng tôi đang ngủ. Ngụy trang xong, tôi bò ra khỏi trại và tìm đường vượt ngục. Mới đi vòng vòng chừng được 400 mét, thì đụng đầu với một toán đi hội họp đâu về và bị chúng bắt lại, xích chân nhốt thêm 3 tháng 2 ngày nữa.
Tôi phải nhiều lần xác nhận việc vượt ngục là chỉ một mình tôi làm, không có liên quan đến người khác. Nhưng sau đó, chúng giải Ðại Tá Vĩnh và Trung Tá Nguyễn Văn Thông, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 53 Pháo Binh, mới đến sau này đi qua làng khác. Còn lại một mình tôi, tôi nghĩ thầm, chắc không bao giờ có ngày về nữa.

Những ngày bị xích và nằm một mình trên võng trong trại giam giữa rừng núi âm u, bệnh sốt rét hành hạ từng cơn. Những lần thức giấc giữa đêm khuya, chung quanh chỉ toàn một màu đen tối và những âm thanh ghê rợn của núi rừng, làm cho tôi cảm thấy mình đang sống trong một địa ngục. Tôi sợ nhất là những chiều mưa rừng. Rừng núi đã âm u, lạnh lẽo, khi một cơn mưa đổ xuống, ánh sáng chỉ còn là những vệt mờ phản chiếu trên màu xanh của lá rừng, gây nên một cảm giác như chung quanh mình cái gì cũng xanh xao, lạnh lẽo và có vẻ ma quái…

Suốt một thời gian dài sống trong cảnh âm u của rừng núi như thế, bỗng nhiên tôi thấy ánh mặt trời thật là quý. Tôi ao ước buổi sáng được đứng giữa cánh đồng trống, nhìn mặt trời đang lên, sưởi ấm mình trong ánh nắng ban mai. Và đó là một ước mơ nhỏ của một người tù như tôi.

Tháng 8 năm 1972, những người bị bắt được hướng dẫn làm phiếu tù binh, lăn tay và chụp hình. Chúng tôi đoán chắc có biến chuyển gì đây. Ai cũng hy vọng vì mọi người đã kiệt quệ vì bệnh sốt rét rừng, phù thủng và ghẻ lở. Nhưng những hy vọng của chúng tôi dần dần trôi đi theo ngày tháng.

Mãi đến chiều ngày 20 tháng 3 năm 1973, trại giam ra lệnh cho chúng tôi gom đồ đạc cá nhân, tập trung lại để di chuyển đi nơi khác, trại biên phòng số 27. Sau đó lại dẫn về gần Mimot, phía Bắc của Thiện Ngôn, cách Tây Ninh khoảng 8 cây số, trong một khu rừng tre, có làm sẵn một cái chòi để tạm trú.

Trong số 35 người, Ðại Tá Vĩnh bị bệnh nặng, đi không nổi, cũng chẳng ăn cơm cháo gì được. Ðến lúc này, Việt Cộng mới cho chúng tôi biết là chúng tôi sẽ được trao trả vào ngày 23 tháng 3. Ngày 21 lại di chuyển sang một trạm khác. Ngày 22, chúng tôi được xe của chúng chở về Thiện Ngôn lúc 2 giờ đêm. Vì di chuyển lui tới cực khổ, đến hôm đó Ðại Tá Vĩnh bị mê man. Chúng sợ ông chết, nên cho nằm trên băng ca.

Ðến Thiện Ngôn, toán chúng tôi được dẫn vào một cái chòi mới cất lên cách đường cái chừng 50 mét. Lúc thì chúng bảo các anh sẽ được trao trả vào ngày 24, lúc thì nói là ngày 25. Chúng tôi nôn nóng, đếm từng giây từng phút, cầu mong cho mọi chuyện suôn sẻ, đừng có gì trục trặc để sớm về với anh em đồng đội, với gia đình, vợ con.

Nhưng sáng ngày 23, chúng bảo các anh chuẩn bị để đến sân bay Thiện Ngôn. Khi đến sân bay, chúng bắt toán của tôi đi chầm chậm để dàn cảnh quay phim. Băng ca của Ðại Tá Vĩnh được đưa lên trực thăng trước. Còn tôi với Trung Tá Thông thì chúng bắt đứng ở dưới để chụp hình. Bỗng có ai kéo mạnh tay tôi và đẩy lên trực thăng. Anh Thông cũng được đẩy lên và trực thăng cất cánh ngay. Tôi chưa biết ai đã đẩy hai anh em tôi lên máy bay như thể cướp người vậy, khi quay lại mới thấy Ðại Tá Ðắc đã ngồi sẵn đó, vừa thấy chúng tôi là ông cho bốc lên ngay.

Trực thăng hạ xuống Tây Ninh chừng 10 phút. Ðại Tá Tỉnh Trưởng hướng dẫn các phái đoàn xã hội và tôn giáo của tỉnh Tây Ninh ra đón mừng tại phi trường. Vì Ðại Tá Vĩnh vẫn mê man, nên chúng tôi không rời trực thăng. Sau đó chúng tôi được đưa thẳng vào Tổng Y Viện Cộng Hoà để điều trị.

Kết thúc câu chuyện, Trung Tá Dương thở dài một cái như muốn chấm dứt sự xúc động. Ðôi mày của ông cũng hết nhíu lại để hồi tưởng. Tôi hỏi:
– Bây giờ Trung Tá có những ước vọng gì cho đời sống cá nhân của mình không?

Trung Tá Dương lắc đầu:
– Thật tôi chẳng có ước vọng gì. Bây giờ vẫn muốn tiếp tục ở trong binh chủng Thiết Giáp. Tôi có vợ với 4 con. Con lớn nhất 15 tuổi, nhỏ nhất là 5 tuổi. Gia đình tôi hiện vẫn ở trong trại gia binh ở Long Xuyên. Suốt những năm trong quân ngũ, tôi đã phục vụ khắp bốn vùng chiến thuật, tôi vẫn ao ước gom được chút tiền còm mua cái nhà nhỏ ở Sàigòn cho vợ con về đây sinh sống, nhưng đã bao năm nay, tôi chưa lo gì được cho vợ con tôi hết.

Mấy hôm sau tôi trở lại thăm Ðại Tá Vĩnh, Trung Tá Thông và Trung Tá Dương để tặng báo thì các vị này đang sửa soạn để chuyển qua trại An Dưỡng ở Gia Ðịnh. Riêng Trung Tá Dương lại trở bệnh nặng, nên vẫn nằm ở trại cũ và tiếp tục chuyền Dextrose.
CÒN TIẾP /Kỳ 21
KMD, 1973

-------------

Kiều Mỹ Duyên – Chinh Chiến Điêu Linh (kỳ 21)

NHỚ RỪNG
Lớn lên trong một đất nước chiến tranh, sự hy sinh cao cả nhất là hy sinh tánh mạng của mình. Người này có thể cho người kia tiền bạc, danh vọng, địa vị trong xã hội, nhưng cho cái mạng của mình là quý giá nhất, là hy sinh cho Tổ Quốc, hy sinh mạng của mình cho người khác sống. Người mẹ bồng con ra bờ sông, cắt tay lấy máu của mình để lo cho con sống, còn mình thì chết, vì lúc đó không có thức ăn. Người mẹ tị nạn Cộng Sản hy sinh mạng của mình cho con của mình, nhưng ở đây với người lính, sự hy sinh mạng của mình cho Tổ Quốc, hy sinh mạng của mình cho đồng bào mình sống, sự hy sinh đó thật đáng ngưỡng mộ và vô cùng cao cả. (Kiều Mỹ Duyên)

Buổi sáng ngày 16 tháng 5 năm 1973, một buổi lễ kỷ niệm 8 năm thành lập Sư Ðoàn 18 Bộ Binh được tổ chức trọng thể dưới sự chủ tọa của Trung Tướng Trần Văn Minh, Tư Lệnh Quân Ðoàn III/Quân Khu III. Các đơn vị kết nghĩa, các vị Mạnh Thường Quân của Sư Ðoàn 18, các đại diện của các quân binh chủng Hải, Lục, Không quân, các đại diện của ngoại giao đoàn… đến tham dự rất đông đảo.

Sau 8 năm tác chiến, Sư Ðoàn 18 Bộ Binh đã lập được nhiều chiến công lẫy lừng. Tính đến ngày hôm nay, Sư Ðoàn 18 Bộ Binh đã được 4 lần tuyên dương công trạng trước Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, mang dây biểu chương màu Quân Công Bội Tinh. Ðặc biệt hai năm gần đây, Sư Ðoàn 18 đã tạo thêm được nhiều chiến tích đáng kể và được thêm 3 lần tuyên dương công trạng nữa.

Trong dịp này, Tư Lệnh Quân Ðoàn III/Quân Khu III, Trung Tướng Trần Văn Minh trả lời các câu hỏi của báo chí về vụ tiền đồn Tống Lê Chân đang bị địch quân vây hãm như sau:
– Tống Lê Chân là một tiền đồn khó chiếm được trước ngày ngưng bắn. Việt Cộng lợi dụng sau ngày ngưng chiến đã trắng trợn tấn công căn cứ này. Ta có nhiều biện pháp để giải tỏa Tống Lê Chân, như tiếp tế bằng thả dù, nhưng lương thực ở đây đã dự trữ đủ ăn 3 tháng. Việt Cộng mong cắt đường tiếp tế của ta, ta chỉ phản ứng tự vệ, không vi phạm hiệp định ngưng bắn. Sức pháo của Việt Cộng đã giảm hai phần ba. Mình thả bom chung quanh để tiêu diệt pháo của địch và giải tỏa lần lần. Tóm lại, Tống Lê Chân bây giờ không có gì trầm trọng lắm.

Tướng Minh cũng cho biết, đến hôm nay chưa thấy triệu chứng gì để nói là Cộng quân sẽ đánh lớn ở Quân Khu 3 trong mùa mưa này.

Tống Lê Chân là điểm sôi động nhất sau ngày ký kết hiệp ước ngưng bắn. Căn cứ này đang bị bao vây bởi một trung đoàn Cộng quân. Ðịch pháo vào như mưa, ngày này tiếp ngày khác. Gia đình binh sĩ trú đóng ở Tống Lê Chân đã được di tản ra khỏi vùng lửa đạn. Một số được đưa về trại gia binh Phan Hạnh. Một số được đưa về làng cô nhi Long Thành. Những người vợ, những người mẹ vừa hãnh diện với sự chiến đấu của chồng, của con mình tại tiền đồn Tống Lê Chân, nhưng đồng thời họ cũng phập phồng lo sợ từng giây, từng phút cho sự an nguy của những người thân yêu nhất đời mình đang tử thủ tại một tiền đồn xa xôi hẻo lánh, ngày đêm chịu từng cơn mưa pháo long trời, từng đợt tấn công lở đất của địch quân. Trấn đóng tiền đồn Tống Lê Chân là Tiểu Ðoàn 92 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng, đa số binh sĩ của tiểu đoàn này là người Thượng.

Khi chúng tôi đến trại Phan Hạnh, trong hội trường đã đầy những gia đình binh sĩ từ Tống Lê Chân di tản về, Áo quần còn lem luốc bụi đường. Trẻ con đông hơn người lớn. Những em còn bé được các bà mẹ đai sau lưng, các bà ngồi bẹp trên nền nhà nói chuyện với nhau, nét mặt người nào cũng có vẻ âu sầu. Tôi chợt thấy một người đàn bà trẻ đứng dựa tường khóc rưng rức một mình. Người đàn bà có nước da thật trắng, nổi bật trong bộ bà ba màu đen, tóc đen mướt xõa dài. Người thiếu phụ này có dáng dấp của một nữ sinh vừa rời ghế nhà trường. Tôi đến bên cạnh chị hỏi thăm, chị cắn môi cho khỏi khóc nữa và tâm sự:
– Ba má tôi bị kẹt ở Bình Thạnh, Bình Long rồi không biết sống chết ra sao.
Chị là vợ của Hạ Sĩ Nguyễn Văn Nhơn đang đóng ở Tống Lê Chân. Chị nói tiếp:
– Tôi còn bốn đứa em ở đó, không đứa nào chạy thoát. Việt Cộng giữ lại hơn một năm rồi mà không có tin tức gì. Bây giờ tôi ở đây có một mình với đứa con nhỏ 4 tuổi, không có thân nhân nào hết.
Chị Nhơn vừa khóc vừa kể, hai mắt chị đỏ hoe:
– Chồng tôi đang đánh nhau ở Tống Lê Chân, tôi không nỡ bỏ anh mà đi, nhưng bị pháo quá, chồng tôi bảo tôi bồng con đi cho anh an tâm chiến đấu. Tất cả gia đình binh sĩ đều phải đi. Ngày đầu lên một chiếc C130, ngày sau có 4 chiếc Chinook đến chở tiếp. Hô đi là lên máy bay đi liền, chỉ kịp bồng con và mang theo mấy bộ quần áo.

Chị Út, vợ của Thượng Sĩ Mai Văn Út thấy đồng tình, đồng cảnh, góp chuyện:
– Ba má chồng tôi cũng vậy, bị kẹt hết rồi. Việt Cộng nó giữ lại, không cho ai đi hết. Tôi dọ hỏi hoài mà không được tin tức nào cả.
Một bà khác than:
– Về đây khổ quá cô ơi. Thứ gì cũng phải mua. Không có điện, buổi tối phải thắp đèn cầy hoặc đèn dầu. Nước đi gánh từng đôi mà phải trả tiền cho chủ giếng nữa, 40 đồng một phi. Nếu nước chuyền đến nhà thì 70 đồng một phuy. Tôi ở núi rừng quen rồi, muốn dùng bao nhiêu nước cứ ra suối, đâu có tốn đồng nào, về đây thứ gì cũng tốn.

Các bà tụ lại từng nhóm nhỏ, tâm sự với nhau về mỗi hoàn cảnh riêng của gia đình, hỏi thăm nhau về những thắc mắc trong cuộc sống tạm hôm nay. Những người đàn bà Thượng không nói được tiếng Việt ngồi với nhau thành một nhóm, họ ít nói, nét mặt người nào cũng có một vẻ buồn sâu kín. Họ lạc lõng giữa đám đông trong hội trường.

Tiểu Ðoàn 92 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng có trại gia binh ở ngay trong căn cứ Tống Lê Chân. Khi căn cứ này bị pháo kích dữ dội, Thiếu Tá Tiểu Ðoàn Trưởng phải cho di tản các gia đình binh sĩ đi nơi khác để cho anh em binh sĩ rảnh tay và yên tâm mà chiến đấu với quân thù.

Các gia đình ở Tống Lê Chân được đưa về ở nhờ trong trại gia binh Phan Hạnh của Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân. Trại Phan Hạnh có điện nước, nhưng không đủ cho những gia đình mới đến. Trại Phan Hạnh ở trên một ngọn đồi cao, nên vấn đề dẫn nước lên thật là một việc rất khó khăn. Nếu không đào giếng trong trại, thì nước sẽ rất khan hiếm.

Trong đám mấy bà đang đứng góp chuyện với nhau, tôi chợt thấy một em bé đứng cạnh đó lắng tai nghe người lớn nói chuyện. Em đứng một mình, có vẻ bơ vơ giữa đám đông. Tôi đến bên em hỏi thăm:
– Em nói được tiếng Việt không?
– Dạ được, cháu là người Việt.
Tôi thấy mến em ngay vì cách ăn nói lễ phép của em:
– Em bao nhiêu tuổi rồi? Em tên gì và ba má em ở đâu?
Ðứa bé có đôi mắt thật to, nói chuyện rất chững chạc:
– Cháu tên Lan, 13 tuổi. Ba má cháu chết rồi. Ba cháu chết ở Tống Lê Chân. Cháu có 6 đứa em nhỏ, má cháu dẫn các em cháu chạy trước, cháu chạy theo sau, rồi bị lạc. Sau nghe nói má cháu bị pháo kích chết. Còn các em cháu bây giờ không biết ở đâu.

Tôi xoa nhẹ lên mái tóc em và muốn nói với em một lời an ủi, nhưng rồi tôi không nói được một câu nào. Tôi nghĩ khi tôi mở miệng nói ra một lời an ủi nào đó, thì không biết là em bé Lan này, hay chính tôi, ai sẽ là người khóc trước. Tôi nhìn em, giữa đám người chạy loạn đó, em thật quá nhỏ bé và tuổi đời của em còn quá sớm để phải gánh chịu một sự bất hạnh lớn lao như thế.
An Lộc, sau cuộc chiến – photo Bruno Barbey
– Bây giờ em ở với ai?
– Cô áo đen kia nuôi em.

Người đàn bà mặc áo đen mà em bé chỉ cho tôi là vợ của Thượng Sĩ Danh Quang. Chồng chị vẫn đang chiến đấu ở Tống Lê Chân. Ngày đêm chị van vái Trời Phật cho chồng chị được bình yên trước lằn tên, mũi đạn.
Những người đàn bà Thượng có vẻ buồn bã hơn, hình như họ không hoà hợp được với khung cảnh ở đây. Một bà nói với tôi:
– Chồng tôi chết trận rồi. Hai đứa con, một đứa chết, còn một đứa này.

Bà chỉ vào đứa con đang đai trước ngực. Hình như đứa nhỏ đang bệnh. Tôi đặt tay lên trán em, thấy nóng hừng hực. Tôi hỏi:
– Sao chị không đưa cháu đi bác sĩ?
– Nó không đau gì, vì nó nhớ rừng đó. Chúng tôi ở đây bệnh quá.

Những người Thượng ở đây, qua câu chuyện, ai cũng nhắc đến rừng xanh. Họ mới xa rừng mấy ngày mà đã thấy nhớ rừng đến bệnh rồi. Rừng xanh gắn liền với cuộc sống của họ. Biệt Ðộng Quân Biên Phòng là hậu thân của Lực Lượng Ðặc Biệt. Ða số người Thượng thích vào Lực Lượng Ðặc Biệt, vì vào lực lượng này, họ được sống tại quê cha đất tổ của họ, được sống với rừng xanh, với thiên nhiên và với đồng bào của họ.
Phu nhân của Trung Tướng Trần Văn Trung cùng quý vị phu nhân, là những Mạnh Thường Quân của Sư Ðoàn 18 Bộ Binh, bắt đầu phát quà cho các gia đình binh sĩ từ Tống Lê Chân về đây tạm cư. Mỗi gia đình được một phần quà gồm có một ngàn đồng tiền mặt và chiếu, soong, nồi, chén bát… Phu nhân của Trung Tướng Trần Văn Trung nói:
– Bao giờ Việt Cộng còn ý định xâm lăng miền Nam, các anh chiến sĩ tử thủ Tống Lê Chân còn hăng say chiến đấu, là chúng tôi còn chia sẻ niềm kiêu hãnh và lo âu với các chị em.

Sau khi phát quà xong, các bà ngồi lại thảo luận để tìm cách giúp đỡ cho 80 gia đình cũng từ Tống Lê Chân được đưa về tạm trú tại làng cô nhi Long Thành. Những gia đình người Thượng về đây, hầu hết đều cảm thấy bơ vơ, lạc lõng. Họ khó lòng hoà hợp được với cuộc sống của những người ở thành phố. Họ nhớ mái nhà sàn, họ nhớ miếng rẫy, họ nhớ rừng xanh, họ nhớ chồng, nhớ cha, nhớ con của họ đang ngày đêm chiến đấu ở Tống Lê Chân. Họ mong sớm được trở về. Chúng ta chia sẻ với họ những tâm sự đó, và mong có thể mang đến cho họ những nụ cười.

Ðó là những mong muốn đơn giản mà phu nhân của Trung Tướng Trần Văn Trung bày tỏ và đang cố gắng thực hiện. Từ lâu nay, bà vẫn âm thầm nhưng rất tích cực trong các công tác xã hội và từ thiện. Một người có tâm hồn đẹp như phương danh của mình: Nguyễn Hoài Nam. Nghe nói ngày xưa bà cũng là một trong những người đẹp của đất Thần Kinh.
CÒN TIẾP /Kỳ 22
KMD, 1973
 
-----------
 

Kiều Mỹ Duyên – Chinh Chiến Điêu Linh (kỳ 22)

Giữa vùng đất đỏ
Tôi nhớ các học trò của tôi, trường Trung học Văn Hóa Quân Đội Quang Trung, quận Hóc Môn, tỉnh Gia Định, muốn vào trường học này phải là con của quân nhân. Các em học xong tú tài tình nguyện vào lính, có trò hy sinh lúc còn rất trẻ. Một học trò của tôi, mời tôi đi ăn cưới, một tuần lễ sau chú rể trở ra chiến trường. Mấy ngày sau, chú rể, chiến sĩ tử trận nơi sa trường. Cô giáo đi ăn cưới của trò tuần trước thì tuần sau đi đưa đám tang và cầu nguyện cho người ra đi về cõi Niết Bàn. Hồi đó, nghĩa trang quân đội ở Hạnh Thông Tây, quận Gò Vấp, gần Tổng Y Viện Cộng Hòa là nơi an nghỉ của rất nhiều người lính trẻ. Nghĩa trang Biên Hòa cũng là nơi an nghỉ của các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Hình của các chiến sĩ tươi cười trên mộ bia. Sau này, khi Cộng Sản chiếm miền Nam, nghĩa trang Tổng Y Viện Cộng Hòa bị san bằng, không biết hài cốt của các chiến sĩ bây giờ ở nơi nào? Tội nghiệp cho các chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ Quốc, nếu người nào được may mắn siêu thoát thì quá tốt đẹp, còn nếu người nào bị chết oan ức thì hồn còn lảng vảng đâu đây, tội nghiệp quá! (Kiều Mỹ Duyên)
 
Tôi đến thăm Sư Ðoàn 18 Bộ Binh vào những ngày đầu của tháng 4 năm 1973. Chuẩn Tướng Lê Minh Ðảo, Tư Lệnh Sư Ðoàn là một người rất hiếu khách, bất cứ một nhà báo hay phái đoàn nào đến thăm sư đoàn đều được tiếp đón rất niềm nở. Trong câu chuyện, Tướng Lê Minh Ðảo nhấn mạnh niềm hãnh diện của sư đoàn là người lính của Sư Ðoàn 18 Bộ Binh được trang bị bằng bốn ưu điểm: quân sự, tinh thần, khả năng và hoàn thành nhiệm vụ.
 
Ðiều tôi thấy ngoài bốn điểm tốt mà Tướng Lê Minh Ðảo vừa nêu lên, Sư Ðoàn 18 còn nhiều vấn đề khác rất đáng khoanh thêm mấy điểm son nữa, đó là tinh thần xã hội, vấn đề cô nhi quả phụ và tử sĩ, vấn đề lương bổng của anh em thương bệnh binh đang nằm điều trị tại bệnh xá của sư đoàn, vấn đề nhà thương, trường học cho gia đình binh sĩ… đều được những giới chức thẩm quyền của sư đoàn lo lắng rất chu đáo.
Tôi được Trung Tá Trưng, Tham Mưu Phó Chiến Tranh Chính Trị hướng dẫn đi thăm bệnh xá của sư đoàn. Bệnh xá của Sư Ðoàn 18 Bộ Binh nằm giữa một vùng đèo heo hút gió, một vùng đất đỏ nắng bụi mưa bùn của tỉnh Long Khánh. Theo cấp số thì bệnh xá này chỉ có 40 giường, nhưng trên thực tế, con số đã lên đến 150 giường. Trong những khoảng thời gian cuộc chiến gia tăng, như hồi mặt trận An Lộc còn sôi động, thương binh chuyển về đây tràn ngập, bệnh xá phải để hai người nằm chung một giường.
 
Tôi đã đi thăm nhiều bệnh xá của các sư đoàn khác, thường thường sự tổ chức chỉ đúng như bảng cấp số đã ấn định, còn bệnh xá của Sư Ðoàn 18 lại giống như một bệnh viện dã chiến cấp vùng. Sự phát triển đã gấp bốn lần của bảng cấp số, nghĩa là có khả năng tiếp nhận một lúc khoảng 300 thương bệnh binh để điều trị.
 
Bệnh xá này có được thành quả như ngày hôm nay là do công lao của Y Sĩ Thiếu Tá Thân Trọng Ðàm. Ông phục vụ tại bệnh xá này từ ngày còn mang cấp Trung Úy. Theo nguyên tắc, một y sĩ ra trường phục vụ ở tiền tuyến hai năm là có thể xin về Tổng y viện hoặc một nơi nào đó gần Sàigòn, nhưng bác sĩ Ðàm vẫn gắn bó với bệnh xá nằm giữa một vùng đất đỏ cát bụi mịt mờ.
 
Bệnh xá của Sư Ðoàn 18 đặc biệt thực hiện thêm được một trại sĩ quan, một trại giải phẫu và hồi sinh và một trại hộ sinh. Trung bình mỗi tháng khu ngoại chẩn khám trên một ngàn bệnh nhân. Mỗi ngày trung bình chụp hình phổi cho 100 tân binh quân dịch của sư đoàn. Phòng điện tuyến có thể chụp hình phổi, bao tử, tiết niệu, ngang với khả năng của một quân y viện.
Mức độ bệnh nhân lên xuống tùy theo mùa và theo tình hình chiến trường. Ngoài khả năng, bệnh xá sẽ chuyển bệnh nhân về quân Y Viện Trần Ngọc Minh hay Tổng Y Viện Cộng Hoà. Nhưng bệnh xá rất cố gắng giới hạn trong vấn đề chuyển bệnh.
 
Các trại bệnh đều khang trang sạch sẽ. Hiện có khoảng 100 bệnh nhân đang điều trị. Giường nào drap cũng được giặt trắng tinh, đồng phục của bệnh nhân đều sạch sẽ. Bệnh xá này hầu như tự túc đến mức tối đa. Không có máy giặt, nhân viên phụ trách giặt 300 bộ quần áo và hàng trăm tấm ra trải giường mà giặt bằng tay, thì đó quả là một sự cố gắng đáng khâm phục. Bệnh xá chỉ có 34 nhân viên phục vụ cho cả trăm bệnh nhân mỗi ngày trong tình trạng thiếu thốn, cái gì cũng phải tự túc.
 
Ðất Long Khánh mùa mưa không thể mang dép được, mà phải dùng guốc gỗ. Bệnh xá cung cấp guốc cho anh em thương bệnh binh. Trung Tá Trưởng Khối Chiến Tranh Chính Trị nói:
– Guốc rất cần trong mùa mưa. Chúng tôi xin thùng đạn về đẽo guốc. Quai guốc làm bằng dây dù.
Anh em cũng xin thùng đạn về đóng thành tủ sách. Tủ sách đã sẵn sàng, nhưng sách thì chưa có cuốn nào. Một bệnh nhân nói với tôi:
– Nằm dưỡng bệnh ở đây buồn lắm cô ơi. Nhìn ra bên ngoài là cát bụi và núi rừng, nếu có sách đọc thì đỡ buồn lắm. Sách là món ăn tinh thần của tụi tôi đó.
Tôi hỏi thăm anh:
– Anh thích đọc loại sách gì?
– Tiểu thuyết tình cảm, kiếm hiệp hay là sách gì cũng được. Miễn là có sách đọc cho đỡ buồn.
Tôi hỏi Trung Tá Trưng:
– Thưa Trung Tá, không có cách gì để lập tủ sách cho anh em thương bệnh binh sao?
Trung Tá Trưng lắc đầu:
– Chỉ có cách đi xin, chứ sư đoàn đâu có ngân khoản để mua sách.
 
Sách báo quả thật là một nhu cầu cần thiết cho những người đang nằm trên giường bệnh. Thời gian nằm dưỡng bệnh, chữa thương tại bệnh xá là thời gian người lính tạm quên chiến trường, nhưng họ lại chuyển hướng suy nghĩ về gia đình nhiều hơn. Không phải bất cứ người thương bệnh binh nào cũng có gia đình ở gần để được thân nhân thường xuyên đến săn sóc, thăm viếng. Có nhiều người gia đình ở tận Vùng I, Vùng II, với mẹ già, vợ dại, con thơ, lương lính nuôi cả gia đình, có dư được đồng nào đâu để chi phí cho tiền xe, tiền ăn, tiền ở khi vào thăm người thân.
 
Bệnh xá nằm trong một vùng gần rừng núi nên có khung cảnh thật vắng lặng, nhất là những buổi chiều mưa, bệnh nhân ngồi trên giường nếu không nhìn ra cửa sổ thì chỉ nhìn nhau. Màu áo xanh, khuôn mặt người nào cũng xanh mướt, những tiếng rên la vì đau đớn. Tất cả những màu sắc, âm thanh và sinh hoạt buồn nản đó ngày lại ngày, khiến cho tinh thần của thương bệnh binh dễ bị sa sút. Và sách báo có thể giúp cho họ qua được những khoảng thời gian buồn nản đó.
 
Hướng dẫn đi thăm các trại bệnh, Thiếu Tá Y Sĩ Thân Trọng Ðàm nói với tôi:
– Chúng tôi có 5 trại bệnh, nhưng chỉ 2 trại có tivi. Tội nghiệp bệnh nhân nào nằm điều trị tại các trại không có tivi, buổi tối buồn lắm.
 
Các trại bệnh cách nhau khá xa, nếu gặp mùa mưa, đất đỏ biến thành bùn rất lầy lội. Vì vậy ban đêm, thà bó gối ngồi trên giường tán gẫu với nhau còn hơn lặn lội qua xem ké tivi, bước nhằm vũng bùn thì chỉ nhấc được bàn chân lên, còn đôi guốc đã dính sâu dưới lớp bùn, không thấy đâu mà moi lên được.
 
Ðến trại bệnh có tivi, tôi thấy một cái tivi nhỏ đặt trong một chiếc hộp bằng gỗ gắn trên tường, nắp hộp có ổ khoá. Tới giờ xem tivi, phải có nhân viên trách nhiệm mở khoá. Xem xong đóng nắp hộp và khoá lại cẩn thận. Khi trở về phòng khách của Bộ Tư Lệnh, tôi nói về chiếc hộp đựng tivi cho Chuẩn Tướng Lê Minh Ðảo nghe. Ông nói:
– Ai cho bất cứ gì cũng quý lắm. Tôi vẫn nói với anh em trong sư đoàn là ai cho gì cũng nhận. Một chai xì dầu cũng hữu ích cho một gia đình binh sĩ vậy.
 
Sư Ðoàn 18 Bộ Binh có một nghĩa trang nằm ở An Lộc. Những ngôi mộ ở đây chôn không ngay hàng thẳng lối. Nghĩa trang này không chỉ riêng cho những tử sĩ của Sư Ðoàn 18, mà còn có các đơn vị khác nữa. Trước khi Sư Ðoàn 18 rút đi, anh em trong sư đoàn lấy ván của thùng đạn, dùng sơn viết tên họ, đơn vị của những người đã vĩnh viễn đi vào lòng đất mẹ để làm mộ bia, những tấm mộ bia thô sơ được dựng lên bởi tình đồng đội rất là thắm thiết của những người còn tiếp tục chiến đấu.
 
Chuẩn Tướng Lê Minh Ðảo nhắc chuyện An Lộc với giọng thật ngậm ngùi:
– Anh em chết ở An Lộc được bọc trong poncho. Tôi nhớ chuyện anh lính Dù đang đào hố chôn bạn thì trúng đạn pháo kích gục ngay xuống hố của mình vừa đào xong. Bác sĩ Châu chạy xe ngang qua, thấy anh này còn thoi thóp, ông ngừng xe lại để cấp cứu, rồi ông cũng bị trúng đạn pháo mà chết bên cạnh xác anh lính Dù.
 
Tôi cho anh em trong sư đoàn sửa sang lại nghĩa trang này trước ngày rút đi. Và hôm sau, trên đường di chuyển, khi đi ngang qua nghĩa trang, mọi người đều cúi đầu, nhớ đến ngày nào còn bạn bè đùa giỡn bên nhau, còn chiến đấu bên nhau, bây giờ rút đi, để lại một số nằm đây yên nghỉ. Mọi người, từ lính đến quan, ai cũng cúi đầu lặng lẽ bước đi. Ba lô và súng đạn không làm nặng đôi vai của người chiến sĩ, mà một sự mất mát nào đó làm tâm hồn họ trĩu nặng.
Tôi được xem mấy tấm hình của nghĩa trang này. Nghĩa trang rất rộng, những ngôi mộ nằm không thành hàng lối, mộ bia tấm lớn, tấm nhỏ. Tướng Lê Minh Ðảo nói tiếp:
– Tôi có vẽ sơ đồ của nghĩa trang và lập danh sách của tử sĩ gửi về Bộ Tổng Tham Mưu, Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị và một bản lưu ở sư đoàn để sau này khi đã yên, đường bộ đi được, thân nhân của các tử sĩ muốn đến thăm viếng hay cải táng có thể tìm được dễ dàng.
CÒN TIẾP /Kỳ 23
KMD, 1973 
-------------- 


Kiều Mỹ Duyên – Chinh Chiến Điêu Linh (kỳ 23)

Cuộc chiến Miền Tây
Người chiến sĩ đã ra đi làm tròn bổn phận của công dân tốt, nhưng vong linh của người chiến sĩ vẫn còn hiện hữu ở bên ta, linh hồn của họ vẫn còn phảng phất đâu đây. Hàng năm, mỗi lần ngày kỷ niệm cựu quân nhân, nhiều người tưởng nhớ đến họ. Gia đình, người thân, bạn hữu đâu thể nào quên được người thân của họ, đồng bào làm sao quên được những người đã hy sinh vì đất nước. Nhiều đồng hương từ các quốc gia trên thế giới hàng năm về thăm nhà đều đến đốt nhang ở Nghĩa Trang Biên Hòa để tưởng niệm người đã mất, dù họ đã mất hơn nửa thế kỷ, theo đạo Phật có người đã đầu thai thành người ở trên nhân gian, nhưng vẫn có người còn tưởng niệm đến họ, không quên họ.
 
Hỡi những chiến sĩ anh hùng, xin phù hộ cho những người đang sống trong tù dưới chế độ Cộng Sản, thương phế binh đang sống ở khắp các nẻo đường của đất nước Việt Nam, xin phù hộ cho người còn ở lại sẽ có một ngày có Tự Do, và người Việt Nam lưu vong khắp nơi trên thế giới sẽ có một ngày trở về sống ở Việt Nam, khi Việt Nam thật sự có Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền. Kiều Mỹ Duyên
 
Mỗi toà soạn của báo dân sự được Bộ Tổng Tham Mưu cấp cho hai thẻ ‘phóng viên chiến trường’. Những người do toà soạn đưa tên đều được An Ninh Quân Ðội điều tra lai lịch rất kỹ càng trước khi trình lên Bộ Tổng Tham Mưu. Thẻ của phóng viên chiến trường có hai mặt, một mặt tiếng Việt, và một mặt tiếng Anh, cùng nghĩa: ‘Các đơn vị quân đội kể cả quân đội đồng minh giúp đỡ mọi phương tiện di chuyển, thực phẩm cũng như chỗ ăn, chỗ ở cho phóng viên này’.
 
Trên nguyên tắc là vậy, nhưng không phải bất cứ lúc nào và ở đâu, cứ chìa thẻ báo chí ra là có phương tiện ngay cho mình. Phương tiện di chuyển, nhất là máy bay quân sự, lúc nào cũng ưu tiên cho hành quân, tải thương, tiếp tế… còn dư ra mới có chỗ cho phóng viên. Phương tiện của quân đội mình lại eo hẹp, nhiều lúc phải nhờ vả bên quân đội đồng minh, hoặc là những người mình quen biết thì dễ dàng hơn.
 
Tháng 3 năm 1971, tôi xin trực thăng từ Sàigòn về Cần Thơ. Ðây là lần thứ tư tôi về làm phóng sự ở miền Tây, một miền trù phú và có cuộc sống tương đối bình yên nhất ở miền Nam trong suốt mấy mươi năm chiến chinh đằng đẵng. Kể từ ngày Cộng Sản Bắc Việt đưa quân vào xâm lấn miền Nam, họ thừa hiểu rằng, miền Tây là kho lương thực trời cho vô tận, vậy mà họ không thể đụng đến, không thể xâm nhập, quấy rối nhiều như các vùng khác. Và đó cũng là một trong những câu hỏi chính của tôi trong lần về miền Tây này.
 
Ðến phi trường Cần Thơ, có xe đón và đưa tôi đi thăm một vài nơi đã định trước. Xe jeep mượn của Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chức, Cục Trưởng Cục Công Binh. Tướng Chức đang có mặt ở Vùng IV, nên tôi liên lạc trước từ Sàigòn để nhờ phương tiện. Tôi quen biết Tướng Chức từ lúc ông còn là Thiếu Tá Liên Ðoàn Trưởng Liên Ðoàn 30 Công Binh Chiến Ðấu đóng ở Hóc Môn. Lúc đó tôi là Hội Trưởng Hội Sinh Viên Học Sinh Hóc Môn, hội đã thăm viếng và ủy lạo các gia đình binh sĩ của Liên Ðoàn 30 khi trại gia binh của liên đoàn bị pháo kích.
 
Tôi đi theo một đại đội Chiến Tranh Chính Trị vào những làng xã nằm xa thành phố, những nơi mà người ta gọi là vùng xôi đậu để quan sát tình hình sinh hoạt, trong lúc các cán bộ Chiến Tranh Chính Trị khám bệnh, phát thuốc và quà cho đồng bào.
 
Buổi chiều trở về Cần Thơ, tôi nhờ tùy viên của Tướng Chức đưa vào Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn IV để xin phỏng vấn Trung Tướng Ngô Quang Trưởng. Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn IV có vẻ trầm lặng hơn các Quân Ðoàn khác. Không có cảnh phóng viên chiến trường trong và ngoài nước vô ra Phòng Báo Chí một cách tấp nập để xin phương tiện ra trận tuyến hoặc thu lượm tin tức chiến sự. Cũng không có những cuộc hội họp tham mưu khẩn cấp bởi tình hình chiến sự trong vùng. Có thể nói người ta nhìn thấy ở đây cái vẻ thanh bình của những năm đầu thập niên 60.
 
Trung Tướng Ngô Quang Trưởng vừa bay thị sát mặt trận trở về. Ðó là một trong những việc làm đều đặn mỗi ngày, khi còn ở Vùng I đầy sôi động cho đến lúc đổi về Vùng IV, ông cũng không thay đổi phương thức làm việc của ông chút nào. Mặc dù mới trở về sau một ngày mệt nhọc, Tướng Trưởng vẫn ngồi lắng nghe từng câu hỏi của người đối diện.
Tôi đi thẳng vào vấn đề:
– Thưa Trung Tướng, hôm nay tôi xin được phỏng vấn Trung Tướng về vấn đề bình định và phát triển ở Vùng IV.
 
Khi mở đầu để xin phỏng vấn một lãnh vực thuộc về hành chánh dân sự với một vị tướng mà danh tiếng có được bằng vào những chiến công trên trận mạc, tôi nghĩ rằng ông sẽ buồn nản khi trả lời những câu hỏi về vấn đề này. Nhưng ngược lại, ngoài điều dự đoán của tôi, Tướng Trưởng cười vui vẻ:
– Nhà báo nào, kể cả nhà báo ngoại quốc, khi gặp tôi ai cũng hỏi về chiến trận, cô là người duy nhất quan tâm và hỏi về vấn đề bình định phát triển.
Tôi khởi đi từ nguyên nhân:
– Thưa Trung Tướng, Cộng Sản Bắc Việt biết miền Tây là một kho lương thực đầy ắp và rất thèm muốn nguồn tiếp liệu này, nhưng tại sao họ không thành công ở miền Tây?
 
Giọng của Tướng Trưởng trầm ấm, rõ ràng và nhỏ nhẹ. Những người làm việc với ông qua một thời gian lâu, chưa bao giờ nghe ông lớn tiếng dù là ngay những lúc có điều gì không vừa ý.
– Chiến tranh Việt Nam phải lấy xã ấp làm nền tảng. Xã ấp vững thì ở trên mới vững. Xã ấp là nền móng, nền móng chắc thì những xây dựng ở trên mới bền.
– Thưa Trung Tướng, muốn giữ yên xã ấp phải có một lực lượng quân đội mạnh để hỗ trợ. So với các vùng khác, Vùng IV không có nhiều đơn vị chủ lực trấn đóng, nhưng tình hình lại yên ổn hơn các vùng khác?
– Miền Nam có 1 triệu 100 ngàn quân, trong đó có 500 ngàn Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân. Thường thường người ta đề cao đến chủ lực quân mà quên lãng Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân là một lực lượng đã góp sức rất nhiều trong việc bảo vệ lãnh thổ. Người lính Nghĩa Quân, Ðịa Phương Quân chiến đấu trong âm thầm, những công lao của họ ít người biết đến. Quyền lợi của họ cũng chẳng được bao nhiêu so với chủ lực quân, nhưng họ đã góp phần rất nhiều trong cuộc chiến. Ðể trả lời một phần nào câu hỏi vừa rồi, tôi kể cho cô nghe chuyện này.
 
Lúc mới về nhậm chức Tư Lệnh Vùng IV, liên tiếp trong mấy tháng liền, mỗi buổi sáng Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đọc báo cáo về tình hình và kết quả chiến trận trong đêm qua, đều thấy báo cáo của quận Chương Mỹ, tỉnh Chương Thiện là tỉnh có nhiều Việt Cộng xâm nhập quấy phá. Những báo cáo của quận này đều ghi chiến công bắt được Việt Cộng, lấy được vũ khí, và đêm nào cũng vậy.
 
Trung Tướng Trưởng kể lại chuyện đó cho Thiếu Tướng Hal Dale McCown, cố vấn trưởng của Quân Ðoàn IV. Và một ngày không báo trước, hai vị tướng lãnh cùng bay xuống thăm quận Chương Mỹ. Tướng Trưởng nói với viên quận trưởng là ông muốn gặp người đã lập nhiều chiến công như trong báo cáo của quận.
 
Trung Ðội Trưởng Nghĩa Quân Nguyễn Văn Mới được lệnh trình diện. Trước mặt hai vị tướng, một ông già quắc thước, tóc bạc phơ, râu cũng bạc trắng và dài xuống ngực. Dáng người khỏe mạnh, nhanh nhẹn, hai mắt còn tinh anh, mặc một bộ đồ trận cũ đã bạc màu và gần sờn rách. Ông cụ khoảng 65 tuổi, chỉ huy một toán Nghĩa Quân 20 người đã lập nhiều chiến công nhất trong tỉnh Chương Thiện. Việt Cộng nghe đến tên là phải gờm và đã nhiều lần lên án ông.
 
Trung Tướng Trưởng rất ngạc nhiên lẫn cảm phục. Ông chân thành khen ngợi và gắn huy chương cho ông Mới. Tiếp theo, Thiếu Tướng McCown cũng gắn huy chương của quân đội Hoa Kỳ cho ông, với sự kính trọng lòng yêu quê hương và tinh thần anh dũng của một chiến sĩ lão thành như người Trung Ðội Trưởng Nghĩa Quân quận Chương Mỹ này.
 
Tôi không bao giờ có thể nghĩ rằng, một vị Tư Lệnh Quân Ðoàn lại chịu khó ngồi đọc những tờ báo cáo hàng ngày từ một quận lỵ nhỏ bé trong vùng của mình. Không những đọc và còn ghi nhận để theo dõi và tưởng thưởng những người có công một cách xứng đáng. Tôi đã nhiều lần theo chân Tướng Trưởng đi thăm những tiền đồn heo hút ngoài Vùng I, và cũng đã nhiều lần phỏng vấn ông, nhưng cho đến hôm nay tôi mới hiểu thêm một điều: Tướng Trưởng không phải đơn thuần là một viên tướng của trận mạc, ông còn là một nhà tâm lý, một chính trị gia và một nhà lãnh đạo giỏi.
 
Có lẽ Tướng Trưởng cũng biết tôi đang ngạc nhiên vì câu chuyện ông vừa kể, ông nói tiếp:
– Ngày sau đó, tôi gọi cho Thiếu Tướng Trần Văn Trung, Cục Trưởng Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị để đề nghị đăng hình ông Nguyễn Văn Mới vào bìa của báo Chiến Sĩ Cộng Hoà số tới và đề cử ông vào phái đoàn chiến sĩ xuất sắc được đi thăm Ðài Loan.
Nếu cô muốn biết chi tiết về việc phái đoàn chiến sĩ xuất sắc đi Ðài Loan, cô nên gặp Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh, ông là trưởng phái đoàn trong chuyến đi thăm Ðài Loan.
 
Tướng Trưởng trở lại vấn đề và nhấn mạnh:
– Từ trước đến nay, tôi vẫn đặc biệt chú ý đến thành phần Nghĩa Quân, Ðịa Phương Quân, họ rất can đảm, hy sinh âm thầm, là những người hết sức nhiệt tình với đất nước, như ông Mới, một anh hùng mà mấy người biết đến.
– Thưa Trung Tướng, ai là người đặc trách về vấn đề bình định và phát triển ở Vùng IV?
– Thiếu Tướng Hinh, Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn. Tướng Hinh là một người tham mưu giỏi, kế hoạch rất hay. Ông hết sức nhiệt tình với đất nước. Mười sáu tỉnh miền Tây này được yên ổn là nhờ có Tướng Hinh. Những kết quả về chương trình bình định và phát triển có được hôm nay là của ông.
 
Hôm đó tôi không được gặp Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh ở Cần Thơ. Sau này mới có dịp hỏi thêm chuyện người Trung Ðội Trưởng Nghĩa Quân của quận Chương Mỹ và chương trình Bình Ðịnh Phát Triển của Vùng IV.
Tướng Hinh vui vẻ kể lại chuyện ông hướng dẫn phái đoàn chiến sĩ xuất sắc của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa qua thăm viếng Ðài Loan:
– Ðến Ðài Loan, phái đoàn được tiếp đón rất nồng hậu. Mọi người được choàng vòng hoa tại phi trường và được nhiều nhân vật như Tổng Trưởng Quốc Phòng Tưởng Kinh Quốc, Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị của Ðài Loan tiếp đón. Phái đoàn được đi thăm viếng các cơ sở quân sự, thắng cảnh và dự nhiều buổi thuyết trình.
 
Ngày hôm sau, Ðại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng của Quân Ðội Ðài Loan tiếp đón và nói chuyện. Từ bàn chủ tọa, trong hội trường nhìn xuống, vị Ðại Tướng thấy ở hàng ghế của những chiến sĩ xuất sắc, có một chiến sĩ già râu tóc bạc phơ, liền bước xuống đến trước mặt chào hỏi và nắm tay đưa lên ngồi bên cạnh ghế của Ðại Tướng. Người được cái vinh dự đó chính là ông Trung Ðội Trưởng Nghĩa Quân Nguyễn Văn Mới. Phái đoàn có 10 người. Vùng IV chỉ có Thiếu Tướng Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn Nguyễn Duy Hinh và Trung Ðội Trưởng Nghĩa Quân Nguyễn Văn Mới.
 
Khi trở về, ông Mới có xin vào gặp Tướng Trưởng để cám ơn. Tướng Trưởng nói với ông:
– Tôi không ban ân huệ gì cho ông cả. Tất cả những gì ông được ngày hôm nay là do chính ông làm ra.
Người lính già rất xúc động, ông nói:
– Tôi xin hứa với Trung Tướng, từ nay sẽ không có một tên Việt Cộng nào trong xã của tôi nữa.
Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh vào Nam năm 1951. Ông xuất thân từ khóa I Nam Ðịnh. Với chức vụ Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn IV, ông đặc trách về vấn đề Bình Ðịnh Phát Triển của miền Tây. Người ta nói Tướng Trưởng và Tướng Hinh làm việc với nhau rất ăn ý. Tôi hỏi Thiếu Tướng Hinh:
– Thưa Thiếu Tướng, yếu tố nào làm cho Thiếu Tướng đạt được kết quả tốt đẹp trong chương trình Bình Ðịnh Phát Triển của Vùng IV?
 
Thiếu Tướng Hinh đáp:
– Sau biến cố Mậu Thân 1968, Việt Cộng bị tổn thất nặng nề, nên khi mình phát động chiến dịch Bình Ðịnh Phát Triển, các xã ấp được yên ổn, mình nắm được tình hình, dân theo mình và địch bị đánh lui qua biên giới. Lúc ở ngoài Bắc, tôi đã biết rõ Cộng Sản, có kinh nghiệm với Cộng Sản thời chống Pháp, đã thấy rõ cách tổ chức và đường lối của Cộng Sản. Một điều khác nữa là Tướng Trưởng và tôi làm việc với nhau rất hợp. Bởi vậy, kế hoạch nào cũng không gặp trở ngại.
– Thưa Thiếu Tướng, người lính Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân đóng một vai trò như thế nào trong chương trình Bình Ðịnh Phát Triển ở miền Tây này?
– Miền Tây không có những trận đánh lớn vì những đơn vị lớn của Cộng quân không xâm nhập được và đó chính là công lao của những người lính Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân. Họ chiến đấu cho quê hương và bảo vệ cho chính gia đình của họ đang sinh sống tại đó. Như ông Nguyễn Văn Mới, không phải chính mình ông là chiến sĩ, mà cả gia đình ông đều là những chiến sĩ chống Cộng.
 
Tại miền Tây, Ðịa Phương Quân lập được nhiều chiến công lớn, như mặt trận U Minh, mặt trận Ðồng Tháp. Và đặc biệt, ở miền Tây, Ðịa Phương Quân không phải chỉ hoạt động tại địa phương theo nguyên tắc, mà đã được tăng cường từ tỉnh này qua tỉnh khác, đôi lúc gánh vác, trám chỗ cho các đơn vị chủ lực phải tăng viện đến những nơi chiến trường đang sôi động.
 
Người ta thường nói, có 3 yếu tố để thành công: thiên thời, địa lợi và nhân hoà. Theo như những điều mà Trung Tướng Ngô Quang Trưởng và Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh cho biết, thì rõ ràng Vùng IV đã đạt được hai: Miền Tây là đồng bằng, không có rừng núi, nên dễ kiểm soát, đó là địa lợi. Người dân tin tưởng vào chính quyền, nghe và làm theo chính quyền, đó là nhân hoà. Cuộc chiến miền Tây là cuộc chiến nặng về chính trị hơn là quân sự.
CÒN TIẾP /Kỳ 24
[KMD-1971]
---------------- 

Kiều Mỹ Duyên – Chinh Chiến Điêu Linh (kỳ 24)

Chiều dừng quân bên biên giới
Phóng viên chiến trường được nhìn thấy tận mắt sự hy sinh, can đảm, hào hùng của người lính chiến, đạn rơi, bom nổ, người lính chiến vẫn tiến tới mục tiêu, và sự hy sinh của bằng hữu xả thân cho nhau, người này gục xuống, người khác đứng lên, đỡ bạn mình. Nhiều khi người bị thương không chết, nhưng người đỡ bạn mình trúng đạn chết tức khắc. Ở trận chiến là thế, chết nhanh lắm, chết không kịp trối. Kiều Mỹ Duyên

Buổi sáng ở thành phố Huế không ồn ào, náo nhiệt như Sài Gòn. Thời tiết đầu mùa Hè vẫn còn dịu mát. Mặc cho tình hình quân sự ngày càng căng thẳng và Huế bị pháo kích dữ dội, những lớp hè của bậc trung học đệ nhất cấp đã bắt đầu khai giảng. Trung Úy Hưng ngồi uống cà phê ở một quán cà phê trong thành nội. Cà phê ở đây nổi tiếng nhất Huế. Không biết có phải tại cà phê ngon hay vì mấy chị em cô chủ quán xinh đẹp, và quán lại tọa lạc trong một khung cảnh trữ tình của Ðại Nội, vừa trang nghiêm vừa thơ mộng. Hưng không biết đơn vị của mình sẽ dừng quân ở đây bao lâu, cứ với tình hình này, chắc không thể lâu được. Thây kệ, được ngày nào hay ngày đó. Ðã bao năm chinh chiến miệt mài! Con người, bất kể tuổi tác, rồi cũng có một lúc nào đó, thấy thèm một sự yên nghỉ. Có những buổi chiều hành quân qua những buôn Thượng, nhìn làn khói trắng từ trong bếp của mấy căn nhà sàn bay lên giữa bầu trời lúc hoàng hôn, Hưng chợt muốn được dừng chân ở đây, cưới một cô sơn nữ nào đó, sống bình yên, phẳng lặng dưới mái nhà sàn, rồi sinh con đẻ cái.

Sinh trưởng tại miền Nam và lớn lên nơi đó, đây là lần đầu tiên Hưng theo đơn vị ra hành quân tận miền Trung. Tháng 5 năm 1972, sau khi thành phố Quảng Trị lọt vào tay Cộng quân, đơn vị của Hưng, Pháo Ðội F thuộc Tiểu Ðoàn 2 Pháo Binh Thủy Quân Lục Chiến được lệnh rút về Huế để chờ ngày phản công địch. Pháo Ðội của Hưng đóng trong cửa Thượng Tứ và mới về đây được vài hôm.

Tôi tình cờ gặp lại Trung Úy Hưng trong quán cà phê này. Anh đang ngồi uống cà phê với mấy người sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến, có lẽ cùng đơn vị. Khi đi ngang qua bàn, tôi dừng lại chào hỏi:
– Chào Trung Úy Hưng. Cũng lâu lắm rồi mới gặp lại anh.
Trung Úy Hưng quay lại, thấy tôi, anh rất ngạc nhiên:
– Chị Duyên, chị mạnh khỏe?
Tôi chào mấy người bạn của anh và đáp:
– Cám ơn, vẫn bình thường. Anh ra đây lâu chưa?
– Lâu rồi, từ Quảng Trị rút về. Ðơn vị đang dưỡng quân gần cửa Thượng Tứ, chờ tái chiếm Quảng Trị.
– Nhớ lần gặp anh hành quân ở Cao Miên, mới đó mà đã gần hai năm.
Hưng gật đầu tán đồng:
– Phải, mới đó mà đã gần hai năm rồi!

Thời gian qua thật nhanh. Hồi đó Hưng còn là Thiếu Úy, sĩ quan tiền sát viên pháo binh của tiểu đoàn. Tôi gặp anh đang dừng quân bên trấn Neak Leung trong một cuộc hành quân quy mô cấp quân đoàn của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa qua biên giới và đánh sâu vào trong lãnh thổ Cao Miên để tiêu diệt những căn cứ hậu cần của Cộng quân và đón cả trăm ngàn đồng bào về nước để tránh khỏi sự tàn sát của người Miên, trả thù vì Việt Cộng ngang nhiên xâm chiếm lãnh thổ của họ.
Tháng 11 năm 1969, Bắc Việt đưa khoảng 40 ngàn quân xâm nhập và đồn trú trong lãnh thổ Cao Miên, dọc theo biên giới. Ðầu năm 1970, lực lượng này đã tăng lên đến 60 ngàn người. Theo hãng thông tấn UPI, quân Bắc Việt đang di chuyển những số lượng quan trọng gạo và các loại thực phẩm khác xuyên qua lãnh thổ Cao Miên. Ngày 8 tháng 3, khoảng 1,500 dân của tỉnh Sray Rieng, một tỉnh sát biên giới miền Nam Việt Nam đã biểu tình phản đối kịch liệt quân Bắc Việt ngang nhiên chiếm đóng nhiều nơi trên lãnh thổ của họ. Cộng quân nổ súng bắn vào đoàn người biểu tình. Dân Miên giận cá chém thớt, họ phát động phong trào tàn sát người Việt đang sinh sống trên xứ này.

Ngày 12 tháng 4 năm 1970, Tướng Lon Nol sau khi đảo chánh lật đổ Thái Tử Sihanouk, đã tuyên cáo một chế độ Cộng Hòa đồng thời phát động chiến dịch chống quân đội Bắc Việt chiếm đóng lãnh thổ và chống luôn cả mọi người Việt ở Cao Miên. Hiện nay có khoảng 600 ngàn người Việt sinh sống trên đất Cao Miên đang bị đe dọa, vì Việt Cộng càng mở rộng các cuộc tấn công vào các đơn vị của Cao Miên thì người Miên lại càng căm thù Việt kiều bấy nhiêu. Hàng ngàn người Việt đã bị quân đội Miên tập trung lại để canh phòng và tra hỏi. Một số tình nghi có liên hệ với Bắc Việt bị bắt giữ. Chính quyền Nam Vang đã ban bố tình trạng giới nghiêm riêng cho Việt kiều và bắt làm căn cước đặc biệt.

Ngày 10 tháng 4, hãng Reuter loan tin: “Khoảng 100 người Việt gồm đàn ông, đàn bà và trẻ con đã bị thiệt mạng và khoảng 200 người khác bị thương giữa hai lằn đạn giao tranh ác liệt của quân Bắc Việt và quân Cao Miên”.

Ngày 16 tháng 4, cảnh sát Miên ập vào một ngôi làng gọi là Xóm Biên bắt hết đàn ông con trai Việt từ 14 tuổi trở lên đưa đến một nơi nào không ai biết. Nhưng những ngày sau đó, một vài phóng viên ngoại quốc và một vài vị tu sĩ Công Giáo đã nhìn thấy cả ngàn Việt kiều bị lùa lên tàu chở đi. Hai hôm sau, người ta đếm được khoảng 500 xác bập bềnh trôi dọc theo dòng sông. Những người này bị giết và thả xuống sông từ nhiều nơi khác nhau, đa số đều bị trói hai tay.

Ngày 17 tháng 4, tại thị xã Takeo, lính Miên đã 4 lần xả súng bắn vào trại tập trung Việt kiều làm cho hơn 100 người thiệt mạng. Hằng đêm, tàu Hải Quân Cao Miên chở từng loạt người Việt đến cù lao rồi xả súng bắn bỏ. Những người còn lại sống trong tình trạng kinh hoàng, họ tìm cách trốn tránh, tìm đường trở về nước và một số bỏ theo Việt Cộng. Chính quyền Nam Vang không hề lưu ý đến sự can thiệp của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Giữa hai nước chưa có sự bang giao chính thức.

Trong lúc đó, vùng tam biên bắt đầu dậy sóng. Quân Bắc Việt từ Lào kéo xuống dốc Cao Miên, và miền Nam cũng đã dàn quân dọc biên giới.

Ngày 29 tháng Ttư năm 1970, một lực lượng đặc nhiệm gồm hơn 100 chiến xa và khoảng 15 ngàn quân của Việt Nam Cộng Hòa vượt biên giới tiến sâu vào trong đất Cao Miên. Lực lượng này đã kiểm soát được hai thị trấn Chipou và Prasaut mà quân Bắc Việt đánh chiếm hồi đầu tháng 4 vừa qua.

Lực lượng đặc nhiệm từ ba mặt tiến vào. Cánh quân thứ nhất không gặp một sự kháng cự nào. Cánh quân thứ hai phải chạm súng dữ dội khi tiến chiếm một dãy những căn cứ tiếp liệu, trung tâm huấn luyện của địch. Cánh quân thứ ba xuất phát từ Kiến Tường và đánh qua biên giới.

Cánh quân chiếm Chipou và Prasaut là một tiểu đoàn Biệt Kích người Việt gốc Miên, di chuyển theo 40 chiến xa M48 và được một tiểu đoàn Bộ Binh yểm trợ. Ðơn vị Bộ Binh này đã tập trung người Việt trong vùng lại và hộ tống họ đến nơi đóng quân của Bộ chỉ huy trung đoàn. Ðồng bào được phát lương thực và chờ phương tiện đưa về nước.

Tư Lệnh Hành Quân, Trung Tướng Ðỗ Cao Trí đã tuyên bố với các phóng viên tại Svey Tiep, một nơi cách biên giới Việt-Miên 24 cây số:
– Mục đích cuộc hành quân là tiêu diệt Việt Cộng, phá hủy các cơ sở tiếp liệu để vô hiệu hóa hoạt động của chúng trong một thời gian dài.

Về địa lý, lãnh thổ của Cao Miên có một dải đất nằm lọt vào sâu trong lãnh thổ của miền Nam và có hình dáng giống mỏ của con chim vẹt, nên vùng này có tên là vùng Mỏ Vẹt. Cái Mỏ Vẹt chỉ cách Hòn Ngọc Viễn Ðông chưa đến 60 cây số, cho nên nếu không kiểm soát được Mỏ Vẹt, thì Hòn Ngọc Viễn Ðông có thể bị “mổ” bất cứ lúc nào.

Ngày 3 tháng 5, một cánh quân gồm Bộ Binh, Biệt Ðộng Quân và Thiết Kỵ đã ác chiến dữ dội khi tiến vào mật khu Ba Thu trong vùng Mỏ Vẹt. Ba Thu là một trong những mật khu lớn và quan trọng của Cộng quân. Chiếm mật khu này, quân ta tịch thu được nhiều kho vũ khí, đạn dược của địch tích trữ bấy lâu nay.
Sát với Mỏ Vẹt là vùng Lưỡi Câu, vì hình dạng dải đất này giống hình lưỡi câu. Người ta nghi ngờ đây là nơi trú đóng bản doanh của Trung Ương Cục Miền Nam hay cục R. Một lực lượng đặc nhiệm thứ hai gồm khoảng 9 ngàn quân với sự yểm trợ của Không Quân, Pháo Binh và Thiết Giáp đã tiến vào càn quét vùng Lưỡi Câu để lùng bắt Cục R.

Tin tình báo cho rằng, bản doanh của Cục R cũng là bản doanh của Công Trường 7, và Trung Ðoàn 66 là một trung đoàn chính quy tinh nhuệ nhất của Bắc Việt có nhiệm vụ bảo vệ Cục R. Nhưng khi lực lượng đặc nhiệm này tiến vào, có những dấu hiệu cho thấy địch quân đã rút ra khỏi vùng trước đó một, hai ngày. Cũng có giả thuyết cho rằng, bản doanh của Cục R có những hệ thống địa đạo dẫn vào những khu rừng rậm nằm sâu trong đất Miên.

Ngày 10 tháng 5, một lực lượng thủy bộ gồm có 140 chiếc tàu của Hải Quân đủ loại, 300 chiến xa của Thiết Giáp và 5 tiểu đoàn Pháo Binh yểm trợ cho 8 ngàn Thủy Quân Lục Chiến và Bộ Binh tiến vào đất Miên dọc theo sông Cửu Long. Lực lượng này được chia ra làm hai mũi tiến công: một cánh trên bộ và một cánh trên sông. Cuộc hành quân có tên là Hành Quân Cửu Long và do Tư Lệnh Quân Ðoàn IV, Thiếu Tướng Ngô Dzu chỉ huy.

Hơn 300 chiến xa đã mở đầu cho cuộc hành quân xuất phát từ Kiến Phong ào ạt tràn qua biên giới. Khi băng qua những cánh đồng đất khô, đoàn chiến xa đã tạo một màn bụi mờ rộng lớn che phủ cả một vùng. Một lực lượng Thủy Quân Lục Chiến được trực thăng vận đổ xuống Neak Leung và đánh vào thị trấn này.

Buổi sáng ngày 12 tháng 5 năm 1970, tôi đi từ Sàigòn về Cần Thơ, rồi từ Cần Thơ đến Châu Ðốc bằng đường bộ. Buổi tối tôi ở lại Châu Ðốc tại nhà của một người bạn gái học cùng trường. Sáng hôm sau, ra bãi đáp ở tòa hành chánh Châu Ðốc thật sớm để theo trực thăng qua Neak Leung.

Neak Leung là một thị trấn nhỏ nằm gần biên giới Việt Miên. Hai dãy phố nằm dọc theo con đường chính chạy xuyên qua thị trấn và bên cạnh một dòng sông nhỏ, hai bên bờ sông trồng toàn cây thốt nốt. Khi tôi đến, lực lượng Thủy Quân Lục Chiến của Việt Nam Cộng Hòa đã đẩy lui Việt Cộng và hoàn toàn kiểm soát thị trấn này. Nhưng Neak Leung đã bỏ ngỏ kể từ ngày Việt Cộng tràn vào xâm chiếm. Dân chúng, đa số là người Việt và người Hoa, đã trốn đi nơi khác để tị nạn. Lực lượng Thủy Quân Lục Chiến trấn giữ ở đây đóng rải rác khắp thị trấn. Mỗi toán nhỏ vài người trong một căn nhà hay phố trống. Có toán đóng trong các vườn cây. Một nhóm Thủy Quân Lục Chiến đang đá banh giữa đường phố một cách thoải mái. Một vài căn nhà kế đó, có mấy gia đình người Miên vẫn liều ở lại trong thị trấn, họ nằm đu đưa trên võng căng trước nhà và thản nhiên nhìn mấy người lính Việt Nam đá banh.
Trong lúc đó, các cấp chỉ huy của những đơn vị này đang nóng lòng chờ các cánh quân của Cao Miên đến bắt tay để bàn kế hoạch hành quân sắp tới, nhưng họ tiến quá chậm và rời rạc làm mất nhiều thời giờ.
Một Thiếu Úy đến chào và ngỏ ý nhờ tôi mang giùm thư và một món quà nhỏ về Sài Gòn cho gia đình của anh. Tôi nhìn bảng tên và hỏi:
– Thiếu Úy tên Hùng hay tên Hưng?
– Tôi tên Hưng, Nguyễn Phục Hưng.
– Tôi sẽ đưa tận nhà cho anh. Anh thấy tình hình ở đây như thế nào?
– Chưa thấy đụng nặng, chỉ có pháo kích thôi.
– Anh gặp đồng bào mình không?
– Không thấy ai nhiều. Một số đã bỏ trốn từ ngày bị người Miên cáp duồn, một số bị bắt vào các trại tập trung hoặc đem đi nơi nào chẳng ai biết.
– Khi quân mình đến đây, người Miên họ có thái độ như thế nào?
– Người Miên đang thù Việt Cộng, mình vào đánh Việt Cộng, thì họ có cảm tình với mình hơn.

Buổi trưa, anh em Thủy Quân Lục Chiến mời tôi ăn cơm gạo sấy. Sau bữa cơm, tôi rời Neak Leung đến Kompong Trach. Ngang qua một con sông, cây cầu đã bị Việt Cộng giựt sập khi rút lui cho khỏi bị truy kích. Một đơn vị Công Binh Chiến Ðấu đang nối lại cầu. Xe phải dừng để chờ. Một vị sĩ quan Công Binh nói với tôi:
– Có ông sếp lớn chỉ huy dưới sông.
Tôi ngạc nhiên, xuống xe đến gần xem, nhưng nhìn mãi không thấy ông sếp lớn nào cả. Một lúc sau, tôi mới thấy Tướng Nguyễn Văn Chức, Cục Trưởng Cục Công Binh, mặc bộ đồ đen, đang đứng dưới sông, phụ nâng một cây đà lên cùng với anh em Công Binh làm cầu. Tướng Chức tóc hớt thật cao, nắng gió Cao Miên làm cho da ông đen sạm. Tôi biết ông từ hồi ông còn là Liên Ðoàn Trưởng Liên Ðoàn 30 Công Binh Chiến Ðấu mà chiều hôm nay suýt chút nữa không nhìn ra ông. Nắng và gió của Cao Miên nhuộm màu da người rất nhanh, tôi mới qua đây chưa đầy một ngày, nhìn xuống hai cánh tay, thấy đã đổi màu rõ rệt.

Tiếng gió thổi, tiếng búa đập, tiếng người lao xao… khiến nơi đây ồn ào như một công trường. Tôi đứng trên bờ la lớn:
– Chào Thiếu Tướng.
Tướng Chức nhìn lên, thấy tôi cũng có mặt ở đây, ông có vẻ ngạc nhiên:
– Chào cô Kiều Mỹ Duyên.
Tôi cũng ngạc nhiên và cảm phục khi thấy một vị tướng đang xắn tay áo, lội xuống dưới sông làm việc với những người lính của mình giữa chiến trường.
Từ Kompong Trach, tôi trở lại Neak Leung để phỏng vấn một số chiến sĩ trong lực lượng Hải Quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Lực lượng hành quân này gồm khoảng 30 chiến hạm đã ngược dòng sông Cửu Long, dừng lại ở bến Neak Leung trước khi tiến lên Nam Vang. Từ Neak Leung, một chiếc tuần giang đỉnh đi trước mở đường, dẫn đầu là chiến hạm Vũng Tàu, và lực lượng Hải Quân này tiến vào thủ đô Nam Vang trước sự hâm mộ của hàng ngàn dân Miên đứng đầy bên bến tàu. Trong lúc đó, hàng ngàn người Việt đang ở trong các trại tập trung của Miên, vô cùng xúc động và hãnh diện khi nghe tin này. Họ mất mát quá nhiều: tài sản, sinh mạng, cả nơi sinh sống của họ. Nhưng nay đã được chút an ủi, được bù đắp bởi tình đồng bào và vòng tay che chở của quê hương.

Khi Hải Quân Ðại Tá Nguyễn Thanh Châu, chỉ huy trưởng cuộc hành quân, từ chiến hạm Vũng Tàu bước lên bờ, một phái đoàn của chính quyền Nam Vang đã chờ sẵn để đón tiếp. Ngày hôm sau, đoàn tàu tách ra một toán đi Kompong Cham, cách Nam Vang chừng 120 cây số, là một tỉnh có nhiều người Việt sinh sống, nằm ở thượng lưu sông Cửu Long. Ðoàn tàu này gồm một chiến hạm 400 tấn, 10 giang đỉnh yểm trợ, và 10 giang vận hạm để chở đồng bào về. Trên đường đi, đoàn tàu phải giao chiến với các lực lượng Việt Cộng hai bên bờ, cho nên không thể ở lại Nam Vang cùng ngày được. Ðoàn tàu đón được 4 ngàn người từ Kompong Cham và ở Nam Vang, 5 ngàn người sẵn sàng để hồi hương. Hàng ngàn người Việt đã sinh sống lập nghiệp ở đây, cũng có người sinh ra và lớn lên, xem mảnh đất này như một quê hương thứ hai, nhưng buổi sáng hôm nay, họ bỏ lại nhà cửa, cơ sở làm ăn, từ trong những trại tập trung ở Nam Vang, lúc sáng sớm tinh sương, đã khăn gói, bồng bế nhau sắp hàng trên bờ sông chờ xuống tàu. Những người lính Hải Quân đứng thành hàng dài để chuyển giùm đồ đạc, trẻ con, giúp những người tàn phế, già cả xuống tàu và phát thực phẩm.

Khoảng xế trưa, Phó Ðề Ðốc Trần Văn Chơn, Tư Lệnh Hải Quân, đáp trực thăng ngay ở bến tàu và bước xuống chiến hạm Vũng Tàu thăm hỏi đồng bào tị nạn.
Ðúng 1 giờ chiều, đoàn tàu rời bến Nam Vang, mang theo hơn 9 ngàn đồng bào trở về quê nhà. Lực lượng Hải Quân đã hoàn thành cuộc hành quân ngược dòng Cửu Long để đón đồng bào về nước đợt đầu như một cuộc biểu dương thật rầm rộ, hào hùng và đẹp mắt chưa từng thấy từ trước đến nay trên dòng Cửu Long giang.

Và tiếp theo, còn nhiều đợt khác sẽ được thực hiện để đón khoảng 100 ngàn đồng bào rải rác trên đất Miên về nước. Hiện nay, chính quyền Nam Vang đang còn giam giữ khoảng 30 ngàn người Việt sống một cách thiếu thốn, khổ cực và bị ngược đãi trong các trại tập trung. Hồng Thập Tự quốc tế phải cảnh cáo chính quyền Nam Vang là coi chừng một trận dịch sẽ lan tràn. Như một lời phúc đáp, những người đi lại trên phố Nam Vang đều thấy những tấm bích chương dán đầy đường, với nội dung bằng hai thứ tiếng, Pháp và Miên: “Việt Cộng còn đáng sợ hơn cả bệnh dịch nữa”.
CÒN TIẾP /KỲ CUỐI
[KMD-1972]
 
-------------
 
Kiều Mỹ Duyên – Chinh Chiến Điêu Linh (kỳ cuối)
CHÀNG TỪ KHI VÀO NƠI GIÓ CÁT

Tên đi khắp bộn phương trời
Phương nào lộng gió, phương nào mây bay??
 -----
 
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn?
Dấu binh lửa, nước non như cũ
Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương
Phận trai già ruổi chiến trường
Chàng Siêu tóc đã điểm sương mới về
Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ
Ba thước gươm, một cỗ nhung yên
Xông pha gió bãi trăng ngàn
Tên reo đầu ngựa, giáo dan mặt thành
Áng công danh trăm đường rộn rã
Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi
Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai
Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc- Đặng Trần Côn)
 
 
 
Ðà Lạt đó, đất của những rừng thông ngàn năm thì thầm với gió. Ðất của suối, của hoa và của những người con gái hai má đỏ hồng. Và ở đó, cũng là nơi xuất thân của những người trai luôn luôn tâm niệm nam nhi chí tại bốn phương, lấy hình ảnh oai hùng của kẻ gác ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo làm biểu tượng. Nhắc đến Ðà Lạt là có cả ngàn điều để nhớ, trăm điều để thương.

Con đường dốc quanh co, với hai hàng thông trồng dọc hai bên đường, một đầu là khu phố Hoà Bình, trái tim của Ðà Lạt, một đầu là quân trường nổi tiếng, trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt, nơi đào tạo những người luôn lấy hình ảnh của bốn chữ Tang Bồng Hồ Thỉ làm lý tưởng, cái biểu tượng hào hùng đó cũng là một trong những nghi thức không thể thiếu trong ngày mãn khóa: sinh viên thủ khoa của khóa, trước lễ đài, một chân quỳ gối, một tay cầm cung, một tay giương tên, bắn đi bốn hướng. Những mũi tên bắn đi từ những người trai Võ Bị đó, đã có nhiều mũi bắn vào tim giai nhân bốn phương. Gần nhất là những người con gái đôi má đỏ hồng của Ðà Lạt. Người đến, đến từ muôn phương, người đi, đi về vạn nẻo, để lại nhiều thiên tình sử trong cái thành phố nhỏ bé này…

Con đường từ phố Hoà Bình, một khu phố nhỏ, dễ thương, lúc nào cũng có hình ảnh của những đôi tình nhân khắp nơi đến. Ðến tìm cái lạnh co ro, tìm sự gần gũi nhau hơn trong bầu trời sương mù của Ðà Lạt. Con đường đổ xuống bên dưới chân phố, bọc theo hồ Xuân Hương, với cà phê Thủy Tạ, với những chiếc Pédalo lượn lờ trên mặt nước, đưa đôi tình nhân vào cõi mộng mơ. Qua khỏi hồ Xuân Hương, con đường bắt đầu có độ dốc cao dần, rồi đến nhà ga, cũng là Trạm Hàng Không Dân Sự. Qua khỏi nhà ga, một đường rẽ lên Trại Hầm, vùng đất của những trái mận no tròn, chỉ nhìn qua là muốn cắn ngay. Một đường cứ đi tiếp, sau chừng bốn, năm cây số đã vào địa phận của trường Võ Bị Ðà Lạt. Quanh co qua những khu trồng rau xanh mướt, bên phải là hồ Than Thở. Chỉ nghe tên thôi cũng đủ tưởng tượng được cảnh hồ đẹp và buồn đến đâu. Qua khỏi hồ Than Thở, với những khúc lượn vòng trên những đồi thông là đến cổng trường. Một mối tình nào đó, bắt đầu sự gặp gỡ có thể trong quán cà phê, hay tại một gian hàng hoa trong chợ Hoà Bình, hoặc ngay trên những con đường phố Ðà Lạt, để hẹn hò bên hồ Xuân Hương, đưa nhau đến đổ lệ bên hồ Than Thở, rồi chia tay nhau tại nhà ga, và biệt ly, nhớ nhung từ đây… Tất cả diễn ra trên con đường đó, và con đường có thể giản dị mà đặt tên: Con Ðường Tình Sử.

Ðoạn đường từ hồ Than Thở đến cổng chính của trường là một đoạn đường rất đẹp. Ðường tráng nhựa êm ái, chạy quanh co trong những đồi thông thật thơ mộng. Một trạm kiểm soát trước khi vào cổng chính mang tên cổng Thái Phiên. Cổng chính của trường nhìn ra đồi núi chập chùng. Cổng sau của trường, cổng Lý Thường Kiệt, ngõ ra khu phố Catina, một khu phố nhỏ mang tên một khách sạn lớn ở đây, khách sạn có từ thời Pháp thuộc. Một cổng phụ nối liền với trại gia binh của trường là cổng Mê Linh. Trường Võ Bị nằm trên một khuôn viên rất rộng. Từ cổng Thái Phiên đi vòng qua cổng Lý Thường Kiệt cũng phải mất gần mười lăm phút lái xe. Ngoài ba cổng chính trường còn có nhiều cổng không tên khác mà chỉ có sinh viên sĩ quan và Quân Cảnh 302 của trường biết mà thôi. Từ những cổng không tên đó, trong một đêm sương mù phủ xuống dày đặc, có những sinh viên sĩ quan đa tình, liều lĩnh lén rời trường để đến một nơi nào dưới phố, dưới một mái nhà, có người con gái đang ngồi trong khung cửa chờ mong. Những sinh viên sĩ quan dám đi qua những cổng không tên đó, thường thường đã là niên trưởng. Chứ các Cùi mới năm thứ nhất thì còn ‘cùi’ lắm, khó lọt mắt xanh của người đẹp. Mà không có người đẹp chờ mong, thì chẳng lẽ liều lĩnh trốn ra khỏi trường chỉ đến dốc Duy Tân uống một ly sữa đậu nành nóng rồi lại trở vào hay sao? Và để tiếp nối truyền thống đó, khi các niên trưởng gần đến ngày ra trường, cũng vui vẻ bàn giao lại cho đàn em những cổng không tên này, để rồi bao nhiêu mối tình đã nở và biết bao con tim đã héo mòn. Một người con gái kể cho tôi nghe chuyện tình của nàng, một Chinh Phụ Ngâm Khúc của người con gái mới hai mươi hai tuổi tròn.

Buổi chiều từ trường về, Quyên nhận được thư Nguyên. Phong bì đóng dấu Bưu Ðiện Nha Trang, chứ không gửi qua Quân Bưu. Anh chàng lại trốn ra phố Nha Trang chơi rồi, Quyên nhủ thầm.

“Quyên của anh,
Ngày mai, thứ hai, anh làm lễ mãn khóa ở trường Dù. Ðúng ra còn nợ trường này một saut nữa, nhưng saut cuối cùng để dành nhảy về trường mẹ. Sáng thứ ba, lúc 10 giờ, em đến ngoài cổng Mê Linh, nhớ mang theo ống dòm. Người nhảy xuống đầu tiên là Trung Tướng Chỉ Huy Trưởng. Người thứ nhì là anh: Thủ Khoa Khóa Dù. Em đứng chỗ nào cho dễ thấy, anh sẽ đáp ngay trước mặt em. Gặp nhau sau. Thương nhiều.”

Thư Nguyên lúc nào cũng vậy, ngắn gọn và đùa cợt. Thủ khoa của khóa Dù! Thật là cứng đầu, nói mãi không chịu nghe. Ba mẹ đã hăm rồi, ra trường mà chọn mấy cái binh chủng đồ bông, đồ rằn để miệt mài ngoài chiến trận là đừng hòng gả con gái cho. Ba đã có lần nói thẳng với Nguyên: ‘Sống ở đời, khôn ngoan là ai sao mình vậy. Học đủ để ra trường là được rồi. Ra trường sẽ gửi gắm về làm ở thành phố cho an nhàn tấm thân, lại có thì giờ lo cho vợ con sau này’. Nguyên cười, dạ dạ, rồi những lời khuyên bảo cũng như nước chảy qua đá trên thác Cam Ly.

Nhớ lần đầu tiên gặp Nguyên, Quyên không hiểu tại sao sau này mình lại thương được người đã làm mình tức đến khóc được. Buổi sáng thứ Bảy đó, Quyên và em trai đi phố mua sắm mấy thứ lặt vặt, rồi hai chị em vào Mê Kông uống nước. Buổi sáng cuối tuần nào khu phố Hoà Bình cũng đầy bóng dáng những sinh viên sĩ quan Võ Bị trong bộ đại lễ bốn túi mùa đông, dáng người thẳng, bước chân vững chãi, nụ cười, ánh mắt tự tin. Buổi sáng hôm nay trời Ðà Lạt thật đẹp, nắng rực rỡ trên những cành Mimosa đang bắt đầu nở hoa vàng. Khu phố nhỏ bé này có vẻ ồn ào hơn, vì hôm nay là ngày được ra phép đầu tiên của một khóa Võ Bị vừa xong thời gian huấn nhục, mới làm lễ gắn Alpha tối hôm qua. Lần ra phép đầu tiên cứ như là cọp sút chuồng, mấy anh chàng sinh viên sĩ quan vừa hung hăng, phá phách, vừa mang cái nét thật ngố trong bộ đại lễ mặc lần đầu. Tóc của mấy chàng còn ngắn đúng kiểu mẫu, cử chỉ cứng nhắc, nét mặt nửa ba gai, nửa còn khớp vì bị hành tận mạng trong những ngày huấn nhục vừa qua. Họ phá phách như là một truyền thống. Trường dễ dãi cho lần ra phép đầu tiên sau ngày lễ gắn Alpha, miễn là không quá trớn. Nguyên ngồi bàn kế bàn Quyên, cùng với mấy người bạn đồng khóa. Họ ăn uống, cười nói có vẻ thỏa thích với những giây phút tự do ngắn ngủi, rồi bắt đầu tìm những mục tiêu để phá. Mục tiêu của họ là những chàng trai híp-py, tóc để dài như con gái. Thanh niên Ðà Lạt đã quen với truyền thống này rồi. Hễ cuối tuần mà có khóa Võ Bị nào vừa làm lễ gắn Alpha, ngày mai được ra phép là họ tránh không xuống phố, để ‘văn’ và ‘võ’ khỏi đụng nhau lôi thôi. Hoàng kẹt đi với chị nên đành chịu trận. Quyên ngồi im không nói gì, cho đến khi một người trong bàn của Nguyên đòi qua cắt tóc Hoàng thì Quyên phản ứng ngay. Quyên lấy bút, nhìn bảng tên trên ngực áo của anh chàng này, giọng thách thức:
– Anh dám làm không?
Nguyên nãy giờ chưa dự phần, vội đứng lên ngăn lại:
– Thôi thôi, mình đi phố chơi, đừng chọc bà chằn này nữa.

Quyên tức muốn phát khóc, trợn mắt nhìn thẳng mặt người vừa gọi mình là bà chằn. Vầng trán rộng, nét mặt cương nghị lẫn chút bướng bỉnh, dáng người dong dỏng cao và thẳng. Vài tuần nữa bớt cái nét ngố của một anh Cùi vừa mới gắn Alpha thì coi cũng được, Quyên nhủ thầm, nguýt dài một cái, đuôi mắt quét rụng cả mấy búp hoa của cành Mimosa chưng trên quầy.

Làm như có duyên có nợ gì đó, những tuần kế tiếp họ lại đụng đầu nhau trong phở Tùng, rồi trong cà phê Thủy Tạ.. Và một buổi sáng thứ Bảy, mẹ bảo Quyên ra chợ mua vài ký mận để về Sài Gòn biếu bà con. Lựa mận xong, Quyên đang loay hoay không biết thế nào để bê mấy bao mận nặng trĩu này ra xe lam, thì một bàn tay đỡ nhẹ:
– Tôi mang giùm cô về tận nhà.

Và không cần biết Quyên có đồng ý hay không, Nguyên vẫy taxi. Quyên cũng không hiểu sao lúc đó mình lại thụ động như vậy. Riu ríu lên xe và để cho Nguyên mang mấy bao mận vào tận nhà, chào bác trai, chào bác gái, tự nhiên như quen biết đã lâu ngày.
Bốn năm trôi qua. Ðối với những người con gái đã yêu người trai Võ Bị, bốn năm, mỗi ngày tính bằng một tuần. Như vậy, bốn năm rút lại còn được bao nhiêu ngày? Và mỗi ngày gặp nhau được bao nhiêu giờ?
Rồi Nguyên làm lễ mãn khóa. Chàng vẫn là thủ khoa của khóa. Vẫn giữ truyền thống của người theo nghiệp võ tự ngàn xưa. Trong lễ mãn khóa, chàng đã giương cây cung bắn bốn mũi tên ra bốn hướng, để biểu tượng chí tang bồng hồ thỉ của kẻ nam nhi. Rồi chàng rời Ðà Lạt như một mũi tên rời dây cung, để lại cho Quyên khắp mọi nơi, mọi nẻo trong cái thành phố nhỏ bé lạnh lẽo đầy sương mù này, đâu đâu cũng là kỷ niệm…

Những gì Quyên mong đợi bây giờ là những bức thư ngắn ngủi, từ những địa danh xa lạ gửi về. Thư mới nhận hôm qua cũng ngắn như một bức điện tín:
“Quyên của anh,
Vừa chiếm lại Quảng Trị. Trận đánh thật khốc liệt, giành nhau từng tấc đất. Xong rồi. Ngày mai xin 12 giờ phép, phóng xe vào Huế ăn tô bún bò cho biết cay đến đâu và nhìn xem nữ sinh Ðồng Khánh đi học qua cầu Trường Tiền đẹp như thế nào. Mong em luôn luôn vui vẻ.
Thương nhiều.”

Nguyên đi biền biệt. Gót giày hành quân của chàng giẫm qua không biết bao nhiêu là địa danh. Mỗi năm được về phép mấy ngày, chia ra cho gia đình ở Sàigòn vài ngày, cho Quyên ở Ðà Lạt vài ngày, còn lại cho bạn bè. Nguyên được thăng cấp rất nhanh bởi những chiến công vẻ vang. Những hoa mai trên cổ áo của Nguyên là do chính tay Quyên thêu trong những lần Nguyên về phép. Cứ mỗi lần thêu thêm một hoa mai cho Nguyên là lòng Quyên lại trĩu nặng thêm một ít. Một câu nói nửa đùa nửa thật của người bạn học cùng lớp, mà mỗi lần nhớ đến, đã làm cho Quyên cảm thấy chới với như người mất đà vì bắt hụt vào chiếc bóng:
– Lấy chồng Võ Bị thì chớ có lấy thủ khoa. Thủ khoa nào của Võ Bị cũng sớm được tổ quốc ghi ơn…

Bước vào Võ Bị là Nguyên đã chọn con đường binh nghiệp. Suốt bốn năm miệt mài rèn luyện cả văn lẫn võ. Nguyên hãnh diện với sáu chữ: Sinh Viên Võ Bị Ðà Lạt. Nguyên muốn mình xứng đáng với niềm hãnh diện đó, trong trường, ngoài quân sự và văn hoá, Nguyên học quyền thuật, kiếm thuật, học cỡi ngựa, chơi đàn, nhảy đầm rất đẹp, pha cocktail rất ngon. Ra trận, Nguyên đánh giặc rất gan lì. Tất cả để giữ cái truyền thống của hai chữ ‘Ða Hiệu’ mang trên vai. Và luật của tạo hoá là như vậy: truyền thống càng hào hùng, định mệnh càng khắc nghiệt.

Quyên biết mình chỉ là sợi tơ, không thể nào buộc nổi một cánh chim bằng với hào khí đang còn ngất trời. Chỉ còn biết chờ, chỉ còn biết đợi. Ðợi chờ cho đến ngày chim bằng mỏi cánh, hoặc là…

Quyên không dám nghĩ đến. Không dám ích kỷ mong muốn Nguyên dừng chân bằng một sự hy sinh quá lớn. Mà thật sự thì Nguyên đã hy sinh, hy sinh cả một tuổi thanh xuân của chàng cho chiến trận, hy sinh cả một tình yêu như mật ngọt trong khung trời Ðà Lạt mộng mơ này, để lăn mình vào nơi gió cát…
Hết
KMD, 1972
-----------
 
More:
 

No comments: