Nguyễn Thùy
Xin thuật lại đây câu chuyện người viết được nghe từ lâu về hành động quả cảm của một người lính VNCH có chồng bị Cộng sản bắt đi tù ‘Cải tạo’ tại miền Bắc như sau :Vào khoảng năm nào, tôi không còn nhớ rõ (có lẽ 1983 hay 1984 gì đó), lúc còn ở tại VN (Sài-Gòn) , trong một lần đến chơi nhà người bạn thơ Trần Thiện Hiếu (hiện đang ở Sydney – Úc Châu), tôi gặp ông Hà Thượng Nhân và một người nữa vừa được Cộng sản trả tự do sau thời gian bị tù gọi là ‘bị Học tập cải tạo’.
« Có một ông Thiếu Tá bị đưa đi tù tận miền Bắc. Lúc được cho phép gia đình tiếp tế, thăm nuôi, vợ ông Thiếu Tá ra thăm ông, thấy chồng tiều tụy, gầy guộc, ốm o, bệnh hoạn. Năm sau, Bà lại ra thăm nuôi chồng nhưng không được gặp. Bà hỏi thì quản giáo bảo là ‘không biết’.
Bà nổi sùng lên bảo : ‘’Chồng tôi năm trước còn ở đây, sao bây giờ, các ông bảo là ‘không biết’ ?Như thế, một là chồng tôi bị chuyển sang một trại khác, hai là chồng tôi đã chết hoặc chồng tôi trốn trại bị bắn chết hay đã thoát rồi, như vậy, các ông phải biết chứ ?’’.
Người quản giáo vẫn bảo :‘’Chồng bà không có ở đây’’. Bà tức giận, lớn tiếng hỏi mãi, cuối cùng, quản giáo nói là ‘’chồng bà chết rồi’’. Bà lại hỏi : ‘’Chồng tôi chết, tại sao chết, chết thì chôn ở đâu ?’’.
Do dự mãi, lát sau, quản giáo cho biết mộ chồng bà ở phía sau trại giam. Bà ta lân la hỏi các người tù đang đi lao động, được biết chồng bà bi đau rồi chết và chỉ chỗ chôn. Bà ta tìm đến mộ chồng, giở đồ tiếp tế bày ra, cúng chồng. Ðêm đó, Bà ở lại ngủ bên mộ chồng. Quản giáo ra đuổi bà đi thì Bà nói to lên : ‘’Sao các ông tàn nhẫn, không cho người vợ được ngủ bên mộ chồng mình sao ? Có luật pháp nào cấm việc đó không ?’’.
Thấy Bà cương quyết quá, quản giáo đành làm ngơ. Sáng ra, Bà phân phát các thứ tiếp tế cho các bạn tù lao động gần đó rồi bẻ một nhánh cây cắm trước mộ chồng, nhổ một ít tóc treo vào nhánh cây đó.
Năm sau, Bà lại lặn lội, đem theo thực phẫm tiếp tế ra thăm chồng lần nữa. Quản giáo bảo : ‘’Chồng Bà chết rồi, sao Bà còn thăm nuôi, tiếp tế làm gì nữa ?’’. Bà bảo : ‘’Tôi thương, tôi nhớ chồng tôi, xin các ông cho phép tôi được ngủ bên chồng tôi lần nữa’’.
Quản giáo ngạc nhiên, biết ngăn cản cũng khó vì ngại Bà lại lớn lời như trước nên đành chịu. Như lần trước sáng ra, Bà dựng lại nhánh cây năm trước đã bị ngã xuống đất, cắt một nằm tóc buộc vào (nắm tóc năm trước đã bay đi hết, chỉ còn đôi sợi lẫn vào trong đất) rồi ra về. Năm thứ ba, Bà lại ra thăm nuôi chồng. Quản giáo hỏi : ‘’Ðã hai lần rồi, Bà còn ra thăm nuôi người chết sao ?’’.
Bà bảo : ‘’Tôi còn trẻ, lần nầy, tôi ra xin ngủ với chồng tôi lần thứ ba để ‘đoạn tang’ chồng, như thế cho trọn nghĩa phu thê, tôi mới có thể bước đi bước nữa sau nầy. Xin quản giáo cho cho phép tôi được toại nguyện, đây là lần chót…’’.
Quản giáo có lẽ cảm động ít nhiều, đồng ý. Bà lại ra ngủ bên mộ chồng lần thứ ba, thắp nhang, đốt nến. Vào khuya, Bà mở túi xách, lấy một cái xẻng nhỏ cùng túi nylong, đào mộ, hốt ít xương cốt chồng, bỏ vào túi nylong, đổ formol vào rồi mang túi xác chồng lần ra lộ. Bị cán bộ bắt được, quản giáo bảo bà phải bỏ túi nylong đó lại.
Bà bảo : ‘’Chồng tôi chết rồi, có gì các ông phải lo ngại. Tôi đem xương cốt chồng tôi về thờ cho trọn nghĩa thủy chung, điều nầy có gây khó khăn gì cho các ông đâu ? Tôi có lấy chồng khác thì tôi cũng thấy trọn nghĩa với chồng trước và người chồng sau của tôi càng kính trọng tôi thêm’’.Quản giáo nhất định bắt Bà phải để túi nylong xác chồng lại rồi mới cho Bà đi.
Bà tức tối, la lớn :‘’Ðời thưở nhà ai, vợ hốt cốt chồng lại bị ngăn cấm ! Ðươc, tôi gởi túi xác chồng tôi nơi đây, các ông phải giữ kỹ. Tôi sẽ về Hà-Nội, gỏ cửa các quan lớn, hỏi cho ra lẽ. Có phép nào, có luật nào không cho vợ được giữ hài cốt của chồng mình, thờ phụng không ? Chuyện gì xảy ra thì các ông phải chịu trách nhiệm’’.
Thấy sự việc gây cấn, biết người đàn bà nầy sẽ làm lớn chuyện, có thể không hay nên quản giáo đành để Bà đi nhưng cho một cán bộ đi theo Bà ra đến lộ, ngăn cấm tất cả mọi loại xe : xe đò, xe hàng, xe ôm, xe đạp, cả xe chở củi, không cho chở Bà. Thế là Bà cuốc bộ hàng chục cây số, len lỏi đến nhà ga Hàng Cỏ, hối lộ nhân viên trên tàu, leo lên xe lửa, len lỏi qua bao nhiêu toa, rốt cuộc sau bao ngày về đến Sài-Gòn ».
Người viết có ghi lại sự việc nầy trong tập thơ ‘Việt Nam tân huyết sử diễn ca’ dài 7000 câu Song Thất Lục Bát, thuật lại hết mọi cảnh đời điêu linh của nhân dân Miền Nam do cuộc ‘Ðổi đời’ bi đát của Cộng sản, động chạm đến cả Hồ Chí Minh, Lê Duẩn Ðỗ Mười, Phạm Văn Ðồng, cả Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam,…
Ðoạn viết về sự việc nầy trên cả trăm câu. Tiếc rằng, lúc vượt biên (cuối năm 1988), người viết không dám mang theo tập thơ viết tay gồm cả 4, 5 quyển tập học trò, sợ bị bắt thì chỉ tù rục xương hoặc bị đánh đập đến chết. Cũng rất tiếc, người viết không hỏi rõ người vợ lính đó cùng chồng tên gì, bị giam tại trại tù nào. Nay chỉ còn nhớ đôi đoạn ngắn như sau :
Lần hai, Bà ra ngủ bên mộ chồng :
Năm sau nữa, đội mưa đạp nắng
Nửa vừng trăng, nếp trán rưng rưng
Mồ hoang lại ngủ bên chồng
Tóc thề thêm một thủy chung đất trời…
Lần ba, có đoạn sau :
Năm sau nữa, rừng hoang núi vắng
Ðêm cùng ngày gió đắng mưa cay
Ðến bên quản giáo tỏ bày
Chồng tôi mộ đã xanh dày cỏ hoang
Xin cho lần nữa đoạn tang
Dù thêm bước mới, cũng tròn thủy chung….
Sau nầy, năm 2005, trong quyển ‘Khung Trời Hướng Vọng’ viết về thơ 16 tác giả hải ngoại, lúc viết về thơ Mạc Phương Ðình nói đến những khổ cực, đắng cay của người vợ trọn nghĩa cùng mình, có đoạn :
‘’Xin được viết trên lá rừng vạn dặm
Một chữ tình chung nhất để yêu em
Dòng suối nhỏ mang lá về với biển
Ðể nghìn năm tình ấy vẫn mênh mông’’…
Mạc Phương Ðình
Nhân đoạn thơ đó và nghĩ đến những gương phụ nữ anh hùng suốt thời gian qua, tôi đã viết : ‘’Rừng vạn dặm, biển mênh mông từ nay mang chở hàng hàng chiếc lá thủy chung, ân tình, bất khuất của nữ lưu người Việt cạnh bao đấng hùng anh trong sa cơ vẫn không khuất nhục, đầu hàng. Cho dù ‘vô danh’, khiêm nhượng, cho dù không được lịch sử chép ghi nhưng những gương sáng đó vẫn được đời đời gìn giữ : ‘sử văn lỗi chép, sử tình vẫn ghi’. Còn có những người nữ như thế, còn những người nam nhi như thế, dân tộc Việt Nam miên viễn vẫn hùng anh và lịch sử sẽ lại sớm huy hoàng sau giai đoạn bị đẩy chìm vào tăm tới’’ (‘Khung Trời Hướng Vọng’, trang 355).
Nguyễn Thùy
Quang Nguyen chuyển
No comments:
Post a Comment