* Các Lữ Đoàn Nhảy Dù Trong Tháng Ngày Cuối Cùng Lê Minh Ngọc K16/LĐT/LĐ4/ND
@ Nền Cộng Hòa của Miền Nam Sụp Đổ bỡi Bàn Tay Đẫm Máu của Kẻ Nội Thù (Hidden Enemies from the Inner)
---------------
Lê Minh Ngọc K16/LĐT/LĐ4/ND
* VietNam War (1954-1975): The Victory was reserved for the DEvil.
* QLVNCH Không Có Quyền Được Thắng - Phần Thắng Dành cho kẻ Ác
* QLVNCH Không Có Quyền Được Thắng - Phần Thắng Dành cho kẻ Ác
--------------------
NHỮNG TRẬN ĐÁNH CUỐI CÙNG và CHÂN DUNG NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM CỘNG HÒA
Quân đội VNCH chính thức buông súng và tan rã vào trưa ngày 30/4/75, sau nhật lệnh đầu hàng của Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, một tên nằm vùng được Tổng thống 3 ngày Dương Văn Minh bổ nhiệm làm quyền Tổng Tham Mưu Trưởng. Đó là một ngày đen tối mà cho đến hôm nay, sau đúng 40 năm, hầu như vẫn còn in rõ trong tâm niệm của hàng triệu người lính cũ của quân đội miền Nam cùng với những cảm nghĩ cay đắng, đau xót. Những cảm nghĩ ấy có lẽ cũng được cả những người chết mang theo
Bốn mươi năm sau khi tan hàng rã ngũ bằng một cuộc bức tử kinh tởm, chân dung thật của người lính VNCH vẫn còn bị che mờ sau những màn khói huyền thoại, phản bội và vô ơn. Có lẽ trong lịch sử thế giới, không có người lính nước nào phải chịu một số phận nghiệt ngã như người lính VNCH. Trong khi cầm súng chiến đấu và sau khi đã buông súng hằng chục năm, người lính ấy vẫn chưa thoát khỏi cái số phận nghiệt ngã bám theo mình.
Tuyên truyền CS vu cáo họ là “những tên lính đánh thuê”, là bọn “ngụy quân” phản quốc, làm tay sai cho ngoại bang giết hại đồng bàọ. Báo chí phương Tây, kiêu ngạo và bất công – qua một số cấp chỉ huy thối nát, bất xứng – vẽ lên hình ảnh những người lính chỉ biết nhũng nhiễu dân, bỏ chạy trước địch quân, và “không chịu chiến đấu”. Cuộc tan hàng thê thảm vào ngày 30/4/75 càng khiến người lính VNCH bị lăng nhục hơn nữạ. Kẻ thù, sau khi “lượm được chiến thắng”, đã tận dụng mọi phương tiện để trả thù, đày ải, hạ nhục những người lính bại trận. “Bạn bè”, khiếp sợ trước “chiến thắng thần thánh”của đối phương, cũng để tự bào chữa cho sự hèn nhát và phản bội của mình, tiếp tục trút mọi tội lỗi lên đầu những người lính đã bị bắt buộc phải buông súng.
Người lính VNCH: biểu tượng cho sự chịu đựng gan dạ và bền bỉ trong cuộc chiến chống cộng ròng rã suốt 3 thập niên.Đau đớn hơn nữa là sự phản bội của một số những người chỉ huy cao cấp trong quân đội VNCH. Từ Nguyễn Hữu Hạnh, Nguyễn văn Thiệu, nguyễn Cao Kỳ, cho đến gần đây nhất là Trần Văn Đôn. Chưa hết, còn sự vô ơn và phản bội của một số người Việt cầm bút, ở trong và ngoài nước, những người đã nhờ máu của người lính VNCH mà dược hưởng tự do trong hơn 20 năm để viết ra những gì họ nghĩ, cái tự do trong cái giới hạn trong một xã hội chiến tranh nhưng ít nhất họ cũng không bị trở thành những con ngựa trong chuồng như ở miền Bắc. Những nhà văn nầy đã và đang trả cái ơn ấy bằng cách khai thác và phóng đại những khuyết điểm của người lính VNCH, hay vô liêm sĩ hơn nữa, vu cáo những người chiến sĩ chính danh là những tên lính đánh thuê khát máu, không nhân tính, không lý tưởng. Đâu là chân dung thực của người lính VNCH?
Năm 1984, trước bộ phim được gọi là “tài liệu lịch sử” dài 13 giờ chiếu mang tên Vietnam: A Television History (Việt Nam: Một Bộ sử Truyền Hình) nhưng là một sự lăng mạ lịch sử, ông James Banerian đã viết một cuốn sách vạch trần những sai lầm ác ý của những người làm phim. Cuốn sách của ông nhan đề là Losers Are Pirates (Thua là giặc), rút từ câu tục ngữ Việt Nam “được làm vua, thua làm giặc”. Cái tựa đề ấy đã xác nhận thêm số phận bạc bẽo cay nghiệt của người lính thua trận, và là một trong số hiếm hoi những tiếng nói lương thiện và trung thực trong “thế giới tự do” đã đóng góp vào việc tái tạo lại chân dung thực của người lính VNCH.
Cũng trong năm 1984, học giả Phạm Kim Vinh viết cuốn “Thiên Anh Hùng Ca Viết Cho Quân Lực VNCH, dùng những chất liệu lịch sử và những bài viết của các tác giả Tây phương lương thiện để bẻ gãy những sự vu cáo, bác bỏ những lời buộc tội bất công, xoá tan những huyền thoại, và phục hồi danh dự cho những người lính đã chiến đấu trong những điều kiện khắc nghiệt suốt hơn 20 năm, đi qua một con đường dài lịch sử mà ông cho là “kể về sự khắc khổ và chịu đựng còn vượt xa con đường Vạn Lý Trường Chinh của Mao Trạch Đông, và về tính cách thiêng liêng, vị tha và cao quý còn vượt xa các cuộc Thánh Chiến Thời Trung Cổ.
Chân dung người lính VNCH được phác họa sống thực ngay ở bìa cuốn sách, với hình ảnh một người chiến binh gầy ốm, gương mặt chĩu nặng ưu tư mệt mỏi, nhưng chân vẫn bước đi với hai ống quần xắn lên tới đầu gối và cây súng thô sơ trên vai.
Qua gần 300 trang sách với thật nhiều dẫn chứng cụ thể và những biện luận vững chắc, tác giả Phạm Kim Vinh đã đưa người đọc đi lại con đường dài mà người lính VNCH đã đi, từ những ngày đầu được khai sinh với nhiều bất hạnh, trưởng thành dần trong khói lửa với cuộc chiến đấu dũng cảm trong sự thiệt thòi bất công vô lường, cho đến cái chết tức tửi oan nghiệt vào ngày 30/4/75.
-------------
Những chiến xa T-54 của Cộng Sản bị bắn cháy gần phi trường Tân Sơn Nhất trong những ngày cuối cùng của tháng 4 năm 1975.Ngay sau khi người lính VNCH buông súng, trong đống sách báo phim ảnh trên thế giới nói về cuộc chiến VN cũng đã có rải rác những cái nhìn công bằng hơn về những người lính thua trận, qua những cuộc chiến đấu cuối cùng dũng cảm tuyệt vọng của họ.
Hai ngày sau khi Saigon sụp đổ, Peter Kanh, nhà báo Mỹ đoạt giải Pulitzer, đã viết một bài bình luận dài trên tờ Wall Street Journal (2/5/75) tựa đề “Truy điệu Nam Việt Nam”, trong đó có đoạn viết về Quân Lực VNCH như sau :
“…Nam Việt Nam đã chống cự hữu hiệu trong 25 năm, và họ đã không phải luôn luôn được người Mỹ giúp. Tôi nghĩ ít có xã hội nào bền bỉ chịu đựng được một cuộc chiến đấu lâu dài như vậỵ. Quân lực VNCH đã chiến đấu can đảm và vững mạnh trong một số trận đánh mà chúng ta còn nhớ, thí dụ như trận An Lộc Quân đội ấy đã chiến đấu giỏi và can đảm ở nhiều trận đánh khác mà chúng ta không còn nhớ địa danh. Quân lực ấy đã can đảm và chiến đấu trong hàng ngàn trận đánh nhỏ, và giữ vững hàng ngàn tiền đồn hẻo lánh ở những nơi mà cái tên nghe rất xa lạ với người Mỹ…
Hàng trăm ngàn người của quân lực ấy đã tử trận. Hơn nửa triệu người của quân lực ấy đã bị thương…Và trong những tuần lễ chót, khi mà người Mỹ nào cũng biết là cuộc chiến đấu đã thua rồi thì vẫn còn những đơn vị của quân lực ấy tiếp tục chiến đấu, thí dụ tại Xuân Lộc. Nhờ có những sự chiến đấu ấy mà người Mỹ và một số người Việt lựa chọn mới an toàn thoát đi được. Rốt cuộc, quân lực ấy đã tài giỏi hơn sự ước lượng của người ta . Phía mạnh hơn chưa chắc đã là phía tốt hơn”.
Không phải đợi tới ngày nay, 40 năm sau, người ta mới khẳng định được rằng, “phía mạnh hơn không phải là phía tốt”. Phía tốt hơn đã trở thành phía yếu hơn và đã bị đánh bại trên chiến trường chỉ vì đã trở thành nạn nhân của sự hèn nhát và phản bộị Người lính VN đã chiến đấu cho tự do đã bị trói tay buộc chân, cắt giảm viện trợ vào lúc hiểm nghèo nhất.
Trong cuốn “Not with guns alone”, nhà báo lão thành người Úc Denis Warner đã lên án Quốc Hội Mỹ cắt giảm viện trợ quân sự cho VNCH vào lúc cần phải gia tăng. Ông cho biết cả một tiểu đoàn QLVNCH bị tiêu diệt trong một trận đánh ở miền Tây sau khi bắn hết viên đạn cuối cùng.
Ở miền Trung, mỗi khẩu đại bác chỉ còn được cấp 4 viên đạn mỗi ngày, trong khi Cộng quân có khả năng nã vào các căn cứ quân sự miền Nam hàng ngàn quả đại pháo mỗi đêm.
Tác giả Mỹ Louis Ạ Fanning cũng viết như sau trong cuốn “Sự phản bội tại VN” (Betrayal in Vietnam): “Trong khi quân lính Bắc Việt được tăng cường chiến cụ thì quân đội Nam Việt Nam lại bị cắt giảm thật nhiềụ Trước kia, mỗi khinh binh đi hành quân tuần tiễu được phát mười trái lựu đạn, nay chỉ còn được phát có một trái”.
Những kẻ trói tay buộc chân người lính VNCH cũng chính là những kẻ đã kết tội người lính ấy “không chịu chiến đấu” trong khi cả “thế giới tự do” không hề có một lời lên án việc CSBV xé bỏ Hiệp Định Paris 1973, chiếm đoạt miền Nam bằng võ lực. Sự hèn nhát nầy đã bị nhà văn Nga lưu vong Solzhenitsyn coi là một sự vô đạo, vì ý chí tự vệ của phân nửa Âu Châu và ở 3/4 thế giới còn thua xa ý chí chiến đấu tự vệ của Nam Việt Nam, phần đất đã bị bỏ rơi với lời biện hộ “không thể bảo vệ những người không có ý chí để tự bảo vệ!”Sự hèn nhát và vô đạo ấy đã làm thức tỉnh lương tâm một số người từng góp phần cổ võ cho CSBV xâm chiếm miền Nam, khi họ chứng kiến những trận đánh cuối cùng của một số đơn vị QLVNCH. Trong số nầy có 3 nhà báo Pháp Jean Larteguy, Jean Lacouture và Pierre Darcourt. Ba nhà báo nầy đã có mặt tại miền Nam Việt Nam trong cơn hấp hối của Saigon, có lẽ chờ đợi đón mừng “bộ đội giải phóng” để chứng kiến cái chết ô nhục của quân đội miền Nam mà họ đã phỉ báng trong suốt bao nhiêu năm. Nhưng sau khi chiến tranh chấm dứt, họ trở về Pháp, và đã làm cho cả thế giới ngạc nhiên với những gì họ viết ra.
Người Lính Việt Nam Cộng Hòa
Jean Larteguy ghi lại như sau khi tới thăm một đơn vị Dù cố thủ tại Sài Gòn:
“Thứ Hai 28/4/75. Saigon sáng nay yên tĩnh.
Các đơn vị của một lữ đoàn Dù chiếm đóng vị trí của họ trong thành phố, sau bức tường, trong các khu vườn. Họ không buồn rầu, và không tuyệt vọng. Họ điều động như thể đang dự một cuộc thao dượt. Đôi lúc họ còn cười với nhau, và liệng cho nhau những chai Coca-Cola. Họ không nuôi một ảo tưởng về số phận của họ, về kết quả của trận đánh tối hậu nầy. Nhưng tôi có cảm tưởng là họ nhất định chiến đấu tới cùng, và sẽ tự chôn mình trong những đổ nát của Saigon.Và những binh sĩ tuyệt vời nầy vẫn còn có được các cấp chỉ huy ở bên họ. Một trong các cấp ấy là một đại tá. Tôi hỏi ông ta xem tình hình ra sao.
Ông trả lời:
– Chúng tôi sẽ chiến đấu, và chúng tôi sẽ là những người chót chiến đấu. Hãy nói cho mọi người biết rằng chúng tôi chết không phải vì Thiệu, vì Hương hay vì Minh.
Sau khi Dương văn Minh đã tuyên bố đã đầu hàng. Lartéguy lại được chứng kiến tận mắt trận đánh cuối cùng của các đơn vị QDVNCH tại Saigon, và ghi lại như sau:
“Gần Lăng Cha Cả, quân Dù đánh trận chót. Họ chiến đấu tới 11 giờ 30 trưa, cho tới khi các cấp chỉ huy của họ từ Dinh Tổng Thống trở về sau cuộc gặp gỡ bi thảm với tướng Minh. Các sĩ quan nầy khuyên họ nên ngưng chiến đấụ. Họ vừa hạ được 5 xe tăng T-54. Những xe ấy còn đang cháy ngùn ngụt. Một chiếc nổ tung vì đạn trong xe. Quân Dù không để lại trên trận địa một thứ gì, dầu là vũ khí, đồ trang bị, người bị thương hoặc người chết”.
Lartéguy cũng được thấy tận mắt các sinh viên Trường Võ Bị Đà Lạt, lực lượng trừ bị chót của QLVNCH, tiến ra trận địa. “Và trong những bộ đồng phục mới, giày chùi xi bóng láng, các sinh viên anh dũng của Trường Võ Bị Đà Lạt đã đi vào chỗ chết. Chỉ còn thiếu có cái mũ diễn hành và đôi bao tay trắng”
Một đồng nghiệp của Lartéguy là Raoul Coutard đã thu được cảnh xuất quân bi tráng ngay vào máy quay phim và cố nén xúc động để hỏi các sinh viên sĩ quan:
– Các anh có biết là sắp bị giết chết không?
Một thiếu úy trả lời:
– Chúng tôi biết chứ.
– Vì sao?
– Tại vì chúng tôi không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản.
-------------------------
“…Các xe tăng đầu tiên của cộng sản vào Saigon từ phía Đông, qua tỉnh lộ Thủ Đức và Biên Hòạ.. Bộ binh thì tiến từ phía Bến cát và Tây Ninh. Tuy vậy, bọn nầy chỉ tới được trung tâm Saigon vào lúc 5 giờ chiềụ .Từ ngày hôm trước, các đơn vị cộng quân nầy dã bị chặn tại gần Hốc Môn, gần nơi có Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù do Lữ Đoàn 4 của sư đoàn Dù trấn giữ, dưới sự chỉ huy của đại tá Vinh, sĩ quan to con, mặt phong trần, nhất định bất chấp lệnh ngưng bắn. Các đơn vị cộng quân bị thiệt hại nhiềụ. Sau đó, chúng còn phải giao tranh 2 lần trên đường phố Saigon : một lần trước trụ sở Cảnh Sát Công Lộ; nơi đây chừng 100 cảnh sát viên chiến đấu oanh liệt trong hơn một giờ, trước khi bị xe tăng cộng sản đè bẹp; lần thứ hai ở ngã tư Hồng Thập Tự và Lê văn Duyệt, là nơi chỉ có 4 người lính dù võ trang đại liên và bazooka mà chiến đấu được trong 50 phút. Đến khi hết đạn, họ đi ra ngoài, nắm vai nhau, lập thành vòng tròn rồi cho nổ một tràng lựu đạn tự sátĐến chiều tối, 400 chiến sĩ Mũ Đỏ (Dù) được gom từ trận Hốc Môn và từ phi trường, tụ lại quanh đại tá Vinh, và còn chiến đấu gần chợ chính và các nơi có ruộng lúa của tỉnh Chợ Lớn. Đến 10 giờ đêm, đại tá Vinh cho lệnh các binh sĩ chia thành toán nhỏ, lợi dụng bóng đêm để rút về đồng bằng.”
Darcourt cho biết đại tá Vinh đã ở lại vị trí và tự sát.
Hai cái chết hào hùng khí phách của 2 vị tướng ưu tú của QLVNCH cũng được các nhà báo quốc tế chân chính thuật lại.
Nhà báo lão thành người Úc Denis Warner viết về cái chết của tướng Lê Nguyên Vỹ, tư lịnh sư đoàn 5, như sau:
---------------
“…Trong buổi sáng ngày 30/4/75, sư đoàn 5 mất liê lạc với quân khu III tại Long Bình. Tư lệnh sư đoàn 5 là tướng Lê Nguyên Vỹ quyết định dùng mọi thứ xe cơ giới để tiến về Saigon. Toàn thể quân đoàn I của CS chận đánh đoàn xe của tướng Vỹ. Bị yếu thế về mọi mặt, đoàn xe ấy bị tiêu diệt. Tướng Vỹ hiên ngang tự sát”.
Về cái chết của tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh quân đoàn 4, ký giả Mỳ Alan Daeson thuật lại:
“…Tại Cần Thơ, tướng 3 sao Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh vùng 4 và đồng bằng Cửu Long, rốt cuộc đành chịu nhận là cuộc chiến đã hết, khi ông ta nghe thấy tướng Minh nói trên đài phát thanh. Là một trong các tướng lãnh cương quyết ở lại, tướng Nam đã chiến đấu cho đến phút chót…Ông ra lệnh cho các sĩ quan tham mưu của ông không được rời bản doanh.
Ông ta còn đích thân đi quan sát tiền tuyến nữạ. Ông ta đã bắn viên tỉnh trưởng Sa đéc ở ngay phía đông Cần Thơ, vì kẻ ấy nhất định đòi đi theo người Mỹ chạy trốn. Khi viên tỉnh trưởng Kiên Giang trái lệnh của tướng nam, và dùng tàu rời khỏi Rạch Giá để đi về phía Nam thì tướng Nam cho 3 chiếc trực thăng võ trang đuổi theo, rồi bắn chìm chiếc tàu ấy bằng đại liên và hỏa tiễn.
Tướng Nam chẳng có gì để phải hổ thẹn khi chiến đấu những ngày chót của một chiến binh. Ông đã thật sự dâng cuộc đời mình cho cuộc chiến đấu ấỵ Trong vòng 30 phút, sau khi tướng Minh ra lệnh đầu hàng trên đài phát thanh, tướng Nam kề khẩu súng lục cỡ 45 vào mồm rồi bóp cò. Ông ta chết ngay tại chỗ.”
Những trận đánh dũng cảm và những cái chết anh hùng trên đây là đoạn kết của một cuộc chiến bi tráng kéo dài trên 20 năm, trong dó theo viên tướng Pháp Vanuxem thì cứ mỗi 8 phút lại có một người lính VNCH hy sinh. Nhờ sự hy sinh ấy mà hơn 20 triệu người dân miền Nam được sống tự do trong 1/4 thế kỷ. Bao nhiêu cuộc đời êm ấm đã trôi qua trong thời gian ấy, bao nhiêu công danh sự nghiệp đã được “những con người may mắn” thủ đắc.
Và đây là cái “phần thưởng” mà xã hội miền Nam ngày trước đã đền đáp cho sự hy sinh của người lính sau mỗi cuộc hành quân, qua ngòi bút của Phan Nhật Nam:
“Người chồng không chết, và sẽ trở về. Người lính bơ phờ, gầy guộc, ngồi đếm đi đếm lại những tờ giấy bạc bằng những ngón tay cáu ghét, mơ ước bỗng nhiên xấp bạc trở thành nhiều hơn, một giấc mơ nhẹ nhàng, quên được cảnh đời với đôi chân lội ngập trong bùn, những tờ bạc có được sau 30 ngày đo chân bờ ruộng, trong rừng sâu, trên những cồn cát, 30 đêm ngủ võng, nằm hầm, mắt mở lớn sau một lớp cỏ ướt sương, và toàn thân ngâm chặt dưới nước bùn lạnh giá. Những tờ bạc chỉ đủ mua một phần gạo cho một người đàn bà và 4 đứa con trong tháng”.Đó là người lính không chết. Nếu người lính chết, thì đây là thân phận vợ con người lính:
“Người lính chết, chết là hết, nhưng không bao giờ hết cho người vợ lính. Không hết cho một chuỗi ngày tháng dài đăng đẵng sau lưng, cùng với một lũ con nheo nhóc; những đứa bé sẽ lang thang trên các đống rác chất ngất được đổ từ những chiếc xe nhà binh Mỹ; thằng bé sẽ mặt cái áo dài của bố nó, dài đến tận đầu gối, tóc rối, mắt khô, chân tay là những rễ cây khẳng khiụ.. Những người vợ lính, và đứa con lính sẽ dự phần vào cuộc đua khốn nạn, dấu chân trần sẽ vượt thật nhanh trên những chiếc hộp sắt bóng loáng, hay sét rỉ…”
Cuộc chơi rõ rệt không công bằng, nhưng nguời lính VNCH vẫn miệt mài chiến đấu và hy sinh. Cho đến khi hoàn toàn bị trói tay. Cuộc chơi tàn. Nhưng người lành lặn bị lùa vào các trại cải tạọ. Đui, què, mẻ sứt…không còn được ai nhắc tới, biết tới. Những người chết không yên, mồ mả bị đào xới lăng nhục.
--------------
Bốn mươi cái 30/4 đã trôi qua, hào quang của những kẻ đã chiến thắng nhờ sức mạnh súng đạn ngoại bang đã tắt lịm trong cái xã hội cực kỳ thối nát. Bao giờ lương tâm mới thức tỉnh trong những con người vẫn còn muốn ném bùn vào nét chân dung của người lính VNCH?
Tác giả: Sơn Tùng
----------------
Nguoiviettudo
Hồi còn nhỏ tôi đã có cơ hội biết về nhiều binh chủng của quân đội Việt Nam Cộng Hoà. Trong các binh chủng đó, tôi có nhiều dịp tiếp xúc với binh chủng Biệt Đông Quân. Hồi thời Tổng Thống Ngô Đình Diêm, một người con ông chú đã gia nhập binh chủng này từ những ngày mới hoạt động ở vùng Bốn. Năm đó anh được lện Sài Gòn dự lễ diễn binh nên có ghé tạt nhà. Tướng anh bự con mặc bộ đồ bông rất đẹp và ngầu, thêm cái nòn bê rê màu huyết dụ (Cái nhận xét của một thằng nhóc như tơi lúc đó là lính BDQ ngầu thiệt. Sau này tôi có thằng bạn học rớt tú tài hai đi thủ Đức, ra trường cũng về BDQ, một thời gian sau thi giải ngũ vì thương tật. Gia đình tôi cũng có người về BDQ cho tới khi buông súng cho nên tôi có cảm tình đặc biệt với binh chủng này (sau 4/75 tôi lại biết những người lính BDQ khác, rát đáng nể như thiếu Tá Trần Đình Tự, hay ông hai Nâu Vương mộng Long. Tôi cũng thích cái khi phách trong motto của binh chủng này.
* BDQ : SÁT , như ý của người Việt Nam Xưa khi xâm vào tay chữ SÁT ĐÁT
Một binh chủng khác của Việt Nam Cộng Hòa có một motto nghe rất hiền lành và khiêm nhường nhưng là một binh chủng rất thiên chiến, mạnh mẻ, và có mặt trên mọi chiến trường ác liệt nhất, khiến cho đồng minh và dối thủ đều phải ngưỡng mộ và nễ phục: Đó là lính Nhảy Dù, với motto nghe hiền khô, và khiêm nhượng nữa:
* Nhảy Dù CỐ GẮNG
Và họ đã cố gắng-từ những ngày đầu tiên trên chiến trường cho tới ngày phải cùng Tổ Quốc thúc thủ trước quân thù. Những người lính Mủ Đỏ vẫn còn chiến đấu ngay trong ngày nhận lệnh đầu hàng.
* Liên Đoàn 81 BCND:
chiến công của các chiến sĩ thuộc Liên Doàn 81 BCND Tiêu diệt gần một chục xe tăng trước ngưỡng cửa Sài Gòn, thực đến nổi VC dù muốn cũng không che dấu nổi. Thực ra với đơn vị đặc biệt này thì họ cũng chẵng cần được khen tặng, vì thực lực của họ đã được chứng minh suốt chiều dài lịch sữ của cuộc chiến. Có một sự thực là bất cứ đơn vị nào của miền Nam cũng không sợ phải đối mặt với quân Bắc Việt. Quân Cộng sản miền Bắc đã biết mùi chạm trán với quân miền Nam ở giữa lòng Sài Gòn hay cuộc chiến ở An Lộc. Dân thủ đô đã nhìn thấy xác VC (Cả bọn thâm nhập và bọn nằm vùng nằm phơi xác trên đường phố của Sài Gòn. Một bà già đi ngang qua xác của ba Việt Cộng đã chấp tay lẩm nhẩm "Con cái nhà ai mà phãi phơi xác cho chó tha chuột rỉa như vầy tội quá. VC biết chúng sẽ rơi vào trường hợp tết Mậu Thân nếu không đốc thúc những tên "ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản" như thích trí quang, ni cô Huỳnh Liên.... hoặc ĐẠI TƯỚNG DVM, để buộc lính miền Nam (Đặc biệt là những đơn vị như LD81 BCND, mà trong những ngày đầu mới xâm nhập, lính miền BẮC đã kháo nhau tránh xa các thần chết trên đường vào Nam (Sinh Bắc Tử Nam)
- thứ nhất : B52
-Thứ Hai : Nhảy dù
- thứ Ba là: Biệt kích 81BKND.
Đây là sự thực, nhưng sau khi cưỡng chiếm miền Nam, bọn bò đỏ và hệ thống tuyên truyền của VC mở hết công suất đễ nhục mạ, chà dạp hành hạ họ cho bỏ căm thù. Thi hãy xem cách bọn CS miền Bắc đã đối xử như thế nào với những người lính thua trận : chúng phá huỷ bia mộ những người chết (đặc biệt những bia lính tử trận có mặc quân phục rằn ri, lính bị thương còn thương tích băng bó bị đuổi khỏi tổng y viện. Thương binh bai trận (sau chiến tranh đã trở thành công dân của chế độ mới, chúng không chăm sóc họ, lại còn cản trở những người bỏ công sức giúp đở họ (trong khi ai cũng biết những công dân hạng nhì đầy thương tật này cũng không còn sống bao lâu nữa).
Nhưng Việt Cộng, luôn luôn to mồm nhất để lôi kéo mọi người nên "Hoà Hợp Hoà Giải với nhau". Vẫn có nhiều người nghe lời đường mật này, nhưng tôi là một trong những người không tìm thấy lý do nào chính đáng để đưa tay ra nắm lấy tay VC theo kiểu tình thương mến thương của người miền Nam. Có thể tôi không yêu bọn này, nhưng chắc chắn một điều là không quên nổi, thành tích của bọn này, cùng với những dây mơ rể má của chúng.
Câu chuyện của Liên Đòan 81 Biệt Cách Nhảy Dù cho thấy rõ ràng là dù Việt Cộng dốc hết sức mạnh cho bộ máy tuyên truyền, quân Đội miền Bắc đã không thể đánh thắng nổi và chiếm được Saigon như ý đinh, nếu không có lịnh đầu hàng của (tướng thân cộng Dương Văn Minh), chỉ mới một phần ba quân số về tới kịp Sài Gòn, thử tưởng tượng chuyện gì sẽ xãy ra nếu phần còn lại (gồm 2000 quân thiện chiến) tập trung về được cùng các đơn vị khác. Miền Nam còn khu vực vùng Bốn mà sức lực tác chiến còn nguyên. Lịch sử sẽ nói lên sự thực, vì rõ ràng quân miền Nam vẫn còn có cơ giữ được đất nước cho đến khi được sự can thiệp của thế giới đuổi bọn ăn cướp về miền Bắc. Sẽ có chết chóc, nhưng sẽ không thê thảm như bây giờ. Dân lính miền Nam không phải bỏ thây trên rừng dưới biển, nhiều người đã không có xác mà chôn cất.
Dương Văn Minh là môt tướng thân Cộng, chứ nếu việt Nam Cộng Hòa có một Tổng Thống không chiu đầu hàng, thì chiến tranh Việt Nam đã có một ngã rẻ khác , chấp nhận đươc. Tôi tin rằng thế giới sẽ can thiệp và có khi bọn Cộng Sản sẽ bị dẩy lùi về phía Vĩ tuyên 17. Vấn đề là VC vẫn cần đến cứu trợ của thế giợ́i , chúng sẽ chấp nhận thội.
Bài viết này không để đổ lỗi cho ai hết, nhưng mục đích chính của tôi là cho bò đỏ biết rằng, thực lực của miền Nam là có thât. Chỉ với trên dưới 1000 quân của 81 BCD đã nướng thành than gần một chục xe tăng của Việt Cộng trước ngưỡng cửa Saigon. Cộng Sản lại vừa hứng hai trai bom CBU ở Long Khánh hơi sức còn bao nhiêu nữa mà nói dóc. Nếu VC vào được Saigon thi chắc cũng sẽ nềm mùi "SINH BẮC TỬ NAM" thây nằm chật đất như hồi 1968. Hồi đó sau tết Mậu Thân thanh niên miền Nam ghi danh nhập ngũ , làm ngạc nhiên những nhà lãnh đạo . Nếu miền Nam không đầu hàng, có lẽ giờ này họ đã thực sự "GIẢI PHÓNG " miền Bắc và thống nhất hai miền theo cách hợp lý hợp lẽ cho cả nhân dân hai miện.
Những người lính miền Nam là những người hùng trong mắt dân tộc. Linh miền Nam thắng trân chắc chắn không có "hoc tập cải tạo" ,đánh "tư sản mại bản", cướp đất dân oan, không phải xua đuổi hàng triệu dân lành chạy trốn ra biển, bị cướp biển Tháiland, hay gặp Khờ Me Đỏ trên rừng táng mang. Người Việt Nam sống trong tự do, sẽ là con rồng vàng ở Châu Á và thế giới.
BAO GIỜ BỌN BÒ ĐỎ HIỂU ĐƯỢC ĐIỀU NÀY VÀ NHẬN RA AI ĐÃ GâY RA MỘT VIỆT NAM NGHÈO ĐÓI NHƯ HIỆN NAY.
Những người lính miền Nam, chắc chắn sẽ tiếp tục chiến đấu cho tới chết, cho dù họ không còn môt chỉ huy cao cấp nào ở lai với ho. Cứ hỏi những chỉ huy từ cấp trung đội trưởng trở lên đến cấp chỉ huy tiểu đoàn xem có ông nào muốn từ bỏ vị trí chiến đấu để trở về với vợ con khộng. Hãy hỏi thử vị Phó Đề Đốc Hai Quân Mỹ Nguyễn Từ Huấn xem ông có thế QUÊN cái ngày gia dình ông bị tàn sát bởi một tên khủng bố Cộng Sản? Tôi tin là ông CÓ THỂ THA THỨ theo tôn giáo của ông, nhưng chắc chắn một điều là cho đến chết ông cũng sẽ không bao giờ quên được sự khủng khiếp cuả ngày hôm đó.
Hãy nhìn sự thực này nè bò đỏ: người trẻ Việt Nam có dịp ra được nước ngoài là KHỞI SẮC (Làm được chuyện này chuyên kia, thành người này người nọ). Còn cứ ở với Bác và Đảng thì cuối cùng cũng đi móc bọc mà sống, hoặc có chút nhan sắc thì đi phục vụ cho mấy "sugar dady" một cách hãnh diện không biết xấu hổ là gì.
Thời chiến tranh nhiều người vẫn có ý nghĩ là dù thế nào, Cộng Sản vẫn là người Việt Nam cùng máu mủ, chắc không đến nỗi nào. Bây giờ mong là nhiều người đã hiểu. Với CS, ai không theo thi giết như Khờ Me Đỏ, tàn sát cả hai triệu dân cùng chủng tộc. VC thì đập đầu chôn sống tết 1968 (7000), dập pháo lên đầu dân quảng Trị chạy loạn ra Huế (Đại lộ Kinh Hoàng) hoặc bắn giết dân lành chạy loạn ra khỏi An Lộc. Sự khờ khạo và cả tin của dân miền Nam phải trả giá quá đắt từ ngày 30/4/74 cho tới bây giờ.
Chắc chắn một điều, không dân miền Nam nào ao ước dất nước được thống nhất theo kiểu này. Dương Văn Minh đầu hàng xong thi chuồn qua Pháp ở cho đến cuối đời, chỉ dân ở lại chịu đòn của Việt Cộng. Và lính miền Nam sẽ tiếp tục chiến đấu cho tới người lính cuối cùng.
Vài giòng trước khi chấm hết.
Bài viết này không có ý định là để đổ thừa cho ai hết, nhất là những người lính đã bi buộc phải buông súng ngày 30/4/75. Các anh đã làm hết bổn phận của mình, và với người dân miền Nam, chúng tôi mang ơn các anh, nhất là những người chấp nhận ở lại và chịu mọi đầy đọa từ BỌN THẮNG TRẬN NHỜ Ăn MAY. Ai cũng biết điều này chỉ trừ Bọn Việt Cộng . Sự thực rồi sẽ có lúc hiện diện như ánh sáng của mặt trời, mà bên thắng trận cố gắng che chắn từ bao lâu nay. Tôi cũng không lên án những người lính phía bên kia khi các anh bị lùa ra chiến trường từ những cấp chỉ huy , coi tính mạng của các anh rẻ mạt, chỉ dám trang bị cho các anh trên đầu với nón cối làm bằng giấy bồi, quân phục bằng vải kaki mỏng tanh và đôi dép râu với nhiều kẻ hở để nuôi vắt đĩa, rồi ném các anh vào những trận chiến với B52 và những đơn vị thiện chiến của lính miền Nam, họ đâu quan tâm về tính mạng và gia đình ruột thịt còn lại của các anh. Các anh chứng minh được sự ngốc nghếch không thể thay đổi được của mình khi vẫn còn rất nhiếu người trong các anh chưng bày hình ảnh của Hồ Chí Minh trên tủ thờ mà nhang khói, như một người rất xứng đáng, không nhận ra hơn hai triệu người đã mất mạng vì Hồ và những tên cùng loại trong chiến tranh Việt Nam. Do đó sự tồn tại của chế độ Cộng Sản ở Việt Nam- nhờ vào sự ngu xuẩn này- sẽ còn ít nhất vài thập niên nữa, cho xứng đáng với sự ngu xuẩn nay- mà không ai thương xót.
Nguoiviettudo
------------------
------------------
Tran Hoa
Giây phút Chạnh lòng


Tháng Ba Gãy Súng
Tran Hoa
Giây phút Chạnh lòng



Tháng Ba Gãy Súng
Quang Cầu Muối
Bờ Biển Thuận An, tháng ba năm 1975.
Bờ Biển Thuận An, tháng ba năm 1975.
* Tháng Ba Gãy Súng - Cao Xuân Huy
Lời nói đầu: Cá nhân chúng tôi không có đủ thẩm quyền để viết những dòng này, cho quý Đàn Anh và các Niên/Huynh Trưởng đọc. Tôi viết bài này với tư cách là một người đọc văn, và kể lại cho lớp đàn em, con cháu nghe. Nghe để hiểu, để thương và quý trọng những người đã một thời cầm súng để bảo vệ cho Miền Nam tự do no ấm.
Họ không phải là "ngụy" như những lời tuyên truyền láo xược của việt cộng.
Họ là những người trai thời loạn.
Họ là những người :
Chiến trường đi không tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
- Trong quân sử thế giới, chưa có một lực lượng quân sự nào mà có những người Lính, bình thản rủ nhau cùng tự tử chết khi bị bao vây cùng đường, như những người Lính Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam Cộng Hòa.
Ở đây sẽ không đề cập đến nguyên nhân thảm bại của gần một Lữ đoàn lính thiện chiến của quân lực, bị bắt sống bởi một đại đội cộng quân..(vì nằm ngoài khả năng của người viết)
Nhưng cũng xin nhấn mạnh lần nữa, cũng trong quân sử thế giới, chưa có một quân đội nào ại có những người coi cái chết nhẹ tênh như những người Lính trong Tháng Ba Gãy Súng của cố nhà văn Trung Úy Thủy Quân Lục Chiến Cao Xuân Huy.
Một người có mặt trong trận chiến này.
- Cũng chưa có một nhà văn nào trong dòng văn học sử nước nhà, lại thản nhiên đưa những tiếng chửi thề đi vào chữ nghĩa như Ông ấy.
Lính nghĩ sao thì viết vậy, không hoa hè hoa sói, câu chuyện thế nào thì kể lại như vậy, chứ hoa lá cành chi mệt.
Vắn tắt lại những đoạn văn của Ông Huy:
...." tôi nằm ẩn nấp sau cái gọ úp xuống, quan sát những người lính thuộc tiểu đoàn 5 đánh trận. Tình cảnh của chúng tôi lúc này thật bi đát, lương thực đạn dược sạch banh, đường về không có, vậy mà những người lính kia họ vẫn bình thản cười đùa, chiến đấu.
Một người bọc nòng súng cối bằng áo giáp để khỏi phỏng tay, một người kê nón sắt làm bàn tiếp hậu, tay kia cầm viên đạn cho vào nòng.
Đầu không nón sắt, thân không áo giáp, chân không giày, họ di chuyển liên tục để bắn, bỗng người cầm nón sắt bị một viên vào ngực, viên đạn cầm trên tay văng ra, người lính khác nhào lên thế chỗ cho bạn, người lính bọc nòng súng nhìn xác bạn mình hỏi như không:
- Đụ má chết sớm vậy mày?
Câu hỏi vừa bật ra cửa miệng, thì cả hai đều trúng đạn gục xuống.
Hoạt cảnh trên không phải là phim ảnh.
Đó là những gì đã xảy ra trên chiến trường xưa.
Nó cũng không phải là hư cấu, mà là một sự thật bi hùng.
Người Lính viết văn Cao Xuân Huy, là một Đại Đội Phó tác chiến của một binh chủng kiêu hùng nhất quân lực, thì cái chuyện nói xạo, hư cấu là không có.
Xạo sao được khi bạn bè sẽ lật tẩy.
Có sao viết vậy người ơi. Con tim chân chính không bao giờ biết nói dối.
Đa số những người lính tác chiến của quân lực Việt Nam Cộng Hòa đều là những người có con tim chân chính.
Tháng Ba Gãy Súng
- Tự tử không mày?
Những người lính Thủy Quân Lục Chiến cùng đường năm xưa, bình thản rủ bạn bè tự tử như câu hỏi rủ nhau đi nhậu.
Hạng Võ khi xưa cùng đường tự tử ở bến Ô Giang, bên cạnh còn có Ngu Cơ. Những người Lính Thủy Quân Lục Chiến trên bãi Thuận An ngày bi thảm đó, họ rủ nhau tự tử, để không lọt vào tay kẻ thù. Một vòng tròn người ngồi sát lại bên nhau.
Một hai trái lựu đạn được họ tung vào giữa vòng tròn. Sau những tiếng nổ là những cái đầu gục xuống, họ chết bên nhau, đa số những người trong họ, chưa đầy hai mươi tuổi. Bi hùng, bi thảm quá phải không các em, các con, các cháu?
Ai là người sẽ viết được những bài thơ?
Để thế hệ sau này biết rõ về những cái chết bi hùng bậc nhất trong giòng quân sử của nước Nam.
Không còn lịch trình của:
Mười hai tháng anh đi..
Tháng giêng xua quân ra Huế, cố đô hoang vu điêu tàn tháng hai về trấn ven đô, chong mắt hỏa châu giữ cầu đêm ngủ bìa rừng thèm làn môi ấm, ngọt trái sầu riêng ngọt mấy mùa...
Tất cả đã ngừng lại..
Không còn những gót giày đi khắp nẻo quê hương, cho những đàn em nhỏ yên tâm học hành, cho mơ ước đất nước thanh bình để cho những người tuổi hai mươi tìm lại những đêm ân tình. Cho mái nhà chiều lên lửa ấm.
Tháng Ba Gãy Súng.
Kể từ ngày ấy linh hồn của những người Lính năm xưa, chắc vẫn còn bám bờ biển quê hương.
Hãy đến Thuận An một lần, bạn sẽ thấy và cảm nhận được những gì tôi viết lại theo tác phẩm của Cố Nhà văn Cao Xuân Huy.
Tháng 3- 2025
--------------------
Cuối năm 1973, khi đó tôi còn rất trẻ và đang học lớp tám ở Saigon. Chiến tranh thì như đang ở xa xôi đâu đó trên vùng rừng núi, cách biệt với ngôi trường Trung - Tiểu học xinh xắn của chúng tôi ở vùng ngọai ô yên tĩnh. Thỉnh thoảng, cuộc chiến khốc liệt nhắc nhở đến sự có mặt của nó bằng những chiếc xe nhà binh xanh xám chạy vụt qua con đường trước cổng trường. Hay khi chúng tôi băng qua cầu Thị nghè lên quận một đi ngang trại lính với những bức tường có các lô cốt to, kiên cố quấn những vòng dây kẽm gai sắc chạy dài từ bờ rạch lên ngã tư Nguyễn Bình Khiêm. Với tôi cuộc sống thật yên bình trong tâm bão. Những buổi đến trường và chơi đùa với các bạn dưới bóng ngôi giáo đường uy nghi bên bóng cây cây phượng vĩ to cao, thường nở rất nhiều hoa rực rở khi mùa hè đến.
Thứ năm là ngày đặc biệt được chúng tôi yêu thích vì buổi sáng hôm đó chỉ học có hai tiếng đầu, sau đó được nghỉ để vui chơi tùy ý. Chúng tôi thường chơi đá cầu, ném banh trong sân trường rộng tênh.
Nhưng những buổi hào hứng nhất là tôi và những đứa bạn thân trong lớp rủ nhau cuốc bộ ra trung tâm Saigon. Năm sáu đứa chúng tôi đi ngang qua sở thú, dạo quanh hồ Con Rùa, đến Nhà thờ Đức Bà nghểnh cổ nhìn lên nóc giáo đường cao tít. Rồi mọi người hăng hái vào Bưu điện Saigon tò mò xem người lớn viết và gửi thư giữa quang cảnh lao xao tấp nập, đôi mắt ngạc nhiên với không gian rộng lớn bên trong tòa nhà. Xuôi ra đường Tự do, đến đại lộ Nguyễn Huệ, Lê Lợi đi tha thẩn bên các kiosque, hàng quán, rồi loanh quanh bên chợ Bến Thành hòa vào dòng người mua bán tấp nập.
Saigon thời đó mang một bộ mặt rất đẹp và văn minh, người dân và lính tráng ăn mặc rất lịch lãm phong cách.
Thời điểm này, người Mỹ đang âm thầm rút ra khỏi cuộc chiến. Miền Nam Việt Nam bị đồng minh bỏ rơi nên phải chiến đấu lẻ loi trong giai đoạn đầy cam go, thiếu thốn … Nhiều chàng trai trẻ Saigon phải xếp sách vỡ, bút nghiêng để trở thành những người lính cầm súng ra trận. Đa số chúng tôi còn quá trẻ nên chưa phải phải gia nhập quân đội để bảo vệ đất nước. Dù thời cuộc đang thay đổi nhưng cuộc sống hằng ngày vẫn là những buổi cắp sách đến trường, vui đùa với bạn bè. Trên bầu trời Saigon bắt đầu xuất hiện những bóng mây u ám bay lởn vởn. Người lớn thì tỏ ra lo lắng, còn với tâm hồn non nớt đang tuổi học sinh, chúng tôi vẩn vô tư, ngây ngô như mọi ngày.
Gần cuối năm học đó, bóng dáng của cuộc chiến rồi cũng len lỏi vào sân trường.
Anh là bạn học cùng lớp với tôi, nhưng lớn hơn tôi phải vài ba tuổi. So với vóc dáng của chúng tôi lúc đó còn là những chú thiếu niên mảnh khảnh, thấp người, anh có một hình hài quá khổ, cao hơn bạn bè cùng lớp cả “một cái đầu”. Thêm vào đó trên khuôn mặt của anh râu ria mọc lởm chởm, trong lúc đa số chúng tôi trông vẩn còn “nhí”, với hàng ria mép lờ mờ. Tiếng nói của anh ồ ề như một đại hán trong chuyện chưởng Tầu, động tác đôi lúc lóng ngóng vì tay chân dài và to quá cở. Tuy tướng tá trông dử dội như vậy nhưng tính tình anh hiền lành chậm chạp. Anh cũng vui chơi với tất cả bạn bè, nhưng do hình dáng khác lạ của mình, nhiều đứa bạn học rắn mắt hay chọc phá, trêu ghẹo … còn anh vẫn im lặng không tỏ ý giận hờn. Chỉ khi có đứa nào giỡn quá tay mới thấy anh nổi giận. Việc học hành của anh cũng chậm như vậy, nhiều năm phải ở lại lớp, nên khi lên đến cuối lớp tám, anh đã gần đến tuổi đi lính.
Vào một ngày gần cuối niên học, thầy hướng dẩn im lặng nhìn xuống cả lớp với nét mặt thoáng buồn. Thầy thông báo lớp chúng tôi có một bạn sắp phải nghỉ học để nhập ngũ. Tất cả chúng tôi lúc đầu hơi bở ngở, nhưng mọi người chóng hiểu ra và quay đầu về chổ anh ngồi ở góc gần cuối lớp. Khuôn mặt anh lúc ấy buồn so, đôi mắt như long lanh những giọt lệ. Không khí cả lớp như trầm hẳn xuống trong buổi học cuối cùng đó với anh.
Ngày nhập ngũ anh lặng lẽ lên đường một mình, chúng tôi còn nhỏ nên không ai tiển chân anh.
Rồi cuối năm học, mùa hè lại đến. Đó là những giây phút thần tiên đối với tôi và những bạn thân cùng lớp. Có quá nhiều niềm vui ở vùng ngoại ô Thị nghè, Gia định. Những buổi lên Thanh đa tắm sông, câu cá, hái trộm cây trái trong vườn , đi xúc cá lia thia, bẩy màu … Sôi nổi hơn cả là lúc chúng tôi ra trung tâm Saigon đi quanh khắp các con đường lớn nhỏ. Tôi và những người bạn bị những thú vui mùa hè lôi cuốn, hầu như quên lãng người bạn học cùng lớp đó. Khi đó có lẽ anh đã trở thành người lính đang cầm súng chiến đấu ở đâu đó trên chiến trường để bảo vệ quê hương miền nam tự do.
Năm học kế tiếp, chúng tôi vào lớp 9, niềm vui lớn khi gặp lại bạn bè cũ và mới. Thời gian làm cho chúng tôi lớn lên thêm một chút, nhưng vẩn là những cậu thiếu niên vô tư bên sách vở và lớp học, vẩn thích chơi đùa dưới bóng ngôi giáo đường và cây phượng già cổi.
Nhưng thỉnh thoảng chúng tôi dừng lại lắng nghe tiếng bom đạn ì ầm vọng về từ đâu đó rất xa. Những âm thanh vang dội trong không khí làm chúng tôi đôi lúc ngập ngừng nhìn nhau như tự hỏi, nó từ đâu đến …
Vào một ngày đột nhiên, tôi và các bạn nhận được tin anh bị thương trên chiến trường. Những cái đầu nhỏ và những trái tim vô tư lự ngưng đập trong giây lát để nghe ngóng. Những nét sợ hải và suy tư vì chiến tranh ghi dấu ấn đầu tiên vào tuổi học trò ngây ngô. Những ngày sau chúng tôi loáng thoáng nghe vài bạn nữ sinh và cô giáo đến quân y viện để thăm anh. Và rồi sự hồn nhiên, vô tư lại lôi kéo tôi và các bạn quay về với những trò đùa vui hàng ngày. Tôi đâu biết đó là những giây phút rong chơi dưới bầu trời không còn yên bình của Saigon.
Rồi ngày 30-4 tang tóc đó xảy đến cho cuộc sống Miền Nam tự do. Mọi thứ thay đổi hoàn toàn khi cộng sản miền bắc tiến vào thủ đô. Saigon mất đi dáng vẻ yêu kiều ngày nào và phố xá thì buồn hiu hắt.
Năm học lại mới đến, tất cả đều lên lớp 10, tôi và một số bạn cũ vẫn cắp sách đến trường. Vẫn còn đó bóng ngôi giáo đường uy nghi và cây phượng già trổ hoa đỏ rực, nhưng ngôi trường cũ thì đã bị đổi tên. Một thoáng buồn khi tôi nhớ lại những ngày tháng tràn đầy kỷ niệm cũ.
Như có sự sắp xếp của định mệnh, một ngày tôi và các bạn của mình tình cờ gặp lại người bạn học cũ đã từng là lính VNCH. Anh bây giờ đã là một thương binh còn rất trẻ. Chúng tôi im lặng nghe anh nói về đời lính chiến của mình, về trận chiến đã lấy đi một con mắt và làm bị thương một cánh tay của anh. Lời anh kể đượm nổi buồn chiến tranh của một người trai trẻ bị thương tật, và của một người lính bị mất mát một cái gì đó rất quí giá. Có lẻ đó là mất Miền Nam tự do, và tôi cũng mang nổi buồn đó như anh. Nhưng anh không hề than trách số phận hay cuộc đời mình.
Cuộc sống đi qua trong khó khăn và lo âu sau ngày cộng sản xâm chiếm Miền Nam và Saigon. Tôi và các bạn lớn lên, phải lao mình vào cuộc sống đầy sóng gió, mịt mù dưới chính sách của chính quyền cộng sản. Tôi cũng không có dịp gặp lại anh. Một người lính trẻ bị tàn tật như anh không biết sẽ sống ra sao trong xã hội cùng khổ, khi mà những thanh niên khỏe mạnh, được học hành nhiều hơn anh còn thấy vất vã, khó khăn. Đôi lúc tôi nghe vài người bạn nói gặp anh bán vé số dạo trên đường để kiếm sống …
Sau nhiều rất nhiều năm vắng tin, đột nhiên năm 1998, tôi lại gặp anh ở trung tâm Saigon. Hôm đó tôi chạy xe đến cửa hàng Tax ở góc Lê Lợi – Nguyễn Huệ, quận 1 để gặp người nhà. Phóng chiếc xe gắn máy lên phía lề đường nơi có khoảng 6 – 7 chiếc xe đang đậu, tôi gửi vào đó rồi vào cửa hàng cho nhanh, vì gửi ở bãi thì lội bộ đến đây khá xa. Bất ngờ người đàn ông đang trông giử xe ở đó là anh. Tôi ngạc nhiên, vui mừng và thân mật gọi tên anh.
Sau một lúc săm soi nhìn tôi, nghe tôi nói tên, anh cũng nhận ra và mừng rở, chào tôi cũng bằng giọng ồ ề, nhưng dáng đi đã chậm chạp hơn ngày xưa. Tôi hỏi thăm anh đôi chút về nơi ở và công việc rồi nói vào cửa hàng chút xíu sẽ ra. Khi xong công việc, tôi quay lại chổ cũ để lấy xe, suy nghĩ không biết làm được gì hơn cho anh, móc bóp đưa cho anh tờ mười ngàn đồng, anh cầm nó và nói để lấy tiền lẻ thối lại vì giử xe lúc đó khoảng 500đ – 1000đ/ lần, tôi lắc đầu nói thôi anh hãy giử hết. Tay cầm tờ giấy bạc, anh nhìn tôi khá lâu và nói nhỏ cám ơn, nét mặt đượm buồn và trong đôi mắt chỉ còn một bên nguyên vẹn, tôi thấy long lanh dòng nước mắt …
Những lần sau có công việc tôi chạy xe đến đó để gửi, nhưng không bao giờ còn gặp lại anh. Mổi khi có dịp gặp những người bạn khác ngoài đường, tôi hỏi thăm tin về anh, nhưng không ai biết bây giờ anh ra sao.
------------
Cho đến bây giờ tôi thấy mình vẩn nợ anh và đồng đội của anh một lời cám ơn, vì những ngày đó anh đã chiến đấu và hy sinh một phần thân thể để bảo vệ Miền Nam tự do, cho tôi và các bạn của anh có những ngày yên vui đến trường.
Trong tim tôi, anh là một người lính trẻ anh hùng, và tôi muốn viết những dòng này để cám ơn anh.
VŨ GIA PHAN
----------------------
-----------------------
No comments:
Post a Comment