Tháng 3/75 tình hình bắt đầu căng thẳng, địch bắt đầu cho những toán nhỏ lợi dụng ban đêm len theo những khe hở đóng quân của ta thâm nhập xuống đồng bằng. tiền sát địch bám các đỉnh cao, căn cứ hỏa lực Nancy bằt đầu bị pháo kích, đặc công địch đánh thăm dò những trận mở đường. Trận tao ngộ chiến đầu tháng 3/75 chứng tỏ tài ứng phó nhanh nhẹn, kịp thời hơn hẳn địch của binh sĩ Đại đội C trước một tình thế bất ngờ.
Đại đội được lệnh tảo thanh vùng bên phải ven sông Mỹ Chánh đoạn từ đối diện đồi Trần Văn Lý lên đến Thác Ma, thượng nguồn sông, gần căn cứ Phantom trên đường vào Barbara. Sau một đêm nghỉ quân dưới một ngọn đồi thấp chúng tôi tiến lên ngọn đồi yên ngựa kế tiếp rất cao. Một toán tiền sát của địch đã nằm trên đỉnh đồi tự bao giờ. Hai bên trố mắt nhìn nhau ngạc nhiên. Tao ngộ ! TS 1 Hoàng người đầu tiên tới đỉnh lập tức chĩa khẩu M16 vào tên gần nhất : “ Giơ tay lên ! “ Hắn bật dậy. Hoàng siết cò. Đạn không nổ. Tên tiền sát gạt nòng súng M16 sang một bên tay kia chộp khẩu AK để bên cạnh. Hồng voi, Sung Huông, Tân cận… tràn lên bắn tới tấp, 4 tên địch còn lại đang ngồi trong giao thông hào hoảng hốt vừa chạy túa xuống đồi vừa bắn lại, tiếng lựu đạn phe ta quăng theo nổ chát chúa. Đang núp sau một tảng đá tôi quất đại một băng dẫn Trung đội xông lên. Hiền đen nà theo truy kích. Có tiếng Tân cận láo nháo lưng chừng đồi, tôi cẩn thận chạy tới, một tên to con đeo ống nhòm nằm trong bụi bên cạnh hắn, chết mà tay còn cầm khẩu AK bá xếp, túi áo đựng đầy cứng băng cá nhân.
Trên đỉnh đồi, trong giao hào chiếc máy truyền tin Trung Cộng còn đang léo nhéo, cạnh đấy là hai thùng lương khô và một bi đông nước. Đứng đây nhìn toàn vùng xung quanh rõ mồn một, thấy Pháo đội K bên phải lố nhố bóng người, chắc ra xem bọn tôi đấu súng. Hẳn Đại đội tôi phải di chuyển im lắm nên mới không bị phát giác chớ 5 tên trên đỉnh cao như vậy thật không dễ nuốt.
Hai tuần sau Đại đội nằm bên phải đồi 51. Trung đội tôi chốt trên một mỏm đồi thấp nhìn xống một thung lũng rộng, toàn cỏ tranh, chạy dài vào tận đến chân núi. Trung đội được tăng phái một khẩu đội 106 ly. Địch tập trung đông dưới thung lũng. Thấy ơn ớn, sinh nhật tôi tháng này, sinh nhật nằm đây chán thấy mẹ. Đồi 51 Tiểu đoàn 4 đóng, mất đi chiếm lại lùm xùm mấy bữa nay. Có một số địch xâm nhập. Đ/úy Lực nhắc : “Coi chừng tụi nó giả dạng mặc đồ rằn ri ” Buổi chiều ngoài Tiểu đội 2 ồn ào. Bắt được một ông thần đang lơn tơn, quần áo lôi thôi chẳng bảng tên lon lá chi. Có súng. Đ/Úy Lực hỏi : “Nó nói giọng Nam hay Bắc” Đáp : “Dạ, Bắc” “Thu súng của nó lại ngay ” Đáp : “Nó không chịu nạp súng, nó nói nó tên là Huy, Đại đội phó của Tiểu đoàn 4″ Đ/úy Lực : “ Để tao gọi bên Tiểu đoàn 4 coi “. Trong trường tôi không biết Huy, và tôi biết Huy râu từ hôm ấy.
Đoàn Công voa chở đại đội tôi theo Tiểu đoàn 7 ra bến phà Tân Mỹ rút về Hương Điền qua ngã Đập Đá. Tới gần An Hòa vài trái pháo địch cố bắn theo không đủ sức rơi nổ ngoài đồng. Thành phố Huế bắt đầu lộn xộn, dân chạy tản cư nhốn nháo khắp nơi. Xe theo ngã Cầu Mới quẹo trái nhắm hướng Thuận An, chạy chậm. Một thằng nhỏ đen thui ốm nhom chạy theo lùi xùi : “ Chú cho con vài trăm ăn cơm đi chú “ Chưa lãnh lương, hai túi tôi không một đồng, moi ba lô quẳng đôi giày bố mới lãnh xuống: “ Cho mày để kiếm chỗ nào bán lấy tiền”.
Bộ Tư Lệnh ở Hương Điền không một mống. Vài tiếng súng lác đác nổ bên kia phá Tam Giang, hướng Quảng Trạch. Dân chạy nạn gồng gánh chạy suốt đêm trên con lộ 555 về hướng Thái Dương Thượng. Trung đội Thước đã tăng phái choTiểu đoàn 7, Đại đội còn 3 toán bố trí chu vi BTL/SĐ lỏng le. Một tối ngoài tuyến khi đang ôm cây đàn thì gặp Hải cận Tiểu đoàn 7. Hải cận : “Giờ này mà còn đàn với hát ? tôi cười trừ”. Phá Tam Giang ghe thuyền trống trơn, còn chai rươu cuối cùng, tôi, Chánh, A. Lực lôi ra chợ ngồi trên mấy cái sạp uống khan. Toán Hùng nhí được lệnh bảo vệ cho Công Binh phá kho đạn Sư đoàn.
Kíp nổ đã gắn, dây chuyền nổ đã nối xong, cuộn dây điện 1500 mét cũng đã rải hết. Gắn con cóc. Nằm xuống. Bấm. Không nổ. Bấm nữa, không nổ. Thay con cóc bằng cục pin máy PRC 25. Bấm. Không nổ. Lần nữa, cũng không nổ. Tiểu đoàn 7 đã rút. Thước, Hùng cũng theo.
Thôn Thái Dương Thượng đông nghẹt, lính dân lẫn lộn. Bên kia cửa biển, căn cứ Trần Ba, Tân Mỹ thấp thoáng ánh đèn. Đại đội C nằm chờ ngay mé nước, mới nhận tiếp tế đồ đạc lỉnh kỉnh. Không thấy chiếc ca nô nào. Chợt tiếng Đ/úy Xuân trưởng ban 4 Tiểu đoán văng vẳng trong máy : “ Kỳ này tao cứu mày lại nghen Lực, ca nô qua bây giờ ” Vẫn chưa thấy bóng dáng Thước, Hùng nhí.
Tôi gặp lại rất nhiều 471 ở các đơn vị khác, các Tiểu đoàn khác, trên bãi biển Thuận An kể từ ngày ra trường… Đoàn Ngọc Qúy đại đội B ra hành quân chung chuyến bay, Nguyễn Vĩnh Cường Tiểu đoàn 7 tính nhận tôi làm em rể lúc còn trong trường, Nguyễn Xuân Dương tự Dương gàn, đã ra khỏi Đại đội vẫn còn giữ của tôi cái hộp quẹt Zippo khắc hình khẩu đại liên gắn trên chân ba càng, chiếc hộp quẹt này tôi rất qúi, là vật kỷ niệm do Tuyết em gái tôi đã lượm được dưới chân ghế, tặng cho tôi, khi tôi dẫn nó đi xem xi nê ở rạp Modern bên hông chợ Tân Định trong chuyến về phép đầu tiên… gặp nhiều bạn trong hoàn cảnh thân ai nấy lo…
Ngày 26 tháng 3/75. Ngày người cày có ruộng.
Sáng sớm còn sương mù, một chiếc LCM cặp bờ. Trung đội tôi nằm cách bờ khoảng 3, 4 trăm mét. Lờ mờ dưới mép nước tua tủa cần câu, BCH/ LĐ và số anh em bị thương xuống tàu. Chiếc LCM từ từ rút ra xa, xa dần. Bỗng 1 trái “Cù lũ tàn tàn” từ trong rặng dương liễu phiá trước bay phóng theo. Tiếng nổ gọn ấm, chớp lửa trong bờ nghe thấy rõ, trái AT 3 đã bắn trúng mục tiêu.
Chừng 10 phút sau 1 chiếc LCM thứ hai nữa can đảm chạy vào, lại 1 trái AT3 nữa bắn ra. Nhưng lần này bắn trật. Quả đạn tuy bắn trật nhưng chiếc tàu chắc lạnh giò nên rút ra xa mất biệt.
Địch bắt đầu pháo. Một trái rơi gần đây, tôi vội lom khom chạy sang chỗ Đ/úy Lực. Xui quá ! chỉ một mình ông bị thương, mà bị nặng, lỗ lủng sâu hoắm trên ngực đút 2 ngón tay vô lọt. Đại đội trưởng thều thào : “ Mày gom tụi nó lại coi còn bao nhiêu, coi dùm tao.” Tôi hối đám Chính ngọ mang ông ra sau chỗ Hùng nhí. Kiểm lại Đại đội, kể cả Trung đội tôi còn chừng hơn hai chục mạng. Dòm ra phiá sau tôi thấy 1 chiếc LCM nữa liều lĩnh ủi bãi, chiếc này là chiếc thứ ba, sau này mới biết chiếc này của Th/úy Tấn già làm thuyền truởng. Dặn Lộc con mang máy và Trung đội phó Thông chuẩn bị để mang Đ/úy Lực lên tàu xong tôi lên tàu trước nghe ngóng. Tình thế không dễ dàng như tôi nghĩ. Tàu đã mắc cạn. Nước tới ngực, người lõm bõm như kiến xung quanh.
Cách tôi chừng 5 thước là Lành ốm thuộc Trung đội Thước mới lấy vợ người Quảng Trị tháng trước, đang dáo dác nhìn quanh như tìm ai, con vợ bên cạnh người sũng nước, hai tay nắm chặt áo chồng vừa khóc vừa la : ”Anh ơi đừng bỏ em, anh ơi ! “. Khi tôi mới nắm bửng định leo lên tàu thì vô số cánh tay bám vào nắm chân tôi lôi theo. Đám lính đứng trên thành tàu chĩa súng xuống gào thét : ‘Đ.m ! Buông ổng ra…” Rẹt rẹt rẹt, ai đó rơi xuống nước, ai đó nắm tay tôi kéo lên tàu.
Trên tàu cảnh tượng còn thê thảm hơn, người bị thương, người chết nằm lền khên. Thoáng thấy bóng Nguyễn Công Chiến và Tân cận phía đài Chỉ huy phía sau. Không ổn rồi, tôi vội leo xuống trở về, lúc đi ngang bờ cát gần tới Đại đội gặp Cẩm lai và Tr/úy Châu Taewondo : “Ê ! Tấp vào đây là êm nhứt nghen mậy, trước có TĐ 7, trong kia có TĐ 5, thua cò nữa thôi.” “Đại đội tao còn trên kia”. Tôi đáp lời Cẩm lai. Đi tới một đoạn nữa thấy Nguyễn Vĩnh Cường 312 với trung đội nó phía trước. Chưa kịp nói câu nào thì 1 loạt 12 ly 7 và 82 lùm xùm, cát bụi mịt mù. Tụi nó tản mất tiêu.
Nằm dưới 1 giao thông hào ngắn, cạn hều, trước mặt chắn bằng mấy thùng đạn đại liên M 60 đổ đầy cát bên trong, Lộc con lay hoay gọi ai với chiếc PRC 25, Thông đang dùng nón sắt cố moi cho giao thông hào sâu hơn, “ Xuống tàu ổn không ông ?” “Ổn con mẹ nó, gần chết ” Tôi cộc cằn nhổ ra từng tiếng… Thông làu bàu “Tụi tui chờ ông qúa trời.”
Trong làng địch đã tràn ra, Đại đội còn độ chục mống, tuyến tôi bây giờ là tuyến đầu. Bọn chúng không đông, chỉ cỡ Tiểu đội, chạy qua chạy lại bắn chát chát nghi binh rồi lấn tới. Có điều 12,7 ly trong làng bắt đầu bắn rát. Một tổ 3 thằng tụi nó vừa chạy vừa bắn cách tôi chừng 70 thước, Lộc máy để gần hết 1 băng nhưng trật lất, cây M16 tôi xài là của Thông, Tôi ngắm và chơi 1 phát, tên đang chạy ngã xuống, nhưng sao nó lại đứng dậy chạy tiếp, hoá ra tôi bắn cũng trật nốt. Tôi giận mình quá gạt cần bắn rafale tính quạt nguyên băng nhưng mới bắn 1 viên đã kẹt đạn. Giận cá chém thớt tôi quay qua Lộc con : “Đm Mày bắn như con c. đưa súng coi tao nẹt tụi nó nè…” Tôi vừa nói vừa 1 tay đưa khẩu Colt của tôi cho nó tay kia giằng lấy khẩu M16 trên tay Lộc con. Một thằng nữa vừa bắn vừa chạy tới. Tựa khẩu M16 trên thùng đạn M 60, tôi nghiêng đầu ngắm kỹ…
Qủa cầu màu xanh cam nổ tung, tạt những tia lửa chói lòa vào mặt, hất tôi bật ra sau. Loáng thoáng tiếng Lộc máy và Trung đội phó Thông xen lẫn trong tiếng sóng biển : Ông thầy ! Thiếu úy ! Thiếu uý !… Hai tay bưng mặt đầy máu tôi thiếp đi….
Tỉnh lại mở mắt ra tôi vẫn còn thấy đường, khuôn mặt lo lắng của Thông và Lộc con nhìn tôi chằm chằm. Viên CKC bắn cao chút nữa thì sọ tôi không còn. Viên đạn làm vỡ tan báng cầm tay của khẩu M16, mảnh vỡ của cây súng và thùng đạn đại liên trước mặt tạt đầy mảnh vào tay và mặt tôi. Một vài mảnh lớn đâm vào cổ khiến tôi khó thở. Chắc tụi nó bắn có ống nhắm vì tôi chỉ kê súng trên thùng đạn M60, nghiêng đầu ngắm thôi mà, đâu dễ trúng.
Lộc, Thông sợ tôi chết nên băng đầu tôi kín mít. Kéo Thông xuống, tôi cố nói “Đem tôi tới chỗ anh Cả “. Lộc con và Thông vừa bắn vừa lui ra sau, dìu tôi đến tuyến Hùng nhí. Tiếng súng lúc này nghe dồn dập hơn trước, Dưới giao thông hào anh Lực nằm thoi thóp. Thông, Lộc đặt tôi bên cạnh anh. Phía trên tiếng Hùng nhí hình như điều khiển cối, la sang sảng :” Bắn bên phải, bắn bên phải…” Tôi tự nghĩ : hắn tìm đâu ra khẩu cối hay vậy ? Một loạt 12 ly 7 đanh gọn trả lời.
Trời đã về chiều, ánh nắng trên những đọt dương trở nên vàng vọt, tôi cảm thấy bụng lại cồn cào, miệng đắng nghét như đêm nào bên bờ Bắc sông Thạch Hãn. Tiếng sóng biển nghe xa dần, xa dần, có thứ gì mằn mặn trong miệng, tôi thiếp đi lần nữa…
Phạm Gia Thụy 4/71
No comments:
Post a Comment