Monday, November 21, 2022

Năm xưa Chồng Tôi là Người Lính VNCH

Năm xưa Chồng Tôi là Người Lính VNCH
Đời lính chiến vị quốc vong thân
Là anh hùng lòng dân thương nhớ
Tử sĩ vô danh ghi muôn thuở
Nơi anh nằm xanh thắm cỏ cây

------------------------------------
--------------------------------------------------

Dẫu Chăng Là Sự Thật !!!
(Bài thơ được viết theo lời kể của một mối tình đẹp giữa người yêu và một sĩ quan cấp uý 81.Biệt Cách Dù QL/VNCH)
DẪU CHĂNG LÀ SỰ THẬT !!!
Anh !Có thật anh ở lại Lai Khê !
Em nhận được thơ cầu hôn,
...Cùng ngày tin anh tử trận !
Không!
...Không thể nào hai mươi bốn giờ số phận,
Thiên thu giữ bước chân anh,
Rừng lá đắp mộ phần,
...Người Lính 81 Biệt Cách Dù,
Vị Quốc Vong Thân !
Anh !Có thật anh ở lại Lai Khê ?
Em chưa kịp điểm trang để thấy hồng đôi má,
Áo cưới chưa kịp may mắt đẫm lệ tuôn dòng,
Em chưa kịp nhận lời cầu hôn đã tan vỡ tim hồng,
Thiếu nữ chưa sang sông đã khoát áo tang chồng...
Có thật không anh?
Nhớ ngày nào mỗi trạm dừng chân,
Khe Sanh-A San- An Lão,
Tân Uyên-Suối Máu-Chiến Khu D,
Mỗi bước dừng chân mỗi lá thư về...
Anh! Sao anh không cầu hôn sớm hơn để em kịp tô hồng đôi má?
Để em tự may chiếc áo cưới chính mình?
Giãn dị anh quân phục chiến binh,
Em sánh bước bên anh giữa họ nhà trai giày đinh áo trận...
Anh ! Dẫu chăng là sự thật !
Nỗi dỗi hờn thay nỗi đắng cay,
Em bên đời thiếu phụ tóc mai,
Sợi nhớ sợi thương gởi người nằm xuống !
NPVL.Oct12/2020
(Ảnh Nhiếp Ảnh Gia Nguyễn Ngọc Hạnh)

GÓA PHỤ TRẺ...! NỬA CHỪNG XUÂN...!
Ngày ấy...! Tôi thương anh bởi chiếc răng khểnh, mái tóc bồng bềnh, là thủ lĩnh văn nghệ của trường trung học mà chúng tôi đã cùng học chung lớp...
Rời ghế học học đường, anh lên Đà Lạt vào trường Võ bị Quốc gia để đeo đuổi lí tưởng mà anh luôn tâm sự cùng tôi khi sân trường chỉ còn hai đứa...!

Tôi cũng trở thành cô giáo dạy ở một trường ở Sài Gòn..., chúng tôi thường xuyên trao cho nhau những lời hẹn ước qua bao lá thư yêu thương nồng ấm...!
Tôi là cô gái trâm anh, khi hơn tuổi đôi mươi đã lấy chồng xa xứ...!

Nơi đó, có những dãy núi chập chùng, những bãi cát trắng ngút ngàn, nơi mà ngày đêm luôn có tiếng sóng vỗ rì rào, có những chiếc ghe thuyền luôn ra khơi khi hoàng hôn và về bến khi rạng bình minh mà ông mặt trời chưa thức giấc...

Từ ngày tôi về làm vợ, làm dâu nơi xứ biển được hai năm dài. Giấc mơ làm cô giáo cũng gác lại vì phải phụ mẹ chồng chăm lo gia đình đông con, vì là dâu cả trong nhà...!

Buồn lắm..., chưa bao giờ nghe chồng bảo tôi cùng chồng về thăm gia đình bên vợ, dù đó chỉ là một lời nói lúc tôi buồn nhớ mẹ...!

Anh là Sĩ quan quân nhân, ngày đêm trên chiến trận khói lửa đạn bom...! Thỉnh thoảng về phép đôi ngày thăm gia đình và nhất là dành nhiều thời gian cho tôi...!
Và một hôm..., giấc ngủ đến thật khó khăn dù đã cố vỗ giấc, sao nụ cười với chiếc răng khểnh của anh vẫn hiện rõ trong tâm trí, sao những lời yêu thương khi xưa cứ văng vẳng bên tai suốt năm canh... Cảm giác lo sợ điều gì đó mông lung cứ chạy dài theo sống lưng, áo ướt đẫm mồ hôi dù sương đêm phủ dày, trời còn đang lạnh...!
Rồi chuyện đến... đã đến...!

Chiều hôm sau, chiếc xe GMC chở cái quan tài phủ cờ lên trên, anh lính hỏi thăm nhiều người rồi lần đến nhà mẹ chồng...!

Tôi ngất lịm khi anh lính đã nói đúng tên tuổi, và đưa chiếc thẻ bài có sợi dây đeo bằng những hạt nhỏ kết lại, với chiếc đồng hồ cực mỏng màu vàng “Wyler” cho tôi...!

Vậy thì một mình tôi đi về quê cũng được, nhưng chồng tôi mãi mãi ở lại quê hương của anh ấy...! Tình yêu trai gái thật thơ mộng và đẹp đẽ..!

Tình nghĩa vợ chồng son chưa đơm hoa kết trái... của chúng tôi sao ngắn ngủi và chia ly sớm quá...!
Sao anh lại vội vàng buông tay người thương nhanh vậy...! Anh hỡi..!
Sài Gòn của tôi có xa xôi gì cho cam, cách xa một giờ bay, chỉ vài trăm cây số thôi...!

Tôi đã trở thành góa phụ trẻ trở về quê hương khi được sụ đồng cảm của mẹ anh...! “Góa phụ trẻ”, ba tiếng nghe thật đau lòng, thật buồn cho thân phận, duyên số của tôi..! Không biết rồi cuộc đời sẽ ra sao? Tương lai sẽ như thế nào...?

Tôi sẽ gặp lại gia đình thương yêu của tôi...! Tôi sẽ mang theo hình ảnh của anh trong suốt cuộc đời...!
Chiều nay..., nghe câu hát ru con của chị hàng xóm cận nhà, lòng tôi lại đau đáu một nỗi niềm, mà tôi vẫn hằng mong anh hiểu:
Chiều chiều chim vịt kêu chiều
Trông về quê mẹ chín chiều ruột đau...!
Anh ơi...! Nếu có kiếp lai sinh, em nguyện sẽ cùng anh làm đôi vợ chồng như thuở nào... Anh nhé...!
Chờ em...
----------------------------------------


Năm xưa Chồng Tôi là Người Lính
Năm xưa chồng tôi là người lính,

Nơi vùng lửa đạn, Mồ hôi anh đã đổ,
Từ Hố Bò Bình Dương, Bình Long,
Đến Thừa Thiên, Quảng Trị.
Rồi một ngày anh gục ngã,
Tại chiến trường Tây Ninh.
Tôi góa phụ xuân xanh,
Con thơ chưa tròn tuổi,
Tiễn đưa anh lần cuối,
Về nghĩa trang quân đội Biên Hòa
Đã bao nhiêu năm qua,....


Bây giờ, Tôi ở nơi xa, Đã có cuộc đời khác.
Nhưng đôi lúc nghĩ đến anh tôi vẫn khóc,
Thương tiếc xa xăm.
Tôi về tìm mộ bia anh
giữa chập chùng cỏ dại cây hoang,
Để thắp một nén nhang,
Nhớ người lính của một thời chinh chiến,
Nhớ người chồng của một thuở gối chăn.

Năm xưa chồng tôi là người lính,
Một lần hành quân, Anh đã bị thương,
Máu anh loang ướt vạt cỏ ven đường.
Ôi, mảnh đất không tên,
Đã giữ chút máu xương người lính trẻ.
Đã bao nhiêu năm qua,
Bây giờ, Anh thương binh tàn tạ.
Sống trên quê hương đôi khi vẫn thấy mình xa lạ,
Bạn bè anh, Kẻ mất người còn,
Kẻ quên người nhớ,
Kẻ vô tình giữa dòng đời vất vả.

Năm xưa chồng tôi là người lính,
Nồng nhiệt tuổi đôi mươi,
Lần đầu tiên ra chiến trường,
Anh mất tích không tìm thấy xác.
Mẹ anh khóc cạn khô dòng nước mắt,
Lòng tôi nát tan.
Đã bao nhiêu năm,
Vẫn không có tin anh,
Anh ơi, dù quê hương mình đã hết chiến tranh,
Tàn cơn khói lửa,
Nhưng không phải là một quê hương như anh ước mơ.
Anh đã biết chưa?
Hỡi người tử sĩ không tên không một nấm mồ.!!!


Năm xưa chồng tôi là người lính,
Sống sót trở về sau cuộc đao binh,
Sau những tháng năm tù tội,
Bây giờ anh không còn trẻ nữa.
Lìa xa quê hương, Sống ở xứ người.
Những năm tháng chinh chiến đã đi qua,
Nhưng vết thương đời còn ở lại,
Trong lòng anh, Trong lòng những người lính năm xưa.
Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Dương
---------------------------

Tôi quen biết chàng khi anh ấy đã là lính. Cái lon Chuẩn úy chẳng là cái gì với tôi, một người con gái đầy nam tính. Tiếng nói miền Trung lơ lớ khó nghe, mặt chẳng đẹp trai và nhìn qua là biết chẳng phải con nhà giàu. Mấy cái đó và cả con người đó đáng lý ra chẳng dính dáng gì với tôi.

Thế nhưng, trời bất “dung gian” cái tên Chuẩn uý người Huế đó không biết bằng cách nào lại có thể xin vào dạy giờ ở cái trường Trung học tư tôi đang dạy. Tôi thì phớt tỉnh Ăng lê, tới giờ dạy, hết giờ về không chuyện trò tào lao với người khác phái.

Cái nhược của tôi bây giờ tôi mới biết là ở chỗ này. Thế là cứ tới giờ tôi đang dạy thì “hắn” lại sai học trò sang mượn khăn lau bảng, mà dạy toán thì lau bảng thường xuyên. Lại qua mượn phấn, hết phấn thường xuyên. Hết giờ lại tới chào và xin lỗi. Ngày khác lỗi vẫn hoàn lỗi, lại mượn phấn, mượn khăn.

Từ đó tôi ghét “hắn”. Mấy đứa học trò cũng biết tôi không thích “hắn”. Thế là tôi bảo học trò để sẵn một mớ phấn trong cái hộp và một cái khăn lau bảng. Học trò “hắn” qua mượn, tôi đưa luôn hộp và nói hãy giữ lấy tôi tặng luôn, khỏi trả. “Hắn” tìm tôi xin lỗi và xin chở tôi về sau giờ dạy.

Tôi từ chối, mặt lạnh như tiền đi thẳng. Buổi chiều, “hắn” tìm tới nhà để xin lỗi. Hôm sau không giờ dạy, “hắn” lại tới nhà mượn sách và ngồi lì nói chuyện không đâu ra đâu. Cứ hễ có dịp là “hắn” tới nhà tôi ngồi đồng, “hắn” nói đủ thứ chuyện bằng âm hưởng miền Trung nặng trình trịch.

Một thời gian sau, tôi nghe miết rồi quen cái giọng khó nghe. Không tới trả sách thì lại thấy thiếu vắng một cái gì không phải là sách. Cái chiến thuật “mưa lâu thấm đất”, “Nói hay không bằng ngồi dai” đã khiến tôi phải lên xe hoa về nhà “hắn” và làm vợ “hắn” cho tới bây giờ.

Ông xã tôi là con trai một trong một gia đình hiếm hoi con trai. Cha chồng tôi là con trai một và đã mất sớm khi mẹ chồng tôi mới hơn 30 tuổi. Một nách 3 đứa con côi và cha mẹ chồng già yếu, mẹ chồng tôi đã ở vậy một nắng hai sương làm tròn nhiệm vụ làm dâu và làm mẹ. Do đó cái ao ước và hoài bảo của bà là có người thừa tự.

Tôi cô gái miền Nam tánh tình bộc trực, lại là một nữ Hướng Đạo hội họp, đi cắm trại liên miên, không nằm trong danh sách những người bà lựa chọn. Thế nhưng khi cậu con trai đã quyết thì bà phải bằng lòng. Vì trong thời buổi chiến tranh, người lính không thể biết trước ngày nào bỏ thây ngoài trận chiến. Và thế mẹ chồng tôi đã bỏ cái làng quê chôn nhau cắt rốn vào miền Nam để cưới vợ cho con, hầu mong tìm một mống cháu nội sau này.

Thế nhưng sau 3 năm cưới nhau tôi vẫn trơ trơ cho mẹ chồng tôi ngày đêm không yên giấc. Tôi biết trong tận cùng bà buồn lắm. Đôi khi bà nhìn tôi với đôi mắt thiếu tin tưởng. Câu “Cây độc không trái, gái độc không con” mà một lần tôi tình cờ nghe từ miệng bà khiến tôi buồn không ít. Thế nhưng là lính, vợ chồng không gần gũi nhau, làm sao có con được.

Thế là bà bỏ Biên Hoà theo con trai ra Đà Nẵng và tuyên bố sắp đặt chỗ ở để tôi phải thuyên chuyển theo chồng. Kỳ nghỉ tết năm 73, sau buổi họp cuối cùng, tôi đón xe đi Sài Gòn và lên chuyến bay đi Đà Nẵng thăm chồng. Đến đón tôi không phải mẹ chồng mà là người lính tùy tùng của anh. Thế là chiều hôm đó tôi có mặt ở nơi đóng quân của anh. Một ngọn đồi cao của vùng núi Quế Sơn thuộc tỉnh Quảng Nam. Đây là lần đầu tiên tôi chính thức sống đời vợ lính nơi tiền đồn.

Chúng tôi trú ngụ trong căn hầm chỉ huy đầy súng đạn và trang bị truyền tin. Tôi đang đan dang dở một tấm khăn trải bàn. Thế là tôi phải hoàn tất gấp tấm khăn đó để làm chiếc màn cách ly. Cuộc sống vợ chồng trong đồn lính thì có nhiều chuyện không thể cười mà cũng không thể khóc của một cô giáo kín đáo, nghiêm túc với cuộc sống xô bồ lính tráng ở đây.

Tôi chỉ biết những ngày ở đó tôi thương lính hơn, tôi thông cảm nỗi cô đơn của chồng hơn và nhất là thật sự biết lo sợ cho chồng trong cuộc sống mà nơi đâu cũng có tai mắt của kẻ thù rình rập. Hết ngày lễ, chồng tôi giao đồn cho Đại đội phó đưa tôi về Đà Nẳng thăm mẹ chồng và ngay chiều đó tôi lên máy bay về lại Sài gòn vì ngày mai đã bắt đầu niên học mới.

Thế là tôi có mang đứa bé đầu lòng và tôi phải làm đơn xin thuyên chuyển để thật sự bắt đầu một cuộc đời mới. Mùa hè năm đó miền Trung đã thật không yên. Nhà tôi ở gần Phi Trường nên hàng đêm pháo dội về từng chập. Mẹ chồng tôi về lại Biên Hoà để lo cho con gái sinh nở.
Tôi mang cái bụng bầu chui hầm thường xuyên. Mỗi lần có tin từ tiền đồn là tôi lo lắng hồi hộp. Những cuộc đụng độ xảy ra liên tiếp. Đại đội phó, Hạ sĩ Quan, rồi lính bị thương liên tục. Cuối cùng người Đại đội phó mới đổi về cũng bị thương. Tôi như ngồi trên lửa nóng. Nỗi cô đơn, lo sợ, hồi hộp, mất ngủ khiến tôi xuýt bị sẩy thai. Thế rồi mẹ chồng tôi cũng về kịp trước ngày tôi sinh nở. Con tôi mở mắt chào đời ởmột nhà hộ sinh tư.
Tôi mệt nhoài sau cơn vượt cạn, mẹ chồng tôi đón con bé với nụ cười gượng gạo. Bà chỉ mong là trai để nối dõi tông đường. Còn anh, được tin tôi đã sinh con, anh về cùng người lính tùy tùng. Vào nhà thương, xoa đầu tôi, bồng con hôn vài cái là xe hậu cứ đã chờ để đưa anh lên lại đơn vị.

Ngày đầy tháng con bé, họ hàng, bà con đầy nhà. Anh bươn bả bước vào, chào mọi người rồi tới bên tôi cười cười. Bồng con bé lên hỏi tôi “Sao mặt nó như dài ra” hôn con, ăn vội vã vài miếng. Xe hậu cứ trờ tới và anh lại lên đường.

Tôi ứa nước mắt, không thể giận anh, mà cũng không thể không trách anh. Chẳng nói gì được với tôi một câu ngọt ngào khi tôi vật lộn trong cơn đau đẻ, lại chịu sự chăm sóc cực kỳ quái đản của mẹ chồng tôi trong những ngày nằm cữ. Tôi nhắm mắt lại, thương con vàthương mình quá đỗi.

Thế là cuộc chiến càng ngày càng khốc liệt. Anh được đổi về làm ở Trung tâm Hành quân. Tôi nghe thôi chứ cũng không biết ở đâu? Chỉ biết ít nguy hiểm tính mạng hơn ở Đại đội. Chồng tôi là một người sống chân thành và tốt với bạn bè, đồng đội. Tôi nhớ có một lần anh dẫn về nhà một người lính và một người phụ nữ.

Anh nói với tôi đây là lính trong đơn vị, vợ nó tới thăm. Anh cho nó nghỉ phép và nói nhỏ với tôi lo ăn uống cho tươm tất. Đến tối, anh bảo tôi ôm con xuống nhà sau ngủ, nhường giường chúng tôi cho hai vợ chồng kia. Anh nói:
– Tội nghiệp tụi nó, gặp nhau như vầy nó mừng lắm. Hãy để nó trọn vui. Đời lính không biết sống nay, chết mai.

Và như vậy, sáng hôm sau anh lên đơn vị, người lính cùng vợ có 3 ngày phép đoàn tụ tuyệt vời. Một lần thấy anh không còn bộ đồ civil nào cho ra hồn, tôi bảo anh đi may một bộ đồ mới. Anh vốn là người khó tính và kén chọn. Mãi sau mới chọn được màu vải vừa ý mà may. Lấy đồ về chỉ một lần mặc thử cho tôi ngắm rồi mãi bận hành quân không có dịp mặc.

Đại đội phó của anh gia đình ở tận miền Tây, anh ta lại phải lòng cô gái Đà Nẵng. Thế là một hôm anh về bảo tôi mở tủ lấy bộ đồ mới may, tặng cho anh chàng Đại đội phó của mình. Anh nói với tôi :
– Nó cũng trạc với anh. Nó mặc vừa đó em. Thôi tặng cho nó đi hỏi vợ. Hỏi vợ chỉ một lần chứ may đồ thì mình còn nhiều lần khác. Tội nghiệp gia đình nó ở xa, không có bộ đồ civil nào mặc cho ra hồn để coi cho được trong ngày quan trọng.

Tôi vừa tiếc vừa phục tấm lòng tốt của chồng. Không còn lời nào để nói tôi đành gói lại đàng hoàng, bỏ trong túi xách và bảo đem cho chú ấy. Ngày Đà Nẵng sắp mất, người người bỏ chạy ra ngoài bến tàu để thoát vào Sài gòn. Chồng tôi ở Trung Tâm Hành Quân, biết sự sụp đổ đã đến, không liên lạc được với đại đội cũ của mình. Anh cấp tốc lên tận nơi trú đóng và kéo lính về trong làn sóng di tản khổng lồ của Đà Nẵng. Chúng tôi, mẹ già, con dại chờ đợi anh mỏi mòn. Trông thấy anh về với đoàn quân tan tác mà muốn xỉu.

Chồng tôi ruột để ngoài da. Lúc nào anh cũng lo cho bạn bè, đồng đội, anh em, ít khi nào lo lắng chuyện nhà. Mọi thứ mẹ chồng tôi cáng đáng điều khiển và tôi là người tuân lệnh thi hành. Có lẽ nói ra không ai tin, nhưng đối với tôi, tôi chưa hề cầm trong tay một đồng lương lính.

Ngày chưa theo anh, tôi đi dạy, có lương, có nghề nghiệp, tiền ai nấy xài. Mà tiền lính thì tính liền anh cũng chẳng có gì dư dã. Theo chồng ra Đà Nẵng tiền lương anh có đưa cho mẹ chồng tôi không thì tôi không biết, còn tôi chẳng hề nghe nói đến tiền bạc. Ngày Đà Nẵng mất lẽ dĩ nhiên anh không có lương và anh đi cải tạo suốt 8 năm trời chấm dứt một thời kỳ lính tráng.
Như vậy thì làm vợ lính vui hay buồn, sướng hay khổ? Thưa các anh, người vợ lính chịu mọi thiệt thòi. Có chồng mà cũng như không trong suốt thời kỳ chinh chiến cũng như hoà bình. Những ngày tù tội đã đành không thể trách ai. Các anh trong bốn bức vách lao tù, số phận ai cũng như ai. Nhưng người vợ lính ở nhà cái vòng đai rộng hơn, bẫy rập nhiều hơn, con người tàn ác quỷ quyệt hơn đe doạ thân phận đàn bà.

Tôi có những người bạn vì thương chồng, lo lắng chạy chọt để lo cho chồng về, để rồi sụp bẫy. Cả cuộc đời danh tiết, hạnh phúc bị mất tất cả. Có người lạc bước khi bươn chải kiếm đồng tiền lo cho con, lo cho chồng cải tạo. Thương tâm lắm, đau đớn lắm cho những cánh hoa trong biển lửa tàn ác của chiến tranh ý thức hệ.
Xin lỗi các anh cho tôi nói thật. Khi ở tù về, các anh thật sự quên đi tất cả, đem hết sức mình cùng sát vai vợ mà lo cho gia đình không? Đàn bà chúng tôi, ăn trắng mặc trơn, học hành trí thức, nhưng đến lúc phải lo miếng ăn cho con, cho chồng thì bất chấp sự cực khổ.

Bán chợ trời, chạy hàng xuôi ngược Bắc Nam, bán hàng rong, cày thuê, cuốc bẫm, bán thuốc tây, thuốc hút, làm công nhân… Bất cứ nghề nghiệp nào lương thiện để kiếm ra tiền thì không quản ngại khó khăn. Các anh nhận những món quà đơn sơ, nhưng biết đâu rằng trong hoàn cảnh cả nước cùng đói, chúng tôi phải tính toán muốn bạc tóc mới đem được đến tay các anh một ít quà, nhưng là một biển yêu thương, một trời thương nhớ.

Khi các anh được về nhà sau những tháng ngày bán đời mình cho đói khát, bệnh tật. Các anh không biết là đã mang theo trong mình một nỗi chán chường, một tâm hồn đầy bất mãn và nghi kỵ mọi thứ. Các anh lính hào hoa, yêu đời, coi thường sinh mạng đã mất. Các anh bây giờ đã bỏ lại trên núi đồi Việt Bắc phân nửa cuộc đời hùng tráng của mình.

Chồng tôi cũng vậy, anh chán đời, bất mãn và tự ái với vợ, với con và chính bản thân mình. Tôi đã khóc nhiều đêm, nhiều ngày mà không biết làm sao kéo anh ra khỏi cái ám ảnh tàn khốc đó. Tôi công nhận bọn Cộng sản thật quỷ quyệt, những bài học nhồi nhét cho các anh, nó như con ma kéo trì những chí hướng phấn đấu của chồng tôi. Người lính của tôi đã thật sự thất trận thảm thương!

Khi được sang Mỹ đinh cư, mẹ chồng tôi mang nhiều bệnh tật. Chồng tôi vui buồn, khoẻ mạnh hay suy nhược theo căn bệnh của mẹ chồng tôi. Anh có cảm giác mình phải làm cái gì trả hiếu cho mẹ mà bất lực. Ngày mẹ chồng tôi mất, chồng tôi như thân cây không còn mầm sống gục xuống đau đớn. Anh bị trụy tim, bị strock và đầu óc càng ngày càng suy nhược theo căn bệnh Parkinson

Bây giờ sau 38 năm chồng tôi không còn làm người lính, nhưng tôi vẫn làm người vợ lính hằng ngày theo từng sinh hoạt của chồng. Anh đang sống trong hồi ức những ngày bên anh em, bạn bè, đồng đội. Có món gì ngon là anh bảo “kêu mấy đứa tới ăn”. Đừng tưởng anh kêu bầy cháu tôi. Không đâu, bạn bè lính tráng của anh đó. Khi thì kêu tôi “chuẩn bị đồ nhậu, mấy thằng em tới chơi”. Khi thì bảo thay đồ cho anh để “anh đi họp Tiểu đoàn”. Khi thì vui cười kể chuyện huyên thuyên như có người trước mặt.

Và như vậy tôi mãi mãi là người vợ lính, vui buồn chung với những suy tư và cảm giác của chồng. Những người chỉ huy, đồng đội của chồng dù không ở trước mặt, nhưng là những người bạn vô hình đem lại niềm vui cuối đời cho chồng tôi. Mỗi buổi sáng lạy Phật tôi đều nguyện cầu bình an cho chồng, cho con cho tất cả mọi người xung quanh tôi. Cầu nguyện cho những anh hùng chiến sĩ đã nằm xuống được nhẹ nhàng siêu thoát.
Tôi rất ái mộ những chị cầm Cờ Vàng theo chồng trong những cuộc biểu tình chống Cộng, hay sát cánh bên anh trong những lần sinh hoạt đơn vị. Màu áo các chị tung bay xinh xắn, gương mặt các chị rạng ngời hạnh phúc, đôi mắt các chị rực lửa đấu tranh.

Những người vợ lính ấy đã làm đẹp cuộc đời cho chồng, cho xã hội. Tôi không được may mắn ấy, chồng tôi bây giờ là một thương binh thật sự. Anh không thể sát cánh cùng đồng đội sinh hoạt, nhưng trái tim anh và đầu óc anh đầy ắp tình đồng đội và quê hương. Và tôi dù gì và cho thế nào đi chăng nữa tôi vẫn mãi mãi là người vợ lính không bao giờ thay đổi.
Nguyễn Thị Thêm


Câu chuyện ‘Thủy Chung’ của người vợ lính VNCH
Nguyễn Thùy
Xin thuật lại đây câu chuyện người viết được nghe từ lâu về hành động quả cảm của một người vợ lính VNCH có chồng bị Cộng sản bắt đi tù ‘Cải tạo’ tại miền Bắc như sau :
Vào khoảng năm nào, tôi không còn nhớ rõ (có lẽ 1983 hay 1984 gì đó), lúc còn ở tại VN (Sài-Gòn) , trong một lần đến chơi nhà người bạn thơ Trần Thiện Hiếu (hiện đang ở Sydney – Úc Châu), tôi gặp ông Hà Thượng Nhân và một người nữa vừa được Cộng sản trả tự do sau thời gian bị tù gọi là ‘bị Học tập cải tạo’. Lúc bấy giờ ông Hà Thượng Nhân chưa biết tôi. Trong buổi hôm đó, tôi được nghe người cùng đi với ông Hà Thượng Nhân kể lại câu chuyện như sau :
« Có một ông Thiếu Tá bị đưa đi tù tận miền Bắc. Lúc được cho phép gia đình tiếp tế, thăm nuôi, vợ ông Thiếu Tá ra thăm ông, thấy chồng tiều tụy, gầy guộc, ốm o, bệnh hoạn. Năm sau, Bà lại ra thăm nuôi chồng nhưng không được gặp. Bà hỏi thì quản giáo bảo là ‘không biết’. Bà nổi sùng lên bảo : ‘’Chồng tôi năm trước còn ở đây, sao bây giờ, các ông bảo là ‘không biết’ ?Như thế, một là chồng tôi bị chuyển sang một trại khác, hai là chồng tôi đã chết hoặc chồng tôi trốn trại bị bắn chết hay đã thoát rồi, như vậy, các ông phải biết chứ ?’’. Người quản giáo vẫn bảo :‘’Chồng bà không có ở đây’’. Bà tức giận, lớn tiếng hỏi mãi, cuối cùng, quản giáo nói là ‘’chồng bà chết rồi’’. Bà lại hỏi : ‘’Chồng tôi chết, tại sao chết, chết thì chôn ở đâu ?’’. Do dự mãi, lát sau, quản giáo cho biết mộ chồng bà ở phía sau trại giam. Bà ta lân la hỏi các người tù đang đi lao động, được biết chồng bà bi đau rồi chết và chỉ chỗ chôn. Bà ta tìm đến mộ chồng, giở đồ tiếp tế bày ra, cúng chồng. Ðêm đó, Bà ở lại ngủ bên mộ chồng. Quản giáo ra đuổi bà đi thì Bà nói to lên : ‘’Sao các ông tàn nhẫn, không cho người vợ được ngủ bên mộ chồng mình sao ? Có luật pháp nào cấm việc đó không ?’’. Thấy Bà cương quyết quá, quản giáo đành làm ngơ. Sáng ra, Bà phân phát các thứ tiếp tế cho các bạn tù lao động gần đó rồi bẻ một nhánh cây cắm trước mộ chồng, nhổ một ít tóc treo vào nhánh cây đó. Năm sau, Bà lại lặn lội, đem theo thực phẫm tiếp tế ra thăm chồng lần nữa. Quản giáo bảo : ‘’Chồng Bà chết rồi, sao Bà còn thăm nuôi, tiếp tế làm gì nữa ?’’. Bà bảo : ‘’Tôi thương, tôi nhớ chồng tôi, xin các ông cho phép tôi được ngủ bên chồng tôi lần nữa’’. Quản giáo ngạc nhiên, biết ngăn cản cũng khó vì ngại Bà lại lớn lời như trước nên đành chịu. Như lần trước sáng ra, Bà dựng lại nhánh cây năm trước đã bị ngã xuống đất, cắt một nằm tóc buộc vào (nắm tóc năm trước đã bay đi hết, chỉ còn đôi sợi lẫn vào trong đất) rồi ra về. Năm thứ ba, Bà lại ra thăm nuôi chồng. Quản giáo hỏi : ‘’Ðã hai lần rồi, Bà còn ra thăm nuôi người chết sao ?’’. Bà bảo : ‘’Tôi còn trẻ, lần nầy, tôi ra xin ngủ với chồng tôi lần thứ ba để ‘đoạn tang’ chồng, như thế cho trọn nghĩa phu thê, tôi mới có thể bước đi bước nữa sau nầy. Xin quản giáo cho cho phép tôi được toại nguyện, đây là lần chót…’’. Quản giáo có lẽ cảm động ít nhiều, đồng ý. Bà lại ra ngủ bên mộ chồng lần thứ ba, thắp nhang, đốt nến. Vào khuya, Bà mở túi xách, lấy một cái xẻng nhỏ cùng túi nylong, đào mộ, hốt ít xương cốt chồng, bỏ vào túi nylong, đổ formol vào rồi mang túi xác chồng lần ra lộ. Bị cán bộ bắt được, quản giáo bảo bà phải bỏ túi nylong đó lại. Bà bảo : ‘’Chồng tôi chết rồi, có gì các ông phải lo ngại. Tôi đem xương cốt chồng tôi về thờ cho trọn nghĩa thủy chung, điều nầy có gây khó khăn gì cho các ông đâu ? Tôi có lấy chồng khác thì tôi cũng thấy trọn nghĩa với chồng trước và người chồng sau của tôi càng kính trọng tôi thêm’’.Quản giáo nhất định bắt Bà phải để túi nylong xác chồng lại rồi mới cho Bà đi. Bà tức tối, la lớn :‘’Ðời thưở nhà ai, vợ hốt cốt chồng lại bị ngăn cấm ! Ðươc, tôi gởi túi xác chồng tôi nơi đây, các ông phải giữ kỹ. Tôi sẽ về Hà-Nội, gỏ cửa các quan lớn, hỏi cho ra lẽ. Có phép nào, có luật nào không cho vợ được giữ hài cốt của chồng mình, thờ phụng không ? Chuyện gì xảy ra thì các ông phải chịu trách nhiệm’’. Thấy sự việc gây cấn, biết người đàn bà nầy sẽ làm lớn chuyện, có thể không hay nên quản giáo đành để Bà đi nhưng cho một cán bộ đi theo Bà ra đến lộ, ngăn cấm tất cả mọi loại xe : xe đò, xe hàng, xe ôm, xe đạp, cả xe chở củi, không cho chở Bà. Thế là Bà cuốc bộ hàng chục cây số, len lỏi đến nhà ga Hàng Cỏ, hối lộ nhân viên trên tàu, leo lên xe lửa, len lỏi qua bao nhiêu toa, rốt cuộc sau bao ngày về đến Sài-Gòn ».

Người viết có ghi lại sự việc nầy trong tập thơ ‘Việt Nam tân huyết sử diễn ca’ dài 7000 câu Song Thất Lục Bát, thuật lại hết mọi cảnh đời điêu linh của nhân dân Miền Nam do cuộc ‘Ðổi đời’ bi đát của Cộng sản, động chạm đến cả Hồ Chí Minh, Lê Duẩn Ðỗ Mười, Phạm Văn Ðồng, cả Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam,…Ðoạn viết về sự việc nầy trên cả trăm câu. Tiếc rằng, lúc vượt biên (cuối năm 1988), người viết không dám mang theo tập thơ viết tay gồm cả 4, 5 quyển tập học trò, sợ bị bắt thì chỉ tù rục xương hoặc bị đánh đập đến chết. Cũng rất tiếc, người viết không hỏi rõ người vợ lính đó cùng chồng tên gì, bị giam tại trại tù nào. Nay chỉ còn nhớ đôi đoạn ngắn như sau :
-Lần hai, Bà ra ngủ bên mộ chồng :
-Năm sau nữa, đội mưa đạp nắng
Nửa vừng trăng, nếp trán rưng rưng
Mồ hoang lại ngủ bên chồng
Tóc thề thêm một thủy chung đất trời…
-Lần ba, có đoạn sau :
-Năm sau nữa, rừng hoang núi vắng
Ðêm cùng ngày gió đắng mưa cay
Ðến bên quản giáo tỏ bày
Chồng tôi mộ đã xanh dày cỏ hoang
Xin cho lần nữa đoạn tang
Dù thêm bước mới, cũng tròn thủy chung….
Sau nầy, năm 2005, trong quyển ‘Khung Trời Hướng Vọng’ viết về thơ 16 tác giả hải ngoại, lúc viết về thơ Mạc Phương Ðình nói đến những khổ cực, đắng cay của người vợ trọn nghĩa cùng mình, có đoạn :
‘’Xin được viết trên lá rừng vạn dặm
Một chữ tình chung nhất để yêu em
Dòng suối nhỏ mang lá về với biển
Ðể nghìn năm tình ấy vẫn mênh mông’’…
Mạc Phương Ðình

Nhân đoạn thơ đó và nghĩ đến những gương phụ nữ anh hùng suốt thời gian qua, tôi đã viết : ‘’Rừng vạn dặm, biển mênh mông từ nay mang chở hàng hàng chiếc lá thủy chung, ân tình, bất khuất của nữ lưu người Việt cạnh bao đấng hùng anh trong sa cơ vẫn không khuất nhục, đầu hàng. Cho dù ‘vô danh’, khiêm nhượng, cho dù không được lịch sử chép ghi nhưng những gương sáng đó vẫn được đời đời gìn giữ : ‘sử văn lỗi chép, sử tình vẫn ghi’. Còn có những người nữ như thế, còn những người nam nhi như thế, dân tộc Việt Nam miên viễn vẫn hùng anh và lịch sử sẽ lại sớm huy hoàng sau giai đoạn bị đẩy chìm vào tăm tới’’ (‘Khung Trời Hướng Vọng’, trang 355).
Nguyễn Thùy


No comments: