Sư Đoàn 22 BB ở Chiến Trường Dakto-tân Cảnh, Kontum Hè 72
Tổng lược về chiến sử của Sư đoàn 22 Bộ binh:
Sinh Tồn chuyển
Sư đoàn 22 Bộ binh có danh hiệu nguyên thủy là Sư đoàn Khinh chiến số 4 được thành lập ngày 1/5/1955 với ba trung đoàn tiên khởi: trung đoàn Bộ binh 401 (gồm tiểu đoàn 73, 90, 91), trung đoàn Bộ binh số 402 (gồm 3 tiểu đoàn 1, 94 và 95), trung đoàn Bộ binh 403 (tiểu đoàn 31, 92, 93). Đến tháng 10/1955, Sư đoàn được cải danh thành Sư đoàn Khinh chiến số 14, các trung đoàn và tiểu đoàn cũng được cải danh như sau: trung đoàn Bộ binh số 401 cải danh thành trung đoàn Bộ binh số 40 (các tiểu đoàn: 90 cải danh thành 1/40, tiểu đoàn 91 thành 2/40, tiểu đoàn 73 thành 3/40); trung đoàn Bộ binh 402 cải danh thành trung đoàn Bộ binh số 41 (các tiểu đoàn: 91 thành 1/41, 95 đổi thành 2/41, tiểu đoàn 1 cải danh là 3/41); trung đoàn Bộ binh số 402 cải danh thành trung đoàn 42 (các tiểu đoàn :92 thành 1/42, 93 thành 2/42, tiểu đoàn 31 thành 3/42.
Đầu năm 1959, theo cải tổ của Bộ Tổng Tham Mưu, các sư đoàn Khinh chiến 12, 13, và 16 bị giải tán. Các sư đoàn 11, 14, 15 được thâu nhận một phần lớn quân số của các sư đoàn giải tán để cải tổ thành các sư đoàn Bộ binh. Theo đó, sư đoàn Khinh chiến số 14 được cải danh thành Sư đoàn 22 Bộ binh với ba trung đoàn cơ hữu cải danh: trung đoàn Bộ binh số 40, số 41, số 42 thành trung đoàn Bộ binh 40, 41, 42. Sau này, do tình hình chiến trường, Sư đoàn 22 Bộ binh có thêm trung đoàn thứ 4, đó là trung đoàn 47 Bộ binh. Từ năm 1970, khu vực trách nhiệm của Sư đoàn 22 Bộ binh bao gồm các tỉnh: Bình Định, Phú Yên, Phú Bổn, Kontum, Pleiku.
* Sơ lược về quân vụ của 9 vị tư lệnh Sư đoàn 22 Bộ binh:
Từ khi cải danh từ Sư đoàn Khinh chiến thành Sư đoàn Bộ binh, Sư đoàn 22BB đã được được chỉ huy bởi 9 vị tư lệnh qua 11 thời kỳ (có hai vị hai lần giữ chức vụ này). Tư lệnh thứ 1 sau khi cải danh: trung tá Trần Thanh Chiêu (1/4/1959 đến 2/9/1959; vào thời gian 1962-1963, trung tá Chiêu là Thanh tra Dân vệ đoàn (Nghĩa quân), ông chỉ được thăng đến đại tá, mất tích vào tháng 4/1972); tư lệnh thứ 2: trung tá Nguyễn Bảo Trị (từ 3/9/1959 đến 4/11/1963; được thăng đại tá trong thời gian giữ chức vụ tư lệnh Sư đoàn này; thăng chuẩn tướng vào cuối tháng 10/1964 khi giữ chức tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh, được bổ nhiệm giữ chức tư lệnh Quân đoàn 3 vào đầu tháng 10/1965, thăng thiếu tướng vào cuối tháng 10/1965; tháng 6/1966: tổng cục trưởng Chiến tranh Chính trị, sau đó giữ chức Tổng trưởng Thông tin Chiêu Hồi; thăng trung tướng vào cuối tháng 10/1967; chức vụ cuối cùng: chỉ huy trưởng trường Chỉ huy Tham mưu); tư lệnh thứ ba: đại tá Nguyễn Thanh Sằng (từ 5 tháng 11/1963 đến 4 tháng 2/1964, thăng chuẩn tướng vào cuối tháng 10/1964 khi đang phục vụ tại Vùng 1 chiến thuật; chức vụ cuối cùng: tư lệnh phó Hành quân Quân đoàn 4 (1972-1973), giải ngũ trước 30 tháng 4/1975.
Từ tháng 2/1964 đến tháng 4/1975, các đại tá và tướng lãnh sau đây đã chỉ huy Sư đoàn 22 Bộ binh: thiếu tướng Linh Quang Viên (từ 5 tháng 2/1964 đến 6/9/1964, rời Sư đoàn 22 Bộ binh, tướng Linh Quang Viên có thời gian giữ chức vụ tham mưu trưởng Liên quân từ 1965 đến 1966, thăng trung trướng vào cuối tháng 10/1967 và giữ chức Tổng trưởng Nội vụ trong nội các Nguyễn Văn Lộc, chức vụ cuối cùng: Chỉ huy trưởng Trường Hạ Sĩ quan Nha Trang, giải ngũ vào tháng 3/1974); đại tá Nguyễn Văn Hiếu (từ 7 tháng 9/1964 đến 23/10/1964; đại tá Hiếu trở lại làm tư lệnh Sư đoàn 22 BB vào tháng 6/1966 và thăng chuẩn tướng vào năm 1967, đến tháng 8/1969, giữ chức tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh, thăng thiếu tướng 1970, chức vụ cuối cùng: tư lệnh phó Quân đoàn 3, tử nạn vào hạ tuần tháng 4/1975);
Thứ 6: chuẩn tướng Nguyễn Xuân Thịnh (từ 24 tháng 10/1964 đến 1/3/1965, đại tá Thịnh được thăng cấp tướng khi vừa được bổ nhiệm giữ chức vụ tư lệnh Sư đoàn 22, thăng thiếu tướng tháng 6/1968 khi giữ chức tư lệnh Sư đoàn 25 BB, thăng trung tướng cuối năm 1971 và được bổ nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng Pháo binh QL/VNCH vào đầu năm 1972); thứ 7: chuẩn tướng Nguyễn Thanh Sằng (giữ chức tư lệnh Sư đoàn 22BB lần thứ 2 từ 1/3/1965 đến 22/6/1966); thứ 8: chuẩn tướng Nguyễn Văn Hiếu (giữ chức tư lệnh lần thứ hai, từ 23/6/1966 đến 10/8/1969); thứ 9: Chuẩn tướng Lê Ngọc Triễn (từ 11 tháng 8/1969 đến cuối tháng 2/1972, thăng chuẩn tướng vào giữa năm 1970, đầu tháng 3/1972, được bổ nhiệm giữ chức tham mưu phó Hành quân bộ Tổng tham mưu); thứ 10: đại tá Lê Đức Đạt (từ 1 tháng 3/1972 đến ngày 24/4/1972; trước khi giữ chức tư lệnh thay thế tướng Triễn, đại tá Đạt là tư lệnh phó Sư đoàn này, được ghi nhận là mất tích khi Cộng quân tấn công Tân Cảnh); tư lệnh cuối cùng: chuẩn tướng Phan Đình Niệm (từ 28 tháng 4/1972 đến 30/4/1972), tướng Niệm được bổ nhiệm chức vụ tư lệnh Sư đoàn 22 Bộ binh khi ông đang là đại tá, chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Lam Sơn, được thăng chuẩn tướng cuối tháng 10/1972; ông đã có một thời gian đảm nhiệm các chức vụ chỉ huy trong Bộ binh: tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng, tư lệnh phó Sư đoàn.
* Sư đoàn 22 Bộ binh tại mặt trận Tân Cảnh-Dakto mùa hè 1972:
Từ năm 1959 đến 1972, Sư đoàn 22 Bộ binh đã tham dự nhiều cuộc hành quân quy mô trong khu vực trách nhiệm, và đã lập nhiều chiến công, riêng trong cuộc chiến Mùa Hè 1972, Sư đoàn này đã trải qua một giai đoạn đầy bi tráng tại mặt trận Tân Cảnh-Dakto. Toàn cảnh về trận chiến này được ghi nhận tổng lược như sau, dựa theo tài liệu của cựu đại tá Trịnh Tiếu, nguyên trưởng phòng 2 Quân đoàn 2:
Trong tháng 3/1972, những tin tức tình báo ghi nhận về sự tăng cường lực lượng của Cộng quân ở khu vực Kontum đã làm cho trung tướng Ngô Du-Tư lệnh Quân đoàn 2 lo lắng. Dựa trên những báo cáo của Phòng 2 Quân đoàn và sau khi hội ý với cố vấn trưởng Quân đoàn là ông John P. Vann, trung tướng Ngô Du đã cho tái phối trí lực lượng để bảo vệ mặt Bắc Kontum. Theo đó, bộ tư lệnh Tiền Phương Sư đoàn 22 Bộ binh cùng trung đoàn 47, một thành phần Tiếp vận quan trọng của Sư đoàn từ bản doanh chính tại Bình Định di chuyển đến Tân Cảnh-Dakto. Tại cụm phòng tuyến này, bộ tư lệnh hành quân của Sư đoàn đặt chung với bộ chỉ huy Hành quân của Trung đoàn 42 Bộ binh đã hoạt động tại đây từ trước. Về lực lượng Thiết giáp, ngoài thiết đoàn cơ hửu, Sư đoàn 22 Bộ binh được Quân đoàn 2 tăng cường 1 chi đoàn của thiết đoàn 19 thuộc Lữ đoàn 2 Kỵ Binh.
Hỗ tương phòng thủ cùng với Sư đoàn 22 Bộ binh là lữ đoàn 2 Nhảy Dù do đại tá Trần Quốc Lịch chỉ huy. Lữ đoàn này phòng thủ các căn cứ Delta và Charlie ở dãy đồi phía Tây sông Polco. (Vào 4 giờ sáng ngày 3 tháng 4/1972, sư đoàn 320 CSBV đã tấn công cường tập căn cứ Delta, nhưng địch quân đã bị đẩy lùi. Tiếp đến ngày 14 tháng 4/1972, Cộng quân lại mở cuộc tấn công vào căn cứ Charlie, trung tá Nguyễn Đình Bảo, chỉ huy tiểu đoàn 11 Nhảy Dù phòng ngự căn cứ này đã bị tử thương do trúng một quả hỏa tiễn 122 ly. Chi tiết về hai trận tấn công này sẽ được trình bày trong bài viết về lữ đoàn 2 Nhảy Dù).
Ngày 20 tháng 4/1972, tình hình tại mặt trận Quảng Trị ở Quân khu 1 quá nặng, bộ Tổng tham mưu quyết định điều động lữ đoàn 2 Nhảy Dù tăng cường cho giới tuyến. Tướng 3 sao CSBV là Hoàng Minh Thảo, tư lệnh B3 (Cộng quân tại Cao nguyên) thấy lữ đoàn Nhảy Dù đã rút, nên đã cho tiến hành kế hoạch tấn công cấp tốc để “dứt điểm” Sư đoàn 22 Bộ binh. Lực lượng chính mà B 3 sử dụng để tấn công Sư đoàn 22 BB là sư đoàn 320 và sư đoàn 2 Sao Vàng với thành phần phụ lực là một lữ đoàn chiến xa. Các đơn vị Cộng quân đều có phân đội trang bị hỏa tiển Sagger (các sĩ quan tình báo chiến trường của VNCH gọi là AT 3), loại hỏa tiển chống chiến xa có tầm tác xạ hữu hiệu tối đa là 2 ngàn mét.
Từ ngày 20 đến 22/4/1972, các sư đoàn CSBV áp sát vòng đai Tân Cảnh. Trước tình hình mới, đại tá Trịnh Tiếu, trưởng phòng 2 Quân đoàn 2, sau khi đã khám phá đầy đủ các vị trí của địch đã xuất hiện, đã trình với trung tướng Ngô Du-tư lệnh Quân đoàn 2- xin tiến hành ngay kế hoạch tiêu diệt địch bằng B 52 mà trước đây tướng Du và cố vấn Paul Vann đã tính toán. Điều bất ngờ là ông Paul Vann đã từ chối đề nghị của Quân đoàn 2 sử dụng B 52 để “dọn sạch” đối phương, nguyên nhân là ông Paul Vann không muốn yểm trợ cho đại tá Lê Đức Đạt-tư lệnh Sư đoàn 22. Trước thái độ của ông Paul Vann, trung tướng Ngô Du tức giận la lớn: Ông Paul Vann, ông là bạn hay kẻ thù của tôi. Paul Vann làm thinh bỏ đi. Ông bay trực thăng xuống mặt trận Bắc Bình Định. Tư lệnh chiến trường này là đại tá Trần Hiếu Đức, trung đoàn trưởng trung đoàn 40/Sư đoàn 22 Bộ binh. Đại tá Đức chịu trách nhiệm chỉ huy toàn bộ lực lượng bộ chiến hoạt động trong ba quận Hoài Ân, Hoài Nhơn và Tam Quan.
Ngày 23 tháng 4/1972, một tiểu đoàn Bộ binh của Sư đoàn 22 đã giao tranh với địch tại một vị trí gần bộ Tư lệnh Hành quân của Sư đoàn. Cũng trong ngày này, Cộng quân pháo kích tới tấp vào Tân Cảnh bằng hỏa tiễn 122 ly. Lực lượng chiến xa bảo vệ bộ Tư lệnh lúc bấy giờ chỉ có 10 chiếc, được điều động dàn đội hình ngăn chận địch, đã bị hỏa tiễn Sagger của Cộng quân bắn cháy mất 8 chiếc, còn lại 2 chiếc thì bị đứt xích. Một sĩ quan cấp thiếu tá tên là Như cùng một cố vấn Hoa Kỳ là đại úy Kenneth Yonan, 23 tuổi, đã leo lên tháp nước cao tại căn cứ, sử dụng đại liên 12.7 ly để tấn công địch, cũng bị hỏa tiễn Sagger bắn, bồn nước nổ tung và cả hai sĩ quan Việt-Mỹ này chết tại chỗ.
Khoảng 10 giờ tối ngày 23 tháng 4/1972, quận Dakto cách Tân Cảnh 2 km về phía Bắc, quân trú phòng tại quận này quan sát thấy đèn của 11 chiến xa T 54 tiến về hướng quận. Ngay sau khi nhận được báo cáo của Sư đoàn 22 Bộ binh, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 đã điều động C 130 Spectre lên thả trái sáng. Trong khi đó, các chiến binh thuộc thành phần phòng ngự vòng đai bộ Tư lệnh Hành quân Sư đoàn, từ các hầm chiến đấu cá nhân, thấy 15 chiến xa T 54 khác của địch chạy về Tân Cảnh. Phi cơ C 130 Spectre tác xạ để ngăn chận chiến xa địch, nhưng không có hiệu quả vì loại phi cơ này không có đạn chống chiến xa. Tình hình chiến sự tại Tân Cảnh đã bước vào những giờ phút quyết định của cuộc chiến.
Sinh Tồn chuyển
Đầu năm 1959, theo cải tổ của Bộ Tổng Tham Mưu, các sư đoàn Khinh chiến 12, 13, và 16 bị giải tán. Các sư đoàn 11, 14, 15 được thâu nhận một phần lớn quân số của các sư đoàn giải tán để cải tổ thành các sư đoàn Bộ binh. Theo đó, sư đoàn Khinh chiến số 14 được cải danh thành Sư đoàn 22 Bộ binh với ba trung đoàn cơ hữu cải danh: trung đoàn Bộ binh số 40, số 41, số 42 thành trung đoàn Bộ binh 40, 41, 42. Sau này, do tình hình chiến trường, Sư đoàn 22 Bộ binh có thêm trung đoàn thứ 4, đó là trung đoàn 47 Bộ binh. Từ năm 1970, khu vực trách nhiệm của Sư đoàn 22 Bộ binh bao gồm các tỉnh: Bình Định, Phú Yên, Phú Bổn, Kontum, Pleiku.
* Sơ lược về quân vụ của 9 vị tư lệnh Sư đoàn 22 Bộ binh:
Từ khi cải danh từ Sư đoàn Khinh chiến thành Sư đoàn Bộ binh, Sư đoàn 22BB đã được được chỉ huy bởi 9 vị tư lệnh qua 11 thời kỳ (có hai vị hai lần giữ chức vụ này). Tư lệnh thứ 1 sau khi cải danh: trung tá Trần Thanh Chiêu (1/4/1959 đến 2/9/1959; vào thời gian 1962-1963, trung tá Chiêu là Thanh tra Dân vệ đoàn (Nghĩa quân), ông chỉ được thăng đến đại tá, mất tích vào tháng 4/1972); tư lệnh thứ 2: trung tá Nguyễn Bảo Trị (từ 3/9/1959 đến 4/11/1963; được thăng đại tá trong thời gian giữ chức vụ tư lệnh Sư đoàn này; thăng chuẩn tướng vào cuối tháng 10/1964 khi giữ chức tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh, được bổ nhiệm giữ chức tư lệnh Quân đoàn 3 vào đầu tháng 10/1965, thăng thiếu tướng vào cuối tháng 10/1965; tháng 6/1966: tổng cục trưởng Chiến tranh Chính trị, sau đó giữ chức Tổng trưởng Thông tin Chiêu Hồi; thăng trung tướng vào cuối tháng 10/1967; chức vụ cuối cùng: chỉ huy trưởng trường Chỉ huy Tham mưu); tư lệnh thứ ba: đại tá Nguyễn Thanh Sằng (từ 5 tháng 11/1963 đến 4 tháng 2/1964, thăng chuẩn tướng vào cuối tháng 10/1964 khi đang phục vụ tại Vùng 1 chiến thuật; chức vụ cuối cùng: tư lệnh phó Hành quân Quân đoàn 4 (1972-1973), giải ngũ trước 30 tháng 4/1975.
Từ tháng 2/1964 đến tháng 4/1975, các đại tá và tướng lãnh sau đây đã chỉ huy Sư đoàn 22 Bộ binh: thiếu tướng Linh Quang Viên (từ 5 tháng 2/1964 đến 6/9/1964, rời Sư đoàn 22 Bộ binh, tướng Linh Quang Viên có thời gian giữ chức vụ tham mưu trưởng Liên quân từ 1965 đến 1966, thăng trung trướng vào cuối tháng 10/1967 và giữ chức Tổng trưởng Nội vụ trong nội các Nguyễn Văn Lộc, chức vụ cuối cùng: Chỉ huy trưởng Trường Hạ Sĩ quan Nha Trang, giải ngũ vào tháng 3/1974); đại tá Nguyễn Văn Hiếu (từ 7 tháng 9/1964 đến 23/10/1964; đại tá Hiếu trở lại làm tư lệnh Sư đoàn 22 BB vào tháng 6/1966 và thăng chuẩn tướng vào năm 1967, đến tháng 8/1969, giữ chức tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh, thăng thiếu tướng 1970, chức vụ cuối cùng: tư lệnh phó Quân đoàn 3, tử nạn vào hạ tuần tháng 4/1975);
Thứ 6: chuẩn tướng Nguyễn Xuân Thịnh (từ 24 tháng 10/1964 đến 1/3/1965, đại tá Thịnh được thăng cấp tướng khi vừa được bổ nhiệm giữ chức vụ tư lệnh Sư đoàn 22, thăng thiếu tướng tháng 6/1968 khi giữ chức tư lệnh Sư đoàn 25 BB, thăng trung tướng cuối năm 1971 và được bổ nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng Pháo binh QL/VNCH vào đầu năm 1972); thứ 7: chuẩn tướng Nguyễn Thanh Sằng (giữ chức tư lệnh Sư đoàn 22BB lần thứ 2 từ 1/3/1965 đến 22/6/1966); thứ 8: chuẩn tướng Nguyễn Văn Hiếu (giữ chức tư lệnh lần thứ hai, từ 23/6/1966 đến 10/8/1969); thứ 9: Chuẩn tướng Lê Ngọc Triễn (từ 11 tháng 8/1969 đến cuối tháng 2/1972, thăng chuẩn tướng vào giữa năm 1970, đầu tháng 3/1972, được bổ nhiệm giữ chức tham mưu phó Hành quân bộ Tổng tham mưu); thứ 10: đại tá Lê Đức Đạt (từ 1 tháng 3/1972 đến ngày 24/4/1972; trước khi giữ chức tư lệnh thay thế tướng Triễn, đại tá Đạt là tư lệnh phó Sư đoàn này, được ghi nhận là mất tích khi Cộng quân tấn công Tân Cảnh); tư lệnh cuối cùng: chuẩn tướng Phan Đình Niệm (từ 28 tháng 4/1972 đến 30/4/1972), tướng Niệm được bổ nhiệm chức vụ tư lệnh Sư đoàn 22 Bộ binh khi ông đang là đại tá, chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Lam Sơn, được thăng chuẩn tướng cuối tháng 10/1972; ông đã có một thời gian đảm nhiệm các chức vụ chỉ huy trong Bộ binh: tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng, tư lệnh phó Sư đoàn.
* Sư đoàn 22 Bộ binh tại mặt trận Tân Cảnh-Dakto mùa hè 1972:
Từ năm 1959 đến 1972, Sư đoàn 22 Bộ binh đã tham dự nhiều cuộc hành quân quy mô trong khu vực trách nhiệm, và đã lập nhiều chiến công, riêng trong cuộc chiến Mùa Hè 1972, Sư đoàn này đã trải qua một giai đoạn đầy bi tráng tại mặt trận Tân Cảnh-Dakto. Toàn cảnh về trận chiến này được ghi nhận tổng lược như sau, dựa theo tài liệu của cựu đại tá Trịnh Tiếu, nguyên trưởng phòng 2 Quân đoàn 2:
Trong tháng 3/1972, những tin tức tình báo ghi nhận về sự tăng cường lực lượng của Cộng quân ở khu vực Kontum đã làm cho trung tướng Ngô Du-Tư lệnh Quân đoàn 2 lo lắng. Dựa trên những báo cáo của Phòng 2 Quân đoàn và sau khi hội ý với cố vấn trưởng Quân đoàn là ông John P. Vann, trung tướng Ngô Du đã cho tái phối trí lực lượng để bảo vệ mặt Bắc Kontum. Theo đó, bộ tư lệnh Tiền Phương Sư đoàn 22 Bộ binh cùng trung đoàn 47, một thành phần Tiếp vận quan trọng của Sư đoàn từ bản doanh chính tại Bình Định di chuyển đến Tân Cảnh-Dakto. Tại cụm phòng tuyến này, bộ tư lệnh hành quân của Sư đoàn đặt chung với bộ chỉ huy Hành quân của Trung đoàn 42 Bộ binh đã hoạt động tại đây từ trước. Về lực lượng Thiết giáp, ngoài thiết đoàn cơ hửu, Sư đoàn 22 Bộ binh được Quân đoàn 2 tăng cường 1 chi đoàn của thiết đoàn 19 thuộc Lữ đoàn 2 Kỵ Binh.
Hỗ tương phòng thủ cùng với Sư đoàn 22 Bộ binh là lữ đoàn 2 Nhảy Dù do đại tá Trần Quốc Lịch chỉ huy. Lữ đoàn này phòng thủ các căn cứ Delta và Charlie ở dãy đồi phía Tây sông Polco. (Vào 4 giờ sáng ngày 3 tháng 4/1972, sư đoàn 320 CSBV đã tấn công cường tập căn cứ Delta, nhưng địch quân đã bị đẩy lùi. Tiếp đến ngày 14 tháng 4/1972, Cộng quân lại mở cuộc tấn công vào căn cứ Charlie, trung tá Nguyễn Đình Bảo, chỉ huy tiểu đoàn 11 Nhảy Dù phòng ngự căn cứ này đã bị tử thương do trúng một quả hỏa tiễn 122 ly. Chi tiết về hai trận tấn công này sẽ được trình bày trong bài viết về lữ đoàn 2 Nhảy Dù).
Ngày 20 tháng 4/1972, tình hình tại mặt trận Quảng Trị ở Quân khu 1 quá nặng, bộ Tổng tham mưu quyết định điều động lữ đoàn 2 Nhảy Dù tăng cường cho giới tuyến. Tướng 3 sao CSBV là Hoàng Minh Thảo, tư lệnh B3 (Cộng quân tại Cao nguyên) thấy lữ đoàn Nhảy Dù đã rút, nên đã cho tiến hành kế hoạch tấn công cấp tốc để “dứt điểm” Sư đoàn 22 Bộ binh. Lực lượng chính mà B 3 sử dụng để tấn công Sư đoàn 22 BB là sư đoàn 320 và sư đoàn 2 Sao Vàng với thành phần phụ lực là một lữ đoàn chiến xa. Các đơn vị Cộng quân đều có phân đội trang bị hỏa tiển Sagger (các sĩ quan tình báo chiến trường của VNCH gọi là AT 3), loại hỏa tiển chống chiến xa có tầm tác xạ hữu hiệu tối đa là 2 ngàn mét.
Từ ngày 20 đến 22/4/1972, các sư đoàn CSBV áp sát vòng đai Tân Cảnh. Trước tình hình mới, đại tá Trịnh Tiếu, trưởng phòng 2 Quân đoàn 2, sau khi đã khám phá đầy đủ các vị trí của địch đã xuất hiện, đã trình với trung tướng Ngô Du-tư lệnh Quân đoàn 2- xin tiến hành ngay kế hoạch tiêu diệt địch bằng B 52 mà trước đây tướng Du và cố vấn Paul Vann đã tính toán. Điều bất ngờ là ông Paul Vann đã từ chối đề nghị của Quân đoàn 2 sử dụng B 52 để “dọn sạch” đối phương, nguyên nhân là ông Paul Vann không muốn yểm trợ cho đại tá Lê Đức Đạt-tư lệnh Sư đoàn 22. Trước thái độ của ông Paul Vann, trung tướng Ngô Du tức giận la lớn: Ông Paul Vann, ông là bạn hay kẻ thù của tôi. Paul Vann làm thinh bỏ đi. Ông bay trực thăng xuống mặt trận Bắc Bình Định. Tư lệnh chiến trường này là đại tá Trần Hiếu Đức, trung đoàn trưởng trung đoàn 40/Sư đoàn 22 Bộ binh. Đại tá Đức chịu trách nhiệm chỉ huy toàn bộ lực lượng bộ chiến hoạt động trong ba quận Hoài Ân, Hoài Nhơn và Tam Quan.
Ngày 23 tháng 4/1972, một tiểu đoàn Bộ binh của Sư đoàn 22 đã giao tranh với địch tại một vị trí gần bộ Tư lệnh Hành quân của Sư đoàn. Cũng trong ngày này, Cộng quân pháo kích tới tấp vào Tân Cảnh bằng hỏa tiễn 122 ly. Lực lượng chiến xa bảo vệ bộ Tư lệnh lúc bấy giờ chỉ có 10 chiếc, được điều động dàn đội hình ngăn chận địch, đã bị hỏa tiễn Sagger của Cộng quân bắn cháy mất 8 chiếc, còn lại 2 chiếc thì bị đứt xích. Một sĩ quan cấp thiếu tá tên là Như cùng một cố vấn Hoa Kỳ là đại úy Kenneth Yonan, 23 tuổi, đã leo lên tháp nước cao tại căn cứ, sử dụng đại liên 12.7 ly để tấn công địch, cũng bị hỏa tiễn Sagger bắn, bồn nước nổ tung và cả hai sĩ quan Việt-Mỹ này chết tại chỗ.
Khoảng 10 giờ tối ngày 23 tháng 4/1972, quận Dakto cách Tân Cảnh 2 km về phía Bắc, quân trú phòng tại quận này quan sát thấy đèn của 11 chiến xa T 54 tiến về hướng quận. Ngay sau khi nhận được báo cáo của Sư đoàn 22 Bộ binh, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 đã điều động C 130 Spectre lên thả trái sáng. Trong khi đó, các chiến binh thuộc thành phần phòng ngự vòng đai bộ Tư lệnh Hành quân Sư đoàn, từ các hầm chiến đấu cá nhân, thấy 15 chiến xa T 54 khác của địch chạy về Tân Cảnh. Phi cơ C 130 Spectre tác xạ để ngăn chận chiến xa địch, nhưng không có hiệu quả vì loại phi cơ này không có đạn chống chiến xa. Tình hình chiến sự tại Tân Cảnh đã bước vào những giờ phút quyết định của cuộc chiến.
1 comment:
Con là con Đại Úy Lê Xuân Cảnh, sinh sau năm 1975, nên con không biết rõ về Cha con, chỉ nghe mẹ nói lại, và con còn giữ vài tấm hình.
Post a Comment