Sunday, April 20, 2025

GIẶC TÀU DIỄU HÀNH TRÊN ĐẤT SÀI GÒN KHÔNG TỐN MỘT VIÊN ĐẠN - Nguyễn Văn Thành AC28

--------------
 
 
Như thế là bộ đội của
Tàu Cộng danh chánh ngôn thuận diễn hành trên Phường Sài Gòn; không MẤT 1 viên đạn. Chúc mừng cho Trung Hoa Lục Địa. Dân Việt ta ơi. Nỗi ĐAU nào bằng? Lần này không phải là 1 ngàn năm Bắc Thuộc lần thứ hai; mà là DIỆT CHỦNG. Hãy nhìn Tây Tạng, Mãn Châu, Tân Cương, Mông Cổ. Hãy chuẩn bị GIỮ GÌN nội tạng (Tim, Gan, Phèo, Phổi, Bộ đồ lòng)
Chỉ có Trời CỨU dân Việt?
----------------
*** Tổng Thống Trump ơi! Ông có cách gì cho dân Việt của chúng tôi ở bên kia bờ đại dương KHÔNG? Cảm ơn ông. Cầu mong ơn trên chăm sóc ông.
10 năm đầu, dân VIỆT từ 100 triệu còn 80 triệu. 10 năm kế, từ 80 triệu còn 60 triệu. 10 năm kế nữa,  từ 60 triệu xuống còn 30 triệu. Và 10 năm sau cùng, từ 30 triệu xuống còn 5 triệu. Thế là chỉ vài cái 10 năm là GIẢI QUYẾT XONG 1 GIỐNG DÂN CỨNG ĐẦU, và QUẬT CƯỜNG nhất vùng Á Châu. Dân VIỆT chỉ lác ĐÁC như lá rụng Mùa Thu ngay trên quê hương của mình. XONG. Không còn gì để nói, để bàn luận, để chống phá, để khích bác hận thù. Và sẽ không còn ViCi đánh cho Mỹ Cút; Ngụy Nhào nữa.
ĐÁNH CHO MỸ CÚT NGỤY NHÀO
ĐÁNH CHO CHẾT MẸ ĐỒNG BÀO MIỀN NAM
Lúc ấy, chỉ còn người VIET QUỐC GIA sống rải rác trên năm châu, bốn biển ĐAU BUỒN cho thân phận MẤT NƯỚC; như dân Tây Tạng, Mông Cổ, Mãn Châu, Tân Cương.....The END... Và lá cờ Vàng là lá cờ duy nhất đại diện cho Hồn Thiêng sông Núi của dân Việt.
--------------
Tiếng Dân Thời Báo
CỘNG SẢN HẾT THỜI
Xin mời cả nước Việt Nam cùng xem cư dân mạng Weibo ở tận Trung Quốc xa xôi, đang nghĩ gì về ngày lễ Diễu Binh 30/4 của Việt Nam nhé.
Mình đã chụp màn hình bài viết này, để làm bằng chứng, vì lũ Việt Cộng hay nói mình bịa đặt, nói mình đang cố chia rẽ tình cảm giữa Trung Quốc và Việt Nam.
 
Hà Nội 24H
Cận cảnh 118 cán bộ, chiến sĩ quân đội Trung Quốc đến TP HCM để tham gia diễu binh tại lễ kỷ niệm 50 năm thống nhất đất nước của Việt Nam, trưa 25/4.
---------- 
 ---------------

---------------
 
 ---------------
CÓ GÌ VUI MÀ MỪNG?
 
 Nếu quý vị không hiểu được tiếng Anh, hãy nhờ con cháu. Cố gắng nghe video trên
 
Quý vị ViCi và cha anh của quý vị đã Thua; Thua thê thảm. Quý vị đã đầu hàng Vô Điều kiện. Nếu không tin, hãy hỏi những kẻ tai to mặt lớn thuộc nhóm người "Sinh Bắc Tử Nam" năm xưa thì rõ. Nhưng đế quốc Mỹ dùng lệnh đầu hàng này đặt lên đầu quân dân miền Nam. Quý vị đã Thua từ đầu cuộc chiến cho đến hôm nay, tháng 4/2025.
Tại sao?
Dễ hiểu thôi:
1. Đế quốc Mỹ ở VN đã quá đủ; trên dưới 20 năm, và chúng phải về nước, vì bao nhiêu ấy cũng có thể ĐÁNH TAN thế giới Cộng Sản ra làm từng mảnh. Hơn thế nữa, chúng không tội gì phải cung cấp tiền bạc để TÁI THIẾT một nước VN đã bị tàn phá bỡi bàn tay đẫm máu của quý vị. Dĩ nhiên, chúng không muốn chiếm lấy mảnh đất hình chữ S của chúng ta.
2. Khi ra về, đế quốc Mỹ đã mang đi tất cả nhân tài và tinh anh của miền Nam; 
3. Đế quốc Mỹ đã và đang thu tất cả tài sản của nước Việt từ bàn tay Đẫm Máu của quý vị. 
4. Một ngày nào đó chúng sẽ trả quý vị trở về nơi chôn nhau cắt rốn của quý vị. và
5. CÔNG TỘI của quý vị, chúng không mất thời gian bàn luận, mà giao lại cho đồng bào VN quyết định. KHÔNG AI TRÁNH KHỎI NẮNG TRỜI.
Quý vị Vui Mừng điều gì ?
------------------
*** Chúc mừng quý vị ViCi. Chúc mừng giải phóng quân. Chúc mừng cách mạng 30. 
Quý vị đã đưa dân Việt đến thời kỳ DIỆT VONG. Chúc mừng quý vị phải học tiếng TÀU trong nay mai. XIN NHỚ... 

 
Chỉ chờ cơn gió Đông đến là chúng dùng chuyến bay 1 chiều ĐÁP xuống Cali là Xong. Chúng sẽ để lại tất cả những thứ Không Thuộc về chúng, cho đồng bào ta. Chúng quay LƯNG đi không 1 lời thương tiếc.
 
* Quý vị tạo cơ hội danh chánh ngôn thuận cho bộ đội của Tàu Cộng diễn hành trên Phường Sài Gòn để rồi ra đi. Thật tàn nhẫn.
--------------
--------------
 
*** Quý vị, là người ở lại thì sao? làm gì trước Thảm Họa đang đến ???
*** Quý vị có yêu quý thân mình, gia đình mình, và những người dân Việt lương thiện khác không ???...
Chớ dại dột chống Mỹ đến người Việt cuối cùng
-----------------
Người ta đi, và tiếp tục đi
------------------

 
--------------
 
Tony Nguyễn
AN VUI BÌNH THƯỜNG
"Triệu người vui, triệu người buồn."
An vui, ta vẫn luôn luôn bình thường!
Qua một cuộc nhiễu nhương đen trắng,
Ta từng người tay trắng hai tay.
Thất bại sớm, ấy mà may,
Hiểu ra cuộc sống xưa nay vốn là.
Sách lịch sử gần xa đây đó,
Cuộc đổi thay ghi rõ tháng năm.
Tộc Việt tiêu diệt tộc Chăm;
Hitler chiếm đóng hàng trăm luỹ thành;
Thành Cát Tư Hãn anh chăn ngựa,
Xua quân đi đánh nửa địa cầu.
Đế Quốc La Mã nay đâu?
Lên voi, xuống chó; bể dâu cuộc đời....
Chỉ có một Chúa Trời bất biến.

Chuá Giêsu vĩnh viễn là Vua.
Tháng Tư nhắc chuyện thắng thua,
Thắng thua chỉ một trò đùa thoáng qua.
Buồn vui mặc người ta cảm xúc
Hồn nhiên, ta như lúc trẻ thơ.
Chúa ta, mãi mãi tôn thờ,
Niềm vui, an lạc không chờ đợi ai.
Cuộc đời từ xưa nay vốn thế,
Chuyện đổi thay dâu bể vẫn luôn.
"Triệu người vui, triệu người buồn."
Mặc ai, ta cứ luôn luôn bình thường!
Ta xưa tên Việt Nguyễn Tường,
Thành công dân Mỹ đã nhường Tony (*).
Tường, Tony, nghĩa thì vẫn giống,
Là tốt lành, là sống thiện lương.
Cho nên được Chúa Trời thương,
Luôn luôn cuộc sống bình thường an vui.
Tony Nguyễn (Nguyễn Tường)
(*)
- Theo nghĩa Hán - Việt, "Tường" có nghĩa là tinh tường, am hiểu, biết rõ. Tên "Tường" dùng để nói đến người thông minh, sáng suốt, có tư duy, có tài năng. Ngoài ra "Tường" còn có nghĩa là lành, mọi điều tốt lành, may mắn sẽ đến với con.
- Ý nghĩa của cái tên Tony là gì?
Tony có nghĩa là “của gia đình Antonius” trong tiếng Latinh và “có giá trị không thể đánh giá được” hoặc “vô giá” (từ tiếng Hy Lạp cổ đại “anti / ἀντἰ” = chống lại + “ṓnios / ὤνιος” = để bán).
- Tony: Một người vô giá. Tony là tên có nguồn gốc từ Hy Lạp của một cậu bé. Là tuyệt đối hoàn hảo cho đứa bé, cái tên này có nghĩa là "một người vô giá". (Priceless one. Tony is a boy's name of Greek origin. Being utterly perfect for baby, this name means "priceless one.")
--------------
 
Calvin Nguyen
EM CÓ VỀ GOM GIỌT LỆ THÁNG TƯ
Em có về gom giọt lệ tháng Tư
Gom nỗi hận chôn vùi theo nỗi nhớ
Nước mắt rơi hận thù cùng trăn trở
Tháng Tư buồn đất nước vận lao đao
Em có về nhặt lại những khát khao
Màu cờ vàng tự do bay trong gió
Vẽ ba miền sọc tươi dòng máu đỏ
Saigon hôm nào để nhỏ mắt long lanh.
Em có về tháng Tư thoáng qua nhanh
Mùa quốc hận mùa Xuân đầy súng đạn
Chữ tự do nở nào đem rao bán
Cộng sản về tan nát Ngọc viễn đông
Em có về níu lại chút tình thân
Nỗi nhục vinh bao lần đã thay đổi
Kẻ tha phương câu thơ tình nhắn gởi
Tháng Tư buồn quốc hận tủi vấn vương
Em có về gom một chút yêu thương
Gom tự do cho lòng người thánh thiện
Đem tình yêu trái tim nào dâng hiến
Tự do gieo mầm tổ quốc hồi sinh…
New London CT
04/14/2025
Quốc Nguyên
(Người về từ lòng đại dương)
--------------
 
Quang Caumuoi
Cuối Đường Chiến Binh.
Ối ối.. ông trời ơi.ơiiiiiii..

Đó là tiếng thét thấu trời xanh, của người Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân, lúc 11 giờ sáng ngày 30/4/1975.
Sau tiếng thét uất nghẹn đó là khẩu súng đưa lên đầu, nhưng bàn tay của người thuộc hạ đã nhanh như điện, một cú Atemi đã làm khẩu súng văng ra. Người thuộc hạ kéo vị chỉ huy của mình chạy. 
 
🤬💣Quân thù bủa vây khắp nơi.
🍀Mới đêm 28/4 tiểu đoàn còn quần thảo một trận vô tiền khoáng hậu với quân thù.
Trận đánh kinh hoàng nhất trong đời chiến binh mấy chục năm trời.
Quân thù với chiến xa có bộ binh tùng thiết và hỏa lực hùng hậu, tràn lên ngọn đồi sau lưng trường Bộ Binh Long Thành.
Một trăm sáu mươi mốt người Lính của tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân, chỉ với lựu đạn và hai cây đại liên anh dũng chống trả, đã làm cho quân thù bạt vía.
 
😥🙏Sáu mươi người đã nằm lại trên ngọn đồi này.
🍀Ba giờ sáng ngày 30/4, được lịnh kéo về Sài Gòn. Đến gần Thủ Đức thì nghe Dương Văn Minh ra lịnh đầu hàng.
Bắt liên lạc được với Liên Đoàn Trưởng thì được lịnh chờ, sẽ có xe đến rước về Đường Sơn Quán.
 
Quân số 101 người chỉ còn lại 60 khi vượt từ Biên Hòa về Thủ Đức. 
 
Sáu mươi người còn lại lên xe, với nghiêm lệnh vẫn phải phòng thủ. Dù chiến trường sắp ngã ngũ.
Người tài xế xe ben cười tươi hớn hở:
Hết chiến tranh rồi Thiếu Tá
Nụ cười của ông ta chưa tắt, thì đạn nổ ầm ầm, và những tiếng thét man rợ:
😡🔫Bắn hết, bắn chết tụi nó hết.
Hận thù của trận thua đêm 28/4, cộng quân trút lên đầu của những người Lính Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân, bằng những loại súng cộng đồng mạnh nhất,trong đó có 12 ly 7.
 
😥Óc người văng tung tóe.
Những người Lính Biệt Động Quân, nghiến răng bóp cò dù thân thể trúng đạn tả tơi.
Họ chết từ Plemei chết về, ba trăm người lính Tiểu Đoàn Đoàn 82 Biệt Động Quân, chết trên khắp nẻo đường lui quân, và kết thúc ở Thủ Đức. 
 
Mười ba năm sau, người Tiểu Đoàn Trưởng tìm về lại chốn xưa, sau những năm tù ,để ngậm ngùi thắp cho thuộc hạ của mình một nén nhang lòng.
Những người Lính chết ở cuối đoạn đường chiến binh này, không có hòm gỗ cài hoa, không quốc kỳ phủ quan tài ,mà thân xác họ đã bị vùi dập đâu đó chốn này .
 
😥🙏 Đêm nay hòa bình sao mắt mẹ không vui.
Có bao nhiêu người mẹ mãi cho đến bây giờ, cũng không biết thân xác con mình bị vùi lấp nơi đâu.
🌹❤Quân đội Việt Nam Cộng Hòa không hèn như bọn cộng sản và bọn phản chiến dân chủ Hoa Kỳ rêu rao.
Con cháu của những người Lính Việt Nam Cộng Hòa phải ngẩng cao đầu hãnh diện vì cha ông mình.
Thế Chiến Quốc Thế Xuân Thu.
Vận Nước Tàn Nên Đành Phải Chịu. 
 
Hãy thắp cho họ một nén nhang lòng,trong tháng ngày đại tang của nước Việt Nam Cộng Hòa.
Tháng 4 1975.
Họ chết 50 năm trời rồi không mộ phần, không khói không nhang.
 ---------------
Son H Cao
Miền Nam đau thương trong những ngày cuối tháng tư oan nghiệt .
 
---------------------
 
 Son H Cao
Quốc hận lại về, vết thương chưa lành hẳn.
Vẩn còn đây ! những đau đớn âm thầm
30/4, ngày dân tộc ta mất nước
Cả miền nam rên xiết dưới bạo tàn.
Quốc hận, hãy nghe lại tiếng khóc lầm than ...
Khi bạo tàn Việt Cộng lê dép Râu xuống phố
Con mất cha, vợ mất chồng... tiếng than trong đêm dài không thấu
Bao trận đòn, cha đã hứng chiụ trong những trại giam
Bao đau thương, tủi hờn trong uất ức
Cuả miền nam.. nhà cửa bỏ lại tan hoang
Ngày ly biệt , ngày Sài Gòn mất hết

Ngày hận thù cao ngất chẳng vơi tan.

Đồng bào ơi! hảy ghi khắc tâm can
Đừng quên nhé! ngày tang thương cuả dân tộc
Bốn mươi lăm năm chưa nguôi ngoai cơn uất nghẹn
Khi tháng Tư về, nhắc nhớ muà đau thương !
Tuổi trẻ ơi! hảy tiếp nối chí can trường
Hãy tiếp tục vùng lên rửa thù cho đất nước
Hãy tiếp tục giương cao màu cờ Vàng mà vững bước
Quyết một lòng: không bao giờ chung sống với Việt Cộng , hung nô
Hãy làm lịch sử, chuyển đổi cả cơ đồ
Cuả cha, anh, thế hệ, người đi trước
Hãy đem lý tưởng tự do soi vào độc tài cộng sản
Vững bước trưởng thành theo ngọn đuốc cuả cha anh
Hẹn ngày về với quê hương trong vinh quang xây thành
Khi không còn bóng ma màu cờ đỏ
Quê hương ơi! rồi có ngày tươi sáng tỏ
Việt Nam ơi! thế hệ Cờ Vàng vẫn còn đây
Năm mươi năm... vẫn còn đây
Thế hệ tiếp nối cuả Việt Nam Cộng Hoà chói lọi
Hẹn một ngày về! Tổ quốc ơi.
Phan Lạc Đông Quân (Viết vào Muà Quốc Hận thứ 45)
Tải từ Fb Quan Phan
------------------------

Kim Ân
TÂY ĐÔ...
Khi ta về trường cụ Phan thay họ...
Cổng trường xưa đâu còn mở tay chào?
Tượng đồng thau uy vĩ năm nao
Còn âm vọng lời gì dân gì nước?
Khi ta về con sông Hậu thuở trước
Có xôn xao như dạ kẻ ly hương?
Còn chuyến phà ngang chở đầy mơ ước
Tuổi thanh niên ngang dọc đi ngàn phương?
Khi ta về bến sông xưa còn động?
Nước còn xanh như thuở học trò
Bãi cát vàng như tuổi trẻ ươm mơ
Nắng còn ấm như tình yêu quê Mẹ?
Tây Đô ơi… ta xa người mấy độ
Lúc ra đi chẳng hẹn sẽ ngày về
Những đợt sóng đời chìm nổi nhấp nhô
Chẳng xóa được niềm yêu thương quê cũ...
Khi ta về chỉ niềm tin yêu cũng đủ
Bàn làm chi thành bại thêm thừa
Có triều đại nào đứng mãi… tự ngàn xưa?
Chỉ dân tộc là trường tồn bất diệt...
Khi ta về chỉ cần cây cỏ biết
Cụng cùng ta ly rượu đế nồng hương…
KIM ÂN

--------------------
 
------------------
 
Tình Ca Alpha Đỏ
Thương lắm, đời tôi có một tháng tư đầy bi thương, mất mát và chia ly!

Từ tháng tư ấy , có chàng trai “vốn dòng hào kiệt , xếp bút nghiên theo việc kiếm
cung “ vì tháng tư gãy súng , tuổi thanh xuân và nhiệt huyết bị bào mòn trong mười mấy năm ở trại cải tạo , khi trở về với tấm thân tả tơi , lăn lộn mưu sinh trong cuộc sống lầm than . Cuối cùng , chàng trai ấy ngậm ngùi bỏ lại quê hương , cha mẹ già … bước chân ra đi, tha hương nơi xứ người , lòng ngậm ngùi ôm một nỗi “ chí lớn không thành , bàn tay không... “
 
Từ tháng tư ấy , có bà mẹ già bao lần khóc tiễn con trai ra đi .Một đứa đền nợ nước trong chiến tranh ,mãi mãi tuổi hai mươi trên bàn thờ . Tàn cuộc chiến, vẫn còn tiễn con đi cải tạo . Thân cò lặn lội , thăm nuôi con từ Nam ra Bắc . Hết chiến tranh , lại tiễn con lần nữa rời quê hương sang xứ người mà chẳng biết bao giờ gặp lại , giờ phút lìa đời vẫn ngóng chờ gặp mặt con lần cuối mới nhắm mắt ra đi. 
 
Từ tháng tư ấy , có những thiếu nữ , bạn tôi , ra đi vượt biển , có đứa bị hải tăc hiếp cho đến chết rồi quăng xác xuống biển , đứa kia bị hiếp , may mắn thoát chết , đến trại tị nạn chưa kịp định cư đã chết vì căn bệnh xã hội , hậu quả của lần bị hiếp trên tàu . Cũng có đứa , đi không thoát trở về , ôm một nghiệp chướng mà khổ suốt đời.
 
Từ tháng tư ấy , ô cửa lớp với khoảng trời xanh mộng mơ thời thiếu nữ đã khép lại , Phượng đã tàn sao còn đỏ rực trong tim nhớ một người ? Phố cũng buồn sau cuộc chiến chinh . Từ độ quân đi không trở lại , tháng tư năm ấy , lệ vơi đầy . Cô thiếu nữ mười tám tuổi ấy đã bỏ thành phố tình yêu và nỗi nhớ , xuôi về Nam , vẫn đau đáu trong tim một bóng người.
Tháng tư trong tôi buồn như một tiếng thở dài .
-----------------
 
 
------------------

Anka Pham
Học tập cải tạo 10 ngày -
Trần Yên Hòa 
 Một hồi kẻng được nhà truởng Ngô Hoàng đánh lên, tiếng kẻng làm ai cũng rùng mình, nó gợi lên một cái gì đó rờn rợn. Người cán bộ quản giáo đi vào. Ngô Hoàng xăng xái ra chào, cán bộ nói với Ngô Hoàng điều gì đó. Ngô Hoàng lệnh cho anh em tập họp trước sân lán. Người cán bộ đứng trước anh em, nói: - Hôm qua các anh đã khai lý lịch cá nhân xong. Tất cả đang được trên duyệt xem sự thành khẩn của các anh như thế nào. Hôm nay các anh đi lao động trên Khung. Chỉ trừ những anh em làm ở nhà bếp và các “anh nuôi” được ở nhà, còn tất cả phải đi lao động.<!>
 
Các anh phải lao động cho thật tốt, lao động tốt là một điều kiện để các anh sớm về đoàn tụ với gia đình. Những người trong các bộ phận được người quản giáo nêu tên ra khỏi hàng, tất cả số còn lại đi theo người cán bộ ra cổng.
 
Khung là bộ chỉ huy liên trại và là khu nhà của những gia đình cán bộ, bộ đội đang làm việc ở đây. Trong lúc giao thời này, nhiệm vụ quản lý và cải tạo “ngụy quân, ngụy quyền” đuợc giao cho Ban Quân Quản. Quân đội có trách nhiệm tiếp nhận và cai quản đám sĩ quan trình diện này, cho nên các gia đình bộ đội được sống ngay trong khu vực, trong mấy khu nhà tiền chế. Họ ở một khu riêng. Đám cải tạo được đưa ra làm vệ sinh, khai thông cống rãnh, dọn dẹp bàn ghế cho Khung.
 
Khi toán ra đến cổng chính, Soại đã thấy có nhiều toán khác ở các khu vực kế bên cũng đi lao động. Những đám này ra làm vệ sinh và dọn dẹp trên khoảnh đất trống ngoại vi khu Trảng Lớn. Tiếng vui cười của ngày hôm qua không còn nữa. Ai cũng đăm chiêu, bạn bè cũ gặp nhau chỉ đưa tay vẫy. Mỗi toán, ngoài người quản giáo dắt đi, luôn luôn có một hai vệ binh cầm súng AK đi kè kè bên cạnh. Những người vệ binh mặt mày lạnh tanh, nói tiếng bắc kỳ trọ trẹ rất khó nghe.
 
Doanh trại ở trong vòng rào kẽm gai. Chung quanh có những cái chòi cao, có bộ đội canh gác, ở đó có thể quan sát toàn vùng. Bộ đội túc trực ở đó, súng chĩa thẳng, có thể tác xạ bất cứ lúc nào nếu có động tĩnh. Toán của Soại đuợc dẫn đến một khu doanh trại, ở đây đồ đạc vất bừa bãi như đã bỏ không lâu lắm rồi, vắng ngắt. Người cán bộ tập họp anh em một lần nữa, rồi phân công:
- Các anh bây giờ vào dọn sạch sẽ khu này. Nơi đây, nay mai sẽ là Bộ Chỉ Huy Khung về làm việc. Các anh em chia ra làm 3 toán, toán khiêng dọn bàn ghế, toán làm vệ sinh, toán quét dọn linh tinh, theo thứ tự mỗi B lãnh một phần việc.
 
Soại nghe lạ tai, những danh từ như A, B, C phân chia theo cấp tiểu đội, trung đội, đại đội. Cái mới bắt đầu, kể cả những ngôn ngữ như: quán triệt, khẩn trương, hồ hởi, anh cũng đuợc nghe lần đầu tiên.
Nắng bắt đầu nóng trên đầu, không ai đem mũ nón theo cả. Soại ít khi đội mũ và cũng nghĩ trong đầu là đi học tập 10 ngày, mà chắc là học trong phòng, lớp, nên anh không đem mũ theo, dù hồi bán ở chợ trời, anh đã mua một cái mũ bành đội che nắng. Nắng Sài Gòn hay nắng Tây Ninh đều không là hiền và đẹp như trong thơ Nguyên Sa, nắng ở đây xuyên qua đỉnh đầu bốc lên hừng hực. Trong đám anh em, có lẽ ai cũng nghĩ rằng, đi học tập chính trị thì cũng như đi học văn hóa, nên anh nào cũng quần áo sạch sẽ, bảnh bao, bây giờ, đi lao động khuân vác như thế này thật không phù hợp chút nào. Niệm cũng vậy, quần tây xám, áo thun màu xanh da trời, trông Niệm còn rất trẻ và “bô” trai. Soại và Niệm hì hục khiêng một cái bàn dài từ trong nhà ra ngoài bãi đất trống. Chiếc bàn nặng nên hai nguời bắt đầu thở nặng nhọc. Niệm nói:
- Không biết làm việc kiểu này bao lâu đây, sao không thấy động tĩnh về chuyện học tập gì hết thế này Soại?
Soại thả hai tay ra khỏi chân bàn, anh vừa thở, vừa trả lời bạn, vừa trấn an mình:
- Tôi nghĩ mình dọn dẹp chỗ này mấy ngày là họ sẽ cho mình học tập thôi. Nói vậy chứ học mấy bài chứ có gì đâu, hạ sĩ quan và binh sĩ chỉ học có 3 ngày đó sao.
Soại nói theo suy nghĩ lạc quan. Tuy nhiên anh cũng thấy mờ mờ đó là võ đoán, không chính xác. Anh nói thế như là một an ủi, một vỗ về cho chính mình.
Niệm băn khoăn:
- Hôm mình đi, vợ con mình chỉ còn mấy ngàn đồng, lại ở nhà thuê chứ mình đâu có nhà. Nếu mà không về đúng 10 ngày thì chắc vợ con mình ra ngoài đường ở quá. Mình lo lắm.
Soại nghĩ mình cũng may mắn hơn bạn. Nại Hiên và 3 con dắt díu nhau về quê rồi. Anh cũng an tâm. Ai cũng nghĩ, chế độ mới là chế độ của nông dân, nên về quê là chắc ăn.
 
Niệm đã kể về chuyện gia đình của Niệm cho Soại nghe. Chàng trai Long An đi lính ra trường bốc thăm về tiểu khu Bình Định, anh buồn bã vì biết rằng vùng 1 và vùng 2 là những nơi địch hoạt động mạnh, anh đã được biết qua về liên khu 5 - Nam, Ngãi, Bình, Phú - cái ổ cộng sản. Niệm đã đến đó, đã sống với những người lính địa phương quân, đã từng đi hành quân qua những thôn làng hẻo lánh, những vùng xôi đậu, ban ngày quốc gia ban đêm cộng sản. Thế rồi anh gặp Ngọc, cô gái Quy Nhơn, trong những ngày nghỉ phép dưỡng quân. Tình yêu đã đến, hai người lấy nhau, cho nên Bình Định đã cột chân anh lại. Ngày đơn vị anh di tản theo lệnh của tiểu khu vào Sài Gòn, anh không dẫn vợ con về quê cha mẹ ở Long An mà thuê nhà ở Sài Gòn ở tạm. Bây giờ vợ con anh ở đó, đợi anh, 10 ngày đi học tập về sẽ tính sau. Bây giờ là ngày thứ hai, anh đang dọn vệ sinh ở đây, còn 8 ngày nữa, không biết có được về hay không đây?
 
Dãy doanh trại này có một số căn nhà có người ở, đó là những gia đình bộ đội trong hệ thống Ban Chỉ Huy được điều về đây. Soại nhìn những đứa bé chạy tung tăn ngoài sân, anh chợt nhớ con mình quá. Anh Thư, Đông Nghi cũng trạc tuổi đó. Một đứa bé chạy lại gần, anh ngoắc tay, hỏi:
- Cháu tên gì, cháu mấy tuổi rồi?
Con bé nhìn anh mắt lấm lét, có vẻ sợ sệt. Anh hỏi tiếp:
- Chú hỏi con sao con không trả lời?
Con bé nói giọng bắc:
- Cháu 3 tuổi, cháu tên là cái Sâu.
- Cháu đi học chưa?
- Bố mẹ cháu mới chuyển vào đây, cháu chưa đi học.
Con bé có vẻ dạn dĩ chút đỉnh, nó hỏi lại:
- Các chú làm gì ở đây vậy?
- Các chú làm vệ sinh, dọn sạch sẽ để cháu có chỗ chơi đó.
- Sao bố mẹ cháu nói các chú lao động?
- Ừ, thì làm việc là lao động.
Con bé nhìn Soại cười để lộ hàm răng sún, rồi nói:
- Bố cháu nói các chú là “phạm”, sáng nay bố cháu dẫn phạm đi lao động đó.
Soại chợt nghe lạnh người, con bé chắc nghe bố mẹ nói thì nói lại thế thôi. Nhưng anh cũng thấm trong lòng một nỗi xót xa.
Có tiếng gọi, giọng đàn bà bắc kỳ, vọng ra từ trong một dãy nhà đàng kia:
- Cái Sâu đâu rồi?
Con bé nhanh nhẩu trả lời:
- Con đây, con đang đứng chơi với mấy chú đây này.
Cũng tiếng người đàn bà, như rít qua hai kẻ răng:
- Mày về nhà ngay, đừng có ra ngoài đó, đừng có liên lạc với bọn phạm, nhá.
Con bé nghe tiếng kêu giục giã, vội chạy về nhà. Chỉ còn lại đám anh em học tập hì hục khuân vác đồ đạc, dọn dẹp vệ sinh mọi nơi. Dương, chàng trai Võ Bị, nay đã được cán bộ quản giáo chỉ định làm B trưởng, chạy ra chạy vô hối thúc anh em làm việc.
Nắng chói chan trên đầu. Buổi chiều xuống chậm. Nắng vương trên những cành cây khô, mặt trời đỏ thẳm lui về sau rặng núi. Ở đây có thể nhìn dãy núi Bà Đen phía xa xa, dãy núi dài, không cao lắm, nhô lên một vùng.
Đã qua một tuần ở trại Trảng Lớn, đám sĩ quan trình diện, ban ngày đi lao động ngoài trảng hoặc làm vệ sinh khu doanh trại. Chưa có một ngày nào học chính trị. Điều mà anh em ai cũng mong nó đến. Học để trả nợ cho xong. 10 ngày. Rồi còn phải về lo công việc gia đình nữa chứ.
 
Gió mát thổi hiu hiu. Anh em tập trung cải tạo đã trở về lán sau một ngày lao động. Thật ra, lao động cũng chỉ cầm chừng. Cốt yếu là khai lý lịch. Cán bộ quản giáo đã nói đi nói lại với anh em tập trung: “Cách mạng đã biết hết việc của các anh em đã làm, anh em đừng giấu diếm chi cho mất công. Cách mạng chỉ cần biết các anh em thành khẩn đến đâu thôi. Đoàn tụ với gia đình mau hay chậm là ở anh em.”
Câu nói có vẻ ởm ờ, lấp liếm, che giấu một điều không thực mà anh em thì vô tư, không nghĩ đến hay có nghĩ đến cũng cố gạt qua một bên để chờ đợi, để xua tan những buồn lo.
 
“Ngã tư quốc tế” là tụ điểm của các con đường trước các dãy lán mà các anh em cải tạo đang ở. Các con đường làm song song theo các lán. Có hai con đường chính gặp nhau tại một ngã tư, nên anh em đặt tên là “Ngã Tư Quốc Tế”. Buổi chiều khi ăn cơm xong, là giờ nghỉ ngơi, anh em từng tốp, từng tốp đi qua đi lại trên những con đường này. Đến “ngã tư quốc tế”, họ dừng lại đông nhất. Đủ mọi câu chuyện trên trời, dưới đất, chuyện gia đình, vợ con, đơn vị cũ, di tản, tình hình chính trị, rồi cuối cùng ai cũng nói đến một điều đang suy nghĩ, 10 ngày học tập, sao chưa nghe động tĩnh gì?
 
Dương mới vô trại chưa đầy 10 ngày mà tiến bộ thấy rõ. Anh hăng say trong chức vụ B trưởng và công việc gì anh cũng xung phong đi đầu. Dương đang đi với Khả, người khóa đàn anh. Hai người đang nói chuyện về những người bạn cũ, ra trường, về đơn vị, bây giờ “đứt phim”, không biết ai còn ai mất. Dương nói:
- Khi tôi về trung đoàn thì nghe nói niên trưởng Kỵ mất. Ông giữ chức vụ đại đội trưởng, đánh đấm rất chì. Sau đó ông xin về công binh, trên bộ Tổng Tham Mưu đã cho phép thì ông đụng trận chết.
Khả nói:
- Tôi về sư đoàn 2, trung đoàn 4 đóng tại căn cứ Rạng Đông, Quảng Ngãi. Nói thế chứ lội như điên chứ đâu có được ở căn cứ. Khóa tôi có Tùng về làm ban 3 trung đoàn, còn ra nắm đại đội hết. Tùng Huế hành quân ở Quế Sơn bị chết ở đó. Nguyễn Hạnh Phúc về trung đoàn 6, lâu rồi không tin tức.
 
Dương nghĩ đến mình, đến sư đoàn của anh. Những ngày ở Quảng Trị, Ái Tử với chiến hào, gió cát, đạn pháo mù trời. Lính hiện dịch như anh bây giờ không còn gì nữa. Kỷ niệm quân trường, tình huynh đệ chi binh, niên trưởng, đàn em. Chẳng còn gì. Trước mắt là phải làm sao cho được về sớm để làm lại cuộc đời.
Dương nói:
- Thôi anh, bây giờ mình đã thua trận rồi. Mấy ông lớn, đàn anh của mình đã cao bay xa chạy, mình cũng đừng nhắc lại chuyện ngày xưa làm chi, mình coi nhau như bạn là được rồi.
 
Khả hơi hụt hẫng một tí. Một tí thôi. Vì anh cũng đã biết về Dương, trong số những đàn em khóa sau, truyền miệng nhau, Dương ra trường bon chen đủ mọi chuyện về chức vụ, quyền hành, tiền bạc. Đủ mọi chuyện. Tuy là con một mẹ, nhưng có đứa này, có đứa kia, làm sao mà nói được. Khả trở lại chuyện học tập:
- Dương tiếp xúc với quản giáo, mấy ông có cho biết ngày nào mình bắt đầu học tập không?
Dương trả lời rất tỉnh:
- Bao giờ thì bao giờ, tôi chẳng có gì lo lắng cả.
Câu nói của Dương khiến Khả hơi thất vọng. Một điều là, những suy nghĩ, lo lắng là những lo lắng chung. Hỏi nhau để biết, để chia xẻ. Câu trả lời của Dương làm Khả cụt hứng. Sao Dương thay đổi ý chí mình mau quá vậy! Nhớ những ngày còn tại quân trường, những đàn em như Dương, gặp niên trưởng khóa đàn anh ở đâu cũng phải chào kính, nói năng lễ phép. Bây giờ thì “giậu đổ bìm leo” mất rồi.
 
Trời đã ngã màu đen, tất cả các anh em đi qua đi lại trên các con đường hay tụ họp tại Ngã Tư Quốc Tế từ từ rút vô “chuồng”, như một đàn bò, đàn gà, đàn súc vật, đến giờ là vô chuồng ngủ.....
Đến ngày thứ mười mà vẫn biệt vô âm tín chuyện đi về.
 
Về! Sao tiếng gọi dễ thương quá mà chẳng bao giờ có trong đời của những người trình diện. Họ như những nhân vật trong những vở hài kịch hay những vở xiếc. Ngơ ngác, ngây ngô, tin tưởng một chuyện không bao giờ có thật. Khi chiếc lưới bủa ra để hốt một mẻ cá lớn thì đừng hòng. Những người chiến thắng đã trả lời một câu rất nhẹ nhàng: “Có câu nào trong bản thông cáo nói là đi học tập cải tạo với thời gian là 10 ngày đâu. Trong bản thông cáo ghi rõ là đem đồ ăn, thức uống, áo quần xử dụng đủ trong 10 ngày, có nghĩa là trong 10 ngày đầu tiên cách mạng chưa lo kịp thì phải cần những vật dụng cá nhân ở nhà mang theo.”Câu trả lời thật “chuẩn” nhưng đã làm anh em chưng hửng. Anh em có một số người đã thất vọng, chửi thề vung vít. “Đồ đểu, đồ chó má.” Câu chửi thề chỉ có tác dụng vào không khí.
 
Ngày thứ mười là ngày đánh dấu niềm tin của anh em đối với “cách mạng”.
Thật rõ ràng là lính miền Nam lơ mơ về chính trị. Đọc về cộng sản chỉ hiểu lờ mờ. Đi lính vì không có con đường nào khác. Đi tác chiến vì không “chạy” được làm việc ở văn phòng. Khi ra tác chiến nắm chức vụ thì phải thi hành lệnh. Cái sứ mạng cao cả như bảo quốc, an dân, trí, nhân, dũng, thành, được đọc lên như những ngôn từ nghe từ lỗ tai này qua lỗ tai kia. Nhưng họ có cái hay là cuộc sống xã hội và gia đình đã tạo thành nếp trong họ những trật tự, những mẫu mực. Như tôn trọng của công, có hiếu thảo với cha mẹ, tình yêu Tổ Quốc. Cái đó như dòng máu đỏ len lỏi trong từng li ti huyết quản của đời sống họ. Nó tự nhiên như cây xanh trổ lá, trổ hoa. Cho nên, dù thất bại trong cuộc chiến, họ vẫn mang cái tâm thức ẩn tàng kia. Những mưu đồ nhỏ nhen, chơi chữ, để đưa họ vào tròng, đã làm trong họ tan loãng đi những niềm tin ban đầu với chế độ mới.
 
Ngày thứ mười là một ngày buồn hiu. Buổi chiều anh em đi lao động về, ăn cơm, tắm rửa xong là đi lòng vòng trên những con đường chung quanh Ngã Tư Quốc Tế. Nét mặt tươi hồng của một số anh em sau 10 ngày dãi dầu ngoài hiện trường đã biến thể. Sạm đen. Áo quần đem theo phải mặc để đi làm cũng lấm lem. Quần áo mặc đi chơi, đi dự học tập, theo họ nghĩ, là áo quần dân sự bảnh bao, mà bây giờ đem “cày” ngoài hiện trường. Đào đất, khiêng PSP - đó là những tấm vỉ sắt lớn ở phi trường trực thăng dã chiến Trảng Lớn. Dọn dẹp và phá đi những hầm trú ẩn của lính Mỹ bỏ lại, phá những hàng rào kẽm gai dày đặc, dù chỉ mới 10 ngày cũng làm áo quần te tua. Họ bắt đầu tìm cách “mưu sinh thoát hiểm”. Đó là lấy những cái bao cát còn xài được để may những cái mũ, trước tiên là đội che nắng. Rồi cũng bằng vải bao cát, họ may những cái quần đùi để thay đổi cho những cái quần đã rách. Rồi đến cái áo, cái quần dài mặc đi lao động. Mốt thời trang bằng bao cát được phát động rầm rộ trong cả trại. Hai ông lớn, một ông giữ chức vụ Tổng Giám Đốc ngân hàng Quốc Gia Việt Nam ngày trước, và một ông là bác sĩ Viện trưởng Viện Đại Học Y Khoa SG, đã đấu đá nhau, giành qua giựt lại, dằng co nhau, vì một cái bao cát, trong một buổi đi lao động bên ngoài. Hai người nhìn thấy cái bao cát cùng một lúc nên không ai nhường ai, suýt đánh lộn. Đó là hoạt cảnh đầu tiên.
Đi với Niệm trên con đường trong khuôn viên những lán trại. Soại nói:
- Như vậy là tụi mình hết hy vọng trở về sau 10 ngày. Đôi lúc mình nghĩ không thể về được, nhưng rồi lại cố tin.
Niệm nói, giọng đầy những băn khoăn:
- Với mình thì không sao nhưng lo cho vợ con quá. Mình cũng thật dại dột khi để vợ con ở lại Sài Gòn. Vợ mình người quê Bình Định, đâu có rành đường đi nước bước ở Sài Gòn. Bây giờ mình về không được, không biết tính sao đây?
Soại an ủi bạn:
- Thôi, có lo lắng cũng chả được gì, mình đang ở trong rọ của tụi nó mà.
Soại nhìn bạn kỹ hơn. Mới 10 ngày mà Niệm đã xuống sức thấy rõ. Gầy và đen. 3 ngày đầu đám tập trung còn được cho ăn gạo tốt. Đến ngày thứ tư thì khi đi lãnh thực phẩm, người “anh nuôi” thấy gạo có mùi mốc, cầm lên tay toàn cám mục. Gạo chỉ còn lại xác khô, hết chất.
Người anh nuôi khiếu nại, được cán bộ hậu cần trả lời:
- Các anh ăn đỡ, đây là gạo Trung Quốc tiếp tế cho bộ đội ta. Từ bắc chuyển vào Nam chất ở kho trên núi, bộ đội ta chưa ăn đến thì đã giải phóng Sài Gòn. Bây giờ các anh ăn gạo này tuy là hơi mốc nhưng còn hơn lúc chúng tôi chiến đấu trong rừng, chỉ có ăn khoai củ và uống nước lã.
 
Anh em tập trung ăn gạo mốc, không có chất B1, thịt ai cũng loãng ra rồi sưng lên, lấy tay bấm vào thì không trở lại bình thường mà lõm sâu vào. Phù thủng. Ai cũng thấy như mình yếu oặt ra, ngồi không muốn cử động.
 
Soại bị phù thủng. Người anh tự nhiên thấy yếu hẳn đi, làm việc, cuốc đất hay khiêng đồ, chỉ một chặp là thấy mệt, mắt đổ đom đóm. Niệm cũng bị phù thủng nhưng đỡ hơn Soại. Niệm chỉ đen và gầy hơn. Niệm nói:
- Mình đi không đem theo thuốc men gì, anh em có cho mình một ít viên B1, để mình chia cho Soại mấy viên. Loại thuốc này uống vào thì đỡ phù thủng.
Soại cảm động vì lòng tốt của bạn. Gió chiều hiu hiu se lạnh. Mặt trời thấp thoáng ở phương tây chiếu những tia nắng vàng úa cuối ngày. Gió mát thổi về từ hướng đông làm dịu đi cái khô rang của một ngày mùa hè. Anh em tập trung từ từ đi về lán trại của mình. Đi loanh quanh, tán chuyện gẩu, nghe đài phát thanh ong ỏng nói, ong ỏng hát những bài ca với âm vực cao làm chói tai. Tất cả rồi cũng chán.
 
Đài phát thanh lúc nào cũng oang oang, chính sách của cách mạng trước sau như một. Như một, như một, nghĩa là không thay đổi, là khoan hồng, độ lượng, dẫn dắt những người «lầm đường lạc lối» trở về với nhân dân, với dân tộc. Nhưng 10 ngày chỉ là đem đồ dùng xử dụng đủ 10 ngày. Chứ có chữ nào ghi trong bản thông cáo nói là thời gian học tập là 10 ngày đâu. Biết không?
 
Niệm và Soại vào phòng, vừa nằm xuống chỗ nghỉ của mình thì nghe một tiếng bùm thật lớn đâu bên dãy doanh trại bên kia. Tất cả anh em trong lán im lặng nhìn nhau. Một chốc có tiếng người nói:
- Chuyện gì đã xảy ra bên đó vậy?
- Tiếng nổ của lựu đạn.
Không ai biết. Tiếng nổ rền của lựu đạn. Anh em toàn là sĩ quan nên chuyện phân loại tiếng nổ của vũ khí rất dễ dàng. Có thể là vệ binh làm sẩy chốt lựu đạn hay có thể là khu vực trại bị tấn công. Không ai đoán ra cả. Anh em, một số còn ngồi uống nước lạnh đun sôi, cũng dẹp đồ đoàn đi ngủ.
 
Hôm sau, đi lao động ngoài hiện trường, anh em truyền miệng nhau. Đêm hôm qua, dược sĩ Mai Gia Thược đã tung lựu đạn tự tử, vì biết mình đã lầm khi đi trình diện tập trung.
 
Soại cũng biết niềm tin 10 ngày học tập của mình cũng bị xói mòn. Anh không còn hăm hở về ngày về nữa. Anh nghĩ, ít nhất cũng ở đây cũng 3 tháng hay 6 tháng, chứ không thể ngắn ngày được. Anh an tâm đôi chút với suy nghĩ của mình. Dù gì thì vợ con anh cũng đã về quê. Cái gánh nặng như được trút đi một phần.
Trần Yên Hòa
-------------------------

 
----------------

Kim Ân
MIỀN NAM.
Đi chiến đấu mấy mươi năm giữ đất
Đất miền Nam ... đất đó, có tự do
Đất miền Nam ... trong đó, có ấm no
Có chính phủ, công nhận quyền: Tư Hữu!
Ai xâm lăng . . ai là người mắc mướu
Xẻ núi rừng đi cứu nước cho ai?
Vạn xác thân không nguyên vẹn hình hài
Nghèo đất nước, thêm tiêu hao nguyên khí.
-"Năm tấn thóc mẹ để dành đánh Mỹ
... đất quê ta không ngơi nghỉ một ngày..."
Bao nhọc nhằn oằn xuống nặng hai vai
Tóc bạc phết chờ chồng con - hóa đá!
Người lính biết suy tư ... việc hệ quả
Đất hai miền "hiệp định" ghi rõ ràng
Chủ nghĩa xã hội ... miền Bắc thiên đàng
Quyền Tư Hữu, miền Nam đang phát triển.
Nước biển có bao giờ lấn nước giếng
Mang trong tim máu đỏ, tình đồng bào
Gây tang thương nước mắt thấm trời cao
Miền Nam... bãi chiến trường nghi ngút khói.
Người lính biết suy tư, thử tự hỏi
Súng trên tay đâu có phải của mình
Dựa phương bắc để tột đỉnh quang vinh
Đánh Tư Hữu miền Nam ra tan nát...
Cách mạng vô sản ngày ngày ca hát
Kẻ thù xưa thắm thiết tựa anh em
Quên nỗi đau nghìn năm đắng cay thêm
Người lính biết suy tư sẽ hối lỗi!
Cả dân tộc đã nhận ra tăm tối
Ải nam quan cho đến tận biển đông
Người lính biết suy tư hẳn đau lòng
Tiếc một thời nhiệt tình đi cứu nước.
Lính miền Nam có khi nào làm ngược
Xua đoàn quân đi vượt tuyến bao giờ Giữ miền Nam đã mệt mỏi, xơ rơ...
Mơ thanh bình, đâu cần chi Bắc tiến.
Mấy mươi năm đứng cúi đầu thầm lặng
Thân đầu hàng ... tù... bỏ xác trên non
Tình đồng bào hy vọng cũng không còn
Dù sống sót cũng làm dân tứ xứ.
Phiên tòa nào minh oan giòng lịch sử
Việt Nam Cộng Hòa sống mãi với nước non
Việt Nam Cộng Hòa nghìn năm vẫn còn
Bởi miền Nam ... đã hưởng quyền Tư Hữu.
Ai xâm lăng ai là người mắc mướu
Xẻ núi rừng đi cứu nước cho ai
Theo vô sản, mơ miền Nam dài dài
Tội tình chi ... nền Tự Do... phải chết!
Xẻ núi rừng bao năm ...lại mê mệt
Từng bước đi, theo "Kinh tế Thị Trường"
Mấy triệu người nằm xuống quả đau thương
Tìm "lý tuởng" cái giá đà quá đắc!
Người lính biết suy tư còn thắc mắc
Vô sản toàn thế giới ...nay ở đâu
Bách chiến bách thắng ...im lặng đã lâu
Những pho tượng cũng trở về bụi đất.
Những sự thật sẽ trở về Sự Thật
Người lính biết suy tư phải đi tìm
Xác chiến binh Nam Bắc !....còn lãng quên
Gom hết lại cho một ngày thăm viếng.
Ai bán nước nghìn thu còn mang tiếng
Lửa Diên Hồng hừng hực vẫn còn đây
Bao tội ác tày trời ai đã gây...
Sẽ sáng tỏ nơi phiên tòa chung cuộc.
KIM ÂN
--------------------
 
KẺ TRƯỚC NGƯỜI SAU, LẦN LƯỢT RA ĐI
 

Nguyễn Thu Lan
XẾP HÀNG TRƯỚC LÃNH SỰ QUÁN TP HCM ,CHỜ PHỎNG VẤN ĐI MỸ.
Thu Lan Nhìn dòng người xếp hàng bên ngoài để vào Lãnh sự quán Mỹ - Sài Gòn , chờ phỏng vấn nhẹ nhàng đơn giản , thấy vậy mà không phải vậy!
Thực ra là rất vất vả mệt mỏi …mà Thu Lan là người trong cuộc đã từng trải qua!
 
Khi có giấy mời gọi đi phỏng vấn ở tòa Lãnh sự quán , mặc dù có giấy hẹn ngày giờ được phỏng vấn .Nhưng tâm lý người VN luôn sốt sắng nôn nóng muốn đi trước giờ hẹn càng sớm càng tốt để lấy số thứ tự đầu tiên từ 1-10 là vui.
 
Những người ở các tỉnh lẻ vô Sài Gòn chờ phỏng vấn , họ thuê khách sạn , phòng trọ ngủ trước 1 đêm , người nghèo thì thuê chiếu của mấy người bán cà phê vỉa hè, họ trải dưới lề đường để ngủ qua đêm, sáng mai dậy cho sớm mà rút số thứ tự phỏng vấn.
 
Đối diện bên kia đường là Lãnh sự quán Mỹ số 1, trên đường Lê Duẩn.Q1 .SG .( tên cũ là : ( Boulevard Norodom (1871) Đại lộ Thống Nhất (1955) Đường 30 tháng 4 (1975) Đường Lê Duẩn (1986)cho tới nay.
 
Sứ quán Mỹ làm việc lúc 9 giờ sáng tới 5 giờ chiều.(12 giờ trưa nghỉ 1 tiếng).Từ thứ 2 tới thứ 6 . Thứ 7 và Chủ Nhật nghỉ làm việc.
 
Mọi người ngồi chờ bên này lề đường , tới 8 giờ sáng , bên hông hàng rào tôn xanh của LSQ Mỹ có trổ một cửa phụ tạm bợ , anh bảo vệ mở ra , thì dòng người cầm túi xách , cặp táp đựng hồ sơ bảo lãnh, bên này lề đường chạy ào ào qua như đàn vịt xông vô cửa đó … chạy vô lọt cửa rồi ,thì đó chỉ là một bãi đất bằng phẳng , trên lợp mái tôn che mưa nắng …
Anh bảo vệ hô to : Mọi ngươi yên lặng trật tự , xếp làm 2 hàng :
- Người đi phỏng vấn du lịch xếp riêng một hàng .
-Người phỏng vấn đi định cư xếp riêng một hàng .
Đám người đông đúc cỡ 100 người tự động tách ra rất nhanh chóng theo yêu cầu của anh bảo vệ . Anh dẫn 2 hàng người đi theo anh vào khu nhà làm việc của Mỹ cách khoảng 100 mét, vào gần đến nơi phỏng vấn thì chia ra 2 ngã rẽ , có bảng chỉ dẫn :
- Đi du lịch rẽ phải .
- Đi định cư rẽ trái .
Đi vào 2 khu này có mái che , có ghế ngồi và quạt mát, hàng chục camera gắn trên trần nhà và tường phát trực tiếp lên hàng chục cái tivi ở phòng mình đang ngồi chờ … mình cử động, đi lại hay nói gì đủ lớn ,đều bị quay phim và ghi âm hết .Cho nên chẳng ai dại gì sơ suất mang họa vào thân , chỉ ngồi im re hoặc nói chuyện người kế bên thì thầm nho nhỏ đủ nghe .
Mỹ họ phỏng vấn rất nhanh , chỉ khoảng 5 phút là xong.Cộp cái dấu visa “được phép nhập cảnh” . Hoặc đóng dấu “ không được nhập cảnh “. Rồi trả lại hộ chiếu cho mình .
Nhìn mặt mọi người là biết ngay ai đậu ai trượt.
- Người đậu thì tươi cười hớn hở .
-Người trượt thì suýt khóc vì buồn lo …
Thu Lan và chồng phỏng vấn một lần là đậu ngay , đậu định cư đi Mỹ ,trước lễ Quốc Khánh Mỹ 7 ngày . Trong visa nhập cảnh Mỹ, có thời hạn chỉ được lưu ở VN chuẩn bị 2 tuần , nếu quá 2 tuần không bay qua Mỹ làm Thẻ Xanh, thì hồ sơ phải bảo lãnh trở lại , xếp hàng hồ sơ, chờ đợi phỏng vấn tiếp .
Đọc lời dặn mà thấy sợ quá ! Chồng thì đang làm việc cơ quan , vội viết đơn xin nghỉ phép về quê vợ xây mộ cha mẹ . Lý do vậy để không ai chú ý gì .Hàng xóm cũng không biết đi Mỹ.
Thế là 2 vợ chồng xách 2 va ly xách tay nhỏ loại 7 kg , vài bộ quần áo và giấy tờ đi Mỹ .
Nói với hàng xóm đi phép về Huế một tháng.
Lên đường bay sang Mỹ ,đến cửa khẩu Mỹ lăn tay, chụp ảnh chân dung đủ các góc cạnh khuôn mặt, nhập cảnh và làm THẺ XANH ngay tại cửa khẩu đầu tiên . Họ cấp giấy biên nhận làm Thẻ Xanh và nói : cứ về tới nhà chờ , 3 tuần sau sẽ có tấm car Thẻ Xanh gửi qua bưu điện về tận nhà.
 
Đúng 3 tuần sau , 2 vợ chồng có 2 tấm thẻ xanh về tận thùng thư nhà con gái .Hai vợ chồng vội vàng về Sài Gòn ,cũng bằng hộ chiếu Việt Nam. 
 
Chồng sắp xếp công việc cơ quan, bàn giao cho người mới và làm đơn xin nghỉ việc để xuất cảnh đi Mỹ .Cơ quan có đãi tiệc chia tay và tặng quà rất giá trị : lắc vàng đeo tay, tranh ảnh quê hương Việt Nam , quần Tây áo sơ mi mới, hàng cao cấp VN , ví da , nón mũ , thắt lưng , cà vạt vv…
 
Mọi việc suôn sẻ trong một tháng và 2 vợ chồng bay qua Mỹ trước lễ độc lập, được nhìn thấy nước Mỹ bắn pháo hoa rợp trời suốt sáng … Các hộ dân họ mua pháo hoa và lần lượt bắn lên bầu trời trong đêm thật là đẹp, nhiều cảm xúc rung động năm đầu tiên, những ngày đầu tiên đến Mỹ ! Mới đó mà đã gần 20 năm rồi!

Cám ơn con gái đầu bảo lãnh ba mẹ tới Mỹ định cư ! Cám ơn nước Mỹ mến yêu và thân thiện!
Thu Lan .
--------------------
 
Son H Cao
Phan Rang, Nỗi Hờn Di Tản
Lạc Long Huỳnh Quốc Phú.

Thân tặng tất cả các chiến hữu Lạc Long, để ngậm ngùi tưởng nhớ một thời oai hùng lẫn cay đắng.
LỜI NÓI ĐẦU:
Đã ba mươi mấy năm rồi, nỗi hờn di tản tưởng đã phôi phai. Nhưng không, cứ mỗi “tháng tư đen” về, vết đau lại nứt ra. Chuyện ngày xưa vẫn lảng vảng trong đầu những người đã từng đóng góp xương máu trong cuộc chiến. Càng già niềm đau càng âm ỉ. Tôi muốn ghi lại những gì đã xảy ra, nhưng đã bao nhiêu lần ngồi trước keyboard mà chẳng viết được gì. Đánh được vài ba chữ, cổ họng thấy mặn đắng.
 
Cho đến bây giờ, lịch sử đã mở ra: trong khi đồng minh bỏ chạy, súng đạn của ta cạn dần, bọn VC lại bán nước để lấy thêm vũ khí. Vết đau tuy thuyên giảm vì có lý do xoa dịu mặc cảm người thua trận, tuy nhiên nó vẫn không lành hẳn.
 
Đôi lúc tôi lẩm cẩm nghĩ rằng: phải chi quân dân miền nam bán Hoàng Sa và Trường Sa cho “Đế Quốc Mỹ,” thì kẻ được giải phóng phải là miền bắc chứ không phải miền nam. Dù sao “Đế Quốc Mỹ” cũng không đến nỗi giết hại ngư dân mình nếu họ đi lạc vào những hòn đảo này, nghĩ tiếc thay!!!
Mỗi người một câu chuyện, nhưng cùng một niềm đau…

Ngày 10 tháng 3 năm 1975, chỉ trong một đêm, Ban Mê Thuột mất vào tay việt cộng. Những người lính trấn thủ miền cao nguyên lại phải vất vả đánh đuổi quân thù để chiếm lại vùng đất đã mất.
 
Trung Đoàn 44 và 45 thuộc Sư Đoàn 23 bộ binh được di chuyển cấp tốc từ Pleiku về Ban Mê Thuột để giải cứu bản doanh của họ. Chiến trường tây nguyên bùng nổ lớn, tuy nhiên, đối với những người lính tác chiến, chuyện đánh giặc là chuyện xảy ra hàng ngày, suốt bao nhiêu năm trời, chiến tranh có bao giờ ngừng đâu mà phải hốt hoảng, giặc tới thì ta đánh thế thôi.
Mặt trận Ban Mê Thuột hứa hẹn gay go, những người lính Sư Đoàn 23 và Biệt Động Quân sẵn sàng tiến vào chiếm lại thành phố này. Nhưng rồi một cái lệnh quái đản từ Quân Đoàn 2 ban ra: “Pleiku di tản chiến thuật.”
Ô lạ chưa, Pleiku có bị đánh đâu mà phải di tản? Chẳng lẽ chỉ vì một vài trái đạn pháo kích mà cả một Quân Đoàn lại bỏ chạy?
 
Cũng vì cái lệnh quái đản đó mà hàng trăm ngàn quân dân nhốn nháo đổ xô về Qui Nhơn, Tuy Hòa và Nha Trang. Cuộc hành trình đã gây nên bao nỗi đau thương và uất hận cho mọi người. Chiến tranh quả thật là tàn khốc. Hàng vạn người tranh nhau để tìm đường sống, đã gây nên bao cảnh tượng tang thương mà lần đầu tiên trong đời tôi nhìn thấy. Tôi không thể tưởng tượng được mạng người sao lại rẻ mạt như đám bèo trôi giữa giòng sông!
 
 
Cũng như những đơn vị khác của Sư Đoàn 6 Không Quân, Phi Đoàn Trực Thăng 229 của tôi được lệnh di tản về Nha Trang.
 
Pleiku, thành phố buồn nằm trên cao nguyên, xứ của lính và những người liên hệ đến lính. “Đi dăm bước trở về chốn cũ”, bài thơ được phổ nhạc đã diễn tả chính xác cái phố núi này. Ngày thuyên chuyển ra đây, tôi cứ tưởng rằng đã đến một nơi tận cùng bằng số, nhưng không ngờ trong những giây phút cuối cùng tại đây, từ trên cao độ một ngàn bộ nhìn xuống, một niềm cảm xúc lưu luyến dạt dào dâng lên mà chính tôi cũng không ngờ nó đã làm mắt mình ươn ướt. Tôi có linh cảm là sẽ không còn dịp trở về nơi nắng bụi mưa bùn, nơi của những con người vì chiến tranh gặp nhau ở đây. Một năm qua, chỉ ở đây mới có một năm thôi mà cảm tình của tôi đối với cái thành phố cao nguyên này đã nẩy nở một cách sâu đậm. Pleiku thân thương, thành phố mang nhiều kỷ niệm những ngày cuối cùng trong cuộc đời binh nghiệp của tôi.
 
Đơn vị của tôi về đến Nha Trang, nhưng vì căn cứ này quá chật hẹp, nên một tuần sau lại có lệnh di chuyển xuống Phan Rang. Ngày rời Pleiku, tôi đã cố gắng đem được hầu hết vật dụng về Nha Trang, nhưng ngày rời Nha Trang xuống Phan Rang tôi đành bỏ lại tất cả những bàn ghế bằng gỗ quý đã tậu được ở Pleiku. Tiếc lắm, nhưng làm thế nào được, vả lại của cải là vật ngoại thân, bỏ đi để cho nhẹ gánh, mình còn nhiều việc quan trọng hơn phải lo.
 
Phan Rang, quê hương của Tổng Thống Thiệu. Một thành phố hiền hòa nằm cạnh bờ biển. Phi trường Phan Rang rộng lớn. Sau vài ngày sống tạm trong một cư xá chật hẹp, chúng tôi được cấp phát cho một cư xá khang trang hơn. Sau khi rời Pleiku, đây là lần đầu tiên chúng tôi có được một chỗ ở riêng biệt, chả bù cho những ngày còn ở Nha Trang, tất cả nhân viên Phi Đoàn 229 đều sống lăn lóc với những tiện nghi rất eo hẹp. Mọi người hăm hở sửa soạn chỗ ở và chấp nhận Phan Rang làm quê hương mới cho mình…
 
 Tình hình chiến sự từ các mặt trận thay đổi nhanh chóng. Những thành phố từ Quảng Trị trở vào lần lần mất vào tay quân địch. Nói đúng ra là tất cả những đơn vị chiến đấu đều được lệnh rút lui một cách vội vã trong khi địch quân chưa tới. Hơn nữa, có nhiều thành phố việt cộng không có ý định tấn công, mình lại tự động rút lui bỏ ngỏ.
 
Tôi là một người lính chuyên nghiệp, mặc dù với một cấp bậc nhỏ bé, nhiệm vụ của tôi chỉ biết thi hành mệnh lệnh chứ không có nhiều thắc mắc. Nhưng vì cứ lui binh mãi, lòng tự ái của người lính tác chiến bị xúc phạm. Sự tức tối vì cứ phải lui binh, cộng với những hình ảnh đau thương của người di tản đã nhiều lúc làm tôi như một người điên. Hôm Đại, người cơ phi của tôi bị thương vì việt cộng bắn trong lúc đang cứu người di tản, việc này làm tôi không còn bình tĩnh nữa. Tôi đã xách khẩu súng lục P38 định bắn vào ổ khóa của nhà tắm khi về đến căn cứ. Nhà tắm này nằm trong cư xá của một số nhân viên cơ hửu đóng tại Phan Rang. Họ đã khóa cửa nhà tắm lại chỉ vì sợ không còn đủ nước khi đơn vị của tôi đến chia xẻ. Đứng trước cửa nhà tắm, tôi giận dữ chửi thề:
“ Đ..M. tại sao lại đóng cửa? Có người nào mở ra không?”
 
Tôi la lớn để mọi người đều nghe. Rất nhiều binh sĩ trong cư xá đó theo dõi hành động của tôi nhưng tất cả đều im lặng. Tôi tức tối nói lớn hơn:
“ Được rồi, nếu không ai mở ra, thì tôi sẽ mở.”
Quay vào trong cư xá, tôi lấy khẩu súng lục P38 trở ra. Lần này với một giọng hằn học hơn tôi cảnh cáo:
“ Đ.M có thằng nào chịu mở không?”
 
Nhiều cặp mắt nhìn tôi chầm chầm, nhưng tất cả vẫn hoàn toàn im lặng. Tôi dí họng súng vào ngay ổ khóa định bóp cò, thì thình lình có người vội vã lên tiếng:
“ Anh đừng có bắn, để tôi mở, tại mấy thằng kia nó khóa lại đó.”
 
Thế rồi anh này vội vã mở cửa nhà tắm ra sau khi đổ thừa là tại một vài người nào đó ích kỷ khóa lại. Lúc đó, tôi thật sự rất cần những gầu nước thật lạnh để gột rửa những tức tối trong lòng mình. Di tản, chết chóc, khổ đau, đói khát.v.v…và sau cùng là đồng đội của tôi đã đổ máu, tôi đã không còn là tôi nữa…

Sau Pleiku, Ban Mê Thuột, rồi đến Quân Đoàn 1 vội vã rút lui. Bây giờ cái lệnh di tản chiến thuật quái đản này thật sự gây hoang mang cho cả mọi người. Làn sóng người hớt hải xuôi nam như một bệnh dịch lan truyền nhanh chóng. Dân và quân không còn niềm tin vào lệnh lạc nữa. Theo tôi nghĩ, mọi người chỉ sợ mình là kẻ bị bỏ rơi, chứ không hẳn là sợ đánh với việt cộng.
Tôi cứ tưởng là lệnh sẽ cho dừng lại tại đây để đánh một trận sống chết với quân thù, nhưng rồi, Qui Nhơn lại được lệnh di tản! Để rồi kể từ đó, Khánh Dương, Tuy Hòa, Nha Trang sụp đổ theo làn sóng người bỏ chạy, trong khi đó Bảo Lộc lại bị áp lực nặng nề và Đà Lạt không còn quân bảo vệ. Tất cả mọi người đều lo di tản về Sài Gòn. Lòng quân và dân hoàn toàn rối loạn. Tin chiến sự thay đổi từng giờ từng phút, ai cũng lo lắng cho gia đình bị bỏ rơi. Phi trường Phan Rang chỉ còn lại những quân nhân thật sự cần thiết để tác chiến. Tất cả gia đình binh sĩ và những phần sở không trực tiếp chiến đấu đều di tản về Sài Gòn. Chiến tranh đã thật sự hiện ra rõ ràng nơi tôi vừa định cư mà thoạt đầu tôi cứ tưởng sẽ là quê hương lâu dài của đơn vị.
 
Trong một đêm của những ngày cuối cùng tại Phan Rang, tôi đã thao thức và hồi hộp suốt đêm. Tôi sợ rằng, đến sáng hôm sau Đà Lạt sẽ bị mất. Tôi sợ gia đình chị tôi và mấy đứa em đang sống tại thành phố này phải chịu cảnh lầm than như những người di tản trên liên tỉnh lộ 7. Tôi không theo đạo Chúa hay Phật, nhưng tôi đã cám ơn Chúa Phật rất nhiều vì đến ngày hôm sau, Đà Lạt vẫn chưa lọt vào tay việt cộng. Nhờ chuyến bay của một đơn vị bạn, tôi lên Đà Lạt ngày hôm đó, với ý định: đuổi gia đình bà chị về Sài Gòn bằng mọi giá. Tôi sợ rằng bà chị của tôi không chịu đi vì tiếc rẻ cái tài sản to lớn mà vợ chồng bà khổ công tạo dựng. Tôi sợ lắm vì cảnh đau thương của những người di tản đã hằn sâu vào đầu tôi trong mấy tuần qua. Càng sợ hơn nữa, trước đó vài ngày, lợi dụng một phi vụ lấy tàu từ Nha Trang về Phan Rang, tôi đã lén bay lên Đà Lạt và đáp trên nóc nhà bà chị để báo tin di tản. Cứ tưởng rằng bà chị của tôi hiểu được sự khẩn cấp mà về Sài Gòn, nhưng không ngờ mấy ngày sau, tôi được tin cả gia đình bà ấy vẫn còn ở tại Đà Lạt, chẳng ai đi đâu hết…
 
Vừa xuống phi trường Cam Ly, tôi tức tốc đến ngay nhà bà chị với quyết định: nếu chị ấy tiếc rẻ cái gì thì tôi sẽ rút súng bắn bỏ cái đó. May mắn thay, ngày hôm đó cũng là ngày bà ấy rời Đà Lạt. Còn lại một người em gái, tôi định đem em về Phan Rang để tìm phương tiện di chuyển, nhưng khi ra đến phi trường Cam Ly, gặp một chuyến C-130 chở người di tản, tôi đã gửi em về thẳng Sài Gòn. Nhìn chiếc C-130 nặng nề cất cánh mang theo người em của mình, tâm tư tôi cảm thấy nhẹ nhõm. Nhẹ gánh lo gia đình, tôi yên tâm trở về Phan Rang và tự nhủ rằng, dù có phải tử thủ đến giờ phút cuối cùng, tôi cũng không sợ.
 
Sau cùng, việc đáp phi cơ trên nóc nhà bà chị, đã làm cho chị tôi gặp nhiều rắc rối sau khi việt cộng lên nắm chính quyền. Thật ra tôi cũng không muốn làm vậy, nhưng đâu còn cách nào khác, bởi vì tình hình lúc đó rất hỗn loạn, phương tiện truyền thông rất giới hạn, trong khi chiến sự lại thay đổi từng giờ từng phút !
 
Rồi thì việc phải đến đã đến, sau khi Khánh Dương mất vào tay việt cộng, Nha Trang bỏ ngỏ, bây giờ Phan Rang là tiền đồn của cuộc chiến. Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi được cử ra từ Sài Gòn cùng Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang Tư Lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân là hai người chỉ huy bộ tư lệnh tiền phương chống giữ Phan Rang.
 
Thành phần chống giữ phi trường Phan Rang gồm có Địa Phương Quân, Sư Đoàn 2 Bộ Binh, Biệt Động Quân. Nhưng thành phần chủ lực thật sự chỉ có Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù. Những đơn vị khác chỉ là những đơn vị được tập họp lại một cách vội vã sau khi di tản từ những nơi khác về.
 
Không khí chiến tranh càng lúc càng nặng nề. Mọi người chỉ mong rằng mình có thể giữ vững phi trường Phan Rang hầu cản bước tiến của địch quân. Những tin đồn như là: “Ông Thiệu sẽ không bỏ quê hương của ông ta” đã được nhiều người nhắc nhở hầu lấy đó làm niềm tin để sống chết với quân thù.
 
Phi trường Phan Rang vắng lặng, không một hàng quán mở cửa, không một bóng dáng của gia đình binh sĩ, không khí chiến tranh bao trùm lên mọi cảnh vật. Lác đác một vài chiếc xe cam nhông hối hả chạy qua, một vài binh sĩ gò lưng trên chiếc Honda trong trạng thái vội vã. Tình trạng tiếp liệu cho Phan Rang càng ngày càng eo hẹp. Những đàn bò nuôi trong phi trường lần lượt bị giết để làm lương thực cho quân đồn trú. Tình trạng giết bò này lại không được tổ chức một cách hiệu quả, cho nên nhiều con bò bị giết một cách dư thừa, những con còn lại sợ hãi bỏ chạy tán loạn mỗi khi thấy bóng dáng của người. Tôi đã chứng kiến một con bị giết ngay trước cư xá mình, trong tích tắc, cả một con bò to lớn chỉ còn lại một đống xương và một vũng máu bầy hầy, mùi hôi thối nồng nặc xông lên trong cái nóng hừng hực của Phan Rang đã làm mọi người lo lắng.
Trong nhiều tuần liên tục, chúng tôi sống nương tựa vào gạo sấy thịt hộp, không có đồ ăn tươi. Một vài cái mương trồng rau muống quanh khu gia binh đã bị ngắt ăn hết, ban đầu còn ăn lá, sau đó những cọng già cũng bị ngắt ăn luôn.
 
Vào một buổi ăn với lương khô, tôi vất vả nuốt từng miếng cơm gạo sấy, người xạ thủ của tôi móc trong túi áo bay ra một trái cà chua đưa cho tôi:
“Ông thầy, tôi có cái này nè”
Tôi sáng mắt lên cầm lấy quả cà chua non nhỏ xíu, không do dự, bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến. Thú thật là tôi chưa bao giờ ăn một trái cà mà ngon như vậy. Sau khi nuốt mất trái cà quý báu đó, tôi bèn hỏi:
“ Ở đâu mà có vậy?”
“ Ở trong khu gia binh đó ông ơi. Tôi tìm thấy một luống cà, nhưng tất cả đều còn non.”
“ Bây giờ còn không?” Tôi hỏi.
“ Không biết nữa, Ngày hôm qua tôi thấy có mấy người đến hái.”
 
Sau khi ăn xong, tôi vội vã xách Honda chở Một, tên của người xạ thủ, trở lại khu gia binh kiếm thêm. Khi đến nơi, tất cả những trái cà dù lớn hay bé đều không còn. Cả hai chúng tôi chỉ đành hái lá cà về nấu canh. Ngày hôm sau, tôi và Một trở lại lần nữa, nhưng lần này cả hai đều thất vọng, bởi vì cả luống cà đều trụi lủi, một cái lá cũng không còn.
 
Vì ăn uống không có chất tươi, tôi đã bị nổi một cái nhọt to tướng ở ngay thắt lưng. Trong lúc tình hình nguy ngập như vậy, cái nhọt trên lưng quả là một điều đáng ngại. Đứng không thẳng, chạy không được, đã làm tôi lo lắng. Tuy nhiên, Một mới chính là người lo lắng nhiều hơn về cái nhọt của tôi. Một đã trông chờ từng giờ từng phút để ra tay tận diệt cái nhọt ấy. Ngày mà trên đỉnh cái nhọt vừa có một đốm trắng nhỏ xíu, là ngay lập tức, Một bắt tôi ngồi lên ghế với lưng quay về phía trước. Hắn ta đã xử dụng hết mười thành công lực để ép cho bằng được cái cùi nhọt ra. Tôi cắn răng chịu đựng sự đau đớn với hai hàng nước mắt tuôn rơi. Xong việc, tôi cảm thấy nhẹ nhõm như không còn cục đá ngàn cân đè ngang thắt lưng. Vận động chân tay để đo lường sự bình phục của mình, nhìn nét mặt lo lắng của Một, tôi cười nói:
“Chắc được rồi, không còn thấy khó chịu nữa.”
Nét mặt của Một lộ vẻ vui mừng:
“Ông thầy mà chạy không được thì phiền lắm đó.”
Một là người cùng quê, học cùng trường với tôi và sau tôi hai lớp. Không ngờ hai đứa lại gặp nhau ở một cái xứ cao nguyên xa lắc xa lơ, để rồi với tình chiến hữu, nghĩa đồng hương, hai chúng tôi đã cùng sống chết bên nhau trong những giờ phút cuối cùng của cuộc chiến.

Đã mấy ngày liên tục, tụi việt cộng cứ pháo kích ra rả vào phi trường, mọi người đều sống trong tình trạng cảnh giác. Sáng sớm ngày 16 tháng 4 năm 1975, đạn pháo của địch càng lúc càng dồn dập. Tất cả nhân viên của Phi Đoàn 229 đều túc trực ứng chiến tại phi cơ của mình.
 
Bầu trời ngày hôm đó quang đãng, có thể nhìn xa đến mười cây số. Ngay từ 7 giờ sáng, tiếng súng đạn đã vang dội từ xa. Địch quân đang dàn quân tiến chiếm phi trường. Mấy ngày hôm trước ba chiếc khu trục A1 biệt phái từ Sài Gòn ra yểm trợ Phan Rang, hôm nay chỉ còn lại hai, một chiếc đã anh dũng hy sinh trong trận chiến ngày hôm qua. Hai chiếc còn lại đang quần thảo với địch quân trên bầu trời hướng đông bắc. Tôi say sưa nhìn từng chiếc A1 nghiêng cánh sà xuống như những con đại bàng đang bắt mồi, rồi từng chiếc lại chậm rãi ngóc lên, theo sau là một cột khói dựng lên và sau cùng một tiếng nổ vang rền rung chuyển mặt đất.
 
Cùng lúc hai chiếc A1 đánh bom, bốn chiếc trực thăng võ trang của Phi Đoàn 229 và Phi Đoàn 235 thay phiên nhau nhả từng loạt đạn và rocket ngăn chận sự tiến quân của việt cộng. Tiếng rống vang lên từ mấy khẩu mini gun của trực thăng võ trang càng lúc nghe càng gần. Khi vỏ đạn từ những khẩu súng này rớt trên phi đạo tạo thành những tiếng kêu rổn rảng thì thình lình tôi nghe một âm thanh xì xèo xé gió. Kinh nghiệm chiến trường cho biết là một trái đạn pháo kích của địch đang rớt vào vị trí của tôi. Mọi người nhanh nhẹn nằm xuống để tránh sự tàn phá. Một tiếng nổ long trời cách tôi chừng ba mươi thước, quả đạn này trúng vào ụ đổ xăng của trực thăng, đồng thời làm cho Tuấn, người Trưởng Phi Cơ của chiếc trực thăng đậu trước mặt tôi bị thương nặng.
 
Cũng xin nói qua một ít về người phi công với nhiều đặc điểm khác người này: Th/Úy Nguyễn Bửu Tuấn.
Tuấn là đàn em của tôi ở quân trường Thủ Đức, nhưng là đàn anh của tôi ở trường bay. Cả hai chúng tôi phục vụ cùng một đơn vị ở Cần Thơ khi về nước và cùng đổi ra Phi Đoàn 229 Pleiku năm 1974.
 
Hắn ta rất đẹp trai, trắng trẻo như con gái, ăn nói nhỏ nhẹ nên nhiều người tưởng Tuấn là một người nhút nhát. Lầm, ngược lại Tuấn là một hoa tiêu rất bình tĩnh và lỳ lợm.
 
Năm 1971, trong lúc Phi Đoàn 219 chuyển sang bay UH, tôi và Tuấn biệt phái thay thế đơn vị này để đổ Lôi Hổ ở Lộc Ninh. Tuấn là Hoa Tiêu Chánh, tôi là Hoa Tiêu Phó. Mặc dù mặt mũi non choẹt, nhưng Th/Úy Tuấn đã chứng tỏ đầy đủ bản lãnh với phi công của hai chiếc trực thăng Cobra khi những chiến sĩ đồng minh này yểm trợ chúng tôi vào tận mật khu việt cộng ở tỉnh Kratie bên xứ Chùa Tháp. Mặc dù có tài, nhưng cuộc đời binh nghiệp của Tuấn không may mắn: từ ngày về nước mang lon Th/Úy, cho đến tàn cuộc chiến, Th/Úy Tuấn vẫn là Th/Úy Tuấn, không lên một cấp nào cả!
Đối với Tuấn, súng đạn không phải là thứ làm hắn ta hoảng hốt. Trong lúc mọi người tìm chỗ trú ẩn vì đạn pháo kích của địch, hắn ta vẫn bình thản ngồi khảy đàn trên sàn phi cơ của mình, chỉ tiếc rằng, lần này súng đạn không tránh hắn nữa!
 
Sau tiếng nổ kinh hồn và lửa bốc lên vì trúng ụ xăng, tiếng ồn ào phát ra từ phi cơ của Tuấn, một mảnh đạn pháo kích đã đâm vào lưng làm Tuấn gục xuống, máu tuôn ra ướt đẫm áo bay. Cây đàn đã rời tay Tuấn nằm nghiêng ngửa trên mặt đất…Vì vết thương của Tuấn quá nặng, Tr/Úy Xủi, người Trưởng Phi Cơ của chiếc trực thăng đậu bên cạnh vội vã cất cánh mang Tuấn về Phan Thiết cứu cấp…
 
Cũng may, người hoa tiêu tài hoa, lỳ lợm, nhưng thiếu may mắn này chỉ gục một lần, không chết, vẫn đứng dậy hiên ngang cất tiếng hát: “Anh không chết đâu em, anh chỉ vừa ngủ gục đêm qua…” Sau cuộc chiến, Th/Úy Tuấn một lần nữa thoát khỏi ngục tù cộng sản và định cư ở cái xứ “Down Under,” để rồi trong lúc trà dư tửu hậu, chàng có dịp kể lại những oai hùng đời lính cho con cháu mình nghe: chuyện của Tuấn, một chàng trai nước Việt…
 
Sau khi trái đạn làm cháy ụ đổ xăng, địch quân càng pháo kích nhiều hơn. Súng đạn nổ vang trời, địch quân quá đông và tràn ngập phi trường. Những con chim sắt của Phi Đoàn 229 đành đoạn lìa tổ để tránh xa vùng lửa đạn.
Phan Rang đã mất!
Tôi bàng hoàng!
Vẫn không tin là sự thật!
 
Tôi nghĩ là mình có thể giữ được Phan Rang, nhưng tôi đã lầm, trận chiến đã quyết định kể từ khi cái lệnh di tản chiến thuật quái đản ban ra! Một cái lệnh đã làm tan rã ý chí chiến đấu của những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa !!!
 
Tôi không hèn đến nỗi phải bỏ chạy.
Đồng đội của tôi cũng không hèn đến nỗi phải bỏ chạỵ
Chiến tranh đã bao nhiêu năm rồi, người lính miền nam có bỏ chạy đâu? Tại sao bỗng dưng lại bỏ chạy?
Tới bây giờ tôi vẫn không có câu trả lời một cách xác đáng. Tuy nhiên tôi biết là những người lính như tôi không hèn nhát buông súng trước kẻ thù. Bằng chứng:
Trong một chuyến bốc quân và dân di tản từ Ban Mê Thuột về Khánh Dương, tôi đã chửi thề khi thấy một Ông Đại úy Biệt Động Quân trong đó:
“Đ.M mấy cha đánh giặc gì mà cứ bỏ chạy?”
Tôi đã gặp phải phản ứng giận dữ của Ông Đại Úy này:
“Đ.M tụi này đang chiếm lại Ban Mê Thuột thì có lệnh rút lui”
Lúc đó tôi ngạc nhiên, linh cảm một việc trọng đại sắp xảy ra. Nhưng sau đó tôi mới hiểu được những uất hận của một người lính cầm súng mà không được quyền chống trả. Tôi nợ một lời xin lỗi với Ông Đại Úy Biệt Động Quân này.
Than ôi!
Vận nước bấp bênh từ đây!
----------------------
NGƯỜI Ở LẠI
-----------
 ----------
Người phụ nữ tại Hà Nội rạch cắt panno ở Thủ Đo Hà Nội. Có 1 người phụ nữ đội nón, khoát áo màu đen, đeo mask bịt mũi, miệng, đã dùng dao rạch cắt ngay chính giửa tấm pano mừng 50 năm ngày *cưởng chiếm* miền nam VN tại địa điểm treo tấm pano đó ở Thượng Đình, quận Thanh Xiaan, thành phố Hanoi


---------

Khan Đạt Genghis
Từ Chiến Thắng Đến Cô Đơn – Một Chặng Đường Của Những Người Từng Được Tôn Vinh
 
Ngày 30/4 – ngày được gọi là “giải phóng miền Nam”, là thời khắc chấm dứt chiến tranh, mở ra một chương mới cho đất nước. Bức ảnh xưa cũ, nhuốm màu thời gian và cả sự ngây ngô của kẻ chiến thắng. Hai chú bộ đội cụ Hồ trẻ, hồn nhiên ngước mặt lên trời Sài Gòn tháng Tư "giải phóng", ánh mắt rạng ngời niềm kiêu hãnh "vô bờ bến". Họ đứng giữa vòng vây những người dân miền Nam, có lẽ đang cố gắng "tiếp thu" một thứ "lý tưởng" mới toanh. Khuôn mặt họ tràn đầy tự hào về "miền Bắc xã hội chủ nghĩa", về những "viễn cảnh tươi sáng" mà Đảng hứa hẹn sẽ mang đến cho "đồng bào miền Nam ruột thịt". Nhìn họ lúc ấy, ai mà nghĩ được tương lai sẽ khắc nghiệt đến nhường nào.
 
Nhưng hôm nay
, bức ảnh thứ hai khiến người xem lặng đi.
Cũng hai chú bộ đội cụ Hồ ấy – giờ là những cựu chiến binh già nua, bộ quân phục sờn vai, chiếc huân chương chiến thắng lấp lánh ngày nào giờ như chỉ còn giá trị hoài niệm. Họ không còn được đứng giữa quảng trường để diễu hành. Họ đứng bên lề đường, trước cơ quan tiếp dân – nơi mà họ đi tìm lại công lý vì bị… chính quyền lấy đất. Trên tay là biểu ngữ kêu oan. Trên gương mặt là nét nhọc nhằn của năm tháng, và nỗi buồn của sự bội bạc.
 
Không một đồng đội nào đứng bên họ. Không một chính quyền nào ra tay giúp đỡ. Những tiếng vỗ tay rền vang năm xưa giờ im bặt.
 
Phải chăng đây là hệ quả của một cơ chế “qua cầu rút ván”? Phải chăng, trong lễ hội pháo hoa tưng bừng kia, không ai còn nhớ đến những người từng liều mạng để tạo ra ngày "chiến thắng" ấy?
 
Đảng đã tổ chức một ngày 30/4 linh đình. Nhưng trong khi đó, có những bộ đội cụ Hồ ngày xưa – những “người hùng” từng được tung hô – nay lại bị xem như gánh nặng, thậm chí bị coi là “phản động” khi dám lên tiếng đòi quyền lợi hợp pháp.
 
Lịch sử không bao giờ mất đi. Nhưng cách người ta đối xử với quá khứ lại thể hiện rõ nhất nhân cách của hiện tại.
 
Nếu một quốc gia không biết trân trọng những người từng hy sinh vì nó – thì mọi khẩu hiệu kêu gọi “đền ơn đáp nghĩa”, mọi tấm huân chương lấp lánh kia… liệu còn ý nghĩa gì?
Nhật Ký Yêu Nước
--------
 

No comments: