Saturday, April 5, 2025

Những ngày tháng không quên - Nguyễn Khôi Việt

Những ngày tháng không quên.
Nguyễn Khôi Việt

Những ngày tháng Tư đúng là không quên được. Hàng năm cứ vào khoảng thời gian này, luôn trong lòng thôi thúc tôi viết một cái gì đó, nhưng bao điều đã viết ra hết rồi. Đành lấy bài viết xưa post lên đây, để chúng ta nhìn lại, và có thể, nhỏ chút nước mắt khóc thương cho miền Nam xinh đẹp của chúng ta đã lọt vào tay Cộng Sản.
----------------
 
--------------------
 
Ngày 24 tháng 4 năm 1975
Buổi sáng, trời còn tối đen đã ba lô súng đạn lên GMC đi về hướng Trảng Bàng, Tây Ninh, nửa đường thấy pháo 130 ly nổ dọc theo quốc lộ, nó bắn để thị uy chứ xóm ấp hai bên đường đâu có đơn vị bạn nào ở đó, chỉ trúng sập nhà chết dân thôi.
 
Tiểu đoàn đổ quân xuống Lộc giang để giải toả xã này. Nếu không được thì một đại đội của tiểu đoàn bạn nằm ngoài trại Tân Hoà cạnh bờ sông Vàm Cỏ Đông sẽ đi đứt vì mấy ngày nay bị pháo dữ lắm. Thằng em cũ của mày đấy. Chắc mày mắc nợ nó. Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng nói. 
 
Đoàn văn Tiến- Tiến râu - đại đội phó của tôi trước kia, bây giờ qua làm đại đội trưởng của tiểu đoàn khác, lòng vòng rồi cũng gặp nhau. Nó bị vây mấy ngày rồi. Nghe nó báo qua máy truyền tin. Pháo dữ lắm anh, anh không vô được chắc mấy thằng em bị thương hôm giờ chết hết quá. Quên nói nó cũng là anh em kết nghĩa với tôi. Dân Huế, râu quai nón, uống rượu bằng tô. Ngang tàng không ai bằng. 
 
Buổi chiều tối. Tiến quân qua cánh đồng ruộng khô bị khựng lại, liên đoàn báo xuống trên hướng tiến quân có đồn nghĩa quân bị đóng chốt ngay bên ngoài vòng rào, chỉ có hai ba chốt thôi nhưng mấy anh nghĩa quân chịu trận không ra được. Tiểu đoàn trưởng nói đào hố nằm. Đêm xuống, ông kêu bên trong đồn nằm yên không được nhúc nhích bắn chác gì hết. Ngoài này ông đích thân cầm ống dòm hồng ngoại tuyến chỉ huy trung đội thám báo bò vào đánh lựu đạn.
 
Ngày 25 tháng 4
Cả tiểu đoàn nằm lại bố trí chờ cho dân trong xã chạy ra, không nhiều lắm vì tụi nó kềm chế, không cho dân di tản. Nhưng vẫn phải chờ vì nếu vào sẽ đụng lớn, chỉ chết dân thôi. Lúc này pháo 130 li từ hướng Đức Huệ bên kia sông bắn qua, và từ Chà Rầy mật khu Bời Lời bắn tới. May sao từ sáng đến giờ chưa có em nào bị dính miểng. Pháo 130 li miểng nào miểng nấy bằng cái tô. Có điều họ cũng không bắn vào trong xã. Chắc tại họ đặt bộ chỉ huy trong đó, còn những đám chốt quanh làng bắn AT3(hoả tiễn chống tăng) và 82 không giật ra như mưa. ĐM...chắc hồi nào giờ tụi nó không được bắn. Lính chửi đổng. Từ đầu tháng đến giờ trời không mưa, nắng đổ lửa trên đầu.
 
Không có đường nào đánh ngang hông. Cả tiểu đoàn tiến theo hình chân chim vào mục tiêu. Pháo nhiều quá. Dễ chừng có đến ba vị trí pháo 130 li đang thả dàn bắn TOT( time on target) vào chúng tôi. Lên được chút nào thì đào hố nằm lại chịu. Hai cây 155 của sư đoàn 25 nằm ở sân banh gần thánh thất Cao Đài bị pháo trúng nổ tan tành, pháo 105 của quận Trảng Bàng cũng bị không khá gì hơn. Bây giờ chỉ còn đánh bằng hoả lực cơ hữu và tác chiến cá nhân mà thôi.
 
Ngày 26 tháng 4
Đào hố cá nhân nằm hai bên con đường, pháo bắn lai rai dọc theo đường và bìa xã từ sớm đến giờ. Bây giờ thiếu tá tiểu đoàn trưởng bận rộn với dàn hoả tiễn của "ngài" để phản pháo lại vị trí của mấy cây 130 li từ bên kia Vàm Cỏ Đông bắn qua. Hoả tiễn xin bên mấy xếp của Không quân. Phóng bằng ống phóng của trực thăng đặt trên xe Dodge. Hôm đóng quân trong nhà máy đường Hiệp Hoà năm trước, ông chỉ tấm bảng đồng ghi tên vài nhân viên trong nhà máy. Mày nhớ chỗ này nghe. Kiếm cho tao cái cưa sắt. Làm gì thiếu tá. Ăn trộm chứ làm gì mày. Đêm đó hai anh em ngồi cưa được một miếng lớn bằng hai bàn tay. Mấy hôm sau ngài ngồi hì hục mài đục dũa cả ngày. Sau đó ông hớn hở đưa tôi xem công trình hoàn tất là một bảng chia độ cái máy nhắm tự chế cho giàn phóng hoả tiễn của ông. Bắn xa vài cây số không biết sai lệch ra sao. Chứ lúc đánh "chốt, tầm xa 4,5 trăm thước bắn không trật chút nào. 
 
Trong khi người dân chạy tán loạn từ Tây Ninh về Sài Gòn, thì em chạy ngược dòng người, một mình một xe lên kiếm chồng. Không biết làm sao mà cũng mò ra hậu trạm. 
 
Trung uý Trình- đại đội trưởng Chỉ Huy Công Vụ chở em đến chỗ tôi đang bố trí quân. Đang pháo thế này mà chạy xe lạnh mỏ ác quá. Trình càu nhàu. Ông đặc biệt lắm thiếu tá mới để bà ấy vô chỗ này đó.
Nhảy xuống hố cá nhân ngồi nói chuyện trong lúc pháo rải rác khắp nơi, em nói: anh ơi về với em đi. Ở Sài Gòn người ta đi nhiều lắm.
 
Tôi chỉ cho em thấy 3 trung đội đang bố trí phía trước. Em nghĩ, anh là cái đầu mà dễ dàng bỏ đi vậy à. Em im lặng, nắm tay tôi. Em rất buồn và lo lắng, lúc nào cũng mang vẻ chịu đựng. 
 
Chở em ra ngoài quốc lộ 1, pháo 130 li của chúng nó vẫn bắn dọc theo hai bên đường. Lạ cái là xe đò vẫn chạy. Với dân mình, chiến tranh một lúc nào đó đã làm con người chai lì và cứng cỏi ít có người dân nước nào sánh kịp. Tôi đưa em lên xe. Vì không dám để em chạy Honda một mình trên đường với quá nhiều bất trắc. Chiếc xe sau này lúc kéo quân đi, phải gởi lại Tha La xóm đạo. Mất.
 
Ngày 27 tháng 4 năm 1975
Chiếm được mục tiêu hoàn toàn vào buổi chiều. Có một chiếc Tinh Long C119 yểm trợ rất chăm chỉ cần mẫn. Đào hố nằm nghỉ lại trong làng, bên cánh trái có tiểu đoàn 1/50 của sư đoàn 25. Cũng nhẹ bớt phần nào. Đi vòng quanh kiểm soát, thấy nhà cửa, dân chúng thật là bi thảm. Thiếu tá Tiểu Đoàn Trưởng kêu tôi đi với ông ra bìa làng, trèo lên xà ngang của một căn nhà ngói lớn trổ mái ngói trên nóc nhà, quan sát mục tiêu để vào cứu "thằng em". Chắc tiền sát viên của họ trông thấy, nên bắn gần chục trái 130 li xung quanh. Hai anh em bị sức nổ ép rớt từ trính nhà xuống. Nằm một hồi mới lóp ngóp bò dậy được. Phước đức ông bà không bị sao cả.
 
Nhưng nỗi lo là làm sao vào cứu "thằng em"ra được. Từ bìa làng tới căn cứ đó là một cánh đồng ruộng khô rất lớn. Chạy hết tốc lực may ra tấp vào được mấy bờ đê. Còn không thì đưa lưng ra cho pháo dập chắc chết hết.
 
Rồi đến sẩm tối, sau cả ngày bò lăn, lê lết trên cánh đồng, cũng đánh bật hết các chốt chung quanh căn cứ Tân Hoà, "bắt tay" được với thằng em bơ phờ râu ria hốc hác. Nó bị vây và pháo gần nửa tháng chứ ít gì. Anh biết không? Đất trong trại bị pháo riết rồi tơi như cát hết. Nó nói. Mừng cho nó là không có binh sĩ nào chết. Chỉ toàn bị thương. Không có chú nào bị nặng lắm. Nhưng cũng chở đầy một xe GMC thương binh. Đại đội tôi bị thương tám binh sĩ và một chuẩn uý mới ra trường bị thương vào đầu gối. Từ hôm 24 đến giờ chỉ toàn bị thương. Không có ai chết. Hên quá.
 
Ngày 28 tháng 4 năm 1975
Trung tâm hành quân cho biết là khu ngã ba Vựa heo, tức phía sau lưng, bị Việt cộng đóng chốt. Nên tiểu đoàn 1/50 được lệnh quay trở ra đánh giải toả. Có nghĩa là chúng tôi sẽ nằm trong tình trạng khó khăn hơn với mục tiêu phía trước, địch nằm sau lưng. Rồi khi tiểu đoàn đó ra tới thì nghe trong tần số hành quân những chuyện buồn ngoài dự đoán, là viên trung tá tiểu đoàn trưởng dẫn quân ra thay vì đánh giải toả, thì lại đầu hàng địch quân. Tiểu đoàn trưởng nhận toàn những tin không vui, ông than thở: chúng nó đánh giặc như c...Thấy tình hình mà tao muốn tự tử quá. Pháo bắt đầu nặng hơn. Lúc lội qua một con kinh đào, đại uý Phong tiểu đoàn phó đang đứng trên bờ la hét thì bị một trái 130 li nổ bên bờ kia, hơi ép rơi cái ầm xuống kinh. Mấy thằng em vội vàng nhảy xuống lôi lên. Nghĩ lúc đó tưởng cha này thế nào cũng khó nuôi rồi. Té ra vẫn ngoác miệng nà nà nắm nắm. Ông thần này nói ngọng không chịu được. Nờ thành lờ, lờ thành nờ. 
 
Nghe là thấy buồn cười. Mà cả đám lúc đó cười thiệt.Hình như tới một giới hạn nào. Chuyện sống chết đều coi thường. Cười giỡn như không. Dù rằng có lúc cả đám mặt dài ra như mặt ngựa. Nhưng chẳng phải thằng nào cũng ngon lành. Hồi sáng sớm trung uý Hiền, đại đội trưởng đại đội 2 thay đồ dân sự đào ngũ, bỏ đại đội của nó bơ vơ, trốn mất tiêu. Trong khi nguyên đại đội lính tráng còn nguyên không mất ai.
Vẫn còn chiếc Tinh Long C119 bao vùng bắn yểm trợ. Nhưng đột nhiên, lúc đó khoảng 9 giờ tối, khi chiếc này đang chăm chỉ bắn thì cả một rừng đạn phòng không bắn lên nổ như sao trên trời. Đến lúc đó chúng tôi mới biết là Bắc quân đã ở đầy quanh Đức Huệ. Chắc phải vài chục khẩu phòng không bắn lên chứ không ít. Giờ này mới ló mặt ra, chắc để dằn mặt thị uy. Khoảng 11 giờ đêm, nghe tiếng xe tăng từ phía bờ sông Vàm Cò Đông khoàng cách hơn cây số đường chim bay. Tụi nó qua sông. Xe tăng mở đèn sáng choang như ban ngày không chút e dè. Mẹ! Đất nước mình mà nó chạy rần rần coi mình như pha. Tất cả chuẩn bị M72, và lựu đạn. chuẩn bị tử chiến. Nhưng cuối cùng bọn nó chuyển hướng không đi ngay mình mà đi về Đức Huệ.
 
Lầm lủi trong đêm. Chúng tôi quay ngược trở ra để giải cứu cho bộ tham mưu chi khu Trảng Bàng. Pháo bên địch cứ bắn 3 trái nổ thì lại bắn 1 trái sáng, suốt cả mấy tiếng đồng hồ liền, chắc để họ quan sát xem bên trong có di tản không.. Lúc trung đội thám báo đang cắt dây kẽm gai để bên trong có đường ra. Bên trong pháo binh của mình bắn trực xạ ra hai trái. May mà không có ai bị thương. Khi trước đó đã liên lạc rất chặt chẽ rồi. Chẳng hiểu bên trong họ làm cái gì. 
 
Ngàỳ 29 tháng 4 năm 1975
Kéo quân vào trú trong Tha La xóm đạo. Tới giờ thì đã hoàn toàn mất liên lạc với những đơn vị chung quanh, kể cả trung tâm hành quân. Kệ, cứ kéo vào quán uống cà phê cái đã. Tha La cảnh đẹp thật, vào đó mát rượi với những khóm Trúc hai bên con đường làng. Hèn chi được Dzũng Chinh đưa vào nhạc.
 
Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng dự tính sẽ đặt mìn giật sập cây cầu từ ngoài bưng vào Tha La, để bộ binh và tăng của Bắc quân không vào theo ngã này được. Nhưng sau thấy chỉ thiệt hại cho xã và dân. Nên thôi.
Chợp mắt được hơn tiếng đồng hồ sau mấy ngày không ngủ. Sẽ di chuyển đêm để về Hóc Môn lập phòng tuyến cuối cùng
 
Điều đáng nói là khi đơn vị triệt thoái. Ngoảnh nhìn lại lần chót ráng chiều tuyệt đẹp khắp tàng cây cọng cỏ, trên những rặng Trúc vàng khắp Tha La. Phía ngoài xa kia, nơi đầu cầu bìa làng. Tôi thấy trong đồn nghĩa quân, người lính vẫn ngồi trên vọng gác. Và tôi biết chắc rằng, anh hẳn đã nghe tường tận những gì diễn biến qua đài phát thanh Sài Gòn mấy ngày nay.
Đó là hình ảnh cô đơn, lẻ loi nhất, nhưng cũng đầy ấn tượng bi hùng nhất mà tôi không bao giờ quên được. Đó chính là những gì mà người ta hay nói về. Đó là Tổ Quốc, Danh Dự và Trách Nhiệm.
 
Ngày 30 tháng 4 năm 1975
Đêm 29 rạng ngày 30 tháng 4. Toàn đơn vị di chuyển về hướng Hóc Môn, ngoại ô Sài Gòn với mục đích lập một phòng tuyến tử thủ, cho dù liên lạc vô tuyến với trung tâm hành quân và các đơn vị bạn không còn nữa. Đâu khoảng xế trưa mở radio nghe thấy Trịnh Công Sơn hát Nối vòng tay lớn mà không khỏi chửi thề. Cả tiểu đoàn đi âm thầm dọc theo bưng Thái Mỹ,sau này nghe nói có tên là nông trường Lê Minh Xuân. Anh và một số sĩ quan mà tôi không rõ đơn vị đi theo đại đội chúng tôi. Đến ba giờ chiều thì chạm địch. Anh bị đạn trúng ngực. Biết là không thể sống được trong tình trạng tuyệt vọng đó, anh nói tôi giữ cái bóp giấy tờ để đưa lại cho vợ của anh. Tôi đã nợ anh một lời hứa và xin anh tha lỗi. Vì đến cuối ngày khi tôi bị bắt thì tất cả những đồ đạc giấy tờ cá nhân, áo trận có cấp bậc của mọi người bị lột xuống chất thành đống và họ đã đốt tất cả. Tất nhiên cái bóp giấy tờ của anh cũng chung số phận. Tôi không quen anh để biết nhà hầu sau này có thể tìm kiếm. Chỉ biết anh là đại úy Lê văn Cang (hay Can ??) trưởng ban 3 Hành quân của quận Trảng Bàng. Xin lỗi chị Cang rất nhiều. Cũng không biết chị có còn sống sót qua cơn binh lửa đó hay không. Ngày ra tù tôi cũng cố gắng hỏi thăm, nhưng biết đâu mà tìm trong thời điểm đó. Thôi, nếu chị còn sống và nếu tình cờ đọc note này, thời gian qua đi tôi nghĩ những đau đớn cũng đã phai nhạt, nhưng nếu chị rơi nước mắt nhớ anh, thì cũng an ủi là trong giờ phút cuối cùng anh Cang vẫn nhớ đến chị và các con: “anh đưa giùm cho vợ tôi, nói là tôi yêu bả”. 
 
Đại đội tôi trong thời điểm cuối này nhiều người đã bị thương rất nặng, tôi không nghĩ họ sẽ được chữa trị và sống sót. Những thương binh đang điều trị tại Tổng Y Viện Cộng Hoà còn bị đuổi ra ngoài, huống hồ những kẻ bị thương ngay tại trận địa. Xem ra tôi đã mắc nợ và có lỗi với rất nhiều người. 
 
Còn về thiếu tá tiểu đoàn trưởng. Ông đã không vào cùng chỗ với chúng tôi, mà băng trong lau sậy của bưng Thái Mỹ về nhà gần Sài Gòn. Đó là một quyết định khôn ngoan. Ông quá nhiều chiến công. Bắt được ông, điều chắc chắn đó là cái chết.
 
Ngày đó 2 tháng 5
.
Tôi và những người bạn sĩ quan bị bắt vào giờ thứ 25, đêm 30-4 tập trung tại một trường học.
 
 Trưa ngày 1 tháng 5 được ra gặp em. Em mắt khóc tiều tuỵ, đứng cách nhau hàng rào kẽm gai. Mất nước rồi anh ơi. Câu nói lập đi lập lại của em ngập với chan hoà nước mắt, được đứng với nhau 15 phút ngắn ngủi, chẳng nói được với nhau thêm điều gì. Cuối tháng chưa có lương, chỉ có đúng mười ngàn đưa cho em vì biết chắc rằng sẽ chẳng có gì để mua bằng tiền của miền Nam Việt Nam được nữa.
 
Sáng 2 tháng 5 . Bị dẫn đi về hướng bờ sông Vàm Cỏ Đông. Không biết sẽ đi đâu, chúng dẫn đi dọc theo thị xã, vẫn có người dân chạy theo dấm dúi cho chúng tôi chiếc áo, đôi dép, mặc cho đám vệ binh hầm hừ quát tháo. Nhớ hoài cô bé mặc chiếc áo sơ mi còn huy hiệu của trường trung học, chạy theo đưa cho tôi chiếc bánh tét và đôi dép, nước mắt đầm đìa: Anh ơi, mất nước rồi. Y hệt như câu em của tôi hay nói.
 
Cuối cùng sau hơn nửa tháng đi bộ, băng qua những xóm làng giáp biên giới bị Việt Cộng chiếm từ 72. Những đứa trẻ ốm gầy khẳng khiu, quần áo tả tơi nhưng vẫn chạy theo đám tù binh ném đá và chửi: Tù binh ngoan cố. Chúng tôi tới một trại tù nằm bên kia biên giới Miên, giáp Phước Long. Trại tù đầu tiên của nhiều lần chuyển trại tù sau đó. Trại Nước ngập. Cái tên nghe nhiều khủng bố đe doạ. Bước vào trại, kinh hoàng thêm khi nhìn thấy những thân hình gầy guộc,với những khuôn mặt xanh xao như ma đói, không còn chút sinh khí nằm trên chõng tre, sâu dưới tàn lá của cây rừng rậm rạp, mà tia nắng mặt trời không qua lọt. Nơi đây đã giam giữ những người tù binh trong chiến tranh.
 
Tôi và em
. Đến khi gặp lại nhau lần đầu tiên khi được thăm của tháng 8 năm 1977. Mới biết rằng trong buổi sáng ngày tháng 5 tang thương đó. Khi đoàn tù binh bị dẫn đi trước đó khoảng nửa tiếng. Em đã chạy theo tôi băng đồng, qua suối, qua những trảng ruộng khô nắng bốc khói của ngày tháng 5 để mong được nhìn thấy chồng lần cuối. Vì biết đâu sẽ không bao giờ thấy nhau lần nữa.
 
Thương em như câu hát: ơn em thơ dại từ trời, thơ dại từ trời, từ trời theo ta, theo ta từ trời. Xuống biển lượm đời, lượm đời ta lên ...
 
Em tôi ngày ấy. Trong binh biến tao loạn mà chạy từ Sài Gòn xuống kiếm chồng nơi mịt mù bom đạn bất kể sống chết. Và tôi chắc chắn rằng trong thời gian đó. Cũng có trăm ngàn người vợ lính cơm nắm cơm gói, không quản thân mình cam go cùng khổ để kiếm cho ra người chồng lính của mình, dù rằng chỉ còn là một thân xác rữa nát.
Nguyễn Khôi Việt
----------------
Comments:
* Thuan Chu
Em đã đọc đoạn nhật ký này mấy năm trước rồi , giờ đọc lại vẫn xúc động ! " Tiến râu" có phải là anh Tiến Đoàn ko ? Rất vui vì ( hình như) chính em là cầu nối giúp 2 anh "gặp" lại nhau dù chỉ qyafb ! Hy vọng có một ngày 2 anh thật sự gạp nhau ngoài đời !
* Hùng Đinh
Ngẫm lại khủng khiếp quá, chẳng biết sao mà vẫn sống được đến giờ, sức chịu đựng tất cả chúng ta vô hạn.
* Hồ Việt Nguyễn
Đoạn hồi ký binh lửa của anh Khôi Việt thật cảm động & chân thật.
Đọc lại vẫn thấy có cái chi đó như..nhói lòng ?
Mần răng mà quên được ? dù nửa thế kỷ đã trôi qua...hic..
Tư Tài Tử
Hình ảnh người lính vẫn ở trên vọng gác thật bi hùng
* Thu Lê
Chiến tranh thật là khủng khiếp,ai đã từng đi qua nhất là người lính mới cảm nhận hết sự kinh hoàng và dã mang của cuộc chiến nghĩ lại mà xót xa cho tuổi trẻ chúng ta.
Bây giờ không còn chiến tranh, hồi xưa moị người hay nói hoà bình dẩu có ăn muối cũng còn hơn chiến tranh ăn sung mặc sướng bởi vậy ông trời đã cho ước gì có nấy.hoan hỉ ,hoan hỉ sắp đến 30/4 rồi
* Tiến Đoàn
Tôi cũng nằm trong số tù binh nầy, vì thế không một tin tức gì cho gia đình, tưởng là đã chết nên gia đình đã lập bàn thờ, mãi đến gần 8 tháng sau mới được gởi thơ về cho ba mẹ ở Huế....
* Quỳnh Hoa Truong
Đúng là những ngày tháng không thể nào quên, anh Việt ạ, bài hồi ký thật xúc động, cứ như một cuốn phim lần lượt chiếu trước mắt mình, và tưởng như câu chuyện của 50 năm về trước mới xãy ra ngày hôm qua! Buồn!
----------------

Nguyễn Khôi Việt
Viết bài này mấy tháng rồi, nhưng cảm thấy ngần ngại không post lên, những ngày tháng chiến tranh xưa đã xa quá rồi, biết mấy ai còn muốn nhắc tới?
 
Nhưng tôi vẫn cố viết lại những ký ức xưa, để nhớ rằng dù đã thua trận (vì những ám toán bẩn thỉu của đồng minh) quân đội chúng ta vẫn có vô số những chiến thắng hào hùng được tạo nên bởi những người chiến sĩ dũng cảm, kể không xiết được.
 
Chiều ngày mùng 1 Tết năm 74.
Ngày ấy đại đội của tôi, bộ chỉ huy tiểu đoàn, cùng đại đội 4 đóng tại căn cứ hoả lực Chà Rầy, phía Đông Bắc thị trấn Trảng Bàng. Trong căn cứ này có hai cây đại bác 105 li, bắn yểm trợ cho các đơn vị bộ binh hành quân trong khu vực và ngăn chặn áp lực cộng quân từ mật khu Bời Lời.
 
Đại đội nhận lệnh phục kích (án ngữ hoặc ngăn chặn thì đúng hơn) tại phía Tây của một điểm mà đại đội 4 cùng bộ chỉ huy tiểu đoàn đang đóng quân, đại uý tiểu đoàn trưởng tiên liệu sẽ có đụng mạnh tại đây nên đã ra lệnh cho đại đội 4 đào hố cá nhân sâu và kỹ càng , nơi đây sau này sẽ được làm thành một cái đồn cấp đại đội nhằm mục đích ngăn chặn sự chuyển vận lương thực và vũ khí của Việt Cộng từ mật khu Bời Lời về Ba Thu và ngược lại.
Đồn này sẽ lấy tên theo địa danh trên bản đồ. Đồn Suối Cao.
 
Trong buổi họp hành quân mấy ngày trước, chúng tôi đều nghĩ đây là một cục xương rất khó chịu mà địch quân sẽ phải ra sức nuốt cho bằng được.
Trên đường tới điểm phục kích, trời chưa tối, nên tôi và binh sĩ khựng lại quan sát khi phát giác địch đang di chuyển song song bên tay phải chúng tôi trong khoảng cách gần, bên kia rừng chồi, chỉ cách nhau khoảng 200 mét mà thôi. 
 
Nơi đây rừng chồi lúp xúp xơ xác, đất cát khô nóng, họ di chuyển hối hả gần như chạy nên thấy rõ cả cát bụi tung lên.
Họ đang tiến quân về hướng bộ chỉ huy tiểu đoàn.
Tôi bốc máy gọi tiểu đoàn trưởng, đại uý Bùi Văn Duy. Ông sinh quán Trảng Bàng. Người đen thui, rắn chắc nhỏ con, nhưng điềm tĩnh và nói năng chậm rãi, cho dù vào những lúc hiểm nguy nhất.
- Bạch Mai có "mạnh phẻ" không? Chúng nó đang hướng về phía ông đó ( tên nguỵ thoại truyền tin của đại uý Duy), chắc đông lắm nên đi khơi khơi chẳng coi tôi ra kí lô nào. Đêm nay chắc nó chơi mình rồi.
- Chơi thì chơi thôi, tui lúc nào cũng "mạnh phẻ" hết. Ông cũng nên cho con cái đào hố cho kỹ.
- Bạch Mai nằm ngủ cạnh con đường, như vậy cầm chắc nó sẽ xuống 3 mặt từ mật khu Bời Lời. Nếu tụi nó chơi ông, tôi sẽ cặp từ phía Đông dưới này, theo con đường tiến lên đánh ngang hông. Bạch Mai nói thằng Tư gài trái sáng, mìn tự động bên kia con đường nhiều vô.
- Sao ông nói nhiều quá, tôi biết phải làm gì mà.
Ông nói vậy, nhưng chắc ông cảm động khi thấy tôi đã lo lắng quan tâm. Thời gian đầu về tiểu đoàn, đại uý Duy không thích tôi lắm vì tôi hơi cứng đầu. Nhưng sau một thời gian vào sinh ra tử với nhau, ông và tôi lại rất hợp nhau. Ông hơn tôi mấy tuổi thôi, nên thân nhau như bạn bè.
 
Bố trí xong xuôi tại điểm phục kích, tôi ra lệnh cho gài trái sáng chung quanh thật nhiều, không gài mìn tự động và lựu đạn, vì tôi nghĩ đêm nay sẽ có lúc phải cuốn gói thật nhanh để tiếp viện cho Đại uý Duy.
Vùng này Việt Cộng nhiều như ruồi muỗi, với trung đoàn 101 và nhiều đơn vị F đặc công của họ. Hai đại đội nằm dã ngoại là quá mỏng so với địch quân.
Khoảng 4 giờ sáng, giờ mà họ cho rằng người lính dễ ngủ say nhất, Việt Cộng bắn súng cối 61 và 82mm cùng B40 rồi xung phong vào vị trí của bộ chỉ huy tiểu đoàn và đại đội 4. 
 
Nhưng đại đội 4, đại đội trưởng là trung uý Hiệp, không ngủ, đã chuẩn bị " đồ nghề" để đón tiếp họ. Lựu đạn đã được tháo ra khỏi dây ba chạc, sắp hàng dài trên miệng hố cá nhân. Chờ.
 
Đại đội tôi lúc ấy chỉ cách khoảng 500 thước, địa thế bằng phẳng với rừng chồi thưa lúp xúp hai bên con đường đắp , có thể nhìn thấy tiếng nổ chớp loá của B40 và nghe tiếng la hét của Việt Cộng rất rõ ràng.
Nhưng ngay lúc đó cũng là tiếng mìn Claymore quen thuộc nổ ầm ì, tiếng sắc đanh chát chúa của lựu đạn M26 và tiếng M16. Có lẽ trung uý Hiệp chờ cho quân địch vào trọn tầm súng rồi mới khai hoả.
Phe ta phản công. Có vẻ rất mạnh và hữu hiệu vì nghe nổ rền trời.
 
Tiếng B40 rồi cũng đã thưa thớt, tiếng depart của cối 82 địch không còn nghe thấy nữa. Có lẽ khẩu này đã bị tiêu diệt vì nằm trong những hoả tập tiên liệu pháo binh mà Bạch Mai đã chấm chung quanh ông.
Bạch Mai cho biết, bây giờ bọn Việt Cộng bám bờ bên kia con đường đắp bắn vào, chắc chắn họ đã bị thiệt hại nặng khi dính mìn Claymore và lựu đạn gài trong đợt xung phong đầu tiên.
 
Theo lệnh của ông, tôi cho đại đội cặp con đường đắp tiến lên để đánh ngang hông địch.
Phải cố gắng xông lên cho nhanh. Vì từ lúc giao chiến đến giờ họ đã bắn kịch liệt hơn tiếng đồng hồ rồi, chắc chắn đạn và lựu đạn không còn bao nhiêu. Hơn 5 giờ sáng, hai bên vẫn bắn qua bắn lại, chỉ cách nhau hai bên con đường, khoảng cách chừng 50 thước đến 100 thước, nếu hết đạn mà địch xung phong thì... 
 
Nhưng nhờ pháo binh vẫn bắn cầm chừng vào mấy hoả tập tiên liệu mà Bạch Mai đã chấm, lực lượng trừ bị của họ chắc đã bj thương vong nhiều.
Trời bắt đầu đã sáng dần.
Tôi đốc thúc anh em ráng lên cho lẹ. Càng tới gần càng nghe tiếng la hét của Việt Cộng. Không phải, đó cũng là tiếng la hét của chiến sĩ đại đội 4. Bây giờ thì cả hai bên đứng la hét chửi nhau bằng đủ thứ ngôn từ...
Tôi cảm thấy yên tâm vì có vẻ như Bắc quân cũng không còn đạn dược mấy, chỉ bao vây bắn cầm chừng và la hét hù doạ "hàng sống, chống chết..." mà thôi.
Đại đội tôi đã chạm địch. 
 
Xin Bạch Mai ngừng pháo binh ở hướng Đông. Chúng tôi đã tấn công lên bằng tất cả hoả lực có thể được.
Lực lượng Việt Cộng không còn nhiều, nên chạy tán loạn khi bất ngờ bị chúng tôi tấn công.
Tổng số địch quân bị hạ quanh vị trí của đại đội 4 là 52 người. Có hai tên lọt vào tới bộ chỉ huy nhưng đều bị bắn hạ.
 
Họ tưởng rằng đây gần như địa bàn hoạt động của họ, khi bị quân ta đóng chặn ngay yết hầu, họ đã thật sai lầm khi muốn cho "bọn nguỵ" này một bài học.
Họ quên rằng khi tấn công bị vướng trái sáng được gài chung quanh nơi phục kích rất nhiều, cộng thêm trái sáng của pháo binh bắn yểm trợ, họ đã là những mục tiêu in lên đường chân trời, không thể bắn trật được.
Lục soát chung quanh, chúng tôi phát giác vị trí của một súng cối 82mm và một đại liên 12.8 mm, bị trúng đạn pháo binh nằm la liệt. 
 
Nếu pháo binh không bắn trúng hai cây súng này, chúng tôi sẽ còn phải vất vả, thương vong nhiều với nó.
Dựa theo những vết máu, số thương binh họ kéo đi chắc cũng không ít.
Điếu thuốc cuối cùng hút chung với đại uý Duy ngon như chưa bao giờ ngon đến thế. Đó là cảm giác vui mừng gặp lại đồng đội tưởng rằng đã chết.
Ngày xưa dù trong quân đội, ít khi nào ôm nhau để tỏ thái độ mừng rỡ. 
 
Nhưng ngày đó tôi đã ôm ông thật lâu và thật chặt.
Trung tướng Phạm Quốc Thuần, tư lệnh quân đoàn III, đã bay tới trận địa khoảng 8 giờ sáng, và gắn cấp bậc thiếu tá đặc cách tại mặt trận cho Bạch Mai, cấp đại uý cho trung uý Hiệp.
 
Bây giờ ông đã là một Bạch Mai thực thụ rồi.
Đại đội tôi vào nhận vị trí để cho đại đội 4 và bộ chỉ huy tiểu đoàn về nghỉ ngơi.
 
Đêm ấy địch mò tới, bắn vào chúng tôi đâu khoảng chục trái 82 không giật rồi bỏ chạy.
Do áp lực còn nặng, nên cấp trên từ chi khu cũng chẳng quan tâm đến chuyện di chuyển xác địch quân nơi vị trí chúng tôi. Mà những cái xác đó chẳng đâu xa, ngoại trừ bị dính mìn tự động khoảng hai chục thước, chúng nằm la liệt quanh những hố cá nhân nhiều chỗ chỉ vài ba thước, có nhiều xác nằm ngay phía trong vòng phòng thủ. 
 
Đến ngày thứ tư là tất cả đều bốc mùi " khốc liệt". Xác người chết dưới nắng gắt có mùi thối khét rất khủng khiếp, lính chửi thề khạc nhổ, ói mửa suốt ngày, không ăn uống gì được.
Cái mùi khó tả đó quyện trong không khí, trong quần áo đầu tóc, trong mũi, tắm rửa mấy ngày sau vẫn còn nghe.
 
Ngày thứ năm có một đoàn đạo tì khoảng 20 người của đạo Cao Đài tới gặp tôi để xin dọn xác. Tôi nói, các ông bà làm việc này thật công đức nhiều lắm, nhưng sợ rằng bên Việt Cộng sẽ quấy phá, dẫn tới thương vong cho các ông bà.
Người của Cao Đài nói không sao, mấy ổng chắc sẽ biết chúng tôi chôn xác của mấy ổng nên không làm gì đâu.
 
Họ cắm những ngọn phướn màu đen cao chừng 3 thước lên rồi sau đó sẽ dọn xác, không dè bọn Việt Cộng trong rừng Bời Lời bắn ra khoảng chục trái cối 82. Tất cả hốt hoảng bỏ chạy, để lại khoảng trăm chiếc chiếu mới.
Sau ngày đó, lính người nào cũng có chiếu mới để nằm.
 
Cuối cùng tiểu khu cho trung đội chung sự đi dọn dẹp, lần này không thấy bị quấy nhiễu gì cả, chắc lúc ấy đại đội tôi đã kiểm soát hết bìa rừng.
Người dân miền Nam bình thường chẳng bao giờ hiểu được rằng Cộng Sản không hề có nhân đạo và tình người.
 
Nhưng rồi những danh tướng ít khi nào sống thọ. Trong một lần tiếp cứu một đại đội bị đánh, thiếu tá Duy tới đó quá gấp rút nên bị rơi vào ổ phục kích của Việt Cộng. Cũng chỉ vì quá nóng lòng với an nguy của binh sĩ.
Tôi vẫn nhớ lời kể của một binh sĩ trong tiểu đội thám báo của ông: bên kia bọn Việt Cộng xông lên, chắc bọn nó muốn bắt sống thiếu tá, nhưng ổng cũng cầm cây M16 vừa bắn vừa xông tới. Và bọn nó đã bắn ngã ông, sau đó cắt mất hai bông mai đen thiếu tá của ông.
Ngủ bình yên nhé anh Duy.
Tôi vẫn nhớ đến anh.
 
P.S vì là ngày mùng 2 Tết, khoảng 2 giờ trưa hôm đó, sau khi mọi chuyện đã êm ắng, tôi tạm giao cho đại đội phó để về căn cứ Chà Rầy, vì em tôi lên. Nàng mang cho chồng đủ mọi đồ có không khí Tết mà tôi ưa thích, lạp xưởng, khô nai, kẹo mè xửng, mứt hồng khô. Chui vào căn hầm chỉ huy, chúng tôi ôm nhau thật chặt không muốn rời. 
 
Trong chiến tranh yêu nhau luôn trong lo âu, vì có thể mất nhau bất cứ lúc nào. Khi em đến cổng trại cũng là lúc Việt Cộng pháo căn cứ để kềm chế pháo binh bắn yểm trợ cho chúng tôi. May mà em không sao. Tạ ơn Chúa.
(Nguyễn Khôi Việt)
------------------


No comments: