Tuesday, April 15, 2025

THÁNG TƯ - NỖI UẤT HẬN NĂM XƯA - Nguyễn Văn Thành

 
---------------

50 năm trước, 30/4/1975, tôi giữ an ninh tại cầu Bình Triệu nảy; để chận đứng bọn VC tấn công vào Sài Gòn. Và cũng nơi đây, tính mạng của tôi như sợi chỉ treo lơ lửng trên mành. Cảm ơn Trời Đất đã che chở.... Cảm ơn quý vị sĩ quan và anh em binh sĩ của QLVNCH năm xưa; đã có mặt tại nơi đây; vào sáng ngày 30/4/1975; đã theo lệnh CẤM của tôi và KHÔNG xâm phạm tuyến phòng thủ của Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù. Cảm ơn quý vị. Chúc vui, khỏe.
 
*** Đây là câu chuyện buồn về ngày 30/4/1975 của một người lính Pháo Binh; Trịnh Trọng Hiệp và tôi, một người lính Nhảy Dù; đóng quân; giữ an ninh tại cầu Bình Triệu. Chúng tôi là nhân chứng lịch sử tại vòng đai ngoài cùng của Thủ Đô Sài Gòn trong những ngày đen tối của đất nước.
 
Chúng tôi đã anh dũng chiến đấu đến giây phút cuối cùng cho miền Nam Tự Do. Và sau khi thất trận, chúng tôi không còn gì cả. Thân tàn ma dại, gia đình ly tán, và cả một miền Nam dần đi vào bóng tối. Hy vọng câu chuyện ngắn này. Sự chiến đấu anh dũng này là tấm gương tốt dành cho các thế hệ mai sau trong việc giữ nước. Bỡi vì:
"Đất Nước Còn, Còn Tất Cả;
Đất Nước Mất, Mất Tất Cả"
Cầu mong anh linh Tử Sĩ hãy yên nghỉ. Qúy vị đã trả xong nợ nước. Chúng tôi thì chưa......

 
------------------ 
Trần Cẩm Tường K19/TVBQGVN
 

Giữ cầu Sài Gòn ngày 30 tháng 4/75
Ba người bạn đồng khóa năm xưa
Ra trường chia tay mỗi người một hướng
Người về Nhảy Dù, người theo Thủy Quân Lục Chiến
Người giữ Bộ Binh. Lửa đạn bốn mùa
Ba tiểu đoàn, ba vị trí hiểm nguy
Gác cầu Sài Gòn trong ngày cuối tháng Tư
Lệnh từ cấp trên: nếu cần, phải giật
Không cho xe tăng địch vượt cầu qua.
Nhưng… Một lời gọi khẩn, bạn tôi truyền đến:
Đừng phá cầu, đơn vị tôi đang lui
Anh em tôi đang kẹt bên kia sông
Phải còn lối sống, nếu không là tận diệt

Người nghe tin, lặng đi trong giây lát
Không thể phá, dẫu lệnh vẫn còn vang
Vì một lời bạn, một nghĩa tình đồng khóa
Vì sinh mạng của hàng trăm người lính
Cầu còn đó, xe tăng địch vượt qua
Pháo giội đồi cao, nơi tôi trấn giữ
Chúng tôi bám đất, giữ chốt cuối cùng
Dù biết rằng không còn ai tiếp ứng
Sau này gặp lại, chuyện cũ đem ra
Hỏi bạn khi xưa:, Sao cầu không nổ
Bạn cúi đầu: Vì lời van của Hợp,
Tôi không thể phá con đường sống của anh em.
Chúng tôi lặng thinh, mắt nhìn xa vắng
Biết bao điều không thể nào nói hết
Lúc nước mất, quân tan, đời như phim đứt
Chỉ còn lại tình đồng đội khắc sâu trong lòng
Ngày nay cây cầu vẫn còn nguyên vẹn
Người qua lại có ai hay đâu
Ngày ấy ba người – bạn cũ tình đồng đội
Giữ cầu không vì lệnh, mà vì đồng khóa thương nhau
Tác giả Trần Cẩm Tường
Khóa 19 Võ Bị Đà Lạt
------------------
Trần Cẩm Tường K19/TVBQGVN
 
--------------------
 
Cao Kim Dung
VINH DANH MỘT NGƯỜI LÍNH VNCH..
11 giờ sáng 30/4/1975 .
Lúc này ! Hầu hết các binh lính VNCH đã cởi bỏ hết quân phục và súng đạn...
Nhưng khoảng 10 giờ 30.. trên đường phố (SG) lại xuất hiện một người lính trẻ với hai tay hai khẩu M16 và đeo trên vai anh thêm hai khẩu M72.. dưới những cặp mắt tò mò và kinh ngạc của người dân xung quanh và đi đường ....
- Anh ấy đã t.ự s.át gần cầu Trương Minh Giảng.... Sau khi x.ả hết một băng đạn vào một chiếc xe lam chở đầy Q.uân Bắc Việt....
- Xin nghiêng mình ngưỡng mộ trước vong linh anh...!

Cao Kim Dung St.
(Ảnh : của phóng viên Nguyễn Đạt)
-----------------
* Thi Pham
Những Niên Trưởng kỳ cựu của tui ngày đó, cùng ngành bay với tui, Hoa Tiêu Quan Sát. Họ đã không hổ danh là những chiến sĩ can trường của QLVNCH. Tại Vùng 4 (Quân Khu 4) có 2 phi đoàn quan sát là 116 và 122. Mấy bạn cùng khoá với tui đều phục vụ phi đoàn 122.
Trên chiếc "Bà Già" mảnh mai của chúng tôi chỉ có trang bị 8 trái "rocket" chúng tôi gọi gọn là "trái khói." Những trái khói chỉ dùng để chỉ mục tiêu, không có tính sát thương, trừ khi bắn trúng vào người.
Ngày 28 Tháng Tư tui đã bắn hết 8 trái này khi về gần Biên Hoà từ Long Khánh, lúc thấy bọn VC đang chạy những chiếc xe tăng của chúng ngời ngời trên Quốc Lộ 13.
 
* Chau Truong
Phuc Vinh
Không quân VNCH . Nguyễn Ngọc Trung khóa 64C phi đoàn 116 mất 30 /04 /1975😥😥😥.Tôi bay phi vụ hành quân cuối cùng của Không Lực VNCH
Viết để tưởng nhớ bạn tôi : Cố Thiếu-Tá Nguyễn-Ngọc-Trung và tất cả anh linh Chiến-Sĩ VNCH đã hy sinh vì Tổ-Quốc Việt-Nam.
Lời người viết : Câu chuyện sau đây đã được Nhà văn Nguyễn-Viết-Trường viết lại và đăng trên các Đặc San KQ, vì liên quan đến cái chết của người bạn thân nhất của anh : Đại-úy Nguyễn-Ngọc-Trung khóa 64C, PĐ 116. Trong bài viết, anh Trường có kể lại : ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi đã dùng Rocket chống biển người để tàn sát địch quân, có quá nhiều người thắc mắc, nhất là Quý Vị đồng nghiệp bay Bà Già như tôi, họ muốn chính tôi phải kể lại vì sao L.19 có thể mang hỏa tiễn chống biển người và diệt địch như Gunship được.
 
Tôi xin trả lời : “Khi ta không còn biết sợ chết, thì việc gì cũng liều mà làm được hết”.
Hôm nay, ngày 30 tháng 4, tôi xin viết lại phi vụ hành quân cuối cùng của 40 năm trước. Đọc xong bài viết nầy, nếu đọc giả nào muốn biết thêm chi tiết, xin hỏi Thiếu Tá Trần Thủy Lợi (cựu Trưởng Phòng 2 Tiểu Khu Bạc-Liêu, đang ở San Diego) hoặc Đại Úy Tiết (Tiểu Đoàn Phó TĐ 486 Tiểu Khu Sóc Trăng, đang ở Santa Ana).
 
Tôi xin vào chuyện…
Phi-Đoàn 116, thuộc Không-Đoàn 74 Chiến Thuật, Sư-Đoàn 4 KQ, đồn trú tại phi-trường Trà-Nóc. Phi-Đoàn có hai Phi-Đội hành quân, thay phiên nhau, mỗi Phi-Đội đi biệt phái yểm trợ hành quân cho các SĐ Bộ Binh và các Tiểu-Khu 15 ngày, biệt phái xong 15 ngày, trở về Cần-Thơ túc trực 15 ngày, bay các phi-vụ theo lịnh Phòng Hành-Quân Chiến Cuộc Sư-Đoàn.
NVPH (nhân viên phi hành) trong PĐ 116, nếu có gia-đình ở địa phương nào thì ưu tiên được xin biệt phái về bay nơi ấy.
 
Đại-Úy Trần Phước Huynh và tôi là rể Bạc-Liêu, riêng Phi Cơ-Trưởng Mã-Tính chánh gốc Công-Tử Bạc-Liêu, nên ba anh em chúng tôi biệt phái trường kỳ nơi xứ Bạc mà tình nồng ấy cho đến ngày mất nước.
Hôm ấy, sáng 30 tháng tư năm 1975, mới 5 giờ 30, điện thoại nhà tôi reo inh ỏi, gọi đi bay sớm là chuyện thường tình ở Tiểu-Khu nầy, tôi nghĩ ngay “Đêm qua chắc mất đồn hay có nơi nào bị tấn công, pháo kích gì đây nên cần đi bay sớm”. Tôi bắt điện thoại, đầu dây không phải là tiếng của Thiếu Tá Lợi (Trưởng Phòng 2 T.K B.L, người thường đi bay hành quân với tôi) như mọi hôm mà là tiếng của Nguyễn-ngọc-Trung, bạn cùng học khóa bay với tôi ở Trung-Tâm Huấn Luyện Nha-Trang, tiếng của Trung Đen hối hả “Ê! Combat (nickname của tôi) lên cứu tụi tao mau, VC tấn công tràn ngập phi-trường rồi, mầy lên chậm tụi tao chết hết, lên liền nghe, chiều nhớ mua mồi về, tao mua bia xuống nhà chú Tư Cầu. (nickname Thiếu Tá Nguyễn-văn-Thành khóa 63D) nhậu nghe, đêm qua tao đại thắng (đêm qua Trung Đen gom sòng xập xám chướng).
 
Tôi nghe tiếng súng liên thanh nổ vang trong đầu máy liên hợp bên kia đầu dây của Trung, tôi vội đáp : “Yên chí, tao lên liền”. Tôi biết Trung Đen đang biệt phái Sóc Trăng, Phi hành Đoàn ngủ ngay đầu phi đạo, nếu VC chiếm được phi trường thì bạn tôi chết hết.
Tôi chạy vội vào phòng tắm, dùng cái gáo nhựa lớn xối nước lạnh ào ào lên đầu 4,5 gáo cho tỉnh táo, không kịp lau khô, xỏ vội chiếc áo bay và mang áo lưới vào, xách túi đựng helmet, chạy vội xuống lầu, trong túi không phải là nón bay mà là cây súng M79, được cưa bá ngắn lại và mấy mươi viên đạn, mang giày xong tôi dắt xe Honda ra định đi bay một mình, vợ tôi chạy theo hỏi “Không có anh Lợi hay anh Huynh đi bay với anh hả, anh bay đâu sớm quá mà sao chỉ đi một mình vậy?”
 
Vì vội quá, tôi định cất cánh lên rồi mới báo cho Trung Tâm Hành Quân Tiểu-Khu biết, lúc đó họ không cho tôi đi cũng không được, nhưng khi vợ tôi nhắc đến anh Lợi, tôi chợt nhớ lại, cách đây mấy ngày, Đại-Tá Nguyễn-Ngọc-Điệp Tỉnh Trưởng Bạc-Liêu nói với tôi, nửa đùa nửa thật: “Tôi nghe KQ lấy máy bay đi nhiều lắm, ông phi công đừng bỏ tụi “moa” mà bay đi một mình nhen, “toa” cất cánh mà không có lịnh của “moa”, coi chừng lính phi trường “phơ” “toa”
ó”.
 
Tôi phải gọi vào Phòng 2 tìm anh Lợi, tôi biết tình hình chiến sự lúc nầy quá căng thẳng nên anh thường ngủ ngay trong phòng làm việc, điện thoại vừa reo anh bắt máy ngay, tôi nói với anh “Tôi phải đi ngay để giải tỏa phi trường Sóc Trăng, cứu phi hành đoàn trên ấy, tụi nó ngủ ngoài phi-trường, nếu VC vào, sẽ giết hết tụi nó”. Anh Lợi đáp:“Ông ra đứng ngoài đường chờ tôi, tôi lại rước ông ngay, tôi sẽ đi bay với ông”. Tôi dặn anh “Anh đừng báo cho ông già biết nghe (ông già là ông Tỉnh-Trưởng kiêm Tiểu-Khu-Trưởng, chúng tôi thường gọi là Papa) khi nào tôi cất cánh xong, anh gọi máy báo Trung Tâm Hành Quân sau”. Tôi vừa đi ra tới đường, xe Jeep của anh cũng vừa tới, tài xế đã nhảy ra ngồi băng sau, nhường tay lái cho tôi như thường lệ. Tôi vừa chạy vừa nói sơ tình hình cho anh biết, anh Lợi rất thân với anh em PĐ 116, anh hỏi ai biệt phái trên ấy, tôi đáp Trung, Hiệp và Phong, anh đều biết hết ba người ấy.
 
Ra đến phi-trường, trời chưa sáng hẳn, tôi leo lên check xăng, thì không hiểu sao Mã-Tính (phi-cơ trưởng đang biệt phái Bạc-Liêu với chúng tôi) hay tin tôi đi bay, Tính cũng đi Honda ôm ra tới, Tính cùng mấy lính cận vệ của anh Lợi chạy lại mở Conex lấy Rocket nổ định lắp lên dàn phóng như thường lệ (từ sau Hiệp-Định Paris, pháo binh giới hạn một ngày mỗi khẩu chỉ được phép bắn 2 quả, phi tuần khu trục xin để yểm trợ cho Tiểu-Khu thì không bao giờ có, Mỹ đã cắt viện trợ hết rồi, mỗi lần đi bay, tôi thường bảo Tính trang bị 8 trái Rocket nổ cho tôi, mặc dù an phi tuyệt đối cấm, L 19 chỉ được mang Rocket khói để bắn đánh dấu mục tiêu cho khu trục oanh kích thôi, không bao giờ được mang Rocket nổ.
 
Sau mỗi phi vụ, nếu chưa bắn hết 8 quả Rocket nổ, tôi thường bay đến những đồn Nghĩa-Quân, quanh Thị-Xã, bắn xuống những mục tiêu nghi ngờ là chốt của VC bám để bắn sẻ lính trong đồn (hình thức giải tỏa bom đạn, không cho một ai trong phi đoàn biết là tôi chuyên bắn Rocket nổ) khi nào hành quân chạm địch, tôi bắn hết 8 quả thì về đáp lắp 8 quả khác vào bay lên bắn tiếp. Tại phi-trường Bạc-Liêu, Rocket nổ của Gunship Mỹ bỏ lại, tất cả đã được tháo ra khỏi thùng, dựng đầy trong 4 Conex, đây là loại Rocket nổ rất mạnh, trên đầu nổ có một cái chụp màu trắng ngà, tôi cũng ít khi thấy Gunship VN bắn loại nầy).
 
Tôi gọi Tính: “Đừng lấy Rocket đó, chờ anh một chút”. Tôi nghĩ ngay đến 6 thùng Rocket của Đại-Tá Điệp, không biết ông đem từ đâu về cất trong conex, ông kêu tôi lại chỉ cho tôi và dặn dò: “Bồ đừng xài cái nầy của tôi nhen, nó là hỏa tiễn chống biển người đó, tôi sẽ gắn dàn phóng Rocket trên xe, tụi nó có tràn ngập vào là tôi xịt trực xạ tụi nó”. Hôm nay địch đã tràn ngập phi trường Sóc Trăng, tôi phải diệt địch và cứu quân bạn, bây giờ tôi không liều mà xử dụng thì đợi đến bao giờ?
Mấy ngày nay, nghe tin tức đài BBC thật là thê thảm, quân ta cứ tiếp tục rút lui, VC đã tràn tới Biên Hòa rồi, hôm trước cụ Hương lại bàn giao chức vụ Tổng-Thống thấy mà nản lòng vô cùng.
 
Đêm qua trời nóng quá, ngủ không được, tôi lên nằm trên sân thượng, nhìn những ánh đèn phi cơ lũ lượt bay về hướng Côn-Sơn hoặc bay tít trên cao về hướng Tây. Lúc ấy tôi vẫn còn ngây thơ, suy nghĩ rất nông cạn: Mỹ đã bỏ Kampuchia, không lẽ Mỹ bỏ luôn cả miền Nam Việt Nam sao ? Tôi quyết định ở lại chiến đấu đến phút cuối cùng rồi ra sao thì ra.
 
Tôi bảo Tính khui một thùng Rocket mà Đại-Tá Điệp gọi là “Hoả tiễn chống biển người” thử xem, thùng nầy dẹp và dài hơn thùng Rocket thường, khui ra tôi thấy mỗi thùng chỉ đựng 2 quả, đầu nổ dài và nhỏ hơn đầu nổ của Rocket thường, được sơn màu hồng nhạt chứ không phải màu ô-liu, tôi lấy 2 quả đó, và bảo Tính khui thêm ba thùng nữa đem lại, tôi và Tính gắn 8 quả Rocket ấy vào dàn phóng.
 
Trời đã tờ mờ sáng, tôi cất cánh vội vã lúc 5:50. Tôi đã dặn Trung trực sẵn tần số FM của máy PRC 25 chờ tôi, cất cánh xong vừa lấy cao độ vừa gọi Trung, anh Lợi cũng mở FM ghế sau liên lạc Tiểu-Khu Bạc Liêu. Vừa nghe tiếng tôi, Trung nói ngay “chúng nó nấp vào các ụ phi cơ phía bên kia, chúng đã chiếm tới đài kiểm báo rồi”. Tôi nói ngay “cho tao số nhà đơn vị đang đánh nhau với chúng nó”. Trung cho tôi tần số của quân bạn, tôi liên lạc ngay được thẩm quyền (Tiểu-Đoàn-Trưởng) của cánh quân ấy, anh cho biết tình trạng chiến đấu của anh rất bi đát, đã mất liên lạc với Tiểu Khu Sóc-Trăng (Ba Xuyên) từ chiều hôm qua, (Tiểu-Khu-Trưởng và Bộ chỉ-huy đã bỏ ra đi rồi), không một lực lượng nào tiếp viện cho anh, địch quân thì đông như kiến cỏ, trong khi quân số anh chỉ còn vào khoảng một râu (1 Đại đội) lớp bị tử trận, lớp bị thương, đạn dược sắp cạn, lính của anh vì thương anh, cùng liều chết ở lại chiến đấu đến giờ phút nầy, không thì đã tan hàng từ lâu rồi. Tôi trấn an anh “Bạn yên tâm đi, 5 phút tôi sẽ tới" (Sóc-Trăng chỉ cách Bạc-Liêu khoảng 40 km đường chim bay). Anh mừng lắm nói “Không ngờ giờ nầy còn có anh bay đến, em út tôi lên tinh thần lắm, bọn VC nầy tuy đông, nhưng toàn là con nít không hà, tại tụi nó núp trong mấy ụ phi cơ, chúng tôi không làm gì được, chớ nếu đánh cận chiến, tụi tôi sẽ bẻ cổ chúng hết”.
 
Tôi tính toán rất nhanh, VC ở trong các ụ phi cơ phía Đông Nam phi trường, tôi bay thật thấp, cao độ 500 bộ, lấy trục tấn công từ Đông sang Tây, tôi đã bay đến gần, thấy chúng nó quá đông, nấp dài theo ụ phi cơ, đưa lưng về hướng tôi đang bay tới, làm bia cho hỏa tiễn chống biển người, tôi bật công tắc 2 quả: số 1 và số 8, chúi mũi phi cơ xuống thấp nữa, thật gần, nhắm thật chính xác, hồi hộp lẩy cò, hai quả rocket phóng ra, 2 tiếng nổ lớn, hỏa tiễn nổ tung thêm lần nữa, tỏa ra đám khói nhỏ màu hồng nhạt, tôi thấy những thây người nhảy dựng tung lên. Ông Tiểu-Đoàn-Trưởng hét lớn “Trúng phóc rồi, anh phóng pháo bằng loại gì vậy ?” Tôi không trả lời, tôi bắn trúng là vì tôi liều mạng xuống thật thấp, với lại chiếc phi cơ số đuôi 288 nầy là con tàu tôi thích nhất, bắn Rocket rất dễ trúng mục tiêu, nên lần nầy tôi bắn thật chính xác. Tôi đoán chúng đã biết hướng bay của tôi, bây giờ những tên còn sống chắc đã chạy qua hướng Đông dựa lưng vào vách ụ, chong súng chờ tôi bay vào tấn công từ Đông sang Tây như lần trước, thì tôi không bắn được chúng, và sẽ bị chúng từ sau bắn tới phi cơ tôi.
 
Tôi bay xuống thật thấp vào trong phố Sóc-Trăng, quyết định đổi trục đánh từ Tây sang Đông, tôi vào trục đánh, từ xa, xuống thật thấp tiến lại để địch không thấy tôi bay tới, tôi bật công tắc 2 quả: số 2 và số 7, gần đến mục tiêu, tôi kéo nhẹ cho mũi phi cơ nhô lên, tôi thấy đúng như tôi nghĩ, bọn chúng lưng dựa vào vách ụ, hằng trăm mũi súng đang chĩa về phía tôi, bây giờ tôi đang trực diện chúng, chúng quá bất ngờ vì tôi đổi hướng bay, chúng chưa kịp phản ứng thì tôi đã lẩy cò, hai quả nổ tung, phóng hàng ngàn mũi tên thép chụp xuống chúng như một trận mưa rào, lần nầy không còn chịu đựng nỗi, chúng bỏ phòng tuyến tốc chạy ào về hướng đầu phi đạo phía Nam, quân ta rượt theo bắn giết, đến cuối phi đạo chúng phải lội vượt qua một cái hào khá lớn, mục tiêu quá tốt cho tôi, lần nầy tôi chỉ phóng từng quả một vào đám quân đang bơi thục mạng bên dưới.
 
Sáng sớm, khi vừa cất cánh, tôi đã gọi Trung Tâm Hành Quân Không Trợ 4 (ASOC 4) xin phi tuần, giờ nầy vẫn chưa cho biết có phi-tuần hay không?
Địch đã tổn thất nặng nề, đang rút lui chạy đen đầu ngoài đám ruộng khô phía Nam phi trường, bây giờ có Gunship hoặc pháo binh thì hay quá, tôi gọi lại ASOC 4, có tiếng trả lời “Sơn Ca 23, bạn hãy chờ!”. Tôi gào thét gọi pháo binh để bắn theo truy kích, anh Tiểu-Đoàn-Trưởng nói với tôi “Sơn Ca, anh đừng gọi nữa, bọn họ đã bỏ đi hết rồi, bây giờ chỉ còn anh trên đó và tôi dưới nầy thôi, khi nào có ghé Sóc-Trăng, gọi vào Hậu Cứ tôi, tôi ra nhậu với mấy anh một bữa cho thật đả, tôi là : Đống Đa, Ủng Hộ, Đống Đa.”
 
Tôi không còn hỏa tiễn để bắn, tôi bay đuổi theo địch để anh Lợi ngồi ghế sau bắn M79 xuống, còn tôi điều chỉnh mấy khẩu súng cối cơ hữu của tiểu đoàn bắn theo tới tấp. Phi vụ hành quân yểm trợ quân bạn hôm nay hy hữu vô cùng, phi cơ quan sát của chúng tôi không bao giờ trang bị vũ khí, vũ khí của chúng tôi là gọi pháo binh bắn, hay hướng dẫn oanh tạc cơ thả bom, bây giờ khản cổ xin oanh tạc cơ mà chẳng thấy ai trả lời, còn pháo binh thì đã “Thế lên đường hết rồi”. Tôi không ngờ đây là phi vụ hành quân cuối cùng trong đời binh nghiệp của tôi, sau nầy tôi mới biết rõ và hãnh diện: Tôi đã bay phi vụ hành quân cuối cùng của Không Lực VNCH.
 
Tôi hướng dẫn quân bạn truy đuổi, lục soát, thu chiến lợi phẩm và đếm gom xác chết, tôi tiếp tục điều chỉnh súng cối bắn theo địch.
Lúc ấy, nhìn đồng hồ tôi đã bay hơn 4 tiếng rồi, tôi gọi Trung “Tao về đáp đổ xăng, lắp rocket lên bắn tiếp, tụi mầy đừng cất cánh vội, tụi nó còn chém vè xung quanh phi trường nhiều lắm”. Trên đường bay về, tôi tiếp tục điều chỉnh súng cối bắn, thì VC vào tần số FM của tôi đang liên lạc với quân bạn, gọi tôi “Sơn Ca, Dương văn Minh đã tuyên bố đầu hàng rồi, sao anh còn bắn chúng tôi hoài vậy ?”Anh Lợi thét lên “Mầy đừng nói láo, Dương văn Minh đầu hàng thì tao tự sát”. Chúng nó chẳng thèm trả lời, mà đưa ống liên hợp của máy FM vào gần máy thu thanh, để cho chúng tôi nghe được lịnh kêu gọi buông súng tại chỗ của Tổng-Thống.
Tôi kêu lớn 1 tiếng “Trời ơi” tay đấm mạnh liên hồi vào cửa sổ phi cơ, bàng hoàng tưởng như trong giấc chiêm bao.
 
Tôi về đáp Bạc-Liêu đổ đầy xăng, lắp 4 hỏa tiễn chống biển người còn lại và 4 Rocket đầu nổ mạnh vào dàn phóng, tôi chạy về nhà, còn anh Lợi chạy thẳng vào Trung Tâm hành quân để gặp Đại-Tá Tiểu-khu-Trưởng.
Tôi vừa bước vào nhà thì Thiếu Tá Giang-kim-Hà (Sĩ quan liên lạc KQ tại Tiểu khu Bạc-Liêu) cũng vừa đến tìm tôi, anh nóí “Trên Vĩnh-Long, Tướng Hoàng-văn-Lạc của SĐ 9 chưa chịu đầu hàng, mình lên thử xem, tôi có người bác làm An Ninh Quân Đội trên đó”.
Tôi quyết định sẽ bay lên Vĩnh-Long để cùng chiến đấu với SĐ 9.
 
Tôi và anh Hà ăn vài chén cơm vội vã, tôi bảo vợ tôi lấy cho ít tiền bỏ túi, anh Hà cũng không có sẵn tiền đem theo, vợ tôi lấy cho anh mượn 5.000$.
Vừa cất cánh xong, tôi gọi Trung ở tầng số FM, không thấy Trung trả lời, tôi vào tầng số Paddy, gọi xem có bạn nào trên tầng số không? Có vài bạn PĐ 116 và PĐ 122 liên lạc với tôi, tôi báo cho họ biết SĐ 9 còn tiếp tục chiến đấu, tôi sẽ lên đáp tại Vĩnh-Long (VL).
 
Trên đường bay lên VL, tôi đã bắn hết 8 quả Rocket vào những mục tiêu nào, chỉ có duy nhất Thiếu Tá Hà biết. Tôi đáp xuống VL, lần lượt 6 chiếc khác theo tôi đáp xuống, có một bạn nào đó của PĐ 122 báo cho tôi biết, anh ta từ phi trường Long Xuyên bay qua, phi trường Long Xuyên bây giờ hỗn độn lắm vì nhiều phi cơ từ Trà Nóc lên đáp đổ xăng, 1 chiếc của phi đoàn 122 rớt xuống ở đầu phi đạo, hoa-tiêu là Trung-Úy Thân chết tại chỗ, Quan-sát-Viên là Đại-Úy Trương công Tấn, gãy xương sống, được anh em lôi ra khỏi phi cơ còn nằm trên đó không biết có chết không? (anh Tấn không chết, và anh sống vất vưởng cuộc đời tàn phế 40 năm rồi, hiện nay anh còn bán thuốc lá lẻ ở VN) phi đoàn 116 của anh thì tôi thấy Lý hữu Hiệp từ Sóc Trăng bay lên đáp trên ấy, Đại-Úy Trung ngồi ghế sau đã bị VC bắn chết trên phi cơ. Trời ơi, một tin khủng khiếp cho tôi mà anh ta kể rất bình thường, tôi chụp vai anh ta hỏi “Trung chết thật sao, ông có thấy xác Trung không?”
 
Anh ta đáp: “Tôi không thấy, nhưng Lý Hữu Hiệp nói anh ta vừa cất cánh ở ST, thì VC ngoài Quốc lộ bắn anh bằng đại liên, anh nghe phi cơ bị trúng đạn, khi đã lên cao, anh gọi Trung, không nghe Trung trả lời, anh quay lại nhìn thấy đầu Trung đã nghẻo sang một bên, Trung đã chết ngay trên phi cơ, Hiệp kể lập cập cho chúng tôi nghe mà mặt mày xanh dờn, còn khiếp đảm lắm”!
Trung đã chết vào giờ thứ 25 của cuộc chiến đau thương, bỏ lại người vợ trẻ và hai đứa con thơ…
Chiều hôm ấy, Ông Tướng của SĐ 9 cũng phải ra lịnh buông súng. Bọn nước lớn đã ký giấy khai tử VNCH thì chúng ta làm gì hơn… “Lực bất tòng tâm, thôi đành trôi theo vận nước”.
 
Vị Tiểu-Đoàn-Tưởng “Đống-Đa, Ủng-Hộ, Đống-Đa” sau nầy tôi được biết là Đại-Úy Võ-Văn-Đốt, TĐT Tiểu-Đoàn lừng danh 486 của Tiểu-Khu Ba-Xuyên, anh bị phe chiến thắng mang anh từ trại cải tạo về Sóc-Trăng, xử tử anh để trả thù trận đánh sau cùng ấy.
Tiểu-Đoàn-Phó là Đại-Úy Tiết, đang sinh sống tại Santa Ana, trong một ngày nào đó trên đất Mỹ, vô tình gặp lại anh Lợi và tôi trong một tiệc cưới, kể lại cho chúng tôi nghe tầm sát hại của hỏa tiễn chống biển người, khi Rocket tôi bắn ra, anh ở dưới đất nghe như một trận mưa rào thật lớn, từ trên chụp xuống hàng ngàn mũi tên thép, dài độ 6,7 phân, sau đuôi có 4 cánh nhỏ, mãnh lực có thể xuyên cả áo giáp, địch ngã ra chết như rạ.
 
Còn chúng tôi ở lại phi trường VL, sáng 1 tháng 5, VC vào tiếp thu phi trường, chúng tôi bị giữ lại và sau đó chúng đưa chúng tôi vào khám lớn Vĩnh-Long.
Cuộc đời tù đày của tôi bắt đầu từ 1 tháng 5 năm 1975…
Sơn Ca 23. Lê Văn Sùng
___________
Ghi chú :
Tôi tìm hiểu về loại Rocket chống biển người mà tôi đã bắn ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi được hai người bạn am hiểu cho tôi biết :
1. Nguyễn-thế-Qui (bay khu-trục) anh cho biết, thỉnh thoảng anh cũng được trang bị Rocket đó, dùng khi căn cứ bạn bị tràn ngập, đó là loại vũ khí sát thương hàng loạt vì bị phía bên kia phản bác, nên Mỹ ít dùng, mỗi quả khoảng 1.200 mũi tên thép, bắn thẳng góc 90 độ sẽ xuyên qua áo giáp.
 
2. Nguyễn anh Tuấn (bay trực thăng) anh cho biết : Đó là Rocket M255 A1/MK 66, chứa 1.179 mũi tên thép có đuôi, chống biển người, đầu nổ M255 A1, Rocket Motor 66, đường kính 2.75 inches (70 mm) nặng 30 lbs.
 
* Donovan Nguyen
Hi Thi..FYI, tôi là "Sỉ Quan trực" cuối cùng của phi đoàn 116, và tôi sẽ xong nhiệm vụ này vào lúc 12 giờ trưa ngày 30-4-75.
Vào khoảng 6 giờ sáng ngày 30-4-75, thì anh Nguyễn ngọc Trung có gọi điện thoại về phi đoàn và tôi là người đã nói chuyện với anh Trung. Anh Trung cho biết là Việt Cộng đang đánh vào phi trường Sóc Trăng và anh ấy bảo tôi thông báo cho ông Thiếu Tá Bùi Kim Điền (Trưởng Phòng Hành Quân) và anh Trung còn nói thêm là phải xin "gunship" để tiếp cứu..
 
Không lâu sau đó thì tôi cũng nhận được điện thoại từ Tiểu Khu Rạch Giá yêu cầu phi hành đoàn của Đại Úy Nguyễn Quang Huy về lại Rạch Giá vì phi trường Rạch Sỏi đang bị tấn công..
Note: anh Huy cuối cùng cũng rời khỏi phi trường Trà Nóc và đến Utapao vào chiều ngày 30-4-75
* Thi Pham
Những giờ phút không bao giờ quên!
-----------------

 
---------------
 
Tony Nguyễn
NỖI BUỒN THÁNG TƯ
"Giấc mộng không thành âu cũng bởi,
Nhạc buồn năm cũ vẫn còn ngân."
(Tường Vân)
GIẤC vừa đang giữa, súng vang rân,
MỘNG đã tan tành theo gót chân.
KHÔNG lẽ quê nhà đang mạt vận,
THÀNH ra vướng phải hoạ vô thần.
ÂU vì thói giả gian đưa dẫn,
CŨNG tại lòng mê muội soán dần.
BỞI vậy giờ nghe càng oán giận,
NHẠC BUỒN NĂM CŨ VẪN CÒN NGÂN.
Tony Nguyễn 
------------------
BƯỚC MỎI
Nhạc buồn năm cũ vẫn còn ngân
Mà dấu yêu xưa mãi lạc vần
Đẫm chén quan hà mơ khách tục
Lưng bầu cúc tửu khóc tình nhân
Lãng câu duyên nợ cùng trăng gió
Bỏ kẻ phong sương lỡ bước trần
Giấc mộng không thành âu cũng bởi
Phiên đời ấm lạnh hỏi lòng chân.!
Tường Vân
------------ 
Nam Giao
Nhớ mãi những ngày của Tháng TƯ tràn đầy huyết lệ:
THÁNG TƯ VỀ.
Ta rất đau
qua ngày tháng nổi trôi
Như người ở lại - buồn theo vận nước
Nói gì đi - khi Tháng Tư trở bước?
Từng giòng sông - từng đồi núi oại oằn
Ta đếm mãi hoài
Tháng Tư mỗi năm
Và thầm gọi - những anh linh người lính
Trong bão lửa đạn thù - vây phủ kín
Vẫn xung phong - thà chết chẳng quy hàng
Chiến Mã muôn đời
vẫn ngửa mặt hí vang
Ta kiêu hãnh trong thân "tù cải tạo"
Và một cảnh tù quê hương - chao đảo
Triệu triệu người cũng bỏ nước - ra đi
Tháng Tư buồn
qua những cuộc phân ly
Kẻ chiến thắng - miệng ngậm đầy máu đỏ
Người thua cuộc - gồng mình trong gian khó
Nuốt hờn căm - vượt qua ngõ lưu đày
Tháng Tư về -
ta nâng chén rượu cay
Hồn viễn xứ - đáo hồi quê hương cũ
Mưa có rơi - xin đừng gieo bão lũ
Để dân Nam đứng vững - dựng Cờ Vàng...
NAM GIAO /AZ.
-----------
 
Cao Kim Dung
THÁNG TƯ BUỒN MÊNH MANG....
Tháng tư đầu mùa hạ
Khí trời sao oi ả
Nắng loang trước hiên nhà
Con người thật tơi tả
Từ ngày anh gẫy súng
Đổ cả một miền Nam
Lao động và lao tù
Mọi người cùng nếm trải.
Đã năm mươi năm rồi
Người đi và kẻ ở
Lòng chưa thấy bình yên

Nỗi buồn không dừng lại.
Saigon bao là chuyện
Tưởng không ngu mà có
Lại là ngu không tưởng
Từ người xứ Chiều Nay.
Xưa Bà Huyện Thanh Quan
Đèo Ngang dừng chân nhớ
Thương nhà con quốc quốc
Mỏi miệng cái gia gia...
Tôi giờ đâu có khác
Mỗi tháng tư trở lại
Nhớ thương ngập cả lòng
Tháng tư buồn mênh mang...
Cao Kim Dung
16/4/2025
Ảnh internet
--------------- 
 
nỗi buồn “Tháng Tư Đen”

Người Lính Già Tqlc
Cổ Lai Chinh Chiến
Cổ lai chinh chiến gục đầu khóc
Mang nỗi bi thương bỏ nửa chừng
Súng gươm bỏ dở sao lại thế
Chắc tại sinh lầm thế kỷ chăng?
Tủi hờn hờn tủi rồi vẫn sống
Phiêu bạt lang thang ở xứ người
Mong ngày trở lại gầy dựng nước
Tóc đã hoa râm chẳng thấy gì
Nỗi đau vong quốc đành một kiếp
Mòn mỏi đợi chờ hết tuổi xuân
Muốn hỏi trời cao xin cho biết
Ngày về quê mẹ có còn xa ?
Một gánh giang sơn gẫy nửa chừng
Đau lòng viễn xứ người lính cũ
Tan nát tim gan nhớ chiến trường
Chờ ngày trở lại chắc còn không ?
Cúi xin trời già thương nhỏ lệ
Người lính năm xưa vẫn đợi chờ
Đợi ngày về lại chiến trường cũ
Để chết liệt oanh giữa trận tiền…
Người Lính Già TQLC 
----------------- 
 
Thai Tran
BUỔI TRƯA 30/04...
Tay năm ngón buổi trưa nào gãy vụn
Súng vô tri thân chết đứng như trồng
Bao công lao gầy dựng của cha ông
Giờ buông súng theo lệnh truyền tê điếng!
Răng cắn môi máu trào nơi cửa miệng
Mắt thẩn thờ nhìn một cõi xa xăm
Tay trắng tay như buông hết nợ nần
Giờ mất nước còn có gì đâu sá
Ta chỉ muốn hãy tan đi tất cả
Những dáng người tất tả chạy ngược xuôi
Tim thắt đau bóp tiếng nói nghẹn lời
Muốn la hét dậy trời tan uất ức...
Những tháng sau ngày dài trong địa ngục
Những cán binh việt cộng trả hận thù...
 
-----------------
 

Thai Tran

THÁNG TƯ...
Tôi về gặp lại tháng Tư

Cờ treo rợp bóng mịt mù đỏ tươi
Nhớ màu máu đỏ khắp trời
Xác người chồng xác một thời đau thương
Đại lộ đỏ hết con đường
Kinh hoàng một thuở máu xương xây thành
Cuộc vui mừng chiến công anh
Chuốc thêm chén rượu đỏ bầm máu dân
Đôi con mắt mẹ vô thần
Rưng rưng lệ chảy chung quanh ăn mừng..
  
Thai Tran
THÁNG TƯ..
Nếu tờ lịch không có tháng tư
Thì chắc hẳn điềm nhiên vui sống
Ta sẽ quên những ngày ác mộng
Nhưng hỏi vì sao ở chốn này ?!
Làm sao quên những điều oan trái
Những tháng ngày đày đọa rừng sâu
Mẹ trông con tựa cửa âu sầu
Vợ lê lết vùng kinh tế mới
Tan nát gia đình vì sao nên nỗi ?
Mất nước rồi tứ tán phân ly
Tháng tư đau lòng mãi khắc ghi
Ngày quốc hận muôn đời luôn nhớ...
 
-----------------
 
Chi Nguyen
THÁNG TƯ
Tháng tư kỷ niệm buồn thật nhiều,
Ly tán gia đình kẻ mất tiêu.
Nước mắt chan hòa tiễn cha mất,
Con thơ vợ trẻ sống lêu bêu.
Tháng tư kỷ niệm ở Vũng Tàu,
Lo lắng đi tìm ra bãi sau.
Cứ ngóng trông mong hạm đội Mỹ,
Thuyền con đưa đón chuẩn bị mau.
Ngoài khơi hạm đội có ở xa,
Đã sắm thuyền ghe chèo ngay ra.
Đến được con tàu lại ly tán,
Người đi kẻ ở khóc rời cha.
Các anh lính trẻ sống xa nhà,
Cởi bỏ áo quần nhìn xót xa.
Khắp phố lang thang tâm hoảng loạn,
Người dân giúp đỡ khổ cũng qua.
Miền nam thất thủ mọi người đau,
Ai có điều kiện nước bỏ mau,
May mắn được lên thất hạm đội,
Ra đi tay trắng gầy lại sau.
Sài Gòn hôm ấy bến Bạch Đằng,
Kẻ ở người đi lo sợ căng.
Dẫu có ra sao đâu mà biết,
Lên tàu cái đã khí thế hăng.
CN 16.04.2025
 
 
----------------------
Cao Kim Dung
THÁNG TƯ ĐEN- VIẾT VỀ NGƯỜI CHIẾN BINH VNCH...

Đã lâu rồi có nhiều người hỏi em : sao hay viết bài hat và hình ảnh về người chiến binh VNCH ? Có kỷ niệm nào chăng. ..
Em xin thưa rằng : em sinh ra và lớn lên tại Saigon -Miền Nam VN trong thời điểm chiến tranh, nên hình ảnh, những câu chuyện về họ đã là ký ức đẹp, là thanh xuân của em và các bạn đồng trang lứa...
Ngay trong gia đình em, các anh trai em họ hàng hai bên nội ngoại, những người yêu em & cả người em yêu đều là những quân nhân trong QLVNCH.
Chung quanh cuộc sống an lành của em ngày đó là hình ảnh của các anh lính Nhảy Dù,- Mũ Đỏ, các anh Biệt Động Quân - Mũ Nâu, các anh TQLC - Mũ Xanh, các anh Quân Cảnh, Cảnh Sát, Không Quân , Hải Quân, Bộ Binh....nhiều nhiều lắm. 
 
Họ là những chàng trai tuổi mới mười tám, đôi mươi đang còn ngồi trên ghế nhà trường trung học, trong các giảng đường đại học... nhưng chiến tranh tràn lan khắp nơi trên quê hương...họ đành xếp áo thư sinh, khoác áo treilli, giày Sault, nón sắt để giữ gìn tự do, bình an, hạnh phúc cho Miền Nam, cho đồng bào...
Họ là thế đấy, với nhiệt huyết của tuổi trẻ, lòng yêu quê hương, quốc gia VN....hình ảnh các sắc phục binh chủng của QLVNCH cùng sự tử tế, nhân bản, lương thiện của họ đã in đậm trong tâm khảm của em, của chúng tôi ngày đó.. 
 
Quân sử đã chứng minh họ là những quân nhân VNCH đáng khâm phục, kính trọng khi vận nước điêu linh. Không phân biệt cấp bậc, từ những vị tướng lãnh đến các chiến binh trong các quân chủng, họ đã thực hiện quân lệnh TỔ QUỐC - DANH DỰ - TRÁCH NHIỆM,
Người ở lại Charlie Trung Tá Nguyễn Đình Bảo,
Anh không ch.ết đâu Anh, Trần Văn Đương,
Rừng lá thấp, Đại úy Lê Mạnh Hùng.
Đại tá Không Quân Lưu Kim Cương
Thiếu tá TQLC. Lê Hằng Minh.
Và rất nhiều các chiến binh ẩn danh khác
Tất cả họ đã Vị Quốc Vong Thân.
Vào những ngày tháng tư đen tối năm 1975
Các anh đã tuẫn tiết để bảo toàn khí phách người lính VNCH.
Những hình ảnh xúc động của các anh MX - TQLC cùng nhau tuẫn tiết trên bãi biển Mỹ Khê ngày 17/3 năm đó,... 
 
hình ảnh cố Trung Tá Cảnh Sát Long trong bộ quân phục, trưa ngày 30/4/75 tại trung tâm Saigon ....
Rồi câu chuyện về các lãnh tướng ở vùng IV : Tướng Lê Văn Hưng, tướng Nguyễn Khoa Nam, Tướng Trần Văn Hai....đã đi vào vào quân sử, đi vào lòng người dân Miền Nam... 
 
Những tù binh hiệp định MX- TQLC KBC 3335, Nhảy dù... Trong trận Cửa Việt 31/1/1973
Những anh thương binh tại các Quân Y Viện, các anh Thuong Phế Binh đã để lại một phần thân thể của mình trên khắp các mặt trận.. 
 
Thế đấy, vì tất cả các điều trên nên em luôn cảm phục, ghi ơn, luôn nhớ đến họ, những chiến binh VNCH.
Chúng tôi nợ các Anh một ân tinh.
Tôi yêu quý các Anh !!!
Cao Kim Dung
15/4/2025
--------------------------------
 
 
--------------------------------

Son H Cao
Trong mắt em chiều lệ đẫm quanh
(Lê Nguyên Ngữ)
 
Tháng ba năm môt chín bảy lăm, tháng của định mệnh, nước mắt đắng cay và lửa máu!! Cơn bão lửa thịnh nộ của Bắc quân đã đổ ập lên đầu những ngườI dân vô tộI tạI miền Tây Nguyên gió núi lá ngàn xanh. Ngày 9 tháng ba, các đơn vị thuộc SĐ10 Bắc Việt mở những cuộc tấn công đồng loạt đều khắp tỉnh Quãng Đức. Tại Kiến Đức, BĐQ đẩy lui các đợt tấn công của địch. TạI Đúc Lập, Bắc quân cũng bị đánh lui. Nhưng tại Dak Song, phía nam Đức Lập, sau những đợt tiền pháo hậu xung ác liêt, địch tràn ngập vị trí đóng quân của Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 53, SĐ23BB.
 
Tướng Phú lúc này chợt hiểu chính Darlac mới là mục tiêu chính của chiến dịch và ông cần phải có ngay quân tăng viện cho Ban Mê Thuột, trước khi quá muộn! Ông yêu cầu Bộ Tỗng Tham Mưu lập tức tăng cường thêm cho Quân Khu 2, một Liên Đoàn BĐQ, nhưng lời yêu cầu đã bị bác vì Bộ TTM hầu như không còn quân trừ bị trong tay, và chính Sàigòn lẫn Tây Ninh cũng đang bị áp lực mạnh của Cộng quân. Không còn quân trừ bị để xoay xở, Tướng Phú buộc phải rút hai tiểu đoàn 72 và 96 thuộc LĐ 21 BĐQ từ đèo Chư Pao và Kontum, trực thăng vận về Buôn Hô, cách Ban Mê Thuột 35 km, dùng đường bộ tiến về Ban Mê Thuột. Đại Đội Trinh Sát 45 tại Bản Đôn cũng được lịnh quay trở lại phòng thủ Ban Mê Thuột.
 
Ngày N, giờ G: 2 giờ sáng ngày 10 tháng ba năm một chín bảy lăm, Bắc quân tấn công Ban Mê Thuột. Trung đoàn đặc công 198 và hai tiểu đoàn chính qui địch bí mật xâm nhập vào thị xã Ban Mê Thuột từ trước mở những đợt tấn công dữ dộI vào phi trường Phụng Dực, phi trường L19, kho tiếp vận Mai Hắc Đế và Bộ Tư Lệnh SĐ23 BB. Các đơn vị Bắc quân của các SĐ 10, 316 và 320, tân công ào ạt vào thị xã Ban Mê Thuột từ ba hướng với sự yểm trợ của 64 chiến xa và xe bọc thép thuộc Trung Đoàn thiết giáp 273 BV và cơn bão lửa rung chuyễn núi rừng Tây Nguyên của 78 khẩu pháo nặng của hai trung đoàn pháo BV bắn cấp tập vào các mục tiêu đã định sẵn, cùng một lưới lửa của 2 trung đoàn pháo cao xạ phòng không địch giăng kín bầu trời Ban MêThuột, ngăn cản mọi yểm trợ cận yểm của không lực miền Nam. Bắc quân áp dụng chiến thuật sở trường “ Hoa Sen Nở” đánh thật bất ngờ, vũ bão và ác liệt với quân số và hỏa lực áp đảo vào các cơ quan chỉ huy đầu nảo của quân trú phòng, nhằm làm tê liệt rốI loạn mọI sự điều động kháng cự và phản công của quân đồn trú; sau đó từ trung tâm mục tiêu đánh tỏa ra ngoài để tiêu diệt nốt các lực lượng phòng thủ ngoạI vi đang rối loạn vì không còn liên lạc được với trung tâm chỉ huy. Giao tranh diễn ra ác liệt taị Bộ Tư Lệnh SĐ 23, khu phía nam dinh Tỉnh Trưởng, và Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Darlac. Năm chiến xa địch bị bắn cháy gần BTLSĐ23, nhưng một lầm lẩn đáng tiếc đã xãy ra làm tê liệt sức kháng cự tại khu vực này. Một máy bay của không quân trong khi yểm trợ lực lượng phòng thủ đã thả lầm bom vào Bộ TLSĐ, hủy diệt Trung Tâm Hành Quân Chiến Thuật cùng mọi phương tiên truyền tin liên lạc! Sau 32 giờ chống trả quyết liệt, BTLSD23 bị địch quân tràn ngập, Tư Lịnh Phó SĐ 23 sa vào tay quân BV. Riêng lực lượng trú phòng tại phi trường BMT đẩy lui được nhiều đợt tấn công của quân địch, bảo vệ được đài kiểm soát không lưu, dù một số máy bay của SĐ6 Không Quân đã bị phá hủy khi địch tấn công mãnh liệt vào phi trường.
 
Tới chiều tối ngày 10 tháng ba, sau những đợt dập pháo dữ dội, với T54 yểm trợ, quân Bắc Việt mở liến tiếp nhiều đợt xung phong quyết liệt đã chiếm được vùng trung tâm Ban Mê Thuột, tuy vậy các lực lượng còn laị cuả Trung Đoàn 53, Thiết giáp và lực lực lượng diện địa vẫn giữ vững vị trí ở khu vực phía tây, đông và nam của thị xã BMT. Giao tranh vẫn tiếp diển ác liệt tạI phi trường Phụng Dực, nơi lực lượng của Bộ Tư LịnhTiền Phương SĐ23, Bộ CH Trung Đoàn 53 BB và Chi Đoàn 3, Lữ Đoàn 8 Thiết Kỵ vẫn tiếp tục cuộc kháng cự. Cưòng độ giao tranh vẫn khốc liệt giữa quân chính qui BV với các đơn vị của Trung Đoàn 53 BB và hai tiểu đoàn thuộc LĐ 21 BĐQ kéo dài tới tận ngày 11 tháng ba. Bắc quân chắc chắn phải bội phần kinh ngạc vì không ngờ những ngườI lính miền Nam với quân số, hỏa lực yếu kém chưa bằng được một phần mười quân địch, dù bị tấn công bất ngờ vẫn chiến đấu kiên cưòng cho tớI lúc không còn đạn dược mới chịu rút lui, hoặc buông súng đầu hàng!
 
Những cuộc giao tranh ác liễt vẫn tiếp diễn trọn ngày 11 tháng ba. Quân trú phòng ước tính có tớI 400 quân BV bị bắn chết, tich thu 50 vũ khí đủ loại và bắn cháy 13 chiến xa địch. Lực lượng thuộc Trung Đoàn 53 BB bảo vệ phi trường BMT báo cáo, quân BV đã xử dụng súng phun lửa trong các đợt tấn công vào vị trí phòng thủ của quân ta. Các ổ kháng cự rải rác còn lại của quân trú phòng trong thị xã vẫn chiến đấu dù Đại Tá Tỉnh Trưởng Nguyễn Trọng Luật đã bị địch bắt đi.Trong khi đó, LĐ4 BĐQ đụng nặng với Bắc quân dọc QL19, gần cầu 23 và căn cứ hỏa lực 93 khi Trung Đoàn 95B BV mở cuộc phản công dữ dội vào những ngày 11,12 tháng ba nhắm vào các đơn vị mũ nâu. Cộng quân cũng nả pháo vào Bộ TLQĐ 2 và phi trường Pleiku gây hư hại cho một số phi cơ tại đây.
 
Vào ngày 12 tháng ba, mọi sự kháng cự có tổ chức tại Ban Mê Thuột chấm dứt. LĐ21 BĐQ với thành phần sống sót của hai tiểu đoàn tham chiến mỡ đường máu rút lui về vị trí gần phi trường Phụng Dực. Tướng Phú lập tức cho trực thăng vậnTrung Đoàn 45 về quận Phước An, trên QL21, phía đông Ban Mê Thuột nhằm thực hiện kế hoạch phản công tái chiếm Ban Mê Thuột. Ngày 13 tháng ba, SĐ 320 BV cũng cố xong vị trí chiếm được tại thị xã Ban Mê Thuột, bắt đầu tiếp tục tấn công vào phi trường Phụng Dực. Nhận thấy tình hình hết sức nghiêm trọng tại Quân Khu 2, Bộ TTM quyết định tăng viện đơn vị tỗng trừ bị cuối cùng cho Tây Nguyên: LĐ7 BĐQ được không vận đến Pleiku thay thế cho Trung Đoàn 44 đang đóng tại phía tây Pleiku để QĐ2 có thể tung đơn vị này vào việc phản công giải tỏa Ban Mê Thuột.
 
Vào ngày 14 tháng ba, Tướng Phú cho thành lập một Chiến Đoàn đặc nhiệm tại Phước An, gồm Trung Đoàn 45, một tiểu đoàn và Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 44, một tiểu đoàn còn lạI của LĐ21BĐQ; tất cả đặt dưới quyền điều động của tướng Chuẩn Tướng Lê Trung Tường, Tư Lịnh SĐ23BB. Nhiệm vụ cũa chiến đoàn đặc nhiệm là sẽ tấn công về hướng tây dọc theo hai bên QL21 để bắt tay với lực lượng bạn gồm Tiểu Đoàn 3 Trung Đoàn 53, đã ác chiến vớI đich tại phi trường Phụng Dực suốt bốn ngày liên tục; các thành phần còn laị của Tiểu Đoàn 1, Trung Đoàn 53, rút lui về từ phia tây thị xã và của hai Tiểu Đoàn 72 và 96 thuộc LĐ21BĐQ. Cuộc phản công sẽ được yểm trợ về tiếp vận từ Nha Trang; và một lực lượng đặc nhiệm khác gồm 5 tiểu đoàn Điạ Phương Quân của tỉnh Khánh Hoà được lịnh hành quân mở đường đoạn từ Nha Trang đến tận Khánh Dương.
Ngày 14 tháng ba Tướng Phú bay về Cam Ranh dự buổi họp định mệnh với TT Thiệu, một buổi họp lịch sữ, quyết định số phận nghiệt ngã của miền Nam tự do, và đồng thời khai tử luôn Quân Lực VNCH, một quân lực đã chiến đấu gian khổ suốt hai mươi năm trường, để bảo vệ, gìn giữ sự vẹn toàn của từng tấc đất cho miền Nam tự do !! Tham dự cuộc họp có Đai Tướng Viên, TTM Trưởng, Tướng Đặng V.Quang, Cố vấn An Ninh, và Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm. TT Thiệu đã phát họa kế hoạch chiến lược phòng thủ miền Nam trong tình hình mới. Ông ra lịnh cho Tướng Phú phải chiếm lại Ban Mê Thuột bằng mọi giá, vì theo ông Ban Mê Thuột quan trọng trong việc phòng thủ miền Nam hơn Pleiku hay Kontum. Ông cho biết thêm về khái niệm chiến lược “Đầu Nhẹ, Đáy Nặng” bao gồm việc bỏ vùng lãnh thổ phía Băc, bỏ Pleiku, Kontum, lui về lập tuyến phòng thủ bảo vệ Ban Mê Thuột (phải chiếm lại) và các tỉnh vùng đồng bằng duyên hải, đông dân cư, trù phú, cùng toàn bộ Quân Khu 3 và 4. Lý luận của ông rất đơn thuần “ sự giảm quân viện của người Mỹ gây vô cùng khó khăn cho Quân Lực VNCH trong việc chiến đấu chống quân xâm lăng Cộng Sản. Nếu ngườI Mỹ viện trợ đầy đủ, chúng ta sẽ gìữ được toàn thể lãnh thổ. Nếu họ chỉ cho chúng ta có một nữa thì chúng ta sẽ chỉ giữ một nửa!!!!” .
 
Buổi họp định mệnh đó chỉ kéo dài đúng một tiếng rưởi đồng hồ! Bốn quyết định quan trong được thông qua: (1) Lực lượng chính qui của QĐ2 sẽ rút khỏi Pleiku-Kontum về vùng duyên hải, phôi hợp vớI lực lượng của SĐ22 tạI Bình Định để hành quân tái chiếm Ban Mê Thuột. 
(2) Các lực lượng diện địa và các viên chức chính quyền địa phương sẽ được để lại. 
(3) Cuộc tái phối trí phãi được tiến hành chỉ trong thờI hạn vài ngày và tuyệt đối trong vòng bí mật. Và 
(4) VớI các QL19, 21 đã bị cắt đứt, Liên Tỉnh Lộ 7B, một con đường phụ, tách khỏi QL14 khoãng ba mươi ba km, về phía nam Pleiku, chạy theo hướng đông nam, qua Hậu Bổn (Cheo Reo) về Tuy Hòa được chọn làm đường rút quân để tạo yếu tố bất ngờ. Liên tỉnh lộ 7B là một con đường nhỏ, lồi lỏm, bỏ hoang từ lâu, dài khoãng 250 km với những đoạn đưòng đầy bụi rậm, những khúc sông cạn nơi xe cộ và con ngườI có thể vượt qua được cần phải tu bổ, sửa chửa, cũng như cây cầu chính bắc qua Sông Ba, phiá nam Cũng Sơn bị phá hủy không còn xử dụng được, và một đoạn đường chót đi vào Tuy Hoà vô cùng nguy hiễm vì đầy rẩy mìn bẩy cuả quân đội Đại Hàn đã gài phong tỏa trước đây. Sau buổi họp với TT Thiệu, Tướng Phú bay trở lại Bộ Tư Lệnh QĐ2 để chuẩn bị kế hoạch lui quân, tái phối trí lực lượng.
 
Đêm 13 tháng ba, đặc công Cộng Sản đột nhập kho đạn Pleiku, phá hủy 1400 quả đạn pháo 105 ly. Tình hình an ninh tạI Pleiku trở nên tồi tệ vì phần lớn lực lượng của hai trung đoàn 44 và 45 đã được đưa về Phước An, chuẩn bị cho cuộc hành quân tái chiếm Ban Mê Thuột.
 
Tướng Phú ra lịnh xử dụng máy bay của SĐ6 KQ, di tản các quân nhân và gia đình thuộc những phòng sở không quan trọng tại Pleiku và Kontum. Đại Tá Giao, quyền Tư Lệnh SĐ6 Không Quân điều động việc di tản tại phi trường quân sự Pleiku. Chuẩn Tướng Trần V. Cẩm, Tư Lệnh Phó đặc trách hành quân của QĐ2, chỉ huy các lực lượng nằm tạI Pleiku; còn Đại Tá Phạm Duy Tất, Tư Lệnh BĐQ Vùng 2, vừa được thăng Chuẩn Tướng, phụ trách các lực lượng diện điạ của tiểu Khu Kontum và ba LĐ 6,22,23 BĐQ đang bảo vệ mặt bắc Kontum. Tướng Phú cho dời Bộ Tư Lệnh QĐ2 về Nha Trang, và bổ nhiệm Đại Tá Trịnh Tiếu, Trưởng phòng 2 QĐ thay thế ĐạI Tá Nguyễn Trọng Luật đã bị bắt, làm Tỉnh Trưởng Darlac. Trưóc khi bay về Nha Trang, Tưóng Phú chỉ định Chuẩn Tưóng Tất, chỉ huy toàn bộ cuộc triệt thoái khỏi Kontum và Pleiku về Tuy Hòa bằng Liên Tỉnh Lộ 7B.
 
Ngày 15 Tháng ba, khi các lực lượng SĐ23 tại Phước An bắt đầu cuộc phản công tái chiếm Ban Mê Thuột, tình hình các đơn vị còn lại của Trung Đoàn 53 tại phi trường Phung Dực càng lúc càng xấu hẳn. Các chiến sĩ SĐ23 và BĐQ tại đây dù bị những trận mưa pháo không ngừng của Bắc quân, vẫn liên tục đẩy lui những đợt tấn công biển người của Trung Đoàn 25 chính qui BV. Mặt Trận B3 địch tung thêm SĐ 316 vào trận điạ, chuẩn bị cho đợt tấn công cuối cùng, dứt điểm tuyến phòng thủ đã tơi tả của quân ta. Đồng thời, Tướng Văn Tiến Dũng, Tư Lệnh chiến dịch 275 Bắc quân, ra lịnh cho SĐ 10 BV từ Đức Lập, bôn tập lên chặn đánh chiến đoàn đặc nhiệm của QĐ2 tại Phưóc An, không để lực lượng này bắt tay vớI quân trú phòng còn lại của Trung Đoàn 53. SĐ 10 địch với chiến xa và pháo nặng yểm trợ đã chận đứng lực lượng tiền tiêu cuả Trung Đoàn 45 tạI sông Ea Nhiêu, khi chỉ còn cách các đơn vị đang bị vây hãm của Trung Đoàn 53 không đầy 10 cây số. Hoàn toàn không có chiến xa, còn không quân thì không yểm trợ được vì hoả lực phòng không dày đặc của địch, chiến đoàn đăc nhiệm của Tưóng Phú chỉ với một hỏa lực hạn chế của pháo binh yểm trợ, đã đánh những trận đẩm máu với Bắc quân trong suốt bốn ngày liền. Tiểu đoàn 2, Trung Đoàn 45, tan hàng sau những trận đụng độ ác liệt ! Khi Tưóng Tường TLSĐ23, chỉ huy chiến đoàn bị thưong nhẹ, tự ý di tản khỏi chiến trường bằng trực thăng, tinh thần chiến đấu cuả binh sĩ suy sụp và lực lượng phản công của hai Trung Đoàn còn lại của SĐ23 BB hoàn toàn tan rả!! Lực lượng đặc nhiệm thứ hai gồm 5 tiểu đoàn ĐPQ của TK Khánh Hòa cũng bị chận đứng tại đèo Khánh Dương. Ngày 18 tháng ba, các binh sĩ sống sót của Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 53, tại phi trường Phụng Dực, sau tám ngày không được tiếp tế lương thực và đạn dược, phải mở đường máu rút lui!
 
Ngày 21 tháng ba, những đơn vị tơi tả, còn lại của SĐ23 được bốc về Cam Ranh để chỉnh trang và tái phối trí. Trong lúc đó cuộc triệt thoái từ Pleiku đã khởi sự tiến hành. Bắc quân vẫn chiếm giữ các cao điểm tại Khánh Dương và vùng chung quanh, dọc QL21, mặc dầu lực lượng của Tiểu Đoàn 2 và 3 thuộc Trung Đoàn 40, SĐ22 BB đưọc điều qua từ Bình Định, mở những cuộc phản công ác liệt để chiếm lại những cao điểm này, nhưng không kết quả! Lữ Đoàn 3 Dù, từ mặt trận Thường Đức, trên đường về bảo vệ Sàigòn, bằng hải vận hạm của Hải quân VN, đã được linh đổ quân xuống Nha Trang, tức tốc lên Khánh Dương, chặn bước tiến cuả SĐ10 địch đang từ Tây Nguyên tràn xuống. Mục tiêu đặt ra trước mắt của QĐ2 là tái phôí trí các lực lượng còn lại, hoàn tất việc di tản khỏi Pleiku, Kontum, và chận đứng bước tiến như thác lũ của các binh đoàn Bắc quân, đang ào ạt tràn xuống bình nguyên, theo đường 21.
 
“Đêm Tây Nguyên trời không muốn sáng
Em chạy phương xa có ngóng về
Có thấy trăng vàng lên xác mẹ
Lên xác người nằm khắp nẻo quê ?!”
( Chiều Ngút Khói—Lê Nguyên Ngữ )
Cuộc triệt thoái khỏi Tây Nguyên của QĐ2 được bảo mật tuyệt đối. Tướng Phú hy vọng yếu tố bất ngờ sẽ giúp lực lượng QĐ2 có thễ rút về được Tuy Hòa trước khi địch quân phát giác. Chỉ một số ít sĩ quan trong ban tham mưu QĐ và một vài chỉ huy trưỏng đơn vị được thông báo quyết định rút quân. Còn các tiểu khu trưởng Kontum, Pleiku, Phú Bổn, chỉ đoán được ý định của quân khu vào giờ phút chót khi thấy các đơn vị quân chính qui của QĐ bắt đầu di tản. Kế hoạch triệt thoái được phát thảo vộI vả, đại cương, những mệnh lệnh hành quân chi tiết, cụ thể đều không hề có. Ngay cả vấn đề dân chúng sẽ đổ xô di tản theo đoàn quân khi biết được QĐ rút đi, cũng không hề được dự liệu trước. Hậu quả là đội hình chiến đấu của cả một quân đoàn không thể triển khai nhanh chóng và hiệu quả khi đụng địch vì dân chúng ở lẫn lộn trong hàng ngủ các binh sĩ làm họ gặp rất nhiều khó khăn trong việc chiến đấu.
 
Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham Mưu Trưởng QĐ2 có trình xin Tưóng Phú cho một tuần lể, hay ít nhất cũng đươc ba ngày để lập kế hoạch rút quân, nhưng Tướng Phú không tán thành điều này. Ông chỉ cho thời hạn một ngày là toàn bộ QĐ phảI triển khai phương án di tản, không được phép chậm trể! Và lịnh di chuyễn chỉ được phổ biến xuống các đơn vị đúng một tiếng đồng hồ trưóc khi khởi sự hành quân triệt thoái. Trong lịch sữ cổ kim, chưa hề có cuộc lui quân cấp QĐ nào mà thờI gian chuẩn bị chỉ có được một ngày, trừ trưòng hợp phải tan hàng, tháo chạy!! Sự thiếu chuẩn bị cũng là một nhân tố chính trong việc làm tan nát đoàn quân, cho dù đoàn quân đó có thiện chiến đến đâu đi nữa, chắc chắn cũng không tránh khỏi thảm bại khi bị địch quân truy đuổi !
 
Tướng Phú hiểu rõ LTL7B là con đường bị bỏ hoang và hư hỏng nhiều chỗ, nên ông ra lịnh cho Liên Đoàn 20 Công Binh Chiến Đấu đi tiền tiêu để phụ trách việc sữa chữa,tu bổ những đoạn đường và cầu cống bị hư hại-. Ngày 16 tháng Ba năm 1975, QĐ2 bắt đầu cuộc triệt thoái bốn đợt. Mỗi đợt gồm khoãng 250 xe GMC, được một chi đoàn M48 thuộc Thiêt Đoàn 21 Chiến Xa yểm trợ. Các tiểu đoàn của năm LĐ BĐQ vẫn còn nằm án ngữ bảo vệ Kontum và Pleiku, cùng với một chi đoàn chiến xa M48 khác, làm lực lượng đoạn hậu cho QĐ, sẽ rút sau cùng vào ngày 19 tháng Ba. Các đơn vị tiếp vận, quân cụ, và pháo binh được lịnh di tản trong đợt đầu tiên và đợt ngày 17 tháng Ba. Các đơn vị Quân Cảnh, các phòng, sở thuộc QĐ, và thành phần còn lại của Trung Đoàn 44 BB rút trong đợt ngày 18 tháng Ba. Theo kế hoạch dự trù thì lực lượng diện địa của các Tiểu Khu Kontum, Pleiku, Phú Bổn sẽ phụ trách việc bảo vệ an ninh dọc đường rút lui, một nhiệm vụ gần như không tưởng, vì chính họ là những đơn vị sẽ bị QĐ bỏ lại!!
 
Lực lượng triệt thoái của QĐ2 bao gồm 1 tiểu đoàn của Trung Đoàn 44; 6 Liên Đoàn BĐQ: LĐ 4, 25, và LĐ 7( vừa được Bộ TTM tăng cường cho QK2 ) đang nằm tại Pleiku; LĐ 6,22,23 ở Kontum; Thiết Đoàn 21 Chiến Xa; 2 tiểu đoàn pháo 155-mmm Howitzer; 1 tiểu đoàn pháo tầm xa 175 ly; Liên Đoàn 20 Công Binh Chiến Đấu và Liên Đoàn 231 Yểm Trợ Tiếp Vận. Ngày 16 tháng ba, lệnh triệt thoái được ban hành. LĐ 6 BĐQ, bảo vệ phía đông bắc thị xã Kontum, rút về thị xã Pleiku ngày hôm trước.Hai LĐ 22, 23 BDQ, từ phía bắc và tây bắc Kontum, rút về Pleiku ngày kế tiếp. Vào lúc này, một đơn vị của Trung Đoàn 44 BB và các LĐ 7,25 BĐQ vẫn còn án ngữ bảo vệ phía tây thị xã Pleiku. Một tiểu đoàn của LĐ25 BĐQ đang đụng độ ác liệt với lực lượng chính qui BV tại Thanh An. Tướng Tất, Tư Lệnh BĐQ QK2, chỉ huy toàn bộ cuộc triệt thoái, cho dời Bộ Chỉ Huy nhẹ của ông về Cheo Reo, Phú Bổn. Ông thay đổi kế hoạch, đưa một LĐ BĐQ theo yểm trợ cho LĐ 20 Công Binh Chiến Đấu trong trọng trách đi tiền tiêu. Chính nhờ quyết định này mà các đơn vị công binh của LĐ 20 có được sự yểm trợ cần thiết để thi hành nhiệm vụ vì các lực lượng điạ phương của Phú Bổn, cũng như của Kontum, Pleiku đều không hề bảo vệ an ninh lộ trình như kế hoạch dự trù, vì chính họ khi biết bị bỏ rơi đã di tản theo đoàn quân, hoặc tự ý rả ngũ! Ngày 16 tháng ba, lực lượng điạ phương địch dùng hoả tiển 122 ly pháo dữ dội vào thị xã Cheo Reo. Địch quân đã bắt đầu đánh hơi được động tĩnh của đoàn quân di tản!
Tại Chỉ Huy Sở Măt Trận B3 Bắc quân, Tướng Văn Tiến Dũng nhận được báo cáo của đơn vị kiểm thính, vừa chặn bắt đươc điện đàm vô tuyến của Không Quân miền Nam cho biết hầu hết các máy bay từ phi trường quân sự Pleiku đã cất cánh bay về Nha Trang, mặc dầu phi trường này vẫn chưa bị pháo kích nặng, và các điện đàm của QĐ2 cho biết Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của QĐ đã dời về Nha Trang. Các đài phát thanh ngoại quốc cũng loan tin dân chúng Pleiku đang đổ xô di tản về Saigòn bằng máy bay của hãng Hàng Không Việt Nam. Chiều ngày hôm ấy, một tổ trinh sát báo cáo về Sở Chỉ Huy Bắc quân, một đoàn công voa dài đang di chuyễn xuôi nam về hướng Phú Bổn. Tưóng Dũng ra lệnh báo đông cho Trung Đoàn 95 B chính qui BV đóng dọc QL19, SĐ320 tại phía bắc Ban Mê Thuột trên QL14, và SĐ10 tại QL21, theo dõi tình hình, vì lực lượng QĐ2 đang có những cuộc tái phối trí quan trọng. Sau khi đưọc báo cáo LTL 7B vẫn còn có thể xử dụng được, và đoàn công voa rất dài của QĐ2 đang tiến vào Cheo Reo, Tướng Dũng nổi giận, ra lịnh cho SĐ 320 tức tốc bôn tập về hướng Phú Bỗn để chặn đánh đoàn quân di tản.
--------------------------------
 
Tigon Lê
Đừng bao giờ quên ngày 30/4 là ngày Quốc Hận  Sự thật lịch sử vẫn còn đây :

Những vị tướng QLVNCH bị “tù cải tạo” trên 17 năm (1975 -1992)
1– Thiếu Tướng Trần Bá Di, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung.
Thiếu Tướng Trần Bá Di là một trong 4 vị Tướng sau cùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mà Cộng Sản Việt Nam đã thả sau 17 năm giam cầm trong lao tù. Nói đến Thiếu Tướng Trần Bá Di, những người đã từng biết ông, ai cũng thương mến và ca ngợi đức tánh xuề xòa, chân thật, bình dị, hết lòng với anh em nhưng rất kiên cường, bất khuất trước địch quân của ông.
Xuất thân trường Võ Bị Đà Lạt khoá 5, ông làm Tỉnh Trưởng Cần Thơ từ năm 1962 đến 1964.
Sau đó, ông đi tu nghiệp tại Hoa Kỳ và trở về làm Phó Tư Lệnh Sư Đoàn 9.
 
Sau Tết Mậu Thân, ông được vinh thăng làm Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn IV. Năm1970, ông lại trở về Sư Đoàn 9 với chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn.
Cho đến năm 1974, trước khi đổi về Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung và làm Chỉ Huy Trưởng đến ngày mất nước, ông phụ trách Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 4/ Quân khu 4.
 
Những ngày cuối tháng 4 năm 1975
, Thiếu Tướng Trần Bá Di trong chức vụ Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Ông ở lại tử thủ đơn vị, chống lại xâm nhập của Cộng Quân từ Hậu Nghĩa cho đến giây phút cuối cùng.
 
Trong lao tù Cộng Sản, Thiếu Tướng Trần Bá Di nổi tiếng là một tù nhân không khuất phục Cộng Sản, xứng danh là Tư lệnh của Sư Đoàn 9 Mũi Tên Thép.
Ông chống đối lao động cải tạo, không nói chuyện với quản giáo, quản chế.
 
Nếu muốn nói chuyện với ông phải từ cấp Trưởng Trại trở lên. Ông tuyệt đối không ca hát nhạc Việt Cộng dù bị bắt buộc.
Ông đã giữ đúng tư cách một vị tướng anh hùng của Quân Lực VNCH.
 
Nhắc đến Thiếu Tướng Trần Bá Di, không ai không cảm mến con người rất mộc mạc, bình dị, hòa đồng với thuộc cấp, chân thật với đồng đội như ông.
Thiếu Tướng Trần Bá Di là một trong các vị Tướng trong sạch, đáng kính mến của miền Nam Việt Nam, là niềm hãnh diện cao quý của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
 
Thiếu Tướng Trần Bá Di từ trần ngày 23 tháng 3 năm 2018 tại TP Orlando, Tiểu bang FLORIDA. Hưởng thọ 88 tuổi.

2- Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 BB.
Người hùng chiến trường Xuân Lộc: “I will hold Long Khánh. I will knock them down here even if they bring two divisions or 3 divisions”. (Tôi sẽ giữ Long Khánh. Tôi sẽ đánh tan họ dù thậm chí họ có 2 hoặc 3 Sư đoàn).
 
Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, tốt nghiệp Khóa 10 Trường Võ Vị Quốc Gia Đà Lạt khi ông vừa đúng hai mươi tuổi. Là một chiến sĩ rất dũng cảm, chẳng mấy chốc mà số lượng huy chương tưởng thưởng cho ông đã đầy hết ngực áo. Nhưng với bản tính khiêm tốn, hiếm khi người ta thấy ông đeo những chiếc huy chương đó. Thiếu Tướng Đảo là một trong những vị tướng đi lên chức vụ của mình bằng những chiến công ngoài chiến trường. Ông đã từng đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng trong quân đội, từng làm Tỉnh Trưởng Chương Thiện và Định Tường. Đỉnh cao nhất trong đời quân ngũ của ông khi ông làm Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh từ tháng 4.1972, vinh thăng Chuẩn Tướng tháng 11 năm 1972.
 
Ngày 23.4.1975, Tổng Thống Trần Văn Hương gắn Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương và vinh thăng ông lên Thiếu Tướng. Thiếu Tướng Đảo nổi tiếng là một vị Tướng thanh liêm, cần mẫn, năng động, kiên quyết và trí dũng song toàn. Sĩ quan và binh sĩ dưới quyền rất thương mến vị Tư Lệnh của họ, vì Thiếu Tướng Đảo luôn quan tâm chăm sóc đời sống thuộc cấp và gia đình họ. Ông luôn có mặt ở những vị trí tiền tuyến của sư đoàn để nâng cao tinh thần chiến binh. Nguyên tắc làm việc của ông mà ông đòi hỏi các cộng sự viên phải tuân thủ là liên lạc xuống dưới ít nhất hai cấp. Thí dụ, một Trung Đoàn Trưởng phải nắm được tình hình tận cấp Đại Đội, hay thấp hơn nữa. Với hệ thống làm việc sát cánh này, tinh thần binh sĩ lên rất cao, vì lúc nào họ cũng nghe thấy cấp trên đang có mặt bên cạnh. Họ đền đáp sự quan tâm ấy bằng những chiến thắng vang dội và lòng trung thành tuyệt đối.
 
Biến cố trưa ngày 30-04-75 ... Sau khi nhận được lệnh đầu hàng, ông ra lệnh giải tán đơn vị và tìm cách về Cần Thơ rồi lại quay về Sài Gòn. Đến ngày 9 tháng 5 năm 1975, ông ra trình diện Chính quyền mới và phải đi học tập cải tạo, do tỏ thái độ bất hợp tác nên ông bị giam tới 17 năm, lâu nhất trong các tướng VNCH. Mãi đến ngày 5 tháng 5 năm 1992, ông mới được trả tự do.
Tháng 4 năm 1993, ông được xuất cảnh sang Hoa Kỳ theo diện H.O và định cư cùng gia đình tại Tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ. Sau khi ổn định cuộc sống tại Hoa Kỳ, ông tham gia và tích cực tổ chức các hoạt động trong giới cựu sĩ quan và binh sĩ Việt Nam Cộng hòa. Tháng 9 năm 2003, ông là một trong những đồng sáng lập tổ chức "Tập thể Chiến sĩ Việt Nam Cộng hòa" và giữ chức Chủ tịch Trung tâm Điều hợp Trung ương.
 
Thiếu Tướng Lê Minh Đảo cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh VNCH đã mệnh chung vào lúc 1:45 pm Ngày 19 tháng 3 năm 2020 tại tiểu bang Connecticut Hoa Kỳ hưởng thọ 87 tuổi.

3- Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai, Chỉ Huy Trưởng Binh chủng Biệt Động Quân.
Thiếu tướng Đỗ Kế Giai nguyên là một tướng lĩnh gốc Nhảy dù của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên ở trường Võ bị Quốc gia Việt Nam trong giai đoạn Quân đội Liên hiệp Pháp. Sau này, ông được chuyển sang lĩnh vực Tham mưu và Chỉ huy các đơn vị Bộ binh. Sau cùng, ông đảm nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng Binh chủng Biệt động quân.
Thiếu tướng Đỗ Kế Giai sinh năm 1929 tại Bến Tre, trong một gia đình điền chủ. Ông theo học khóa 5 Hoàng Diệu tại trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt, ra trường vào tháng 4, 1952. Đơn vị đầu tiên của ông là Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù.
 
Lần lượt ông đã giữ các chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, Chiến đoàn trưởng Chiến Đoàn 2 Nhảy Dù (1962), Tham mưu trưởng Sư Đoàn 25 Bộ Binh, Tư lệnh Sư Đoàn 10 Bộ Binh (Tiền thân của Sư đoàn 18 Bộ Binh).
Năm 1967 ông mang cấp bậc Chuẩn tướng. Năm 1972, ông là Chỉ huy trưởng binh chủng Biệt Động Quân và được vinh thăng Thiếu tướng vào tháng 4/1974.
 
Ngày 28 tháng 4/1975, tướng Times bên Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ngỏ lời sẵn sàng giúp đưa cả gia đình ông đi Mỹ, nhưng ông quyết định ở lại vì trách nhiệm của một tướng lãnh.
 
Ngày 15 tháng 5/1975, Cộng sản đến nhà mời ông đi họp và đưa thẳng vào khám Chí Hòa, sau đó đưa ông cùng với các vị tướng lãnh khác ra Bắc Việt.
Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai bị Việt Cộng giam tù lâu hơn cả các Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn, tổng cộng 17 năm. Nghe nói rằng Việt Cộng trả thù ông vì khi Dương Văn Minh mời ông cộng tác, ông nói rằng tôi cầm quân không phải để đầu hàng.
 
Đến ngày 5 tháng 5/1992, sau 17 năm lao tù, ông mới được trả tự do. Ông là một trong 4 vị cấp tướng cuối cùng ra trại đó là Thiếu tướng Trần Bá Di, Thiếu tướng Lê Minh Đảo và Chuẩn tướng Lê Văn Thân.
Ông và gia đình được xếp vào danh sách H.O. cuối cùng đến Mỹ vào tháng 11 năm 1994 và định cư tại thành phố Garland, tiểu bang Texas.
 
Cựu Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai qua đời ngày 21.2.2016 tại Bệnh viện Baylor Dallas, Texas, sau 4 năm sống tại viện dưỡng lão Pleasant Valley Health Care Center.

4- Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, Tư Lệnh Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh.
Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi là vị tướng thiết giáp tài giỏi nhất trong Quân Lực VNCH.
Ông là một vị tướng oai hùng, chính trực, tài giỏi, chỉ huy tận tụy và cũng là vị chỉ huy Lữ đoàn duy nhất trong 4 Lữ đoàn của Binh Chủng Thiết Giáp và trong tất cả các Lữ đoàn của QLVNCH được thăng cấp chuẩn tướng. Ông còn chỉ huy Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III.
 
Cựu Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi sinh ngày 24 tháng 1 năm 1930 tại quê ngoại Mỏ Cầy, Bến Tre. Năm 1951, Ông gia nhập Quân Đội Quốc Gia, ra trường với cấp bậc thiếu úy hiện dịch và ông chọn Binh Chủng Thiết Giáp. Kể từ đó ông gắn bó với binh chủng này cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.
 
Ông từng theo học các trường thiết giáp danh tiếng thế giới là Trường Thiết Giáp Saumur năm 1955 tại Pháp. Trường Thiết Giáp Fort Knox năm 1959 và Trường Đại học Chỉ Huy và Tham Mưu Lục Quân Fort Leavenworth 1973 tại Hoa Kỳ.
 
Trong cuộc đời binh nghiệp, ông được thăng cấp khá chậm, nhưng qua đó cho thấy ông trưởng thành trong khói lửa chiến tranh thật sự và hoàn toàn xứng đáng chứ không phải là may mắn... 1954 - Trung úy, 1955 - Đại úy, 1960 - Thiếu tá, 1965 - Trung tá, 1969 - Đại tá và 1974 - Chuẩn tướng.
 
Các cấp chỉ huy của ông đều đánh giá cao thực tài của ông và danh tiếng cũng như những chiến công của họ cũng được chính ông góp phần. Ngay các cố vấn và giới quân sự Hoa Kỳ cũng hết sức khâm phục và không tiếc lời khen ngợi ông.
 
Thời đánh qua Chiến trường Cao Miên 1970-1971 để tìm và diệt quân cộng sản Bắc Việt CSBV, ông chỉ huy Chiến Đoàn 318 là một Chiến đoàn trưởng xuất sắc.
Có thể nói Ông là vị tướng thiết giáp xông xáo, táo bạo nhưng có tính toán. Ông phát huy tối đa tính cơ động và tận dụng hỏa lực để tạo những cú sốc chấn động, bất ngờ cho cộng quân. Ông tổ chức Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III (LLXKQĐ3) theo mô hình khá sáng tạo và linh động cho phù hợp với chiến trường và khả năng của QLVNCH. Ông cũng là người kết hợp nhuần nhuyễn nhị thức thiết giáp - bộ binh một các tài tình.
Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III do ông chỉ huy đã giải vây Căn Cứ biên phòng Đức Huệ của TĐ83 BĐQ và đánh bại Công Trường 5 (SĐ 5) CSBV chỉ trong vòng 5 ngày. Ông cũng góp phần cho chiến thắng Xuân Lộc năm 1975. Sau khi rút về phòng thủ Biên Hòa, LLXKQĐ3 đã đánh bại SĐ341 CSBV.
 
Ông cùng một số ít tướng lãnh VNCH bị đòn thù CSBV đến 17 năm giam cầm. Ông qua định cư tại Virginia - Hoa Kỳ diện HO. Ông đã tốt nghiệp văn bằng thạc sĩ văn chương Pháp tại đại học George Mason năm 1998.
Chuẩn tướng Trần Quang Khôi tạ thế ngày 1 tháng 4 năm 2023 tại tiểu bang Virginia, hưởng thọ 93 tuổi .

5- Chuẩn Tướng Phạm Ngoc Sang, Tư Lệnh Sư đoàn 6 Không Quân.
Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang nguyên là một tướng lĩnh Không Quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông xuất thân từ một trường chuyên đào tạo sĩ quan trừ bị cho ngành Bộ binh do Quân đội Quốc gia thành lập dưới sự hỗ trợ của Quân đội Pháp. Tuy nhiên, sau đó trúng tuyển chuyến sang Không quân. Ông đã phục vụ ở Quân chủng này cho đến ngày cuối cùng trong cuộc đời binh nghiệp của mình.
 
Ngày 15 tháng 3, được lệnh di tản chiến thuật Sư đoàn 6 Không quân từ Pleiku xuống Phan Rang.
Trưa ngày 16 tháng 4, ông bị quân Cộng sản Bắc việt bắt cùng với Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi bị tạm giam tại Cam Lâm, Khánh Hòa rồi Đà Nẵng, cuối cùng bị đưa ra Bắc qua các trại giam: Sơn Tây, Hoàng Liên Sơn, Hà Sơn Bình, Nam Hà. Sau đó, ngày 30 tháng 11 năm 1988 được đưa về miền Nam giam giữ ở trại Z.30D Hàm Tân, Bình Thuận. Cho đến ngày 11 tháng 2 năm 1992 ông mới được trả tự do.
 
Ngày 22 tháng 2 năm 1992, ông cùng với gia đình xuất cảnh theo chương trình diện H.O. Sau đó định cư tại Garden Grove, Tiểu bang California, Hoa Kỳ.
Trước khi mất ông dồn sức cố viết một hồi ức về trận đánh Phan Rang và làm một điều chẳng ai bắt ông phải làm là tỏ lời cáo lỗi cùng đồng bào qua mấy dòng bi tráng, “Tôi cảm nhận rất có tội với đồng bào, vì làm tướng mà không giữ được thành.”
Ngày 30 tháng 11 năm 2002, ông từ trần tại nơi định cư. Hương thọ 71 tuổi.

6- Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân Quân Khu 2.
Chuẩn tướng Phạm Duy Tất sinh 1933, nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh, sau chuyển sang Binh chủng Lực lượng Đặc biệt của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Ông xuất thân từ những khóa học ở giai đoạn đầu tiên ở trường Sĩ quan Trừ bị do Chính phủ Quốc gia Việt Nam mở ra tại miền Nam Việt Nam. Năm 1970, khi Binh chủng Lực lượng Đặc biệt giải tán, ông chuyển sang Binh chủng Biệt động quân.
 
Đầu năm 1975, kiêm chức vụ Tư lệnh Chiến trường Kontum. Ngày 14 tháng 3 1975, ông được thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm. Hai ngày sau (16 tháng 3), ông nhận chức vụ Tư lệnh cuộc hành quân triệt thoái Quân đoàn II khỏi Cao nguyên trên tỉnh lộ 7, được đặt dưới quyền giám sát của Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm (đương nhiệm chức vụ Phụ tá hành quân Quân đoàn II).
 
Sau ngày 30 tháng 4 1975, ông ra trình diện và bị chính quyền mới đưa đi tù cải tạo từ Nam ra Bắc cho tới ngày 11 tháng 2 năm 1992 mới được trả tự do. Cũng trong năm 1992, sau 17 năm trong lao tù cộng sản ông cùng với phu nhân và 2 người con xuất cảnh theo diện H.O được cứu xét trường hợp đặc biệt do Chính phủ Hoa Kỳ bảo lãnh đi định cư tại Amadale, Tiểu bang Virginia, Hoa kỳ.
 
Cựu Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất, qua đời 11/12/2019 tại bệnh viện Inova Fairfax Hospital, Falls Church, Virginia, hưởng thọ 85 tuổi.

7- Chuẩn Tướng Lê Văn Thân, Tư Lệnh phó Quân khu II
Chuẩn tướng Lê Văn Thân (1932-2005), nguyên là một tướng lĩnh gốc Pháo binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên tại trường Võ bị Quốc gia sau khi chuyển từ Huế về Nam Cao nguyên Trung phần. Ông đã phục vụ ở ngành chuyên môn của mình một thời gian dài, sau ông được chuyển sang lĩnh vực Chỉ huy và Tham mưu và đã từng giữ chức vụ Chỉ huy một đơn vị Bộ binh cấp Sư đoàn. Sau cùng là Tư lệnh phó của một Quân đoàn.
 
Đầu năm 1960, ông được thăng cấp Thiếu tá và được cử làm Chỉ huy trưởng Pháo binh Sư đoàn 1 Bộ binh. Đầu tháng 2 năm 1964, sau cuộc Chỉnh lý nội bộ ngày 30 tháng 1 của tướng Nguyễn Khánh, ông được cử đi du học lớp Chỉ huy Tham mưu cao cấp tại trường Chỉ huy và Tham mưu Fort Leavenworth, thuộc Tiểu bang Kansas, Hoa Kỳ. Tháng 8 cùng năm mãn khóa học về nước, ông được thăng cấp Trung tá. Sau đó ông được chuyển về Bộ Tổng tham mưu giữ chức vụ Giám đốc Trung tâm Hành quân. Ngày Quốc khánh Đệ nhị Cộng hòa 1 tháng 11 năm 1967, ông được thăng cấp Đại tá tại nhiệm.
 
Tháng 3 năm 1968, ông được bổ nhiệm làm Tỉnh trưởng và Tiểu khu trưởng tỉnh Thừa Thiên kiêm Thị trưởng thị xã Huế thay thế Đại tá Phan Văn Khoa.
Cuối tháng 1 năm 1972, ông nhận lệnh bàn giao tỉnh Thừa Thiên và thị xã Huế lại cho Đại tá Nguyễn Hữu Duệ. Ngay sau đó, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh phó Sư đoàn 7 Bộ binh do Chuẩn tướng Nguyễn Khoa Nam làm Tư lệnh. Đầu tháng 5, trở lại Quân khu 1 ông được cử làm Phụ tá cho Tư lệnh Quân đoàn I, Đặc trách hành quân kiêm Trưởng ban kế hoạch tái chiếm Quảng Trị. Ngày Quốc khánh 1 tháng 11 cùng năm, ông được thăng cấp Chuẩn tướng và được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh, thay thế Thiếu tướng Phạm Văn Phú.
 
Ngày Quốc khánh 1 tháng 11 năm 1973, ông nhận lệnh bàn giao Sư đoàn 1 Bộ binh lại cho Đại tá Nguyễn Văn Điềm (nguyên Tư lệnh phó Sư đoàn). Cùng ngày ông được chuyển về Quân khu 2 giữ chức vụ Chỉ huy phó trường Võ bị Quốc gia Việt Nam, thay thế Đại tá Phạm Tất Thông đi làm Tham mưu trưởng Tổng cục Quân huấn. Cuối năm 1974, ông được chuyển về Bộ tư lệnh Quân đoàn II giữ chức vụ Tư lệnh phó lãnh thổ Quân khu 2 do Thiếu tướng Phạm Văn Phú làm Tư lệnh.
 
Sau ngày 30 tháng 4, ông ra trình diện Ủy ban Quân quản Thành phố Sài Gòn, bị bắt đi tù lưu đày cho tới ngày 5 tháng 5 năm 1992 mới được trả tự do.
Năm 1993, ông cùng gia đình xuất cảnh theo chương trình diện H.O, do Chính phủ Hoa Kỳ bảo lãnh, sau đó định cư tại Westminster, Tiểu bang California, Hoa kỳ.
Ngày 26 tháng 9 năm 2005, ông từ trần tại nơi định cư. Hưởng thọ 73 tuổi.

8- Chuẩn Tướng Mạch văn Trường, Tư Lệnh Sư Đoàn 21 BB
Chuẩn tướng Mạch Văn Trường (sinh 1936), xuất thân Khoá 12 VBQGVN, nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Ông xuất thân từ trường Võ bị Liên quân vào thời kỳ Quân đội Việt Nam Cộng hòa hình thành (1955). Trong thời gian tại ngũ, ngoài chuyên môn là một sĩ quan chỉ huy đơn vị Bộ binh, ông cũng được giao phó chức vụ chỉ huy về lãnh vực Hành chính Quân sự.
 
Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1965, ông được thăng cấp Thiếu tá và được cử giữ chức vụ Trưởng phòng 2 tại Bộ tư lệnh Sư đoàn 21 bộ binh do Chuẩn tướng Phạm Quốc Thuần làm Tư lệnh. Qua đầu năm 1967, ông chuyển đi làm Phó Tỉnh trưởng Nội an kiêm Tiểu khu phó Bạc Liêu.
 
Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1968, ông được thăng cấp Trung tá tại nhiệm, sau đó chuyển về Thủ đô giữ chức Tham mưu trưởng Tòa Tổng trấn Sài Gòn-Gia Định.
 
Giữa năm 1969, ông được chỉ định vào chức vụ Đặc khu trưởng Đặc khu Thủ Đức. Giữa năm 1970, được cử đi học và tốt nghiệp khóa Chỉ huy Tham mưu cao cấp ở trường Chỉ huy và Tham mưu tại Đà Lạt.
 
Đầu năm 1971 mãn khóa học, ông được cử làm Trung đoàn phó Trung đoàn 8, Sư đoàn 5 Bộ binh do Đại tá Bùi Trạch Dần làm Trung đoàn trưởng. Tháng 7 cùng năm ông được lên giữ chức vụ Trung đoàn trưởng thay thế Đại tá Dần dưới quyền Đại tá Lê Văn Hưng Tư lệnh Sư đoàn.
 
Tháng 3 năm 1972, ông được thăng cấp Đại tá tại nhiệm. Tháng 7 cùng năm, ông được chỉ định vào chức vụ Tư lệnh phó Sư đoàn 5 Bộ binh vẫn do Chuẩn tướng Lê Văn Hưng làm Tư lệnh, sau đó Đại tá Trần Quốc Lịch thay thế làm tư lệnh Sư đoàn. Tháng 11 cuối năm, Bộ Tổng tham mưu biệt phái ông sang lĩnh vực Hành chính Quân sự và ông được bổ nhiệm làm Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Long Khánh.
 
Đầu năm 1974, rời chức vụ Tỉnh trưởng, ông được cử theo học và tốt nghiệp Thủ khoa khóa Tổng thanh tra Quân lực. Tháng 4 cùng năm, ông được chuyển trở về Quân khu 4, phục vụ tại Sư đoàn 21 Bộ binh giữ chức vụ Chánh tranh tra Sư đoàn. Tháng 11 cuối năm, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh thay thế Chuẩn tướng Lê Văn Hưng được cử đi làm Tư lệnh phó Quân đoàn IV và Quân khu 4.
 
Ngày 17 tháng 5/75, ông bị bắt tại Cần Thơ và đưa đi học tập và cải tạo từ Nam ra Bắc suốt 17 năm. Ngày 11 tháng 2 năm 1992 mới được trả tự do.
Cùng năm 1992, ông được Chính phủ Hoa Kỳ bảo lãnh theo diện H.O sang Mỹ tỵ nạn và định cư tại Houston, Tiểu bang Texas, Hoa Kỳ & Đã từ trần ngày 30/6/2021 tại Houston Texas USA.
HD Lê Duy Đài
Montreal, Canada 04-2023
----------------------------------

No comments: