Monday, May 2, 2022

SỨC KHỎE - ĐỜI SỐNG

SỨC KHỎE - ĐỜI SỐNG
--------------------------

23. Ngày tôi chết - Trường Sơn Lê Xuân Nhị (Tango Bui chuyển)
22. Lời Trăn Trối - Thanh Mai Minnesota (Tango Bui chuyển)
21. VẪN CẦN CÓ MẸ - fb Nga Le 20. Cười chút .. fb Xứ Mù Sương

------------------------- 
 
 
27. Gậy Ông Đập Lưng Ông
Tác Giả : Tưởng Năng Tiến (fb Tango Bui, De Phan chuyển)
Ngày nào Saigon còn mang tên Hồ Chí Minh, ngày đó dân gian sẽ mãi còn đàm tiếu.
Đã có rất nhiều bài đàm tiếu về chuyện này...
Mỗi mùa xuân về trên quê hương Việt Nam, chúng ta lại nhớ đến địa danh Sài Gòn.

Sàigòn, tự nó đã đầy đủ ý nghĩa. Không cần phải thêm thủ đô hay thành phố gì cả. Hai chữ Sàigòn đã in sâu vào từng tâm hồn của người dân Việt Nam mà còn quen thuộc với người ngoại quốc với tên gọi không có dấu: “Saigon”.

Để rồi từ đó mọi người đều có thể viết chữ Sàigòn dính liền lại với nhau mà không bỏ dấu “SAIGON ”.
Không biết bao nhiêu bài luận văn của các em học sinh từ tiểu học đến trung học tả về Saigon. Không biết bao nhiêu thi sĩ, nhạc sĩ viết về Saigon. Saigon nằm soi mình bên dòng sông cùng tên Saigon, thật lãng mạn và kiêu ngạo cùng tuế nguyệt.

Chúng ta hãy lắng đọng tâm hồn để tìm về sự mộc mạc của người Việt Nam đối với Saigon thân yêu.
1. - Thưa cô đi đâu?
- Saigon.
2. - Bà ngoại đi đâu?
- Lên Saigon.
3. - Mầy từ đâu về?
-Từ Saigon.
Chỉ cần một chữ Saigon là đầy đủ rồi. Nhưng trong 42 năm qua, Saigon bị mất tên, bị thay thế bằng tên của nhân vật Hồ Chí Minh. Sàigòn ngậm ngùi tức tưởi, thổn thức với lời ca trong bài Vĩnh Biệt Saigon: “...ta mất người như người đã mất tên…”.

Người Cộng Sản Việt Nam rất lấy làm hãnh diện với cái gọi thành phố Hồ Chí Minh. Cái tên nghe vừa dài vừa chói tai, lúc nào cũng phải thêm chữ “thành phố”. Nếu thiếu chữ “thành phố” thì nguy to. Bởi vì kêu Hà Nội thì ai cũng hiểu là địa danh Hà Nội, nhưng kêu Hồ Chí Minh khơi khơi thì có khi người ta không biết kêu cái quái gì?

Bây giờ xin mời những người Cộng Sản Việt Nam cùng chia sẻ có nên để tên Hồ Chí Minh hay nên trả tên lại cho Saigon.

Nếu quý vị nhất định khư khư giữ nguyên tên Hồ Chí Minh, thì nên cùng thưởng thức những mẫu chuyện và truyền khẩu từ người này sang người khác, từ nơi này sang nơi khác mà tạm gọi là truyền khẩu dân gian, hãy xem như một cuộc trưng cầu dân ý có được không?
1. - Bây giờ nói về tệ nạn xã hội:
- Người ta thường kêu là “Du Đãng Saigon” nay xin sửa lại: “Du Đãng Hồ Chí Minh”.
- Saigon ngày xưa ít thấy bây giờ Saigon nhiều quá. “Đĩ Saigon” xin đổi lại là “Đĩ Hồ Chí Minh".
- Saigon ngày xưa ít thấy mấy thằng điếm bây giờ phải coi chừng mấy thằng điếm. "Điếm Sàigon” xin đổi lại là “Điếm Hồ Chí Minh”.

2. - Bây giờ nói về dân gian: Khi nói đến dân gian thì không phải như viết văn chương, chỉ nói tắt hiểu là được. Không cần chính tả hay văn phạm.
- Mầy lấy vợ ở đâu?
- Dạ em lấy vợ Saigon.
- ”Lấy vợ Saigon" xin đổi lại là “Lấy vợ Hồ Chí Minh”.
- Chị mua gà ở đâu?
- Mua gà Saigon: "Gà Saigon" phải đổi lại là “Gà Hồ Chí Minh”.
- Đi Saigon nhớ coi chừng chó, chó Saigon dữ lắm. “Chó Saigon” xin đổi lại là “chó Hồ Chí Minh”.
- Má ơi lên coi truyền hình kìa xe đụng ghê lắm. Xe đụng chỗ nào? Xe đụng Saigon. Xe đụng Saigon xin đổi lại là “xe đụng Hồ Chí Minh”.
- Thịt chó Saigon ăn ngon quá. "Thịt chó Saigon" phải đổi lại là “thịt chó Hồ Chí Minh”.
- Đừng làm giả đồ của Pháp bị bắt đó nghe. Vỏ Paris, ruột Saigon là phạm pháp. Xin đổi là: “Vỏ Paris, ruột Hồ chí Minh” là phạm pháp.
- Saigon nóng đổ mồ hôi, xin đổi lại là “Hồ Chí Minh nóng đổ mồ hôi”.
- Saigon nóng muốn lột quần lột áo. Xin đổi là “Hồ Chí Minh nóng muốn lột quần lột áo”.
- Đi Saigon thì phải mua giày da Saigon . Xin đổi lại “Giầy da Hồ Chí Minh”.
- Gió thổi mạnh quá nên nhà Saigon bị sập. Xin đổi lại ‘nhà Hồ Chí Minh bị sập’.
Và còn nhiều nhiều lắm lắm……….

Hãy cùng nhau qua truyền khẩu dân gian để thay thế cái gọi là Hồ Chí Minh vào “Saigon” để cả hơn 92 triệu người dân Việt Nam có dịp thi thố tài văn chương dân gian của mình để có những trận cười hả hê mà người ta gọi là chuyện cười dân gian.
Trăm năm bia đá cũng mòn,
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.
 
Để người Cộng sản Việt Nam hiểu được sức mạnh của quần chúng. Ai đã đổi tên Saigon? Bây giờ họ phải gánh chịu “gậy ông đập lưng ông”.

Các địa danh như, Hà Nội, Huế, Nha Trang, Vũng Tàu, Cần Thơ, Cà Mau… Mà hình như tất cả các điạ danh ở Việt Nam chỉ cần nói tên là người ta hiểu được liền đâu cần phải thêm chữ: thành phố hay tỉnh…. Vậy mà nói khơi khơi Hồ Chí Minh thì là cái con khỉ khô gì? Thật là cười ra nước mắt.

Chú lơ xe đò gọi hành khách: Saigon không? Saigon đây?

Hành khách đứng dưới đường vẫy tay trả lời : Saigon, Saigon ….. Bây giờ sửa lại : Chú lơ xe đò gọi hành khách: "Hồ Chí Minh, không? Hồ Chí Minh đây!"
Hành khách đứng dưới đường vẫy tay trả lời: "Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh…".

Có thể trong đám hành khách đó có cả đảng viên đảng CSVN.

Việc đổi tên Saigon và áp đặt cái gọi là Hồ Chí Minh là do chính những người cộng sản Việt Nam tạo ra. Nay chỉ xin được dùng cái gọi là Hồ Chí Minh để thay thế những lời nói dân gian. Nghĩa là cứ chỗ nào có chữ Saigon thì thay vào đó là chữ Hồ Chí Minh.

Quý vị Cộng sản Việt Nam (CSVN) nghĩ sao?
Quý độc giả nghĩ sao?

Người Cộng sản Việt Nam đã sai lầm giữa địa danh và tên nhân vật, mà cái ác nhất lại là tên của nhân vật được những người Cộng sản Việt Nam sùng bái. Cái thây ma nằm giữa Ba Đình, mỗi năm phải tiêu phí biết bao nhiêu tiền của nhân dân Việt Nam? Người Cộng sản sống thì tham nhũng, thâm lạm tài sản quốc gia. Người Cộng sản chết cũng ăn bám nhân dân Việt Nam, đó chính là cái thây ma Hồ Chí Minh.

Người chết phải trở về cát bụi. Thây ma thì phải đem chôn hay thiêu. Có một người vào xem xác chết của Hồ Chí Minh, khi về nhà không dám ngủ, mà nhắm mắt lại là thấy ác mộng hay nói đúng hơn là thấy thây ma Hồ Chí Minh. Cuối cùng phải đi xem bác sĩ tâm lý. Bác sĩ tâm lý khuyên: bạn đừng nghĩ tới cái xác đó nữa, cứ xem như nhìn thấy xác của một con vật nào đó, thí dụ như xác con gà, con cá bán ở chợ là được rồi.

Đất nước Việt Nam đã bị người Cộng sản tàn phá. Không biết bao nhiêu bút mực của các nhà văn, nhà phê bình, nhà bình luận… của rất nhiều thế hệ lên án. Người cộng sản cần phải thức tỉnh một cách thật sự mà hãy trả lại những gì của Việt Nam cho dân tộc Việt Nam.
- Cỏ cây còn biết hờn sông núi
Giang sơn gấm vóc phải ngậm ngùi.
Đọc xong xin các bạn chuyển đi cho tất cả mọi người Hải ngoại và Việt Nam!
Tưởng Năng Tiến
 
 
26. TÂM SINH TƯỚNG...
Chuyện xảy ra tại đồn công an Việt Cộng.
Một công an hỏi cô gái: 
- "Cô biết tại sao chúng tôi gọi cô đến đây không?"
Cô gái đáp gọn: 
- "Tôi không biết."
Anh công an lục trong chồng hồ sơ lôi ra mấy tờ giấy quăng lên bàn: 
- "Đây! Chúng tôi in lại những gì cô viết trên trang phê bút của cô. Cô chửi hết cán bộ này ngu, đến cán bộ khác ngu; hết lãnh đạo này mặt lờ, đến công an kia mặt lờ...."

Cô gái nhìn thẳng vào mặt anh công an, ánh mắt như trêu chọc: 
- "Mặt lờ là mặt gì?"
Anh công an sầm mặt: 
- "Cô biết rồi còn hỏi cái gì?"
- "Tôi viết tắt; làm sao tôi biết anh hiểu theo nghĩa nào. Mặt l. có thể là mặt lợn, mặt liếng, mặt lanh, mặt lạnh, mặt..."
Anh công an bực tức chen vào: 
- "Cô đừng có làm bộ ngây ngô. Ý cô nói mặt giống... giống cái chỗ... riêng của... đàn bà..."
Vẻ mặt cô gái như đang nín cười: 
- "Thôi được! Từ nay tôi không viết mặt l.; tôi sẽ viết "giống mặt bác hồ", được không?"
Anh công an buột miệng: 
- "Mặt bác hồ thì khác đéo gì mặt ..."
Cô gái nheo mắt: 
- "Sao anh?"
- "Bọn phản động rêu rao trên mạng mặt bác là mặt... mặt... như cô viết. Cho nên cũng không được viết giống mặt bác hồ..."

Cô gái cười cười: 
- "Giống mặt nào anh cũng khônng chịu; mặt bác phương phi có đủ... râu trên râu dưới, đẹp thế mà nói mặt anh giống mặt bác, anh cũng không chịu. Nhưng thôi, tôi sẽ không viết mặt lờ nữa; tôi sẽ nghiên cứu lại coi giống mặt gì rồi tính..."
- "Tốt! Cũng không được viết lãnh đạo ngu."
Cô gái nghiêm mặt: 
- "Hễ ngu thì nói ngu, tại sao không được?"
- "Lãnh đạo là người đại diện cho dân, quản lý, điều hành công việc quốc gia thì không thể ngu được."
Cô gái bật cười: 
- "Sao không được? Tôi hỏi anh, lãnh đạo nói "kẹt xe là vì sung túc"; "thầy giáo sờ đùi, sờ mông nữ sinh không phải là dâm ô"; "ai mất giấy phép lái xe thì phải thi lại" v.v., vậy không phải ngu thì là gì?"
Anh công an đỏ mặt: 
- "Lãnh đạo là người dẫn dắt quần chúng nên nói những điều cao xa, người dân không thể hiểu được..."
 
Cô gái cười toáng lên: "Nói những điều cao xa... không hiểu được... ha ha... mất bằng lái xe thì phải thi lại là nói những điều cao xa! Thế tôi hỏi anh, nếu anh mất giấy hôn thú, anh có phải làm đám cưới lại không?"
Anh công an mặt càng đỏ hơn, nói như gắt: "Cô không cần biết. Lần này tôi chỉ cảnh cáo cô; nếu còn tái phạm thì sẽ bị phạt. Nói lãnh đạo ngu thì sẽ bị phạt... Bây giờ thì cô có thể ra về..."

Cô gái đứng dậy, nói: 
- "Người khôn, khi được người ta chỉ cho cái sai sẽ vui vẻ nhận sai và sửa cái sai của mình. Người ngu, khi người ta chỉ cho cái ngu thì chửi lại nếu không có quyền lực; còn nếu có quyền lực trong tay thì bắt nhốt hoặc phạt tiền. Tôi nói cho anh biết, muốn hết ngu thì chỉ có một cách là học cái khôn; chứ nếu dùng quyền lực để phạt tiền, bỏ tù, bịt miệng người ta thì chỉ chứng tỏ một điều mình đích thực là những thằng ngu thôi... Cho nên, người xưa mới nói "tâm sanh tướng". Hễ tâm ngu thì mặt phải là mặt lờ. Không thể khác được!"
Lạng Trên Mụn
 
25. Câu Chuyện Ngày Xưa
Võ Kỳ Điền (Tango Bui chuyển)

Buổi sáng hôm đó, tôi và người bạn thân đến nhà cụ Diễn trên một gác nhỏ, trong hẻm đường Hiền Vương. Tôi đang rảnh, Thâu cũng vậy, hai đứa đi loanh quanh trên đường phố Sài Gòn quen thuộc, đã mõi chân nên khi ăn uống xong xuôi, Thâu chợt đề nghị coi bói cho biết tương lai.
Nghe tới tên cụ Diễn là tôi chịu liền, từ lâu hằng nghe đại danh cụ và ước ao được gặp. Tôi đâu ngờ Thâu lại là chỗ thân tình với cụ và có thể nhờ coi dùm (mà không phải trả tiền và hình như cụ cũng không lấy tiền của khách, tôi không biết rõ lắm việc này).
Lúc đó tôi còn trẻ lắm, sống ở tỉnh nhỏ, chuyện hôn nhân cứ trở ngại, trục trặc hoài. Có cái chuyện dễ dàng như vậy mà làm cũng không xong, cả tỉnh bạn bè nay đứa nầy mai đứa kia, cưới vợ lấy chồng từ từ hết trơn, thấy mà tức ứa gan...
Do hôn nhân trễ muộn tôi đâm giựt mình, như một nhà xã hội và tâm lý gia, tôi tự tìm hiểu cá nhân, gia đình, xã hội, kinh tế, tâm lý,… và cuối cùng đổ thừa cho là tại cái nầy, tại cái kia và tìm những khuyết điểm của mình, tự trách cứ. Lúc đó do công cuộc làm ăn, tôi thường liên lạc với Thâu.

Thâu nghe tôi kể lể tâm sự, phản đối liền – bạn nói tầm bậy hết trơn rồi, không phải tại cái gì cả mà tại cái số mạng, cái số ế vợ,… nếu đúng như mấy lý do kinh tế, tài chánh, gia đình gì gì đó, tại sao có nhiều thằng xấu trai, học kém, nhà nghèo, nhút nhát, nghĩa là đủ thứ dở tệ… tại sao cũng có vợ được, tại sao?
Cuối cùng Thâu kết luận - xe hơi còn có số mà, nói chi người ta. Mà muốn biết số mạng ra sao thì bạn phải theo tôi qua kiếm cụ Diễn, thần tướng, hiện nhà ở bên kia đường...
Nhà cụ Diễn trên một căn gác nhỏ, trong hẻm đường Hiền Vương nhiều cây to bóng mát. Bên trong nhà không khí mát mẻ, bàn ghế đồ đạc bày biện theo kiểu xưa, cổ, có nhiều bức tranh Tàu treo dọc theo tường. Lúc đó cụ đang bận tiếp khách. Vài ông khách ăn mặc âu phục, complet, cà vạt chỉnh tề, ngồi đứng chào hỏi dáng vẻ cung kính, khiến tôi đâm e ngại.
Cụ Diễn là một ông già người Bắc tuổi chừng độ trên dưới bảy mươi, người ốm yếu, mong manh, khăn đóng bạc màu, áo dài mỏng bằng the đen. Rõ ràng là một nhà nho nghèo lỡ vận, ẩn dật, sống an bần lạc đạo trong cái không khí ồn ào, rộn rịp của cái đất Sài Gòn văn minh với chiến cuộc đang leo thang từng ngày…

Trong lúc ngồi chờ đợi, tôi quan sát con người và cử chỉ thái độ cụ. Cặp mắt quá nhỏ so với khuôn mặt, có lẽ vì tuổi già, thân hình như gầy hóp lại. Dầu cụ không đeo kiếng nhưng tôi vẫn không thấy được tròng mắt lớn hay nhỏ.
Hai mí mắt đã cố nhướng cho xa nhau nhưng độ hở vẫn chỉ to hơn sợi len giăng ngang chút xíu. Tuy lem nhem như vậy hình như cụ đã thấy hết trơn đời tôi. Sau khi đi qua lại vài bước cho cụ coi tướng, câu đầu tiên cụ nói như vầy:
- Số ông suốt đời ở chợ.

Tôi dạ cảm ơn và thấy cười trong bụng- ông thầy nầy ai cũng khen phục tài giỏi nhưng nói một câu hổng giỏi chút nào. Sáng hôm đó, tôi ăn mặc bảnh bao, đầu tóc mới hớt gọn ghẽ, lại đi chơi với dược sĩ Thâu, rể ông đại sứ nổi tiếng, hổng lẽ tôi lại ở nơi thôn quê. Nói như vậy thì ai cũng có thể nói được. Nhưng tôi cố nhớ lại coi hồi nhỏ tôi có ở nhà quê hay không, quả là không có.
Tôi được sanh ra tại đảo Phú Quốc, cái đảo nhỏ xíu như một thôn xóm nghèo, tuy vậy nhà tôi cũng ở ngay tại chợ, thị trấn Dương Đông. Rồi nhà được dọn vài ba lần, lần nào cũng vậy, mở cửa ra là thấy chợ ở ngay trước mắt. Tôi kiên nhẫn chờ nghe tiếp .
- Năm ngoái ông bị đụng xe, may là không nguy hiểm tới tính mạng.
Tôi chợt nhìn xuống khuỷu tay, vết thẹo còn lộ đỏ sau một lần té xe rất nguy hiểm từ trên dốc Lò Chén. À thì ra, ổng nhìn thấy vết trầy nầy, bận áo tay ngắn, cái thẹo chần dần như vậy, ai mà không thấy.
- Dạ, dạ, cụ nói đúng, năm ngoài tôi bị nặng lắm, xém chút nữa là nguy rồi, nhờ phước đức ông bà....
- Tuy nhà ông ở ngay tại chợ nhưng sau nhà lại có vườn cây.

Trời đất ! mới nhìn có tôi có chút xíu mà nói được cái vườn sau nhà, cũng lạ. Sách tướng tôi cũng đã từng đọc qua vài cuốn, có chương nào chỉ cách nhìn mặt mũi tay chưn mà tả được cảnh vật trước hoặc sau nhà? Bởi chi tiết này khó thể có được. Miền Nam mình, tỉnh nào cũng vậy, đường đất phố xá nhỏ hẹp, nhứt là phố chợ, đất dư tính từng tấc, dành để buôn bán làm ăn, chỗ nhiều đâu mà trồng cây ăn trái… Tôi thấy quả ông cụ có tài lạ, tuy vậy chuyện cái nhà, cái vườn có gì quan trọng, nói tới nói lui làm chi ?
- Nếu ông không ở trong căn nhà như vậy, thì đã nguy hiểm tới tính mệnh.
Tôi ngồi im, chuyện này cũng không biết ra sao nữa, khoa phong thủy địa lý dương trạch có nhiều điều không thể nghĩ bàn. Ông cụ vẫn bình thản, không cần hỏi tới năm tháng ngày giờ sanh, miệng vẫn nói đều đều, thong thả :
- Hiện tại ông làm nghề dạy học, dự định đổi đi nơi khác, lần đầu không được lần sau sẽ được…

Tôi giật nẩy người, đầy mình mọc gai ốc. Làm sao ông cụ biết tôi làm nghề dạy học, chỉ bao nhiêu đó thôi quả là tay cao thủ. Tôi vừa ở quân trường ra, sau ba tháng thụ huấn quân sự, tóc hớt ngắn, da đen thui, tay chưn còn dính đầy nắng gió.
Năm Mậu Thân cuộc chiến tàn khốc, hầu hết thanh niên cỡ tôi đều vào quân đội. Nếu nhìn dáng vẻ bên ngoài mà đoán tôi là sĩ quan thì dễ đúng hơn. Đâu có nét nào giống thầy giáo. Rồi làm sao biết được tôi đang xin đổi nhiệm sở, hồ sơ hiện bị trở ngại. Chắc bạn mình đã nói lỡ nói trước với ông già này hết trơn rồi, tôi liếc qua Thâu. Thâu tỉnh rụi, thấy ông cụ nói không điểm nào trật, khoái chí ngồi cười cười…
Rồi lại suy nghĩ, ổng coi cho mình, tốn công tốn sức, có lấy đồng xu cắc bạc nào, nói gạt, nói dối làm chi.
Lời nói cụ đều đều, thong thả, truyện quá khứ, chuyện tương lai, công danh, khoa bảng, tiền của, sự nghiệp, bạn bè, tai nạn, bịnh hoạn… sẽ như thế này, thế kia, tôi vâng dạ liền miệng.
Có đoạn ông cụ nói năm gần bốn mươi tuổi tôi sẽ sống ở nước ngoài, một xứ phương Bắc rất lạnh và xài tiền bằng Mỹ Kim, tôi đâm tức cười, không biết là ông còn thức hay đã ngủ, nói mê…
Nhưng mấy cái chuyện xa vời đó có quan trọng gì tới tôi đâu, cái mà tôi đang chờ để biết là chuyện gia đạo tình duyên mà, nóng ruột hết sức, tôi rụt rè ngắt lời :
- Dạ, dạ, nhờ cụ coi dùm chuyện gia đạo vợ con ra sao, hiện tại tôi còn... một mình.
Ông cụ nhướng cặp mắt tí xíu lên, nói rõ ràng như thấy cô vợ tương lai của tôi trước mặt :
- Người vợ tương lai của ông, học hành như thế này, gia thế, nhà cửa thế này... cùng nghề nghiệp với ông.
- Dạ thưa cụ, theo như cụ nói thì không dám đâu. Tôi ở tỉnh nhỏ, học ít, chỉ muốn tìm người trẻ tuổi và học kém hơn một chút ...
Ông cụ không trả lời, mắt hình như nhắm lại. Tôi nhớ lại từ đầu buổi cho tới giờ, chuyện quá khứ thì rất đúng nhưng không có gì đặc biệt, tôi ở trong nhà này hay nhà kia, làm thầy giáo hay sĩ quan thì cũng vậy, còn chuyện tương lai thì chưa biết ra sao. Duy chuyện vợ con thì hơi lạ, tôi nghĩ là ông cụ nói trật vì hồi nào tới giờ chưa bao giờ tôi để ý tới bạn gái đồng nghiệp. Tôi vốn rất sợ cô giáo và những người đàn bà thông minh, học giỏi hơn mình...
- Thưa cụ, xin cụ cho biết chừng nào tôi mới cưới được vợ ?
Ông cụ không trả lời ngay câu hỏi, chợt mở mắt ra, phán cho một câu dứt khoát, khiến tôi sửng sốt như bị tạt một gáo nước lạnh :
- Đám cưới ông hầu như không có.
Trời đất, thiệt vậy sao? Thiệt vậy sao, tôi nghe lỗ tai lùng bùng. Chuyện cưới vợ đã trầy vi tróc vảy, rồi tại sao sẽ gặp một cô giáo nghiêm trang… rồi lại không có đám cưới. Hàng trăm câu hỏi tại sao, tại sao trong đầu. Tôi cảm thấy mồ hôi rịn ra đầy mặt. Sao kỳ cục vậy, căn cứ vào đâu mà cụ dám nói như vậy. Tôi nhìn thẳng vào mặt, thấy cụ vẫn bình thản, cụ nói thiệt tình mà đâu phải nói chơi.
Tôi hỏi tiếp, giọng hơi khó chịu ...
- Dạ thưa cụ, tại sao lại không có đám cưới, có phải tôi không đủ tiền cưới vợ ?
- Không phải, nhà ông thiếu gì tiền.
- Vậy tại sao, nếu có đủ tiền tại sao tôi lại không làm đám cưới. Thú thật với cụ, tôi mà thương ai, dù người đó mang bầu hay có con rồi, tôi cũng sẽ làm đám cưới chánh thức, đàng hoàng. Tại sao tôi lại sợ dư luận mà không làm đám cưới, lại dắt con người ta đi không…
Khi nói đến đây, tôi nhớ lại giai đoạn đó ở tỉnh nhà, bạn bè nhiều lắm, đứa nào cưới vợ tôi đều sẵn lòng giúp đỡ. Vừa cho mượn xe, vừa làm tài xế, vừa làm rể phụ, hổng lẽ tới đám cưới mình, không ai tham dự. Ngày cưới tôi phải vui vẻ và đông đảo bạn bè thân tình chớ. Ông cụ chấm dứt bằng lời nói giận dỗi:
- Cái mặt ông làm gì dám dắt ai …
Rõ ràng là ông cụ nói nhiều điều vô lý, tôi không còn kiên nhẫn ngồi nghe tiếp nữa, đâm ra vô phép, đứng dậy và nói giọng hờn mát :
- Tôi không dám dắt ai, tôi lại có tiền, vậy hỏi cụ, tại sao lại không làm đám cưới cho vui. Tại sao tôi không làm…
Ông cụ không trả lời, khoát tay đuổi tôi và Thâu ra cửa. Tôi cúi đầu cảm ơn từ giã cho có lệ, rồi đi thẳng, bụng không vui. Giữa trưa nắng thiệt nóng và xe cộ ồn ào, mùi khói xăng khét lẹt, trong phút chốc những lời tiên đoán của cụ già bay mất tiêu hết, tôi không còn muốn nhớ nữa. Trật lất rồi, nhớ nữa làm chi. Ngồi trên xe, Thâu phân trần:
- Bạn biết không, mấy ông hồi nãy toàn là Bộ Trưởng hay Tổng Giám Đốc gì đó. Ông cụ là thầy tướng riêng cho Tổng Thống với Thủ Tướng, nhưng bữa nay sao ổng nói trật tới trật lui, tôi cũng thấy kỳ cục, nhiều việc không đúng, chắc ổng bịnh hoạn hay đương lo việc gì đó, nhớ trước quên sau…
Tôi bộp chộp kết luận một câu ngon lành :
- Thâu nè, bạn tin tôi đi, không bao giờ tôi cưới cô giáo hết và sẽ làm đám cưới thiệt lớn để rủ bạn bè nhậu một bữa cho vui. Đời người chỉ có một lần cưới vợ, tại sao lại không làm, không lớn thì nhỏ chớ, tại sao lại im ru bà rù… Tôi tin đời có định mạng nhưng cũng tin con người có tự do.

Hôm đó là những ngày sau Tết, nhà nàng còn chưng đầy bông hoa. Cái bình sứ cổ đời Khang Hy thật lớn dùng cắm cành mai to bằng cổ tay cao tận nóc nhà. Tôi nhìn sững những câu thơ ngoằn ngoèo nét thảo lòi tói và buộc miệng
- Cái bình nầy quý lắm đầy rạn da qui, ba dùng như vầy rủi ro nó bể thì sao.
Ông già vợ tương lai cười
- Làm sao bể được con, ba chưng như vậy cả chục năm nay rồi, có sao đâu.
Mấy đứa em vợ bu quanh chờ ông anh rể quý chở đi ăn mì. Cả nhà quây quần ấm áp, tiếng nhạc vang vang đầy nhà. Nhà sắp có đám cưới mà, không vui sao được.
Ông già lắng nghe giọng Khánh Ly trầm ấm vang lên từ chiếc máy nhạc, tự nhiên quay qua tôi
- Nè nè, con nghe nè, mấy ông văn nghệ sĩ nói chuyện, viết lách thiệt là hay, cái gì mà… giọt nước mắt rơi thành hồ nước long lanh...
Câu nói chưa hết, D. lại xí xọn xen vô
- Bản nầy là Như cánh vạc bay của Trịnh Công Sơn đó ba.
Ông vừa cầm ly rượu sóng sánh màu hổ phách, vừa lẩm bẩm
- Như cánh vạc bay, à, à cánh vạc bay ra làm sao, tượng trưng cho cái gì, thiệt tình ba không hiểu. Rồi khóc mà tới thành hồ nước long lanh - thì thiệt là viết khéo hết sức, viết được tới như vậy thì trên đời hổng có mấy tay.
Rồi ông ta bàn tiếp:
- Con nghĩ coi giọt nước mắt có chút xíu, mà làm đầy cả hồ nước là phải khóc nhiều lắm đó nghen...
Tôi ngạc nhiên, ông là tay buôn bán già đời, suốt ngày chỉ thấy cộng trừ nhân chia, tại sao không chịu nói chuyện tiền bạc, nhà đất, của cải, tự nhiên hôm nay sao lại nổi hứng bàn chuyện thơ văn, nghĩ cũng lạ.
Bất ngờ ông hỏi tôi, giọng ngọt ngào :
– Nè nè, ba nghe nói con dạy văn chương. Vậy có bao giờ con viết văn hay làm thơ gì không ?
Tôi còn đang giai đoạn ở rể, phải cố gắng lấy điểm để làm vừa lòng ông già vợ. Câu hỏi khiến tôi giựt mình – - Như vậy là ông ta khen hay chê Trịnh Công Sơn ? Câu trả lời tôi phải như thế nào cho đúng. Trời đất ơi, nhằm cái lúc vui vẻ này mà vợ tôi lại cho hát cái bản nhạc mắc dịch đó làm chi.

Câu hỏi ngọt ngào như viên thuốc bọc đường có phải là viên thuốc độc ? Tôi phải trả lời sao cho vừa ý ông đây? Hồi nào tới giờ quả tình là tôi không biết viết văn hay làm thơ. Nhưng nếu cần nói láo để được vợ thì tôi cũng phải liều gan nói đại. Nhưng mà, câu hỏi độc địa này hình như có liên quan tới cái ý nói láo đó.
Khóc mà tới đầy cả hồ nước thì là nói láo rõ ràng, ai ai cũng thấy. Nhưng nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết ra như vậy và cả nước coi nhạc sĩ này là thiên tài, nhạc ông vang rền ngập từ chợ đến quê, ban ngày cũng như ban đêm… Nhưng nói láo nhận mình là văn nghệ sĩ thì khác, không giống kiểu nói láo trong thơ văn…
Tôi còn đang ấp úng tìm câu trả lời thì may quá, bà già vợ đi đâu sợt sợt trở về, thấy tôi bà nói một hơi không kịp thở :
- Con về trình lại với anh chị ở trển, ba má đã về Dĩ An nhờ thầy coi ngày cưới rồi . Ông thầy này ngày xưa coi cho ba má đó, coi kỹ lắm, ổng tìm được ngày tháng đại lợi, tụi con sẽ ăn đời ở kiếp với nhau, giàu sang phú quý, tử hiếu tôn hiền…

Nói xong bà lục trong túi đưa cho tôi tờ giấy đỏ, đầy chữ viết run rẩy của một cụ già, nghe đâu đã trên chín chục. Rõ ràng là ông thầy Dĩ An coi ngày cưới hỏi thiệt hay, thời gian đã chứng minh được tài năng của ông. Ông bà nhạc gia tôi sống chung nhau cho tới bây giờ, tiền bạc nhà cửa sung túc, con cháu đầy đàn, chưa hề biết đến chuyện ly dị khổ tâm, đau đớn ra làm sao.
Tôi cầm lấy tờ giấy coi ngày cưới, thời gian còn lâu tới bốn năm tháng nữa, hơi bực mình nhưng nhớ lời dặn dò của ba tôi " theo tao ngày nào cũng tốt hết, ổng bả muốn trễ sớm lúc nào cũng được, miễn mầy cưới được vợ thì thôi, lần này mà mầy kiếm chuyện để cho trục trặc nữa là kể như suốt đời không có vợ đó con".
Tôi đã thấm thía chuyện hôn nhân trễ muộn mà cũng đâu cần ba tôi dặn, năm nay tôi đã ba mươi lăm tuổi rồi, tôi đâu còn ngu mà cà khịa, giận lẫy, kiếm chuyện kiểu con nít như hồi mười tám, hai mươi…
D. đưa cho tôi cục kẹo, tôi ngậm vào miệng, cắn nhẹ thấy có rượu mạnh bên trong.

Cuộc đời quả cũng có ngọt ngào, tuy rượu ít nhưng cũng khiến tôi ngây ngất. Đường Trần Hưng Đạo trước nhà, nắng sáng trong, xe chảy thành dòng. Nhớ tới lời tiên đoán cụ Diễn ngày nào "đám cưới ông hầu như không có!" Tôi bật cười. Cụ ơi, đám cưới tôi hả, chắc chắn sẽ rất vui, đông đủ bạn bè, bà con thân thuộc hai bên, làm sao không có, làm sao mà nhỏ cho được.
Nội bên vợ, anh chị em D. nếu đếm sơ sơ cũng đủ một chục đủ đầu rồi, nói chi bên gia đình tôi, nội ngoại, sui gia, dâu rể… rồi tới hàng xóm láng giềng, toàn người thân tình ơn nghĩa, đâu thể nào không mời người ta đến chung vui.

* Sau ngày 30 tháng 4, tôi len lỏi trong đám đông hỗn loạn ngơ ngác, xác xơ, tìm đường xuống Sài Gòn, đến nhà vợ chưa cưới. Vừa gặp tôi, D. ôm chầm lấy và mừng rỡ. Trong cơn biến động mấy ngày qua, chuyện liên lạc khó khăn gián đoạn, nàng tưởng là tôi đã thoát ra khỏi quê hương và đành đoạn bỏ nàng lại một mình, đi biệt tích.
Tôi không biết nên cười hay nên khóc. Tôi trình bày cho ông bà già vợ chuyện tang thương dâu bể xảy ra trên nhà tôi, tất cả những dự định tương lai đầy màu hồng ngày nào trở thành xám đen, tan nát hết. Ba vợ tôi an ủi:
- Con đừng bi quan quá, dù gì đất nước mình cũng không còn chiến tranh, mọi sự rồi sẽ ổn định. Lúc đó mình buôn bán làm ăn trở lại…

Trời đất, chế độ này mà ổng còn hy vọng buôn bán làm ăn như xưa! Mọi sự sẽ ổn định, đúng rồi, đống máy cày của ổng đâu còn chưng bày ra ngoài hành lang như lúc trước, mà đem giấu tận phía sau nhà. Chị em D. ngày nào quần là áo lụa, trang điểm kỹ lưỡng từ đầu đến chưn, nay cũng bắt chước mặc bộ bà ba đen giống như mấy cô thôn nữ chỉ thiếu chiếc khăn rằn vắt trên vai. Mấy đứa em trai ngồi im lìm, không còn chạy giỡn la hét vang rân như ngày trước.
- Thưa ba má, nhà cửa, công danh, sự nghiệp, tiền bạc bây giờ kể như mất mát hết rồi, ngay cả thân mạng con cũng không còn biết ra sao. Bữa nay con xuống thưa với ba má là chuyện hôn nhân của con và D. phải hoãn lại… cho tới chừng nào, chừng nào… con cũng không biết nữa. Cũng có thể là không bao giờ.
Nói tới đây tôi nghe D. khóc rấm rứt, rồi không cầm được nước mắt, tôi cũng khóc theo. Bà già vợ tôi cũng thút thít nhưng còn ráng nói:
- Đâu được con, đám cưới tụi con không làm lớn được thì mình làm nhỏ, vợ chồng phải có cưới hỏi đàng hoàng chớ con!
Hoàn cảnh đất nước quê hương hỗn loạn, tang tóc như vậy mà làm đám cưới, dù làm nhỏ thế nào đi nữa, dù cố gắng cho lắm cũng không thể làm được, mà coi cũng không được. Tôi trả lời ngay:
- Thưa má, con không biết bị bắt ngày nào, bây giờ chỉ còn lo chuyện chết sống, tù đày, sống chỉ biết được ngày nay, không biết ngày mai ra sao, còn đầu óc đâu mà nghĩ tới chuyện gia đình riêng tư nữa.
Tôi tiếp:
- Chuyện vui không có mà chuyện buồn thì nhiều, con nghĩ là mọi sự bế tắc... Mà quả vậy, đầu óc tôi lúc đó đặc sệt như chì, không tìm ra giải pháp nào ổn thoả hết. Đi không được, ở không được, sống không được mà chết cũng không được luôn. Tôi có cảm giác thua cuộc, bất lực, thất bại, tê liệt như con kiến bò trên bờ chảo nóng, lanh quanh bò hoài cũng không ra khỏi miệng chảo.
Ông già vợ trầm ngâm một hồi, thở ra:
- Ba hiểu rồi, thiệt là cơ khổ. Nhưng chuyện nhân duyên là chuyện lớn đời người, không thể vì vậy là hai con không thành chồng vợ. Con về thưa với anh chị, ba má dưới nầy không đòi hỏi gì cả, cũng không cần có đám cưới.
Tới ngày đó, ba má nấu một mâm cơm gia đình, chỉ cần có mặt anh chị và ba má chứng kiến cho hai con lạy bàn thờ, xin phép ông bà tổ tiên để kết duyên thành chồng vợ là đủ.
Tôi ngắc nga, ngắc ngứ:
- Rồi đồ cưới, khăn áo hoàng hậu, nhẫn cưới cho cô dâu, rượu trà, xe hoa…
Ông nói:
- Con không cần đem xuống gì cả, kể như là ba má và em con đã nhận lễ vật đầy đủ rồi, đời bây giờ nhiều chuyện rối rắm lắm, đừng có lo nghĩ thêm chi cho mắc công…

* Ngày 30-5 năm 1975 nghĩa là sau ngày mất nước một tháng, tôi cưới vợ và đám cưới hầu như không có. Bên nhà vợ tôi nấu một mâm cơm cúng tổ tiên, ông bà, hai đứa tôi lạy bàn thờ rồi lạy tứ thân phụ mẫu, ba má tôi và ba má D. ngồi trên bốn cái ghế đẩu nhỏ sắp hàng ngang trước bàn thờ.
Chỉ có người nhà và không có ai lạ. Vậy là xong lễ thành hôn. Trong khi hai bên sui gia gặp nhau, cửa nhà đóng kín kỹ lưỡng, sợ công an khu vực vô phá đám, xui xẻo, hàng xóm không ai biết bên trong chúng tôi đang làm việc gì.
Ngày hôm sau tôi về Bình Dương, lén dắt vợ đi chào và trình diện với những thân bằng quyến thuộc. Dù hết sức đơn giản nhưng tôi cũng có vợ đàng hoàng tử tế, đầy đủ lễ nghĩa !.
Khi viết những dòng chữ này thì ông già vợ tôi đã mất từ lâu. Nhưng tôi vẫn nhớ rõ những lời ông nói, tình thương ông cho tôi dù bao nhiêu nước chảy qua cầu, cuộc đời dâu biển, tôi vẫn thương ông như thương cha ruột tôi vậy.
Cụ Diễn cũng đã mất rồi, những lời tiên đoán của cụ ngày nào vẫn còn mãi mãi bên tai, làm sao tôi quên được. Tôi nợ cụ nhiều lắm, bây giờ làm sao trả đây. Không phải là nợ vật chất, tiền bạc, gói trà hay chai rượu mà tôi nợ cụ lời xin lỗi chân thành cùng lời khen ngợi tài năng cao xa của cụ. Cái lỗi ngu si của tôi rất lớn, ngày đó tôi còn quá trẻ chưa hiểu đời là gì, đã dám hoài nghi những điều mình chưa biết.

 
24. Tám Tàng, Mối Tình Kỳ Diệu
(Tango Bui chuyển)
Sinh ra và lớn lên trong gia đình đông anh em mà tôi đứng vào hàng thứ tám và cũng là út trong nhà, không hiểu là tại bị sinh non hay là tại bà má lúc mang bầu với huyết áp cao mà đầu óc tôi có vấn đề nói nôm na theo kiểu châm chọc là bị nước vào óc, đầu bị bò đá. Chính vì bị bò đá mà tôi học hành dở như hạch, toàn là đứng cuối trong lớp, bạn bè không tiếc thương bèn tặng cho cái danh hiệu Tám Tàng, học dốt lại thêm tính lù đù chậm chạp thêm vào đó là ai nói nhiều nói dai thế là tôi lại ngẩng người như thằng phổng chẳng hiểu là họ đang nói điều gì, nói với ai thậm chí nhiều lúc tôi còn nghĩ mình là người hành tinh khác lưu lạc xuống trái đất.
Người ta hay nói "Lù khù có ông khù độ mạng hoặc lù khù vác cái lu mà chạy" và tôi chính là cái thằng này bằng chứng là khi thi tú tài một cứ nghĩ là mình trợt vỏ chuối bởi bài toán hình học không gian thì lại được quý nhân độ mạng.

Số là tôi tên Lam khi vào phòng thi lại gần cô gái tên Lệ ngồi ở bàn phía trước, có lẽ thấy tôi cứ ngồi cắn bút chì, ngơ ngác con nai vàng vì bài toán hóc búa thì cô cho tôi copy bài thi của cô và kết quả là Tám Tàng nắm lấy cái tú tài phần một còn gọi là tú tài đơn với hạng thứ, một thứ hạng đứng chót trong bảng phong thần: Tối ưu, ưu, bình, bình thứ và thứ.

Với cái tú tài hạng bét như tôi thì là niềm hãnh diện vô cùng nhưng nghĩ rằng nếu tiếp tục con đường hoạn lộ bằng cái trí thức bằng con chí mén thì sẽ thất bại, thế là tôi chọn ngay con đường binh nghiệp để dấn thân. Than ôi! Cứ nghĩ rằng chữ nghĩa là khó khăn, không ngờ học cách cầm súng cũng nhiêu khê không kém, lời giảng của ông thầy từ tai này bay qua tai kia cơ hồ như không còn hiện diện trong tâm trí, ông huấn luyện viên thao thao trên bục giảng thì Tám Tàng ngồi gật gù tán thưởng trong cái ngủ gà ngủ gật, ra bãi chiến thuật thì tìm cách chui vào bụi cây tìm giấc ngủ, tác xạ thì mười phát trúng chỉ một không bao giờ được thêm, đi di hành dã trại thì thiên hạ kéo nhau xuống câu lạc bộ ăn uống thỏa thích thì tôi mới lọ mọ mò về đến nơi. Với cái đầu bị bò đá, óc bị ngập nước cùng với năng khiếu kém cỏi Tám tàng ra trường với thứ hạng khá, chữ khá mà tôi có thể hãnh diện bởi lần đầu tiên trong đời ăn đứt 100 thằng mà không phải đội sổ, thứ hạng 500 trên 600 là oai hùng lắm nha, ít ra là không bị ông cọp liếm tóc, có thể chọn đơn vị theo ý thích….

Đứng trước căn nhà lầu hai tầng khang trang trên con đường Yên Đổ, tôi ngẩn ngơ như không tin vào mắt của mình bởi lão Khọm là ai thì tôi rất rành về con người của ông ta khi còn ở khu cấm: Bầy hầy, làm biếng, vụng về và gàn bát sách. Bản thân như thế sao lại có căn nhà ngon lành như vậy chứ?
- Ông là ai mà lại rình mò trước nhà của tôi?

Giọng thanh thoát mang âm điệu của người Bắc khiến tôi giật mình vì sợ.
- Khiếp! Cô làm tôi suýt chết vì đứng tim, tự dưng la làng lên như vậy chứ.
- Ô hay! Cái ông này… Ông ăn nói lạ nhỉ? Đây là nhà của tôi cơ mà.
- Thế là vậy... Xin hỏi đây là nhà của lão Khom. À quên nhà của thiếu tá Quang?
- Đây không có ai là Quang hết, xin mời ông rời khỏi nơi này ngay lập tức bằng không tôi gọi cảnh sát!
- Gọi đi! Tôi không làm gì phi pháp cả tự dưng chụp cái mũ rình mò ăn trộm. Mục đích đến nơi này là hỏi thăm tin tức của ông ta, người một thời chung sống ở trại cấm với tôi, chưa biết đầu cua đuôi nheo gì hết lại dọa gọi cảnh sát. Đúng là Bắc kỳ chanh chua đanh đá có khác.
- Im..Im miệng!.. Người gì đâu mà bất lịch sự, ăn nói quàng xiên cóc đế. Xê ra.. Nhanh ..!

Cô gái đỏ mặt tía tai vì phẫn nộ vì cả đời chưa bị ai mắng nhiếc nặng nề như thế, cái giận khiến cô nom đáng yêu vô cùng huống hồ người con gái vốn dĩ lại xinh đẹp và có nét thu hút mãnh liệt.
- Không xê thì cô làm gì tôi nào…?

Tôi hếch mặt lên trời thách thức.
- Eo ui!. Thách tôi phải không? Anh có anh hùng thì chờ đấy.. Mẹ ..Mẹ. Có kẻ cắp trước nhà, hắn đang trêu con đây.. Mẹ ra nhanh đi.

Thấy bóng người thấp thoáng sau cánh cửa kính mà tôi đoán là người nhà của cô sẽ xuất hiện, thế là tôi dọt liền nhanh còn hơn con thỏ sang bên kia con hẻm sau khi ném cái nhìn hăm dọa về cô: Hãy chờ đấy, chúng ta còn gặp nhau dài dài..
Thế là từ sau cái hôm chạm trán với cô gái chanh chua kia, tôi mò vào cái quán cà phê nhỏ đối diện với nhà cô:
- Ông chủ cho hỏi thăm một chút, nhà bên kia đường có phải là của ông Quang?
- Đúng rồi, là của ông Quang, hình như không còn đi lính nữa suốt ngày ru rú trong nhà, ra bên ngoài chỉ có bà vợ và con gái.
- Thế cô ta tên là gì? làm việc hay còn học?

Lão chủ quán cười hề hề nhìn tôi với ánh mắt hóm hỉnh lẫn khinh thường.
- Con bé tên Quỳnh Hương, đang học năm thứ 3 trường Dược, xinh xắn và dễ thương cho nên có nhiều người theo đuổi lẫn trồng cây si trước nhà. Theo tôi nghĩ là ông không nên bởi tướng tá rất ư là xoàng xĩnh lẫn nghèo nàn chắc chắn là không lọt vào mắt xanh của cô bé ấy đâu.
- Này ông chủ, xin đừng khinh thường Tám Tàng này nghe, không biết ông có nghe câu" Chưa chắc mèo nào cắn miêu nào hoặc lù khù có ông khù độ mạng”? Nếu một ngày nào đó tôi nắm tay cô dẫn đến trước mặt ông thì sao đây?

Lão chủ quán ngẩn người nhìn tôi với ánh mắt quái dị ra chiều như là người từ hành tinh lạ mới xuống trái đất, lão chủ ngoẹo đầu nhìn tôi từ trên xuống như đánh giá rồi cười giả lả:
- Đùa với ông thôi mà, tôi chỉ mạo muội đưa vài lời khuyên bởi hồng nào mà chẳng có gai, theo đuổi cô gái xinh đẹp chẳng khác nào trêu đùa với gai góc chiếm được nó đổ ra không ít công sức chưa kể là bị nó quào cho máu chảy đầm đìa.

Tôi cười hắc hắc với vẻ tự tin:
- Biết mà ông chủ, cám ơn những lời khuyên của ông, tôi biết là mình sẽ hành động như thế nào khi tấn công mục tiêu.

Suốt tuần lễ ngồi trong quán, tôi quan sát mọi sinh hoạt của Quỳnh Hương: Từ việc đi học, đi chợ mua thức ăn cho đến giao du với bạn bè và ngày hành động bắt đầu....
Sau cái hôm đụng độ trước cửa nhà cùng ánh mắt đe dọa của tôi khiến cô gái sợ hãi và người xuất hiện cùng cô khi ra ngoài là bà vợ lão Khọm, cả hai quan sát cẩn thận bốn phía sau đó thấy không có gì mới lạ rồi mới cho cô rời đi. Hôm đó là ngày mà cô đi chợ mua thức ăn, xuất hiện với chiếc áo sơ mi dài tay cùng quần jean xanh nhạt, nom cô duyên dáng khỏe mạnh nhất là mái tóc cắt ngắn Demi Garçon lộ cái cổ trắng mịn với những sợi tóc non vàng nhạt. Tôi đủng đỉnh chắp tay sau đít theo cô từ phía sau, Hương không biết có người theo dõi cho nên thản nhiên lựa chọn những thức cần thiết.
- E..Hèm.. Chào Quỳnh Hương…

Tôi tằng hắng lên tiếng.

Cô gái giật bắn người đến nỗi suýt làm rơi cái giỏ trên tay, mặt tái đi vì sợ hải lâu lắm mới lắp bắp:
- Lạy chúa tôi... Lại... Lại... là... ông... Muốn gì ở tôi?
- Không có gì hết, thấy người ta đi chợ nên hiếu kỳ muốn biết người ta mua những gì thế thôi.
- Kệ tôi, mua gì thì không cần ông quan tâm, đừng có làm bộ là không biết mình đang làm gì. Theo đuổi người ta mà giả mù sa mưa... Này nhé, ông không có ký lô nào hết đối với tôi, con cóc mà đòi ăn thịt thiên nga.
- Biết hết... Hi hi... Thiên nga rồi có ngày bị con cóc nhỏ xíu xơi tái lúc nào không biết.
- Nghèo mà ham....

Cô nguýt một cái rõ dài cùng với vẻ khinh thường trên mặt.
- Cái ông nhà thơ lẩn thẩn Nguyễn Tất Nhiên có bài thơ ca ngợi các cô Bắc kỳ nho nhỏ với mái tóc Demi Garçon nhưng sau đó ổng đổi tông vì bị các cô thiên nga đá giò lái và cho đi tàu bay giấy:
.... Anh nhớ tính tình cô gái Bắc
Nhớ điêu ngoa mà giả bộ ngoan hiền

Nhớ khiêm nhường nhưng thâm ý khoe khoang
Nhớ duyên dáng ngây thơ mà xảo quyệt....
- Hay dử nha, thơ với thẩn. Thấy ghét... Mặt dày... Vô sỉ...
- Ông nhà văn nước ngoài có cái nhìn hết sức chính xác về nữ giới: Khi bạn nghe cô gái nói “Không” thì phải hiểu ngược lại, hoặc bị cô ta chửi mắng thì phải nên mừng bởi trong lòng của cô đang hướng về bạn, đang nghĩ ngợi về bạn rất nhiều. Có yêu thương mới có chửi mắng, có cay đắng mới có ngọt bùi. Phải không Quỳnh Hương yêu dấu.
- Ông... Ông thật mặt dày, loại người hết thuốc chữa! Ai cho phép ông xưng hô thân mật như thế? Đừng có tự sướng nghe! Tôi không phải là loại người dễ dãi để cho thiên hạ muốn nói, muốn làm gì với mình mà làm.

Quỳnh hương phẫn nộ lớn tiếng khiến cho nhiều cặp mắt lập tức hướng về chúng tôi với vẻ tò mò cùng thích thú.
- Nói đùa với Hương thôi, quả thật là muốn tìm ông Quang trước là hỏi thăm tình trạng sức khỏe sau là muốn biết hiện tại ra sao khi ra hầu tòa. Tôi và ông ấy cùng ở trại Cấm, Quảng Tín, cả hai đều chờ ra hội đồng kỷ luật, tòa án quân sự mặt trận vì vi phạm nặng nề quân phong quân kỷ, nếu không tin thì cứ hỏi bố của cô về những ngày sống nơi đó cùng Tám Tàng, gã thiếu úy mén bất tài vô tướng nhưng chưa bao giờ làm điều gì trái với lương tâm đạo đức. Xin lỗi Quỳnh Hương về lối xưng hô giữa tôi và ông Quang khi sống chung với nhau, nơi đó không có ông thiếu tá oai quyền với quá khứ đầy ánh hào quang trong các trận đánh mà chỉ là một ông lão già nua lọm khọm và gã thiếu úy bẹt hạng, nơi đó có lối xưng hô mà cả hai đều vui vẻ chấp nhận: Tám Tàng và Lão Khọm. Cứ về hỏi ông Quang thì cô sẽ hiểu mọi sự nhất là về con người của tôi. Xin chào Quỳnh Hương.

Tôi xoay mình bước nhanh ra đi bỏ lại cô gái nhiều nổi thắc mắc lẫn nghi ngờ trong lòng.
… Ngày đó khi ra trường với thứ hạng quá thấp cho nên chỉ có thể chọn về sư đoàn bộ binh hoặc các tiểu khu hắc ám nơi mà thiên hạ chê bai hoặc quá nguy hiểm cho tính mạng như Kiến Hòa, Kiến Tường, Kiến Phong, Vĩnh Bình, Chương Thiện… Tôi chọn sư đoàn bộ binh trấn thủ vùng 2 chiến thuật mà không về đơn vị Địa phương quân bởi ám ảnh cái chết của người bạn gần nhà cùng lớp thời trung học: Nguyễn Đình Hầu, anh phục vụ tiểu khu Chương Thiện, tiểu đoàn địa phương quân. Trong lúc hành quân Hầu đạp phải mìn của địch gài trên đường, bị thương nặng cả hai chân, anh được mang về bệnh viện điều trị, bác sĩ phải cắt bỏ 2 chân lên đến đầu gối vì bị nhiễm trùng, thế nhưng vẫn không thể ngăn chặn được sự nhiễm trùng ngày càng lây lan, bác sĩ phải quyết định giải phẫu lần thứ hai là cắt lên tận háng để rồi Hầu ra đi vĩnh viễn vì sức khỏe suy sụp toàn diện.

Về sư đoàn bộ binh với cái chức trung đội trưởng, tôi có những ngày đen tối khi nắm chức vụ này, không biết tại vì cái mặt khó ưa hay vì cái tính tàng tàng mác dây, óc bị nước vào mà lão đại đội trưởng không ưa ra mặt và cái hậu quả vô cùng bi ai cho tôi là bị đày cho bằng thích: Mở đường và nằm tiền đồn. Quanh năm suốt tháng cứ 2 nhiệm vụ mà làm suốt khiến cho lính lác kêu rêu ca thán bởi 2 nhiệm vụ nói trên vô cùng nguy hiểm và chết người như trở bàn tay. Chính tôi cũng có suy nghĩ là nếu tiếp tục như vậy thì sẽ có ngày leo lên bàn thờ về chầu tổ tông thôi cho nên nảy ra ý nghĩ táo bạo là thay đổi địa điểm khi bị nằm chốt tiền đồn, nói nôm na là báo cáo láo với cấp trên về vị trí của mình: Tọa độ một nơi và người một nẻo.
Cái câu châm ngôn" Cái kim trong bọc rồi cũng có ngày lòi ra, chẳng chóng thì chầy thì có ngày lòi mặt chuột”. Đại đội bị tấn công vào mờ sáng, lão đại đội trưởng bỏ của chạy lấy thân, lính lác tan vỡ mạnh ai nấy tìm cách thoát thân trong khi đó tôi và đám lính phè cánh nhạn ở vị trí ma, vị trí không có tọa độ chấm sẵn trên bản đồ và cái hậu quả là cấp trên điều tra ra sự gian dối này: Bất tuân thượng lệnh, thiếu trách nhiệm trong sự thi hành nhiệm vụ, tùy ý thay đổi vị trí mà không báo cáo với cấp trên.

Thế là Tám Tàng bị đưa về khu tạm giam còn gọi là trại cấm cố chuyên dành cho người chờ ngày ra Hội Đồng kỷ luật hoặc ra tòa án quân sự mặt trận. Thiếu tá Quang thì lại khác, tội lão nặng hơn: Đào nhiệm trước địch quân, không tròn trách nhiệm cấp chỉ huy, rời nhiệm sở mà không có sự đồng ý của cấp chỉ huy. Một cấp chỉ huy như ông Quang mà vi phạm kỷ luật của quân đội thì cái kết cục thê thảm như thế nào rồi, lon bị lột xuống bị tống vào trại tạm giam để chờ ngày hầu tòa.
… Số là hôm đó, tôi tức Tám Tàng trần xì cái quần xà lỏn nằm trên cái võng nhà binh nghêu ngao vài câu hát cho quên sầu thì lập tức nhổm dậy vì nhìn thấy bóng người thấp thoáng ngoài cổng vào trại.
- Ai vậy kìa? Chẳng lẽ lại con vịt đẹt có số phận giống như mình? Mà không đúng, người này già rồi cơ mà.

Tôi miên man với bao nghĩ ngợi về nhân vật lạ thì ông ta ném phịch cái ba lô cũ xì trên nền đất và thở một hơi dài lẩm bẩm nói một mình:
- Rốt cuộc rồi tới nơi, chuyện gì đã xảy ra và hiện tại nó đang đến chỉ còn tương lai!

Tôi lờ mờ nhận ra ông ta không khác với mình bao nhiêu là tội đồ của quân đội, người không tuân lệnh thượng cấp.
- Này... này... Sao lại vào đây? Có lộn chỗ không đó.
- Lộn cái chó gì nữa chứ! Trại Cấm dành cho sĩ quan bất khiển dụng, loại người hết xài, quân đội chê.
- Ạ! Thì ra cũng giống như tớ, thế cấp bậc gì? Nguyên nhân tại sao?
- Sao tò mò thế chú mày, nhiều chuyện quá!

Lão cau mày ra dáng không hài lòng bèn to tiếng nạt khiến tôi cụt hứng.
- Không nói thì thôi, già mà còn lên mặt, vào đây thì thiên nga cũng thành con vịt què, chiến mã cũng thành con ngựa què.

Tôi bĩu môi mai mỉa một cách cay độc khiến ông tái tím sắc mặt vì giận cùng hổ thẹn và sau cùng thì chậm chạp ra bên ngoài. Tôi và ông cả tuần lễ không nói với nhau câu nào thậm chí đụng mặt cũng chả thèm một lời chào hỏi cứ như vậy cho đến một hôm....
- Chú nhóc tên gì? Tại sao lại vào nơi đây? Cấp bậc?
- Ông hỏi nhiều quá làm sao mà nhớ hết, phải từ từ cho tôi trả lời từng câu một... E hèm… Nguyễn văn Lam tự Tám Tàng, thiếu úy trung đội trưởng bộ binh, can tội bất tuân thượng lệnh, thiếu tinh thần trách nhiệm của cấp chỉ huy…báo láo với thượng cấp. Còn ông thì sao?
- Chú nhóc có nghe về trận đánh ở Tam Quan, Bình Định?
- Biết chứ... Trận đánh khá lớn và gây nhiều thiệt hại cho địch quân thế nhưng tại sao ông lại nói về nó?

Ông ta lừ mắt nhìn tôi với vẻ thương hại rồi sờ cằm với vài cọng lưa thưa và sau đó chậm rãi tiếp tục nói:
- Sau đó là Bồng Sơn.
- A... Thì ra thiếu tá Quang là ông…Là…

Tôi sửng sốt đến ngây người vì không bao giờ nghĩ người lừng danh trong sư đoàn vì có nhiều thành tích, nhiều công trạng thế mà cuối cùng lại vào trại cấm.
- Chú mày nghĩ như thế nào khi tiếp mặt với số lượng địch quân đông gấp 10 lần cùng với chiến xa, pháo binh yểm trợ. Tử chiến cho đến viên đạn cuối cùng khi không có pháo binh, phi cơ hay là kéo cờ trắng đầu hàng như ông Đính, sư đoàn 3 bộ binh hoặc mở đường máu khi xung quanh toàn là giặc. Họ bít toàn bộ con đường ra lẫn vào.
- Thì chạy thôi! Tìm đường sống trong cửa chết, ai lại không quý mạng sống của mình, hơn nữa còn gia đình người thân đang chờ đợi.
- Tao ra lệnh triệt thoái, mạnh ai nấy thoát thân trước khi bị hoàn toàn vây hãm, từ bỏ vị trí chiến đấu trước khi có lệnh từ cấp cao và cuối cùng…
- Quên đi... Người nào cũng có lý lẽ của mình nhất là các ông lớn, người chỉ tay năm ngón và an nhàn trong các hầm trú ẩn kiên cố, chỉ có mấy thằng chỉ huy cắc ké như ông và tôi là bị thiệt thòi.

Tôi và ông Quang còn gọi là lão Khọm sống chung hòa bình trong trại Cấm mà không có sự phân biệt cấp bậc và tuổi tác, ban đầu thấy lão già cả nên chia công tác là nấu nướng linh tinh còn tôi phụ trách việc khác nhưng cuối cùng thì Tám Tàng phải gồng lưng gánh vác mọi thứ vì lão nấu ăn dở như hạch và bầy hầy hết từ nào để diễn tả.

Vài tháng sau thì tôi đi trước, ra hội đồng kỷ luật. Trước khi đi lão Khọm bùi ngùi nắm tay tôi nói như muốn khóc:
- Chúc may mắn nghe nhóc! Mọi sự tốt lành.. Trời hại mới chết chứ người hại thì không bao giờ.
- Ông cũng vậy lão Khọm. Chúc mọi thứ an lành đến với ông.

Tôi chia tay cùng ông lão từ dạo ấy và dù có địa chỉ của ông nhưng chưa bao giờ tìm đến bởi bận bịu việc học sinh ngữ. Nói đến việc này thì tôi lại có sự kỳ diệu khác mà tôi sẽ kể cho các bạn phần kế.

… Số là khi ra hội đồng kỷ luật, các vị cầm cân nảy mực cho tôi lời bào chữa cuối cùng trước khi quyết định bản án:
- Tôi, sĩ quan trung đội trưởng... đại đội… tiểu đoàn... trung đoàn... sư đoàn... số quân… Xin trình bày toàn bộ vấn đề trong khi đảm nhiệm chức vụ trung đội trưởng... Mở đường, tiền đồn mút mùa lệ thủy từ tháng này sang tháng khác mà không đơn vị nào thay thế, huy chương chiến công không có thậm chí cái bằng tưởng lục cũng vào tay ai đó mà không phải là tôi. Con giun xéo lắm cũng phải oằn, con người ai không tham sống sợ chết, tôi cũng thế thôi. Nếu quý vị muốn tìm hiểu sự thực thì cứ về đó mà điều tra, tôi không có ý kiến. Xin hết!

Cuối cùng thì hội đồng kỷ luật hạ bút quyết định: Trả về Bộ Tổng Tham mưu đồng thời tùy nghi quyết định tình trạng của đương sự.
Cứ nghĩ 100 % là về đơn vị mới và chắc hẳn không ngon lành gì cho lắm nhưng khi cầm quyết định thuyên chuyển của Bộ Tổng Tham Mưu thì tôi ngẩn tò te và không tin vào mắt của mình:
... Đương sự trình diện trường Sinh Ngữ Quân Đội, quyết định có hiệu lực từ ngày ký.

Không bao giờ tôi nghĩ là mình có trái bánh thơm ngon từ trên trời rơi xuống, nhất định phải có sự hiểu lầm nào đó phát sinh chẳng hạn là trùng tên, trùng chức vụ hoặc thằng cha nào đó có cái đầu bị bò đá như tôi mà đánh máy lộn văn bản. Đi khiếu nại thì không dám, mà hỏi thăm thì biết ai mà tường trình, cuối cùng thì tôi đến nhiệm sở mới làm thủ tục nhập học theo quyết định thuyên chuyển.
- Mày có biết tại sao mình về trường Sinh Ngữ?

Lão Mỹ già ngồi đối diện nhìn tôi chòng chọc, cặp mắt xanh như mắt mèo như thấu ruột gan kẻ đối diện. Lão Smith trạc độ 50 tuổi, người gầy teo như cây sậy, đã vậy lại có cái mũi quặp như mũi két khiến cho tôi có cái áp lực nặng nề vô hình trên người, cái không bao giờ ngờ là lão mũi quặp nói tiếng Việt rành rẻ, rành còn hơn mấy bà nhà quê miệt vườn bởi câu văn lịch sự và đúng văn phạm.
- Tôi không biết tại sao có việc này, xin ông cho biết.
- Theo báo cáo từ đơn vị cũ thì cái tội của mày có đem cho cá mập ăn cũng chưa hết tội, mày có biết cái hậu quả khi làm việc tắc trách ấy sẽ hại bao nhiêu mạng con người, đáng lẽ là tao không nên xen vào nội bộ của người ta nhưng trường hợp của mày thì ngoại lệ cho nên đành phải nhúng tay vào thôi... Hỏi một câu mà mày phải thành thật trả lời cho tao biết.. Mày có bao giờ cứu ai chưa?
… Cứu người... Tôi thì thào trong miệng... Cứu người... Ai vậy ta?

Suy nghĩ cặn kẽ mọi thứ và cuối cùng quyết chắc câu nói:
- Tôi chỉ cầm súng giết người chứ chưa bao giờ cứu người, ông cũng biết câu ngạn ngữ của người phương tây: Kill or Be Killed.. Dịch theo tiếng Việt thì giết người hay bị giết khi đối diện với họng súng của kẻ thù đang hướng vào mình.
- No... No... Mày đã có một lần cứu người, suy nghĩ cẩn thận lại xem sao.

Tôi sờ mũi nặn óc cố suy nghĩ xem mình có làm việc nhân đạo ấy bao giờ chưa, nghĩ nát óc mà không tài nào tìm ra, có lẽ vì đầu óc bị vào nước hay sao mà tôi đâm ra chậm lụt vô cùng.
- Nghĩ không ra phải không? Mày có nhớ cái tên John?
- A... John... Hình như... hình như…

Tám Tàng lại một phen cố nhớ ra thằng cha căng chú kiết nào đó có cái tên lạ hoắc, hơn nữa lại là thằng mũi lõ mắt xanh với cái tên khó nhớ kia xuất hiện khi nào đến nỗi được mình cứu mạng. Lão Smith lắc đầu tỏ vẻ thương hại cái thằng có đầu óc bị bò đá ngồi trước mặt, với tính lù đù chậm chạp lại có vấn đề trong trí nhớ thì sống dai, sống dài trong trận chiến thì quả là phép lạ.
- Thằng John là phi công lái trực thăng bị phòng không của vi xi bắn hạ gần thung lũng An Lão năm 1972. Nhớ chưa mày, thằng Chicken death! Oh my goodness!
- Nhớ rồi... Hắc... hắc...

Tôi cười ngây ngô...
- Cái thằng John què cẳng báo hại tụi lính than trời trách đất vì quá nặng khi mang hắn ra ngoài và tao mất trắng cái võng nhà binh dùng để tải thương.
- Đúng... đúng... Thằng John, đại úy phi công chiếc trực thăng võ trang Cobra mà mày cứu nó khi đang thi hành nhiệm vụ yểm trợ cho quân bạn. Rất cám ơn mày vì hành động dũng cảm ấy.
Khúc phim quá khứ từ từ quay lại vào thời điểm năm 1972....

… Trung đội sau khi hoàn tất việc mở đường trên quốc lộ 1 nhằm bảo đảm an toàn cho đoàn công voa cùng các chiến xa trên đường tăng cường cho đơn vị bạn, chưa ngồi nóng chỗ thì lão đại đội trưởng ra lệnh cho tôi tiếp nhận nhiệm vụ mới.
- Mày dẫn con cái vào An Lão tìm cho bằng được viên phi công đang bị bọn Vẹm lùng bát. Đây là lệnh từ cấp cao đưa xuống, mày phải chấp hành mà không được từ chối cũng như tìm cách thoái thác.
- Đậu má... Bộ không còn người sao mà bắt tui vào trong đó.. Đậu má.. chỉ trên dưới 20 mạng mà ông ra lệnh tui vào ổ kiến lửa. Đậu má..

Tôi tức giận gần như mất lý trí nên chửi thề inh ỏi mà không chút nhân nhượng, bất chấp lão là cấp chỉ huy trực tiếp.
- Đừng nóng... Đừng nóng.. Tao cũng là bất đắc dĩ thôi, các cánh quân khác còn quá xa nên không thể điều động đến kịp, chỉ có mày là gần nơi đó, mày phải chấp hành thôi vì đây là lệnh từ Bộ chỉ huy tiền phương, hơn nữa lão cố vấn sư đoàn chính thức ra mặt yêu cầu. Mày hãy làm mọi thứ trong khả năng của mình. Nếu trời sập tối mà không tìm thấy thì lập tức rút lui trở lại tọa độ XYZ nằm chờ lệnh. Ok…

Biết là mình không thể thoái thác mà cho có thì tránh hôm nay thì ngày mai cũng phải đến phiên của mình cho nên gồng mình chấp nhận.

- Vào An Lão tìm thằng phi công bị rớt máy bay, tụi bây chuẩn bị súng ống đạn dược của mình.
- Trời.. Bộ ông muốn tụi tui chết chùm sao đây... Thiếu úy?
- Đ... mẹ... đụng đến tổ ong vò vẽ thì chịu đời sao thấu... Trời...
- Đậu má nó... Đi với ông chắc có ngày tụi tui leo lên bàn thờ ngồi.
- Thiếu úy... Mình tìm chỗ nào đó núp đi, chờ trời tối là rút quân.
- Con c... Chỉ một thằng phi công mà bắt tụi mình chui vào hang hùm.. Đậu má nó... Cọp khèo một cái thì cái mạng của con đi chầu tổ.

Mặc cho thuộc hạ kêu rêu ca thán, tôi lạnh mặt quát:
- Câm miệng cho tui! Đứa nào sợ chết thì ở lại đây, đừng có làm xàm cái lỗ miệng nghe nhức đầu lắm.

Trung đội len lỏi giữa các lùm cây rậm và dày đặc, trên cao là các thân cổ thụ với cành lá xum xuê, họng súng lăm lăm hướng phía trước, chúng tôi đang vào khu rừng tối thui không có ánh mặt trời, thỉnh thoảng vài con chim bay vút lên kèm theo âm thanh phẫn nộ vì bị con người phá rối nơi trú ngụ, những lần như vậy thì lập tức toàn trung đội vội nằm xuống như lâm đại địch.
- Đậu má nó! con chim nhỏ xíu làm mình hết hồn.
- Ê..thằng Minh, mày sờ của quý xem nó còn hay chạy lên cần cổ.
- ĐMẹ... Rừng gì mà tối thui như cái quần bà ba đen của mấy con mẹ đàn bà.

Bọn lính xì xào trêu cợt với nhau như cố làm dịu sự sợ hãi đang bao trùm, mà quả thật khi rừng hoang mới thấy cái rùng rợn của nó, nhất là mật khu an toàn của địch với số quân nhiều vô số kể so với nhúm người chỉ hơn 2 chục nhân mạng. Tiếng vỗ cánh bay của loài chim rừng, tiếng động trong bụi cây của loài thỏ hoang, tiếng hú thê lương của mấy con vượn trên cao khiến trái tim của chúng tôi chùng xuống, cái lạnh lẽo vô hình bao trùm toàn thân dù đang bị ảnh hưởng bởi cái oi bức của khu rừng.

Còn đang miên man suy nghĩ thì tiếng chân dồn dập từ phía trước vọng lại, người lính khinh binh dò đường vội vã chạy về, anh ta hổn hển vừa nói vừa thở cùng vẻ mặt kinh hoàng:
- Thiếu úy.. Thiếu úy…. Ma... Nó rên khóc dưới cái mả đằng kia.
- Cái gì... Con ma... Mày có nghe lộn không? Đừng xạo nghe mày.
- Thiệt mà, ma nó rên hừ hừ nghe thấy mà ghê!
- Đậu má. Ma gì mà ma, Việt cộng thì có, mày nhát gan quá trời.
- ĐMẹ.. lính tráng có súng trên tay mà sợ con ma… ĐMẹ.

Tôi thấy lành lạnh sau lưng như có ai đang thổi vào, tự dưng gai ốc nổi đầy người nhưng trước mặt lính tráng đành phải ra vẽ bặm trợn một chút.
- Không có ma cỏ gì hết là mấy lá cây bị gió thổi cho nên tạo ra tiếng khóc rên thôi. Đi.. Dẫn tao đến chỗ đó xem sao.

Đoạn quay sang mấy người lính đang xúm xít xung quanh, tôi chỉ định từng người một:
- Mày đi theo tao, thằng kia bám vào thằng khinh binh để yểm trợ nó, còn lại tản ra xung quanh đừng có chùm nhum như vậy Việt cộng bắn một phát là xâu táo cả đám.
- Thiếu úy, tôi không theo thằng Tèo khinh binh đâu rủi ma nó vật thì sao, kêu thằng Thạch Sinh theo nó vì thằng này có bùa Miên.
- Thiếu úy... bùa của tui chỉ trị người sống đâu có trị ma quỷ.

Thằng Miên chối bai bải và lùi lại như thể ma hiện hình trước mặt, tôi tức quá bèn quát to bất chấp đang ở trong vùng nguy hiểm.
- Đậu má... Tụi bây không đi bố bắn bỏ từng thằng một... Đậu má.. lính lác gì như con đầu bùi của ông, chưa biết có ma quỷ hay không mà cả đám teo bugi hết rồi... Đậu má...

Thấy tôi nổi xung thiên chửi thề inh ỏi cho nên cả đám rụt cổ im thin thít nhưng trên mặt lộ vẻ không cam lòng bởi trước mặt họ, tôi là cấp chỉ huy cao nhất, là người gánh chịu toàn bộ trách nhiệm nếu có chuyện gì xảy ra. Chúng tôi len lỏi đi thật chậm luồn lách qua các bụi cây rậm, súng trên tay hờm sẵn, thằng Tèo khinh binh dẫn đường, kế tiếp là thằng Thạch Sinh người Miên, nó lẩm bẩm cái gì đó trong miệng, tay nắm lấy cái nanh heo rừng đeo trên cổ như cầu khẩn nó tăng thêm sự can đảm. Càng vào trong theo hướng chỉ dẫn thì quang cảnh âm u tĩnh lặng, không có bất kỳ tiếng động ngoại trừ tiếng cành cây gãy, tiếng chân bước sột soạt trên lá khô.
- Nghe gì không ông thầy... Có tiếng rên ông ơi.

Thằng mang máy truyền tin theo sát bên tôi vụt lên tiếng, âm thanh run rẩy vì sợ hãi, đưa tay ra hiệu cho mọi người dừng lại đồng thời lóng tai nghe.
- Hu…Hu.. A..ha…hu..

Âm thanh rền rĩ khi có khi không theo tiếng gió đưa lại khiến tôi gai ốc đầy mình, mồ hôi lạnh toát ra trên người, cái cảm giác kỳ lạ khó tả hiện ra trong thâm tâm, tôi không tin nhiều vào ma quái nhưng âm thanh kia quả là thật không chút nào hư ảo, không phải một mình tôi mà toàn thể những người lính xung quanh đều nghe như vậy và lập tức có tiếng xì xào nho nhỏ.
- Thấy ghê quá mày ơi, thật sự là có ma như thằng Tèo nói.
- Ma trành.. Ma rừng.. Không, đúng là mấy thằng Việt cộng bị chết oan nên hiện hồn nhát tụi mình.
- Nói với ông thầy mình nên rút ra thôi, ở nơi này thấy ghê quá.

Nhiều cái miệng nhao nhao lên khiến tôi rối rắm trong lòng: Sợ và hiếu kỳ lẫn lộn. Trong suy nghĩ cặn kẽ thì dù có ma quỷ xuất hiện thì tôi có súng trên tay, hơn nữa lại đông người, kế tiếp tên phi công ra sao khi một mình hắn trong khu rừng vắng. Đi tới hay rút lui?
Sau vài phút lưỡng lự, tôi bặm môi quyết định liền:
- Đi.. tụi mày tản ra đi, cứ hai thằng đi chung một chỗ để dễ bảo vệ cho nhau, thằng Tèo, Thạch Sinh, Lâm theo tao hướng về phía trước, ông Phú, ông là trung đội phó có nhiệm vụ bảo vệ phía sau cho tôi, nếu có chuyện xấu xảy ra thì ông mau dẫn tụi nó rút lui về điểm an toàn.

Phân phối xong xuôi, tôi làm gương đi trước cho bọn lính tăng thêm can đảm theo sát là người mang máy, hắn khổ sở nhăn mặt như thể mình đang bị ông thầy lùa vào chỗ chết, phía sau là thằng người Miên nó lâm râm một tràng tiếng quái dị, miệng ngậm cái răng nanh heo rừng, cuối cùng là Tèo, thằng này miệng méo xẹo như cố ngăn tiếng khóc, mặt tái xanh tái nhợt như sắp chết đến nơi. Càng tới gần âm thanh càng rõ dần: Tiếng khóc, than van, rên rỉ khi lên khi xuống có khi mơ hồ biến mất trong gió, là thật sự chứ không phải hư ảo tưởng tượng đồng thời âm thanh phát ra từ cái mả đen thui to đùng trước mắt, thằng Lâm run rẩy nói như khóc:
- Chết em rồi ông thầy, con ma trong cái mả phía trước.
- Mô Phật... Phật bà Quan Âm cứu khổ cứu nạn...
- Giê su... Maria... lạy Chúa tôi....

Mồ hôi mồ kê đầy người, toàn thân lạnh ngắt vì sợ hãi bởi mọi thứ hiện ra trước mắt là thật. Bằng chứng là có cái mả và âm thanh từ đó phát ra, tâm trạng của tôi không khác bao nhiêu so với các người lính: Sợ sệt, kinh hoàng và khủng hoảng tinh thần....

Chúng tôi ngây người như trời trồng mà không có bất kỳ phản ứng, toàn thân tê liệt vì quá sợ hãi trong khi âm thanh rên rỉ vẫn đều đều vang lên từ trong cái mả hoang, những con mắt thất thần hướng về mả như bị thôi miên như bị thu hết hồn phách, chúng tôi đứng ngây người cả hơn 10 phút và sau đó kẻ đầu tiên tiến đến gần nơi kinh khủng đó là tôi.
Phải... Là Tám Tàng, người phát hiện điều không đúng về cái mả không phải bằng đất, đá do bàn tay người dựng nên mà là bằng các lá rừng khô.. Ha Ha..Tức cười thật.. Lá gan bằng con chí mén…
Tôi lấy họng súng nhè nhẹ gạt từng lớp là khô trên mặt.. và cuối cùng một khuôn mặt hiện ra, đặc trưng của người phương tây và chắc chắn là gã phi công người Mỹ rớt máy bay hôm nào mà chúng tôi phải bằng mọi cách cứu hắn ra khỏi tay giặc. Người phi công vẫn còn trong trạng thái hôn mê có lẽ vì bị sốt cao cho nên thần kinh trở nên hỗn loạn và mê sảng, gã vẫn không biết sự hiện diện của chúng tôi cho nên tiếp tục trong cơn mê luôn luôn miệng gọi tên người nào đó.
- Barbara... Barbara... God bless me Bar..ra.. I love you, I miss you....

Gã vừa rên la vừa khóc, những giọt nước mắt ràn rụa trên đôi má xanh xao vàng vọt, đôi mắt lõm sâu vì mất ngủ cùng sợ hãi và đói.
- Này.. Này...

Tôi không biết làm gì hơn là lấy tay đập vào vai hắn liên tục, cuối cùng là hắn mới hé mắt nhìn, ban đầu là nỗi kinh hoàng và sau đó biến thành mừng rỡ pha lẫn khích động có lẻ nhận ra cái mũ sắt cùng bộ đồ trận quen thuộc của người lính VNCH.
- Help me... Please... Help... Oh My God... Thank you.

Tôi chẳng hiểu mô tê những gì gã nói nhưng cái chữ kéo (help) thì chắc ăn như bắp.
- Nó kêu mình kéo lên mà mày. Thằng Lâm, Thạch Sinh, 2 đứa phụ kéo nó đứng lên dùm tao.
- No.. No.. Hurt. I am hurt.. My leg..Oh Oh my God.. No.. No.

Gã phi công la to áng chừng bị đau khi 2 người lính của tôi cố gắng tìm cách giúp hắn đứng lên, một cái chân bị gãy cùng những vết máu loang lỗ ở ống quần, chính vì vết thương quá nặng mà hắn không thể bò đi chỉ còn cách dùng lá khô phủ lên để ngụy trang, tránh né sự truy đuổi và cũng là giữ cái ấm cho thân thể khi bên ngoài mưa to và thời tiết quá lạnh của tháng 12.

Hai người lính của tôi cặp nách viên phi công dìu đi, họ khổ sở luồn lách qua các bụi gai rừng, nhất là khi qua các con suối lớn, qua cái dốc cao ngất.
- ĐM. cái thằng Mỹ ăn cái gì mà nặng quá trời, em chịu không nỗi nữa thiếu úy ơi.
- Cái thằng mập như con trâu làm sao em đỡ cho thấu. Đậu má nó thằng Mỹ mập.
- Bắn em một phát còn sướng hơn dìu thằng mập này.

Thay đổi liên tục người mà vẫn không đi xa bao nhiêu bởi viên phi công bị gãy chân cho nên chỉ có thể bước lò cò một chân chính vì vậy toàn bộ trọng lượng đè nặng lên người giúp hắn. Nhìn đồng hồ đã quá 4 giờ chiều, trời sẽ mau sụp tối cho nên tôi nảy ra ý kiến:
- Ông Phú.. chặt cây đòn dài rồi lấy cái võng của tôi cho nó nằm lên trên đó, 2 thằng phía trước và phía sau cũng vậy. Mau lên chiều sắp đến rồi, loanh quanh như vậy thì sớm muộn cũng bị tụi nó phát hiện ra thôi.

Chính cái sáng kiến độc đáo mà chúng tôi đi nhanh hơn, không mấy chốc đã thoát ra vùng nguy hiểm, lần duy nhất trong đời là cứu người, cứu mà không có bất cứ huy chương hay được khen thưởng nhưng với bản tính của Tám Tàng thì mau quên mọi thứ, quên cái công lao mà lý ra phải được đền bù xứng đáng, quên luôn viên phi công được cứu hôm nào.
- Thằng John là em của tao....

Lão mũi quặp Smith tiếp tục cuộc chuyện trò với tôi….
- John đã về nước sau khi hết nhiệm vụ phục vụ ở Việt nam, trước khi đi có dặn dò là tìm mọi cách giúp đỡ người cứu mạng nó. Nếu không có người bộ binh dũng cảm thì John chắc chắn phải chết trong rừng già, chết vì đói, chết vì vết thương nhiễm trùng, chết vì thú dữ hoặc bị địch quân giết. Chính vì lời yêu cầu của thằng em tao mà mày có được như ngày hôm nay cho nên đừng có thắc mắc tại sao mình được về nơi ngon ăn mà không phải tốn tiền để chạy chọt lo lót.

Cái lớp sinh ngữ gồm toàn sĩ quan các quân binh chủng và đa số đều trẻ như tôi cho nên có sự hòa đồng và cảm thông trong giao tiếp hàng ngày, không hiểu tại sao khi học Anh văn thì tôi lại luôn đứng chót lớp giống y chang khi còn ở bậc tiểu, trung học, phát âm sai be bét đến nỗi ông giáo lắc đầu ngao ngán:
- Anh phát âm như thế thì chỉ có gà vịt mới hiểu.. Trời ơi là trời! phải như thế này.., thế này…

Tôi lập theo mà không tài nào như mong muốn, có lẽ tại vì chửi thề, hút thuốc và ăn nói tục tĩu mà cái lưỡi cứng đơ như khúc gỗ chẳng một tí nhẹ nhàng mang hơi hướm tiếng xịt gió ngon ơ như mấy thằng cùng lớp...
- Tình trạng như thế này thì anh “Out" khỏi lớp học, tôi có muốn giúp anh cũng không được. Cố gắng lên ông bạn, nước Mỹ thơm râu đang chờ bạn trước mặt..

Và lại ông mũi quặp Smith lại giúp tôi lần nữa sau khi nghe tôi than vãn về tình trạng tiếng Anh siêu đẳng của mình.
- Đừng có lo khiến con bò trắng răng. Yên chí đi tao sẽ giúp mày.

Lão bê nguyên dàn máy thu và phát âm cho tôi luyện tập đồng thời mỗi ngày đến tận chỗ trò chuyện dĩ nhiên bằng tiếng Mỹ chính hiệu con nai vàng.
… Tôi lại xuất hiện lần thứ hai trước căn nhà có giàn hoa giấy sau khi thập thò quan sát cả tiếng đồng hồ.
- Ôi dào chú nhóc thân mến! Ngọn gió lành nào đưa chú đến nhà tôm của tớ.

Lão Khọm nắm lấy tay tôi lắc lắc mấy cái, khuôn mặt hiện rõ nét hân hoan vui mừng.
- Gió nào đưa? Tìm đến ông rõ cơ khổ, chua cay trăm bề, khó còn hơn gặp tổng thống.

Tôi bất mãn ca thán vì còn nhớ đến bà chằng Bắc kỳ hôm nọ làm khó dễ.
- Biết mà.. Biết mà.. Chú thông cảm! Bởi từ khi xuất quan chẳng có con ma nào thăm viếng cho nên người nhà nghi ngờ thôi. Vào trong nhà đi chú nhóc, mình tha hồ hàn huyên mà không sợ thằng tây nào nghe trộm.

Lão Khọm dành nói trước về chuyện của mình, không dài nhưng đại khái là sau khi tôi rời đi thì không lâu đến phiên lão, tình trạng không nhẹ như Tám Tàng mà phải ra tòa án quân sự để luận tội, may mắn cho lão là có ông lớn 3 sao ở Bộ Tổng tham mưu vốn là ông thầy cũ khi ngày xưa còn phục vụ ở sư đoàn, cộng thêm bà lão Khọm quen biết với các phu nhân tai to mặt lớn trong các buổi mạt chược cho nên cuối cùng chỉ lột lon, tướt sạch mọi quyền lợi và tống ra khỏi quân đội về nhà đuổi gà, xua ruồi cho vợ.
- Thế cũng xong cho tớ, tiến vi quan thoái vi dân… Còn chú nhóc thì sao?

Lúc ấy từ bên ngoài có tiếng cười giòn dả cùng với giọng nói Bắc kỳ quen thuộc. Lảo Khọm nói:
- Bà lão của tớ đi chợ về, hôm nay chú nhóc nhất định phải ở lại dùng cơm với vợ chồng tớ nhá.

Nhìn ra cửa thì thấy trước mắt là người phụ nữ lớn tuổi nhưng nom rất giống Quỳnh Hương, nếu 2 người đứng cạnh nhau thì ai cũng nói là chị em bởi bà vẫn còn nét sắc sảo của thời con gái còn lưu lại, theo sau là cô con gái.
- Chào chị... Để tôi giúp dùm cho...

Tôi đon đả chạy lại đỡ lấy cái giỏ trên tay mặc cho bà ta tròn mắt kinh ngạc vì sự xuất hiện của người lạ trong nhà…
- Eo ui! Sao mà nặng như thế nhỉ! Trời đất ơi!
- Cậu là ai? Tại sao lại ở trong nhà của tôi? Ai cho phép cậu tự nhiên như thế? Bà lão Khọm cật vấn.
- Là Tám Tàng, bạn của bố ngày xưa trong trại Cấm.

Quỳnh Hương che miệng cười nói nhỏ vào tai mẹ:
- Tám Tàng, người mà con nói hôm nọ...
- Gớm! Nom xinh trai và tháo vát chứ đâu có nét nào lù đù hậu đậu như ông lão thường nói. Chào chú Tám, hôm nay chú dùng cơm với gia đình tôi nhé.

Bà lão đon đã mời mọc tưa như người thân trong nhà, nét mặt đầy vẻ hài lòng. Bữa ăn thật ngon và tràn đầy vui vẻ nhất là bà vợ lão Khọm chăm chút cho tôi từng ly từng tí một, có lẽ qua lời kể lại của ông chồng nên bà biết sự sinh hoạt thiếu vắng bàn tay chăm sóc người thân của tôi.
- Chú Nhóc, chú còn nhớ những ngày mình sống trong trại Cấm? Thú vị làm sao! Mưa tầm tả bên ngoài lại có gió to, chú với tôi mỗi người ngồi trong chậu nước nóng, xối từng gáo một cho đến không còn chút hơi nóng nào thế là..1..2..3.. Phóng vào trong giường trùm mền kín mít mà tắm truồng mới thú chứ lị..hi..hi.
- Bố.. Bố.. nói gì mà kinh thế.. Con không nghe đâu.

Cô gái đỏ mặt tía tai vì xấu hổ vội bịt kín hai tay, còn bà vợ chỉ tủm tỉm cười như thông cảm với cái sở thích tầm thường nhưng gợi lại những kỷ niệm thân thương ở trại.
- Còn nữa chú nhóc, cơn bão Anne ngày nọ với cơn mưa như trút nước, gió lại to thế mà tớ bị đau ruột thừa, đau thừa sống thiếu chết đau đến nỗi ước gì có khẩu súng bên cạnh tự kết liễu đời mình cho rồi, chú cõng tớ đi chữa trị ở bệnh xá trung đoàn, đi hằng nửa cây số dưới cơn mưa tầm tã, chiếc poncho duy nhất dành để che cho tớ còn bản thân chú mặc kệ. Số mạng còn may mắn khi có chú bên cạnh, giả dụ chỉ có một mình tớ nơi đó thì có chết cong queo cũng chẳng ai hay. Mẹ kiếp.
Lão thở dài với nỗi chán chường, bên cạnh bà vợ rưng rưng nước mắt vì nỗi đoạn trường của chồng mình ở quá khứ, Quỳnh Hương cúi đầu nhìn xuống đất mái tóc đen huyền óng ả che hờ bên khuôn mắt, hàng mi dài cong vút khẽ lay động, hình như vài hạt nước mắt long lanh ở khóe mắt.
- Chú nhóc hồi sống trại Cấm, khẩu phần lương thực không khác với lính tráng là bao: Gạo sấy, cá khô vài cọng rau tươi cùng hộp ration đơn điệu, khô khan và chẳng ngon lành gì ráo cho nên chú nhóc đề nghị cải thiện khẩu phần. Đó là gì nhỉ?
- Thịt bò trộn xà lách.. Lòng bò xào cần tây Ha..Ha..

Tôi cùng lão đồng thanh hét to với vẻ khoái trá khiến cho bà vợ cùng cô con gái ngẩn ngơ nghệch mặt như chú mán xuống thành phố bởi 2 món vừa kể đâu có gì cao lương mỹ vị đâu phải hiếm hoi thế mà một già một trẻ hô hoán với sự sung sướng vô cùng. Họ có biết đâu tôi phải năn nỉ hết lời với bọn hậu trạm đồng thời dúi vào tay họ chút tiền gọi là cà phê thuốc lá cũng như mất sạch tiền lương còm cõi của thằng sĩ quan không còn chức vụ quyền hành.
Thời gian trôi qua, mối thân tình giữa tôi và gia đình lão Khọm ngày càng sâu đậm, tuần nào cũng mời mọc đến nhà để dùng cơm, Quỳnh Hương có nhiệm vụ đưa rước nhưng thái độ không có gì hứng thú, trò chuyện thì nhạt nhẽo, trả lời một cách gượng gạo khiến tôi có chút cụt hứng bởi dù sao với người con gái đẹp như Hương thì lòng tôi đã ít nhiều xao động, nói khác đi là yêu thầm cô, yêu mà không dám thổ lộ, nhớ người ta từ ngay buổi đầu tiên gặp mặt, từ tưởng nhớ để rồi hình ảnh của cô đi vào trong lòng không biết lúc nào.
Nhưng... Cái chữ nhưng quái ác khiến cuộc đời của tôi đi qua hướng khác, số là hôm nọ khi đi lang thang trên phố Lê Lợi thì gặp Quỳnh Hương ngồi đằng sau chiếc Vespa mới cáu cạnh mà người lái là thanh niên cao, to đẹp trai và ăn vận lịch sự, một tuýp người hào hoa phong nhã, tôi choáng váng đầu óc đến độ ngây người trong cái đau đớn bàng hoàng tràn ngập. Sau khi trấn tỉnh tinh thần và suy nghĩ hẳn hoi thì mới nhận ra là mình cực kỳ ngu ngốc: Cóc mà đòi ăn thịt thiên nga. Một con thiên nga bay lượn trên cao, nó biểu lộ sự đài các sang trọng qua đôi cánh dài, qua cái lướt mình trong không gian vô tận, còn tôi một con cóc đen xì xì xấu xí muôn đời ngồi trên nền đất hôi hám bẩn thỉu, cóc có muốn với lên cao nhưng sẽ không và mãi mãi.

Tôi không còn đến nhà của lão Khọm dù nhiều lần thân chinh lão cùng vợ đến trường gặp tôi đem chất vấn về thái độ xa cách ấy và dĩ nhiên cái cớ bịa ra vô cùng hợp lý mà không bắt bẻ gì được:
- Sắp sửa có đợt test sắp đến, nó quyết định đi hay ở trong tương lai cho nên lúc này cần ôn tập bài vở, thành thật xin lỗi ông bà.

Không hiểu 2 người về nhà có hạch sách hay cật vấn Quỳnh Hương hay không cho nên kể từ đó ít khi thấy cô, hoặc nếu có bất chợt nhìn thấy trên đường thì chỉ là ánh mắt oán hận và tức tối. Năm 1974 vào mùa hè thì tôi lên đường sang Mỹ du học, du học dành cho quân nhân chứ không phải cho các học sinh hay sinh viên, việc xuất ngoại cũng là tôi năn nỉ lão mũi quặp Smith.
- Mày muốn đi Mỹ? Tại sao? Hơn nữa tiêu chuẩn của mày không có trong yêu cầu.Tao muốn mày học sinh ngữ để làm sĩ quan liên lạc không yểm chứ không phải xuất ngoại, các sĩ quan sang Mỹ tu nghiệp lần này đều được chọn lựa ưu tiên theo ngành và đơn vị phụ trách.
- Ông Smith, xin ông giúp tôi lần cuối, một lần thôi rồi sẽ không bao giờ có nữa.. Chuyện là như thế này…

Tôi kể cho lão nghe toàn bộ câu chuyên và cuối cùng ráng nặn vài giọt nước mắt cá sấu, một ít dầu Nhị thiên đường tẩm vào cái khăn mu xoa và cái kết quả nước mắt cứ thế xoành xoạch chảy ra cùng mũi dãi lòng thòng, với dáng bộ bi thương của tôi lại khiến lão quặp mũi lòng:
-Ok..Ok.. Đừng khóc nữa mà, không ngờ chuyện tình của mày lâm ly bi đát như thế, cô gái kia quả thật đáng cho cá mập ăn, không cần quan tâm đến nó, trên đời này không thiếu các cô gái xinh và ngoan hiền.. Ok… Tao thử xem sao nhưng nói trước không có gì chắc chắn cho lắm.
Tôi qua Mỹ vào tháng 7/1974, đi mà không một lời từ giả bất cứ ai, lặng lẽ âm thầm ra đi vào tang tảng sáng nhưng từ trên máy bay vẫn lưu luyến nhìn qua khung cửa kính thành phố yêu dấu còn vài ngọn đèn đường heo hút trong cái nhập nhòa sương sớm mối tình đầu của người lính sớm tàn lụi theo tháng ngày ngắn ngủi, nước mắt tôi rưng rưng theo chiếc phi cơ cao dần trong không....
Đầu năm 1975, Sài gòn trong cơn hấp hối bởi việc mất quân khu 2 và kế tiếp lui binh ở Quảng Trị, miền Nam có thể hoàn toàn rơi vào tay Cộng Sản trong những tháng kế tiếp, số phận những quân nhân đang du học tại Mỹ thì sao?
- Walk in and walk out.. Please.

Viên sĩ quan phụ trách cầm danh sách điểm danh từng người một đồng thời hỏi gặng cho chắc ăn lại khi người nào đó có ý định quay về Việt nam.
- Are you want go back to Viet Nam? Sure?

Gần như 98% muốn quay về quê hương chỉ còn vài người là chọn lựa cuộc sống mới ở Hoa Kỳ trong đó có tôi, không phải là không yêu thương đất nước của mình nhưng nghĩ lại đoạn đường chua chát đã qua, nhất là sự chỉ huy thiếu công bằng của lão đại đội trưởng, kế tiếp là muốn quên đi mối tình vô vọng của mình. Tôi hòa mình vào cuộc sống mới trên đất nước tự do và dân chủ bằng cách đi học trở lại, không hiểu trí óc bấy giờ trở nên sáng láng và nhớ dai không còn lù đù chậm lụt như hồi ở Việt Nam, siêng năng cần mẩn lại không bị chi phối tình cảm cùng sinh hoạt cho nên sau khi tốt nghiệp ngành kỹ sư cơ khí là tôi hăm hở vác đơn xin việc làm. Nhưng cái số của tôi vất vả cho nên không nơi nào nhận vào làm, đi chỗ nào cũng hỏi có kinh nghiệm trong công việc và tối thiểu phải trên 3 năm.
- Đậu Má mấy thằng chó chết, sinh viên mới ra trường làm chó gì có kinh nghiệm, phải có làm thì mới có kinh nghiệm.. Đù mẹ nó!

Tôi chửi um lên cho hả tức khiến những người đi đường cứ nghĩ là thằng này điên rồi khi không la to lên với ngôn ngữ lạ hoắc của người từ hành tinh khác đến. Mòn lẳn hai đôi giày, mất toi 3 bộ đồ vest mua từ tiệm secondhand Goodwill thế mà vẫn không tìm được việc làm. Trong lúc nản lòng thoái chí thì ông trời lại ngó xuống và mỉm cười với Tám Tàng. Số là hôm ấy gặp thằng Mỹ bạn học từ hồi đại học nó niềm nở hỏi tôi tình trạng hiện tại cùng công ăn việc làm, dĩ nhiên là thằng tôi than vãn, rên rỉ thiếu điều chảy nước mắt về tương lai của mình.
- Tao không còn tiền để ăn uống cùng sinh hoạt hàng ngày lại thêm tiền nhà tháng này lại đến, sớm muộn tao cũng sẽ là kẻ vô gia cư thôi.
- Tao biết có công ty đang nhận người nghe nói thằng chủ khoái bọn lính Việt Nam tụi mày lắm, hình như ngày trước nó đã từng tham chiến ở nơi ấy, mày thử đến đó xem sao.

Cuối cùng tôi được nhận vào mà không qua bất kỳ cuộc khảo hạch bởi thằng chủ công ty lại là thằng John, thằng Mỹ mập mà bọn lính kêu trời trách đất khi băng rừng vượt suối cáng hắn trên cái võng nhà binh trong khi John nằm phè phè trên đó, đã vậy còn nghêu ngao vài bài kinh ca ngợi sự tốt lành của chúa Giê Su dành cho nó.
Thằng John bệ vệ trong bộ đồ sang trong cùng chiếc xe hơi lộng lẫy đã nhào tới ôm tôi hôn chùn chụt miệng huyên thiên không dứt lời khiến cô vợ tròn mắt ngạc nhiên sửng sốt, những nhân viên làm việc trong công ty cũng ngây người trước hiện tượng lạ lùng ấy.
- Barbara.. Lại đây nào.. Đây là ân nhân của tao, không có nó thì đời thằng John này tiêu tùng trong rừng già, nó cứu mạng sống của tao khi chiếc máy bay bị bắn rơi. Trong rừng già, trong vòng vây của địch, một chiếc chân bị gãy cùng không có thức ăn hơn nữa thú rừng lãng vãng xung quanh.. Ân Nhân của tao..

Tôi trở thành nhân viên của hãng Chrysler equipment chi nhánh chuyên cung cấp đồ phụ tùng cho công ty và dĩ nhiên với đồng lương tương đối kha khá cùng mọi quyền lợi bảo hiểm ngon lành. Mọi thứ đều do chính tay John trực tiếp chỉ thị xuống mà không cần qua bất kỳ cuộc khảo sát hay ý kiến của ai bởi hắn là ông chủ lớn, sau lưng là đại gia đình giàu có và thế lực.

Năm 1981 nghĩa là gần 6 năm sau ngày mất nước, Tám Tàng bây giờ có xe hơi có nhà lầu trong khu sang trọng và cái ý nghĩ đầu tiên là về thăm vợ chồng lão Khọm, sau đó là muốn biết về cô Bắc kỳ ngày xưa bây giờ ra sao, còn độc thân hay là tay bế tay bồng với lủ khủ hàng tá đám con nít. Từ phi trường sau khi đem hành lý để trong khách sạn thế là tôi phóng đến nhà lão Khọm ở đường Yên Đổ, lòng hồi hộp lẫn kích thích vì lâu ngày xa cách nhất là mường tượng đến khuôn mặt xinh xắn và đài các của Quỳnh Hương, cô tiểu thư lá ngọc cành vàng mà một thời tôi yêu say đắm....

Đứng căn nhà của lão Khọm tôi sửng sốt như không tin vào mắt của mình bởi giàn bông giấy ngày xưa bây giờ đã biến mất thay vào đó là bức tường cao vút, bên trong những khóm hoa đầy màu sắc mà ngày xưa bà vợ của lão chăm nom hàng ngày cũng không còn mà thay vào vài băng ghế xi măng kệch cỡm.
- Xin lỗi.. Cho tôi hỏi thăm một chút, đây có phải là nhà của vợ chồng ông Quang?
- Quang nào? Không biết!

Người đàn ông đứng bên trong cửa nhìn tôi với vẻ khó chịu, đầy nghi ngờ pha chút khinh miệt, nói xong xua tay ra dấu đuổi đi như sợ cùi hủi không bằng. Tôi lang thang từ con đường này sang con đường khác mà lòng nặng nề vô cùng, trong đầu không biết bao nhiêu câu hỏi nảy sinh nhưng chắc chắn là ông Lão không còn ở nơi cũ. Đi chỗ nào tôi cũng nhìn ngang nhìn ngửa để mong tìm thấy hình dáng quen thuộc của ông thế nhưng thành phố rộng lớn như Sài Gòn và con người như kiến thì làm sao mà tìm ra, cuối cùng thì đành ghé vào quán cà phê nghỉ chân và mong mỏi phép lạ nào đó xảy ra đến với tôi.

Đến ngày thứ 3 thì mọi hy vọng hoàn toàn tiêu tan, tôi chỉ còn có thể xin lỗi vợ chồng lão cùng Quỳnh Hương và hôm nay là ngày cuối cùng sáng sớm mai sẽ bay về Mỹ, nói cách khác chuyến du lịch thất bại và dự kiến thu ngắn hơn chục ngày.
- Cô chủ bán cho tôi liều thuốc cảm kèm theo nhức đầu.
- Dạ.. Ông chờ một chút..

Cô chủ tiệm thuốc tây liếc nhìn tôi với vẻ tò mò pha lẫn sửng sờ muốn mở miệng nói cái gì đó nhưng cố dằn lòng nhưng ánh mắt vẫn quan sát người khách một cách thận trọng tựa hồ cố nhớ cái gì quen thuộc mà cô đã từng gặp qua.
- Dạ thuốc của ông đây, tất cả 3000 đồng.

Tôi lẳng lặng trả tiền sau khi nhận túi thuốc từ tay cô.
- Xin lỗi cho tôi đường đột hỏi ông một câu được không ạ.
- Hỏi tôi?

Tôi ngạc nhiên vì câu nói của cô chủ tiệm.
- Dạ..Ông có phải là ông Tám Tàng?
- Di…Sao cô lại biết tôi?

Tôi suýt tí nữa nhảy dựng lên vì sợ bởi cái hổn danh quái dị ấy không một ai biết đến chỉ trừ những người quen biết thế bây giờ cô chủ lạ hoắc lạ quơ lại kêu ngay chóc tên tôi.
- Biết ông là Tám Tàng bởi có người cho biết, cứ nghĩ là ông còn trong trại cải tạo hoặc vượt biên không ngờ còn nhìn thấy ông nơi đây.
- Thế cô có biết nhà ông Quang ở chỗ nào không nhỉ? Tôi cói có đến đấy nhưng người ta xua đuổi như đuổi ruồi.
- Gia đình ông ta rời khỏi nơi ấy lâu rồi, họ chuyển xuống khu Bàn Cờ ngay sau khi cộng sản chiếm được miền nam, họ tịch thu căn nhà với lý do là gia đình Ngụy cùng là tư bản mại sản, thế ông chỉ thăm hỏi vợ chồng ông bà Quang mà không với ai khác?

Cô chủ tiệm hóm hỉnh nhìn tôi với vẻ trêu cợt.
- Thì với ông bà ấy thôi chứ còn ai nữa! cô khéo đùa.
- Không hỏi về Quỳnh Hương sao?
- No.. No.. Không cần thiết bởi tôi và người ta không hợp tính, hơn nữa Tám Tàng này không phải là đối tượng để cô ta chú ý, một cô sinh viên trường Dược cao quý làm gì nhìn xuống thằng lính quèn như tôi.
- Tôi không nghĩ như vậy đâu ông Tám mà ngược lại. Thôi thế này tôi cho địa chỉ nhà ông Quang hy vọng mọi sự sẽ tốt lành cho cả hai người.

Tôi đứng trước căn nhà tồi tàn cũ kỹ và xiêu vẹo cơ hồ như sắp sập tới nơi, cánh cửa gỗ bị long bản lề phát ra âm thanh kẽo kẹt thê lương khi gió thổi qua, nóc nhà với mái tôn rỉ sét loang lổ khiến cho người ta cảm thấy cái nghèo túng của họ. Lão Khọm mình trần trùng trục với làn da đen đúa vì dang nắng cả ngày, ông ngồi xổm trên nền xi măng cắm cúi vót những thanh tre, lưng lão còng xuống hằn những chiếc xương sườn, xương sống nom thật thảm:

- Lão Khọm… Ông đang làm gì thế? Tôi kêu to.

Ông lão quay phắt lại, ánh mắt mờ đục hấp háy dưới ánh mặt trời chói chang, nét sửng sốt hiện ra trên nét mặt khi có người gọi cái tên thân thiết ngày xưa mà cơ hồ lão đã quên mất tự hồi nào.
- Tám Tàng đây này.. Gớm chưa già mà ông lão đã lẩm cẩm rồi!
- Chú.. Thật sự là chú nhóc ngày xưa.. là Tám Tàng?

Nói xong không chờ tôi trả lời, lão đã nhảy bổ tới ôm choàng lấy tôi nói trong sự xúc động nghẹn ngào:
- Chú mày đi đâu mà không lại thăm vợ chồng tao? Tại sao vậy chứ! Cứ nghĩ là chú tiêu tùng trong trại cải tạo rồi, không ngờ lại xuất hiện ở đây, ai cho chú địa chỉ của tao? Chú mày đang làm gì và nghề gì?
- Từ từ mà lão, nói nhiều quá khiến tôi lộn xộn đầu óc.
- Xin lỗi chú nhóc, tao lại quên đầu óc chú có vấn đề.

Tôi cùng lão ngồi bệt xuống nền xi măng trò chuyện. Qua những gì nghe được thì hoàn cảnh của vợ chồng lão cực kỳ khốn đốn, lão phải ra sức kiếm tiền bằng cách làm các lồng chim để mang ra chợ bán, bà vợ thì hàng ngày bôn ba ngoài khu chợ trời Huỳnh thúc Kháng, thu mua quần áo cũ sau đó sang tay kiếm chút tiền cò, Quỳnh Hương thì đã thôi học ngay khi giải phóng bởi liên quan đến người thân là ngụy quân, hiện tại cũng như mẹ, mỗi ngày cô lăn lưng ngoài đường bán chui thuốc tây, lời đâu không thấy mà tiền kiếm được ngày dần teo lại bởi bị bắt bớ, tịch thu đồ vật từ bọn quản lý thị trường và trật tự đô thị.... Đang trò chuyện cùng lão thì bà vợ về đến nơi, khuôn mặt rầu rĩ lộ vẻ chán nản cùng thất vọng:
- Hôm nay chẳng kiếm được xu nào. Đúng là đen như mõm chó! Gia đình mình phải ăn mì gói trừ cơm thôi.
- Bà.. Nhìn ai đây? Nói nhiều quá mà chẳng quan tâm gì đến khách khứa đang ngồi.

Bấy giờ bà lão mới quay lại mới nhìn thấy tôi giống như thái độ của ông chồng, nét xúc động, hân hoan, vui mừng lẫn bùi ngùi hiện rõ trên khuôn mặt:
- Cứ nghĩ là vợ chồng tôi sẽ không bao giờ gặp lại chú, bao nhiêu năm qua không hề nghe bất kỳ tin tức nào về chú và hiện tại sự xuất hiện đột ngột khiến tôi như nằm mơ. Thôi chú vào trong ngồi cho mát và phải kể mọi thứ cho vợ chồng tôi nghe.

Tôi khệ nệ mang hai cái va li nặng trĩu vào bên trong đồng thời phân phối:
- Nơi đây có chút quà cho ông bà, chiếc này cho cả hai, cái còn lại cho Quỳnh Hương… Quà từ Mỹ mang về không là bao nhưng là lòng thành của Tám Tàng tôi dành cho gia đình ông.
- Chú ở Mỹ? Không phải ở tù cải tạo ư?
- Tôi rời khỏi Việt Nam năm 1974 và sau đó người ta cho ở lại Mỹ khi miền nam mất, nói khác đi là lưu vong xứ người từ năm 1975.

Vừa lúc đó thì Quỳnh Hương về đến, cô đẩy chiếc xe đạp mini vào trong sân vừa đi vừa than vãn:
- Mẹ ơi! Hôm nay hôm nay bọn quản lý thị trường bố ráp kỹ quá nên chẳng buôn bán gì đượ  
23. Ngày tôi chết Trường Sơn Lê Xuân Nhị
(Tango Bui chuyển)
* Ut Truongvan <truongvanutk22@gmail.com>Thân Kính Chào Quý Niên Trưởng Và Các Bạn.
Mấy ngày trước đây tôi nhận được bài thơ "Lời Trăn Trối" của tác giả Thanh Mai (Minnesota) của Cựu SVSQ Bùi Đạt Trung K25 post lên diễn đàn. Tôi bèn phát tán đi khắp nơi vì thấy nó ngồ ngộ. Hai ngày sau tôi nhận được bài thơ "Ngày Tôi Chết" của nhà văn Trường Sơn Lê Xuân Nhị tự xưng là "thi sĩ mầm non" để gọi là "đóng góp" cho thi đàn (Đối Tác Bài Thơ Lời Trăn Trối) và với lời bình của nhà thơ Trần Quốc Bảo.
Thấy hay hay và vui vui....xin chuyển lên đây để gọi là cho nhau một nụ cười khi tuổi đời xế bóng.
Út Bạch Lan

* TS Lê Xuân Nhị Viết:
Anh chị em thân mến;
Tôi không phải là thi sĩ, cũng đếch biết làm thơ nhưng lâu lâu anh chị em lại gởi cho tôi xem một bài thơ coi... 
quá đã.
Vì thế, dù dốt thơ, luật thơ chưa nắm hết, nhưng cũng liều mạng... 
chơi một bài thơ con cóc để phụ họa cho bài thơ vừa đọc.
Biết đâu chừng, tôi sẽ trở thành một nhà thơ lớn để ...le lói với bà con lối xóm... ha ha ha...
---------------------------------- 
Tôi sẽ chết như người xưa đã chết
Như người xưa đã từ chối linh hồn
Như thể xác và linh hồn dị biệt
Trước sau gì rồi cũng sớm chia tay...

Khi tôi chết nghĩa là thôi đau khổ,
Thì vui lên những người mến thương tôi
Đừng bao giờ làm những chuyện ma chay
Vì tôi sống chẳng biết Trời sợ Phật...

Đã làm người cho nên tôi đã biết,
Những ma chay tưởng niệm có ra gì
Bởi những ngày tôi sống... chẳng giống ai
Thì tôi chết người ơi đừng luyến nhớ...

Khi tôi chết, rặng Trường Sơn sẽ trụ
Thăm lại chiến trường đẫm máu xác anh em
Hồn tao đây mà bọn mày đâu cả?
Chán mớ đời đành làm gió ôm mây...
Làm gió ôm mây như ngày xưa tôi đã
Ôm kín bầu trời bao bọc cả núi non
Sống làm lính chiến miền Nam đầy thống hận
Chết được rồi ông làm... Ma người lính trận...

Mầm non thi sĩ Trường Sơn Lê Xuân Nhị
Fountain Valley 8/4/22
------------------
Trần Quốc Bảo Viết
Anh LX.Nhị thân mến.
Đối với tôi. "thơ" là tiếng nói chân thật, được chắt lọc, xuất phát bởi xúc dộng từ trái tim. (tôi ví thơ như tố nữ) - Những: luật lệ, vần vò, đối ngẫu...chỉ là cái khung, giúp cho thơ thêm bề thế, duyên dáng, trọng vọng... (như người đẹp được son phấn, xức dầu thơm, khoác thêm trang phục)

Bài "Thơ" Ngày Tôi Chét, cùa TS Lê Xuân Nhị, thì đúng 100/100 là thơ rồi! rất thật! rất xúc động! nhưng trần truồng!

Mỹ nhân "đếch" (mượn anh 1 chữ) có áo quần cũng đẹp lắm chứ! Vấn đề là người đọc có nhìn ra cái đẹp hay không? Xem hoa, đã dễ mấy người biết hoa?
Hoa cỏ dại ven đồi, hay Lan rừng mà không đẹp mất hồn ư?
Hoan hô thi sĩ mầm non TSLXN !!!
Trần Quốc Bảo
--------------------
 
22. Lời Trăn Trối 
Thanh Mai Minnesota (Tango Bui chuyển)
Nếu một mai tôi bỗng dưng bị stroke,
Liệt toàn thân không cử động, nói năng.

Bài thơ này là nguyện vọng, trối trăn
Hãy giải thoát tôi khỏi thân tầm gởi.
Ngày chia tay sớm muộn gì cũng tới.
Ở lại đừng buồn nhớ tiếc thương nha.
Coi như tôi đang du lịch phương xa,
Đang bay bỗng với mây xanh, gió mát.
Tôi không muốn bị người ta mổ xác,
Banh bụng ra moi gan ruột người ơi.
Khỏi nhà quàn, khỏi hòm hiếc lôi thôi,
Đem thẳng tới lò thiêu cho rẻ khỏe.
Và nhớ thiêu I-phone luôn đấy nhé.
Nó bây giờ là vật bất ly thân,
 
Là món ăn đặc biệt của tinh thần
Là cầu nối của trần gian lắm chuyện.
Xin đừng thả tro tàn tôi xuống biển,
Rãi xung quanh bồn hoa đẹp trước sân.
Để cho tôi cát bụi vẫn được gần,
Nhà có sẵn ...wi-fi và facebook.
Nhớ đừng mời thầy tụng kinh về cúng,
Nghe ê a thật quá chán mớ đời.
Bạn bè thương thì hãy hát nhạc vui
Hoặc kể chuyện tiếu lâm nào mới lạ.
Cứ tưởng tượng tôi đang cười ha hả,
Tươi như hoa thưởng thức với mọi người.
Tiếc là không ăn được chỉ ngửi thôi,
Nhưng cũng tốt, coi như là giữ dáng.
Đừng cầu chúc tôi lên miền cực lạc,
Có thần tiên, có đức Phật, Chúa Trời.
Chốn tu hành tôi không hợp người ơi,
Cứ để mặc tôi lãng du theo hứng.
Sao đi chết mà xem chừng cũng sướng.
Vậy bây giờ tạm biệt nhé tôi bay.
Nhớ đến tôi thì cứ việc lên “phây”,
Sẽ thấy mặt cười như con khỉ đột!
Thanh Mai - Minnesota
******************************* 
 
 
Cho dù con sắp già rồi,
Con vẫn cần mẹ như thời trẻ thơ!
Vẫn cần mẹ hát ầu ơ,
Ru con khỏi những bơ vơ lòng mình!
Cho dù sáng giá công danh,
Con vẫn cần mẹ ân cần sớm hôm.
Một chén nước, một bát cơm
Từ tay mẹ, vẫn sướng hơn tiệc tùng!
Cho dù con là người hùng,
Con vẫn cần mẹ mắc mùng đêm khuya.
Gió từ tay quạt mẹ đưa,
Mát hơn ngàn vạn cơn mưa đầu mùa…
Mẹ ơi, con biết là thừa
Nói câu “ơn mẹ”, dù chưa bao giờ!
Con biết mẹ cũng chẳng chờ
Nuôi con khôn lớn để nhờ mai sau!
Nhưng mà con thấy xót đau
Cả đời mẹ đã dãi dầu, đắng cay!
Con đi biền biệt tháng ngày
Lúc dừng chân đã mây bay trắng đầu!
Bơ vơ, tội nghiệp giàn trầu
Tủi thân biết mấy thân cau trước nhà.
Con về gần, mẹ đã xa,
Câu thơ lỏng chỏng giữa nhà mồ côi!
Mai sau dù có già rồi,
Con vẫn cần mẹ như thời trẻ thơ!
 
 
Biểu tượng là lấy hình ảnh ghi nhớ cho một sự kiện .. Galang có tượng xi măng, một người phụ nữ đang ôm nạn nhân, gần nghĩa trang Galang 3. Giống như người mẹ ôm đứa con, Galang thường nói là tượng mẹ bồng con. Nhưng tác giả khắc dưới tượng là Humanity, tình nhân loại ...
Đang hăng say bàn cãi ... 
Bỗng một giọng nữ cất lên hỏi mọi người : Thế hình một người đàn ông cõng một người đàn ông , mọi người nghĩ là biểu tượng gì ... 
Thì là huynh đệ chi binh ... 
Không, hai người thường không phải chiến sĩ ngoài mặt trận ... 
Oh chắc tương trợ... 
Người nói tình thương ... 
Không phải .. 
thế thì là sao ??? ... 
Thôi thì em thêm chi tiết, là hai người đàn ông cõng nhau không mặc quần áo cho các anh dễ hình dung . ..
Chắc sống sót đắm tầu vuợt biên?? Không phải ... 
Không ai nghĩ ra .. Oh ! 
Dễ thôi mà ... " 
Gậy ông đập lưng ông " .. kkk
 
 
Ngày đầu tiên Thượng Đế tạo ra loài chó, Ngài bảo với nó: Hãy ngồi trước cửa nhà và sủa vào mặt bất cứ ai bước vào và bước ra. Ta sẽ cho ngươi 20 năm sống.
Chó nói: Những 20 năm làm cái công việc sủa chán òm đó sao? Xin Người cho con 10 năm thôi, còn 10 năm con tặng lại cho Người. Thượng Đế đồng ý.
Ngày thứ hai Ngài tạo ra loài khỉ, Ngài bảo: Hãy dùng trò khỉ của ngươi để mua vui, làm trò cười cho thiên hạ. Ta sẽ cho ngươi 20 năm sống.

Khỉ nhún vai: Làm trò hề đến 20 năm ư? Thôi, con trả lại cho Người 10 năm, con chỉ nhận 10 năm sống là quá đủ.

Thượng Đế hài lòng.
Ngày thứ ba Ngài tạo ra loài bò. Ngài bảo: Ngươi sẽ ra đồng cày với người nông dân, chịu đựng mưa nắng, sinh ra đàn bê, sữa của ngươi sẽ để nuôi bê và nuôi cả con người. Ta sẽ cho ngươi 60 năm sống.

Bò buồn bã: Cuộc sống khổ sở thế mà Người bắt con chịu đựng đến 60 năm ư? Thôi con chỉ nhận 20 năm, còn lại 40 năm con tặng lại cho Người.

Ngày thứ tư Thượng Đế tạo ra con người, Ngài bảo : Này, ngươi có quyền ăn, ngủ, chơi, yêu đương lập gia đình và hưởng thụ. Ta cho ngươi 20 năm sống.
Con người gào lên: Hả, chỉ có 20 năm thôi sao? Thế này nhé, con sẽ nhận 20 năm của con, 40 năm của con bò, 10 năm của con khỉ và 10 năm của con chó. Vậy là 80 năm, Ngài đồng ý nhé!
Thượng Đế gật đầu độ lượng.

Đó là lý do tại sao con người chúng ta có 20 năm đầu đời để ăn, ngủ, chơi, hưởng thụ cuộc sống. Rồi 40 năm kế tiếp chúng ta vất vả cày cuốc như trâu bò không quản mưa nắng để nuôi nấng hầu hạ gia đình. Rồi 10 năm kế tiếp chúng ta bày ra những trò khỉ để mua vui cho lũ cháu chắt ngây ngô. Và 10 năm cuối đời, chúng ta ngồi chò hó trước cửa nhà.
 
 
Cụ Lita Skalka giữa đám “con cháu” người Việt
 
18. “Bà Tiên” người Mỹ
16 tháng 7, 2022 - Năng Nguyễn (Tango Bui chuyển) 
Bài viết này xin gửi đến Mom Lita Skalka và tất cả những người con đẻ cũng như con cháu nuôi người Việt nhân Sinh nhật thứ 92 của bà với tất cả niềm cảm mến và tình thương yêu –
Mùa hè năm 2002, gia đình anh chị Hai của bà xã tôi về thăm Việt nam. Ra đón tại phi trường Tân Sơn Nhất, tôi ngạc nhiên thấy một phụ nữ Mỹ xấp xỉ thất tuần đi cùng. Giữa đám đông chen chúc ở sảnh đón, một phụ nữ da trắng – tóc bạc phơ bay trong gió, lưng thẳng, ánh mắt tinh anh, với ánh nhìn trìu mến và nụ cười thân thiện – vẫy tay chào chúng tôi. Nhìn Bà trong cách phục sức đơn giản nhưng trang nhã toát lên vẻ lịch lãm, tôi quay sang bảo vợ: “Ồ trông bà ấy đẹp lão giống Nữ hoàng Anh quá vậy?”. Vợ tôi thì thầm: “Má nuôi của anh chị Hai đó anh”.
Bà bước đến chỗ hai đứa tôi, cười: “Hello. Give me a hug, please! – Xin chào! Cho ta ôm một cái nhé!”. Tôi lúng túng nhưng bất chợt giơ tay lên ôm lấy Bà, miệng bật thốt lên: “Hello Mom – Chào Mẹ”…
Gần mười năm sau, cuối năm 2011, gia đình tôi sang Mỹ định cư. Gặp lại Bà sau một thời gian dài, tôi ngạc nhiên vì Bà vẫn nhớ tên tôi. Không chỉ vậy, về sau, tôi nhận ra rằng Bà nhớ tên tất cả mọi người dù chỉ gặp một lần.
Điều ngạc nhiên nhất là rất nhiều người Việt, không kể các anh chị bên vợ tôi, đều gọi Bà là Mom/Mẹ; còn các cháu nhỏ gọi Bà là Grandmom/Ngoại, với tất cả sự trìu mến. Dần dần, nhờ hỏi chuyện các anh chị, tôi hiểu rằng tại sao người phụ nữ Mỹ ấy được yêu mến như thế. Tên Bà là Lita Virginia Danielle Skalka, người Mỹ gốc Do Thái – một trẻ mồ côi được nhận nuôi từ bé. Bà được nuôi ăn học, tốt nghiệp y tá rồi lập gia đình. Chồng Bà là ông Edward [Ed] Skalka, người Mỹ gốc Hungary, đạo Do Thái, tốt nghiệp kỹ sư, từng làm Phó Chủ tịch Kinh doanh của một hãng sắt thép tại Trenton, New Jersey.

 Cụ Lita Skalka
 
Có lẽ để tạ ơn nuôi dưỡng của Bố Mẹ nuôi và thông cảm với những mảnh đời khốn khó mà hai Ông Bà đã nhận bảo trợ cho gần ba mươi người Việt Nam tị nạn. Lúc nào, Ông cũng đứng sau lưng Bà để chia sẻ, động viên và hỗ trợ bằng tất cả tình yêu. Anh NNN, một người con nuôi qua Mỹ từ năm 1979, kể lại:
“Trước năm 1975, hai Ông Bà đã nhận bảo trợ những du học sinh từ Tây Đức, Nam Hàn… và nhiều nước khác qua Mỹ du học. Sau này, những người thọ ơn ấy vẫn tiếp tục giữ liên lạc và xem Bà như một người Mẹ. Sau năm 1975, Ông Bà vào trại Indiantown Gap, Pennsylvania – cách nhà tôi khoảng 40 phút lái xe – để nhận bảo trợ những người lính VNCH và gia đình họ di tản qua đây trong những ngày đen tối của đất nước.
Sau đó, Ông Bà tiếp tục nhận bảo trợ nhiều thuyền nhân Việt Nam đang chờ phỏng vấn tại các trại tị nạn ở Thái Lan, Mã Lai và Phi Luật Tân. Căn nhà trên núi của hai vợ chồng nhiều khi nuôi dưỡng cả chục người Việt Nam di tản. Một tay Bà vừa đi làm, đi chợ, nấu nướng rồi đưa đón con nuôi đi học tiếng Anh, đi chơi thể thao ngoại khóa… mà không hề nghe Bà than thở, trách móc hay tỏ ra nóng giận. Không chỉ nuôi nấng, Ông Bà còn tìm đủ cách, mọi cơ hội để khuyến khích những người con nuôi từ một đất nước xa lạ học tiếng Anh, học chữ, học nghề… để mau chóng hoà nhập xã hội Mỹ, để có thể tự chăm sóc bản thân và gia đình mình sau này”.

Cụ Lita Skalka trong một buổi gặp gỡ gia đình Việt
Anh kể tiếp: “Ông Bà có tất cả năm người con, cả trai lẫn gái (Hank, Fred, Tommy, Francis và Danny). Đông con nhưng họ vẫn chia sẻ đồng đều tình thương yêu giữa con ruột và những người con nuôi Việt Nam. Thậm chí có phần hơi thiên vị con nuôi hơn. Chẳng hạn, nếu con ruột ở chung mà đã có công ăn việc làm thì vẫn phải đóng góp hàng tháng vào ngân sách gia đình; trong khi, con nuôi được giữ lại khoản trợ cấp của Chính phủ Mỹ để tiêu dùng riêng. Thỉnh thoảng, Ông Bà còn cho thêm để tiêu xài.”
Anh nói thêm: “Khi anh dọn ra một apartment để gầy dựng gia đình, Ông Bà sợ anh thiếu thốn phải đi làm nhiều giờ mà lơ là việc học. Và thế là, dịp cuối tuần, canh lúc anh đi làm vắng nhà, Ông Bà lặng lẽ đi chợ, mua thức ăn chất đầy tủ lạnh nhà anh. Việc ấy chỉ chấm dứt khi anh phát hiện, “làm dữ” và cam kết không bỏ học thì Ông Bà mới thôi.”
P.T. thuật lại:
“Năm đó, em ở trại trên đảo Bidon. Lần đầu tiên phỏng vấn, em bị phái đoàn Mỹ từ chối. Em buồn lắm. Đột nhiên, họ lại trở lại lần nữa. Lần này họ cho phép em vào Mỹ vì trong hồ sơ có lá thư khiếu nại của Má nuôi. Ngày đầu tiên đến Mỹ, Má nuôi đãi tụi em ăn cháo gà với gỏi bắp cải trộn tự Bà nấu. Nhớ hoài! Hai món Bà nấu mà Ông cũng rất thích là bún bò Huế và chả giò. Yêu đám con nuôi Việt, Bà học dùng đũa, tập ăn đồ ăn Việt rồi học cách nấu luôn. Tính Bà vậy đó. Cái gì mới Bà cũng muốn thử rồi học cách làm. Anh có thấy trong những bữa tiệc gia đình, Bà thử hết các món ăn do các con nuôi Việt nấu không? Hồi mới qua, tiếng Anh của em còn dở. Thế mà Bà cứ bắt em phải nghe và trả lời điện thoại. Em sợ lắm. Nhưng dần dần em có thể nói tiếng Mỹ như dân bản địa rồi đó.”
Tôi nghe đến đó bật cười và nhớ lại cảnh Nolan mới qua Mỹ vào học lớp hai. Bà chạy xe lên nhà giúp Nolan làm bài tập. Nhìn cảnh bà cụ người Mỹ ngồi kiên nhẫn nghe con tôi bập bẹ tiếng Mỹ rồi Bà chậm rãi nói rõ từng tiếng để sửa phát âm cho cháu thật cảm động. Bà không cho vợ tôi trả lời giùm mà bảo hãy để cháu tự nói chuyện với người Mỹ chính hiệu là ta đây.
 
Cụ Lita Skalka được nhiều người Việt yêu mến và kính trọng
 
Cụ Lita Skalka vừa mừng sinh nhật lần thứ 92
Chị L., một người con nuôi khác của Bà chẳng may mắc bệnh nan y. Bà đưa chị về nhà tự chăm sóc đến cuối đời. Tôi nghĩ, trước lúc đi xa, chắc chị nở nụ cười sung sướng và mãn nguyện trong cơn đau thập tử nhất sinh vì cuối cùng chị cũng từ biệt cõi đời trong vòng tay của một người mà chị coi như Mẹ; và Bà cũng coi chị như con gái đẻ đau của mình.
Cho đến giờ, trừ hai năm dịch bệnh, Bà vẫn thường xuyên dự những bữa tiệc gia đình chúng tôi. Từ lễ Tạ ơn, Giáng sinh, Tết Âm lịch Việt Nam và đặc biệt là Ngày của Mẹ [Mother’s Day]. Bà bao giờ cũng nhớ mang tặng những món quà Giáng sinh, phong bao lì xì đỏ cho từng người một. Không sót một ai. Nhìn một bà cụ tóc bạc phơ ngồi lọt thỏm trong đám con cháu tóc đen đông đúc nở nụ cười hạnh phúc, tôi thấy lòng dâng lên một nỗi niềm cảm động khó tả.
Xa quê, bắt đầu cuộc sống mới ở một đất nước xa lạ, lại thêm những biến cố, rồi đại dịch… dễ khiến người ta nản lòng. Những lúc đó, tôi lại nhớ đến nụ cười khích lệ, thái độ sống tích cực và tâm hồn tràn đầy tình thương yêu của Bà, như một nguồn động lực giúp tôi vững tin rằng tôi đang sống trên một xứ sở mà vượt trội hơn cả sức mạnh kinh tế và quân sự chính là sự lương thiện, nhân ái và sự chia sẻ mà Bà là hình ảnh đại diện cho những gì tốt đẹp nhất của nước Mỹ – một tâm hồn Mỹ đích thực!
Năm nay, chúng tôi tổ chức Sinh nhật lần thứ 92 cho Bà với tất cả sự kính trọng, tình thương yêu. Riêng tôi, nếu có thể, tôi sẽ ôm lấy Bà và thì thầm “Mom, please live as long as The Queen [Elizabeth II]. I love you! – Mom! Hãy sống lâu như Nữ hoàng Anh quốc nhé. Với tình yêu thương!”

Bài và ảnh: Năng Nguyễn







 
17. Đừng Gọi Anh Bằng Chú
Dung Sàigòn - Võ Hà Anh (Tango Bui chuyển)
Đi cạnh tôi, dù đã mang guốc cao gót 10 phân Kim vần thấp hơn nửa đầu. Tôi vừa quay nhìn Kim, vừa nói đùa:
- Lần sau đi chơi với anh, em nên mang guốc cao… 20 phân thì mới cao bằng anh được.
Kim lườm âu yếm và véo một cái thật mạnh trên cánh tay tôi. Lúc bấy giờ trời đã chiều xậm, người qua lại thưa thớt. Tôi được dịp khỏi cần giữ ý, la lên oai oái:
- Ôi cha,… đau thấu “chời” xanh lơ.
Kim bật cười:
- Ghét anh, ghét anh. Con trai gì mà mới đụng tới đã la làng.
Tôi kéo sát Kim vào cạnh mình, những bước chân 2 đứa quấn quýt chỉ chực đan nhau, chập choạng.
Tôi trêu Kim:
- Kim... sợ anh không?
Kim thản nhiên:
- Ồ, anh làm gì mà em phải sợ?
Tôi hỏi lại:
- Sợ anh không?
Kim ra vẻ bướng:
- Không
Tôi cườI tinh quái:
- Chắc chưa ? Bây giờ anh có cách làm em phải sợ. Này …
Tôi kéo đầu Kim xoay lại đối diện, tôi cúi xuống làm bộ định hôn lên má Kim. Kim ngỡ ngàng một chút, rồi la lên, trong lúc tay Kim đẩy đầu tôi ra xa:
- Ái, sợ, sơ.
Tôi cười hể hả, đắc thắng. Kim đấm tôi thùm thụp nhắc lại câu Kim thường nói:
- Ghét anh, ghét anh kinh khủng
Hai đứa dìu nhau về phía bờ sông. Trời đi ngủ hẳn, đèn màu bật lên chan hòa khắp nơi. Chúng tôi tìm một chiếc ghế đá trong vườn chơi trẻ em, sát bờ sông. Tôi quàng tay qua vai Kim và đầu Kim ngả nhẹ trên ngực tôi. Gió sông mát rượi lùa vào mái tóc cắt ngắn của Kim phả qua mũi tôi một mùi thơm quen thuộc dễ chịu.
Chẳng ai chú ý đến chúng tôi, ánh đèn thì không sáng lắm và chung quanh chỉ có vài cặp trai gái, họ cũng đang bận… yêu nhau. Mặt sông nhòa chìm trong tối, thỉnh thoảng lại sáng rực lên vì ánh đèn pha từ Hải Quân công xưởng chiếu sáng để kiểm soát tàu bè qua lại. Những lúc đó cảnh vật nhuộm tràn một bầu ánh sáng trắng xanh lướt thướt. Quang cảnh trở nên huyền ảo khiến những kẻ yêu nhau … yêu nhau hơn.
Kim ngước lên nhìn tôi, hỏi khẽ:
- Anh nghĩ gì đó?
- Anh đang tưởng tượng ra một ngôi nhà, một người con gái tập làm vợ và… những nhóc con nghịch như giặc…
Kim cười tủm tỉm, bàn tay nàng ngước trên ngực tôi và tìm tay tôi xiết nhẹ. Kim bảo:
- Nhìn kìa anh! Những chiếc thuyền máy chở hành khách ngang sông làm em nhớ những ngày ở Huế. Em và chị Ánh thường đi bơi hay chèo thuyền trên sông Hương. Sao em thích nước ghê, có lẽ vì thế…
Tôi cướp lời:
- Có lẽ vì thế mà em thương lính biển. Phải em muốn nói vậy không?
Kim cười khúc khích:
- Ai thèm! Lính biển ăn mặc “quê” thấy mồ. Y như ông bán xăng.
Thấy tôi không phản ứng Kim tưởng tôi giận, vuốt ve:
- Chỉ được cái… tán gái thì ba chê.
Tôi bật cười vì ngôn ngữ Kim dùng. Kim chả khác gì trăm ngàn cô gái khác đang lớn lên. Ngổ ngáo, ranh mãnh và lãng mạn.
Tôi không đòi hỏi người tôi yêu phải thật ngoan, thật hiền hay thật đặc sắc trong nhiều phương diện, những mơ mộng đó dành cho các cậu trai mới lớn, ấp ủ nhiều đam mê và thích tôn người yêu lên hàng thần tượng.
“Ngày xưa” tôi cũng đã từng như vậy, nhân vật thần thoại của tôi là Thu. Mấy năm trời yêu nhau tôi nhìn Thu bằng cặp mắt của một tín đồ chiêm ngưỡng dung nhan thần thánh. Tôi gượng nhẹ Thu trong vòng tay mà chỉ sợ mình bị hiểu lầm là cử chỉ sỗ sàng, tư tưởng vẩn đục. Bây giờ thì thần tượng đã bỏ đi. Thu trở lại nguyên hình là một cô gái như muôn ngàn cô gái khác.
Hoàn cảnh đã chia rẽ tôi và Thu, nhưng tôi hiểu rằng mối tình ấy tan vỡ chỉ vì không xây dựng trên một nền tảng nào cả. Một cậu trai mới ở ngưỡng cửa trưởng thành, tay trắng và một cô gái đang lớn lên. Sống nhờ cha mẹ, nuôi tình yêu bằng những kỷ niệm vui buồn tuổi nhỏ. Chúng tôi chia tay nhau thật đẹp, đẹp hơn cả tất cả những mối tình đầu tan vỡ nào khác. Thỉnh thoảng tôi vần đến thăm Thu như một người bạn. Dưới tia nhìn soi mói của mọi người sau những câu chuyện bình thường, chúng tôi từ giã nhau bằng “ánh mắt còn có đuôi” như một câu thơ của cụ Phan Khôi. Nhưng những gì đọng lại trên đuôi mắt ấy chỉ còn là sự luyến tiếc nhẹ nhàng, luyến tiếc vì những kỷ niệm yêu thương xưa quá đẹp. Lúc đầu chúng tôi đau khổ vô cùng tưởng chừng không thể sống thiếu nhau. Nhưng rồi thời gian cũng làm nhạt dần thương nhớ và từ tình yêu chúng tôi đổi được ra tình bạn dù chỉ là gượng ép.
Với Kim, tôi không dấu những kỷ niệm cũ. Trước khi yêu tôi Kim đã biết rõ về quá khứ tôi. Và Kim dễ dãi chấp nhận tất cả. Tôi yêu Kim nhiều hơn. Nhưng trong chuyện tình hai đứa tôi là kẻ đi tìm. Tôi “săn đuổi” tình yêu như lính đi tìm địch, “chiến đấu” vất vả bao nhiêu mới cướp được Kim ra khỏi thế giới những kẻ cũng có ý định như tôi. Mà vẫn phải làm bộ tỏ ra mình đạo mạo. Để bây giờ được ôm Kim trong vòng tay, chiều thứ 7, khi từ biển trở về.
* * *
Ngày trước Kim gọi tôi bằng chú. Tất cả bắt đầu vào một ngày tháng hạ, khi tàu tôi về bến sau một trận đụng địch. Chiến thắng nhỏ tất nhiên về phía tàu tôi vì hỏa lực mạnh. Nhưng chiến thắng phải tô bằng máu của bốn người và một người ra đi vĩnh viễn: Đệ. Thi hài Đệ được đưa về nghĩa trang quân đội và an táng ở đó.
Tôi và Đệ là đôi bạn thân. Đệ vui tính và hơi nói nhiều; nhưng rất tốt với bạn bè. Những ngày sống bên nhau Đệ thường tâm sự với tôi về mọi chuyện. Trên tàu Đệ là người nhận được nhiều thư nhất, hầu hết là những lá thư màu xanh. Tôi hỏi, Đệ chỉ cười:
- Bạn gái, khi tao còn là thư sinh bạch diện.
Trong những cánh thư gửi về có một cái mang nét chữ tròn trĩnh dễ thương lạ. Tôi tần ngần ngắm từng nét, từng chữ. Đệ bảo:
- Con bé này là cháu tao, không phải bạn. Nó lém lắm, mỗi lần về nó hành muốn chết luôn. Nhưng mà cháu tao thương chú kinh khủng.
Tôi tò mò:
- N.T.H. Kim là gì?
- Nguyễn Thị Hoàng Kim
Cái tên nghe là lạ. Tôi tưởng tượng ra một khuôn mặt qua câu nói của Đệ và bỗng thấy hứng thú lạ lùng. Tôi búng tay:
- OK. Giới thiệu cho tao đi
Đệ xỏ lá:
- Với điều kiện mày phải là một ông chú đứng đắn.
Tôi lườm Đệ:
- Dĩ nhiên. Tao “đứng đắn” từ khuya rồi.
Hơn một tháng sau, một hôm Đệ trao cho tôi lá thư ngắn của Kim. Đệ nói tao viết nhiều về mày và giới thiệu mày với nó. Nó bảo lẽ ra chú Tuấn phải có thư ra mắt trước nhưng nó thương hại mày đi tàu buồn, chắc thích đọc thư người khác, hơn nữa nó phải làm ra vẻ hiền lành để mày khỏi… sợ. Tôi bật cười vì những ý nghĩ ngộ nghĩnh của Kim. Con gái bây giờ lém thật.
Tôi sốt sắng viết trả lời thư Kim để làm quen. Từ đó chúng tôi thư từ cho nhau luôn, và tôi nghiễm nhiên trở thành chú của Kim. Tuy thế những lần về Sài Gòn tôi ngại ngùng chưa muốn gặp mặt Kim, vì sự thực tôi cũng chỉ thích trao đổi thư từ với Kim thôi. Nhưng cái chết của Đệ đưa đẩy chúng tôi gặp mặt nhau. Hạm Trưởng rủ tôi và Châu đại diện tàu đi đưa tiễn Đệ đến nơi yên nghỉ. Dù không rủ tôi cũng vẫn đi đưa đám Đệ lần chót, để rồi vĩnh viễn cách xa.
Chính buổi tiễn đưa này tôi đã gặp Kim. Trong đám thân nhân đứng bên nấm mộ chưa vùi đất tôi bắt gặp một cô bé, mắt nhòa lệ và khóc thút thít. Tôi đứng lặng người nhìn hình ảnh cảm động ấy và bỗng dưng tôi có ý nghĩ quả quyết: cô bé này chắc chắn phải là Nguyễn Thị Hoàng Kim.
Khi mọi người ra về, tôi đứng khuất vào một ngôi mộ xây. Tôi muốn ở lại với Đệ thêm 10 phút nữa. Nhưng không phải chỉ có mình tôi. Cô bé vẫn ngồi bên ngôi mộ mới đắp sơ sài, ngổn ngang hương nến và vòng hoa phúng điếu. Hai vai cô bé rung nhè nhẹ, tiếng thút thít nghe não nùng lạ. Tôi bước từng bước nặng nề đến trước mặt cô bé và đứng lại. Một lúc cô bé ngẩng lên nhìn tôi không tỏ vẻ ngạc nhiên hỏi nhỏ:
- Chú Đệ mất có kịp dặn lại gì không chú?
Tôi hơi khựng lại và chợt hiểu: Kim đọc tên tôi ở bảng tên trên ngực áo.
Tôi ngập ngừng:
- Không Kim ạ! Đệ chỉ xiết chặt tay tôi rồi gục xuống.
Kim bật khóc to hơn.. Tôi ngồi xuống cạnh Kim, chúng tôi nói chuyện với nhau dễ dàng như đã thân nhau từ lâu lắm. Câu chuyện xoay quanh những hình ảnh về Đệ với những nét dễ thương. Rồi thương tiếc.
Nắng lên cao và đổ dài xuống chỗ chúng tôi ngồi. Tôi khuyên Kim thêm vài lời rồi dục ra về. Tôi thả Kim xuống đầu ngõ. Kim bảo:
- Chú vào nhà chơi chứ?
Tôi nghĩ sự hiện diện của mình trong nhà Kim lúc này không ích gì:
- Thôi để lần khác nhé Kim. Chú…
- Không có lần khác gì hết. Chú phải hẹn chắc chắn, không Kim giận cho mà xem.
- Chiều ngày kia nhé. Tôi bắt gặp giọng mình đầy âu yếm. Chú sẽ mang các thứ của Đệ dưới tàu về cho Kim”.
Kim gưọng tạo một nụ cười chào tôi, nụ cười buồn mà ấm áp. Tôi quay đầu xe, bỗng dưng tôi phóng xe nhanh hơn mọi lần và lòng đầy hăng hái.
Tôi về tàu, góp nhặt những đồ dùng và giấy tờ của Đệ bỏ vô sắc đi biển. Tôi đem tất cả về nhà và buổi chiều ngày hẹn, tôi chở đến nhà Kim.
Ba Kim gần gấp hai tuổi Đệ, vì ông là anh cả và Đệ là em nhỏ nhất trong gia đình. Tôi cảm thấy xưng hô hơi khó khăn, sau cùng tôi quyết định gọi ba Kim bằng ông và xưng cháu. Ba Kim có vẻ khó tính, ông hỏi han tôi bằng giọng xã giao nhiều hơn. Tôi nói nhiều về Đệ với hy vọng sẽ dễ kết tình thân thiện với ông. Nhưng có lẽ dưới mắt ba Kim tôi chỉ ngang hàng với Kim. Ông tiếp tôi dăm phút rồi gọi Kim và chị Ánh ra thay ông nói chuyện.
Chúng tôi quay trở về chuyện Đệ, chị Ánh kể về thời thơ ấu của chú Đệ. Chị Ánh còn nhiều tuổi hơn cả Đệ (ba Kim lấy vợ từ lúc trẻ, khi bà thân sinh chưa sanh ra Đệ) nên tôi gọi chị bằng chị rất tự nhiên.
Lần đó và những lần tiếp theo, phần nhiều câu chuyện vẫn là nói về Đệ. Hình như mọi người thích kể về Đệ, và tôi nếu không đem chuyện Đệ ra để hỏi han thì cũng chẳng biết làm thế nào để gần gũi họ. Vì tôi cảm thấy mình có nhiều cảm tình đối với gia đình này. Nhất là với Kim.
Kim tuy buồn vì cái chết của người thân nhưng vẫn không che dấu nổi tính nhí nhảnh vui tươi hồn nhiên của một cô gái dậy thì. Kim gần gũi tôi nhanh hơn tôi tưởng và nhiều lúc tôi cứ nghĩ mình là Đệ hay ngược lại Kim coi cũng là chú ruột của Kim. Nhưng ba Kim có vẻ không ưa tôi. Đúng hơn ông không chấp nhận cái tình chú cháu của chúng tôi. Ở tuổi ông, ai cũng không thể chấp nhận được vì con gái ông đã lớn và tôi cũng chỉ hơn Kim 4 tuổi. Ông không nhìn sự việc bằng con mắt lãng mạn và tự do như lứa tuổi chúng tôi, nên ông coi sự hiện diện của tôi như một chàng trai quen với con gái mình. “Nhà có con gái lớn như chứa bom nguyên tử”.
Ông không tỏ thái độ kỵ tôi, nhưng ông có vẻ nghiêm nghị và để ý xem… tên này muốn gì. Nó đến chơi suông như nó đã và đang đến chơi và xưng chú với con gái mình hay nó định cưỗm con gái mình đây? Hẳn ông cụ đã nghĩ thế, và tôi đoán vậy.
Một buổi chiều, tôi đang ngồi vui chuyện với Kim (chị Ánh bận cho con ăn trong nhà) thì ông cụ đi làm về. Ông ngồi vào nói chuyện với tôi. Kim tự động đứng lên lui vào nhà trong. Các gia đình nửa cựu học, nửa tân học là như thế. Con gái được tiếp bạn trai, nhưng không có quyền cùng ngồi tiếp chuyện bạn khi có Bố ngồi đó.
Ông cụ nói…vòng vo Tam Quốc, rốt cuộc ông hỏi về cuộc sống của tôi hiện tại, và ngày trước. Tôi thành thực “khai lý lịch”, khi nghe nói tôi làm nghề viết báo…mướn trước khi vào Quân Đội, ông tỏ vẻ không mấy thích cái nghề “nói láo ăn tiền” đó. Ông đả bọn nhà báo dữ dội. Bà cụ, Kim và chị Ánh nghe chúng tôi nói chuyện. Kim tỏ vẻ ái náy, thập thò ở cửa phòng nhìn tôi. Tôi tìm dịp đứng dậy từ kiếu.. Ông cụ bắt tay tôi cho có lệ.
Ba hôm sau tôi nhận được thư của Kim gửi về tàu.
“Saigon, tháng hai, sáu sáu,
Chú,
Chắc buổi chiều hôm đó chú “tức” ba Kim lắm phải không? Khi chú đi rồi, Kim tức muốn khóc được. Cả nhà xúm lại phản đối ba, đầu tiên là mẹ (vì chỉ có mẹ mới đủ can đảm đi tiên phong). Ông bà cụ “tranh luận” một hồi, tức lý, ông cụ xách xe đi làm.
Chỉ có mình Kim là tức mãi, đây là lần đầu tiên Kim bị “mất mặt” với chú nên buổi chiều nhất định “tuyệt thực” nằm khóc trên lầu.
Chị Ánh dỗ mãi, chị còn bảo:
- Kim mới bị ba làm quê có một lần mà đã khóc như vậy rồi, không thấy ngày xưa chị bị cả trăm lần sao, còn quê hơn Kim là khác.
Kim ấm ức gắt lên:
- Nhưng chị khác, em khác.
Chị Ánh chả hiểu khác ở chỗ nào nên cứ ngẩn mặt ra. Nhìn chị Ánh, Kim bắt phì cười dù lúc ấy đang khóc. Kim phải nói mãi “chị bị quê như vậy là đáng, ai bảo chị mời bồ vào nhà nói chuyện… còn Kim …” chắc là ba hiểu lầm chuyện này, nhưng Kim chả cần đính chính. Hình như ông cụ có “mối thù” gì với mấy ông ký giả lắm. Tội nghiệp chú làm hai nghề, thì một nghề là lính bị Kim ghét giờ lại bị ba Kim ghét nghề ký giả nữa. Thôi! Từ nay Kim chả nờ ghét lính Hải Quân các chú nữa đâu nhá.
Nguyên buổi chiều hôm đó và luôn cả hôm sau Kim vẫn nhất định áp dụng chương trình đả đảo ba, nghĩa là suốt ngày giam mình trên gác, chỉ gặp ba mỗi bữa ăn nhưng Kim vần cắm đầu không nói chuyện với ai. Chắc có lẽ ba hối hận nên buổi sáng ba vui vẻ lắm. Ông cụ luôn miệng đùa với bé Chuyên. Chị Ánh và mẹ cười hoài về sự giận dai của Kim. Buổi chiều đi học ba nhắc Kim đội nón.
Kim cho đó là một cực hình vì cả đời không bao giờ Kim đội nón cả. Kim vâng dạ rồi vội chạy ra khỏi nhà. Nghĩ mà cứ tức ông cụ hoài, tức nhất ở điểm tại sao khi chú về rồi ông cụ chả chịu mắng cháu nữa đi, ông cụ chỉ muốn làm cho cháu quê với chú thôi.
Chiều nay đi học về, trời đổ mưa to lạ lùng. Kim và tụi bạn đứng núp trong hiên tiệm thuốc tây cùng với mấy chàng Hải Quân của chú. Khiếp, trời mưa đã to rồi mà các ngài ấy tán chuyện còn to hơn. Ba ông cứ tỉnh bơ thiên hạ đi mà thao thao bất tuyệt, xem mọi người chung quanh chẳng có ký lô gì hết. Nhỏ Hoài bạn Kim nói nhỏ:
- Tao chết thì thôi nhất định không bao giờ thương mấy tên Hải Quân nói nhiều như ba tên này chẳng hạn.
Kim bật cười và nghĩ đến chú, Kim bảo Hoài:
- Thế mà tao lại có ông chú là dân Hải Quân đấy mày thích không tao giới thiệu cho.
Con nhỏ lườm Kim lắc đầu “Tao không thèm”. Kim đính chính mãi là “chú tao nói ít lắm hiền lắm” con nhỏ vẫn lắc đầu quầy quậy.
Chú còn bên vực cho mấy ông bạn Hải Quân của chú nữa thôi?
….
Hôm nào chú hết “tức”, chú đến với Kim nhé. Cam đoan lần này không xảy ra chuyện đáng tiếc như lần trước nữa đâu. Mà nếu có, Kim sẽ bênh chú liền.
Thân mến,
KIM“
Tôi bật cười vì lối viết thư dí dỏm của Kim. Ba Kim còn hơi cổ nhưng con cái ông “tự do tư tưởng” quá. Tôi tự hỏi, mình có nên đến nữa không.
Nghĩ tới nghĩ lui cuối cùng tôi quyết định một cách hài hước: “Cứ đến! Đường đi khó không khó vì (ông cụ) ngăn sau đón trước, chỉ khó vì (sợ) cô cháu nghỉ chơi”. Và từ đấy, mỗi chuyến tàu về bến, tôi lại ghé thăm Kim. Ông cụ cũng tự dưng đổi thái độ, vui vẻ với tôi, nhiều khi còn hỏi han săn sóc tôi.
* * *
Tôi viết cho Kim nhiều hơn Kim viết cho tôi. Nhưng Kim bắt tôi phải long trọng hứa là: mỗi chuyến đi công tác về chú phải ghé vào nhà Kim đầu tiên, trước nhà bạn bè khác. Những lần đến với Kim, giọng nói tiếng cười và những ý tưởng ngộ nghĩnh của Kim làm tôi ưa thích. Một tình cảm thân thiết nhẹ nhàng len lén dâng lên trong lòng tôi và cho đến một hôm, một câu hỏi chợt đến trong óc tôi “Mình yêu Kim rồi chăng?”. Tôi giật mình khi khám phá ra rằng tôi đã chán đóng vai ngườI chú đạo mạo và già dặn quá mức chịu đựng của mình.
Từ đó, hình ảnh Kim đến luôn với tôi, chiếm nhiều thì giờ trong trí óc tôi. Tôi bỗng thèm viết trở lại, tôi sáng tác nhiều và hầu hết những bài thơ, những truyện ngắn tôi viết đều khoác hình thái lãng mạn, một điều rất ít có trong những tác phẩm của tôi thời gian tôi mất Thu.
Nhiều khi tôi ngồi hằng giờ trong “ca bin” để mơ mộng để gò gẫm làm một câu thơ trữ tình. Gợi ý cho tôi là một dáng hình con gái nhỏ nhắn, tóc cắt ngắn cuốn cúp vào trong và màu trinh trắng chan hòa trên y phục thân thể nàng. Nàng con gái đó mang một cái tên là lạ: Hoàng Kim. Các tác phẩm của tôi đều được ký một bút hiệu mới: Hoàng Kim Tuấn. Tôi gửi cho một số tuần, nhật báo và chờ đợi chúng trên mặt giấy, hồi hộp như kẻ mới tập viết và chưa từng ở trong nghề.
Các bạn tôi lấy làm lạ về tôi. Họ theo dõi rình mò tôi như trong phim trinh thám. Và cuối cùng thì chúng nó khám phá ra lý do tôi đổi khác. Thế là một phong trào tố khổ rùng rợn khiến tôi dở khóc dở cười. Như một lần, tên Châu thấy nhân viên đi lãnh thư ở Hải Bưu Cục về có thư của Kim gửi cho tôi, nó đòi tôi phải cúng 300 cho nó đánh Domino mới trả lại. Thằng “khốn” còn nheo mắt, choang thêm một câu đổ nợ:
- Chắc chắn trong thư này Em kể về vụ em đến tàu tìm mày và gặp tao.
Tôi sửng sốt:
- Kim xuống đây? Sao mày không cho tao biết?
Châu đưa 300 lên môi, hôn chụt một cái:
- Thơm lắm! Cho mày biết thì còn lâu mới mong choảng được 3 bò. Vả lại còn chờ nắm được thư em của mày, tao mới bóp cổ mày lấy tiền được chứ.
Tôi cằn nhằn:
- Mày nham nhở bỏ mẹ. Kim gọi tao bằng chú đó.
Châu cười hô hố:
- Chú cháu, hì hì …Chú cháu kiểu cháu Lan chú Nam trong Đẹp của Khái Hưng hay kiểu cháu Diễm chú Đạt trong Yêu của Chu Tử?
Tôi chịu thua, lùi lũi vô cabin nằm đọc thư Kim trong lúc tiếng Châu vẫn nheo nhéo đuổi theo:
- Thôi, viết thư bảo em đừng gọi anh bằng chú nữa, anh đang chết dở sống dở vì con ma ái tình nó vật đây này!
“Saigon, tháng năm, sáu sáu.
Chú,
Hôm thứ 3 vừa rồi, Kim đi chợ Saigon với mẹ. Mẹ ghé vào nhà bà Phán Xuân ở đường Phan Bội Châu để đóng tiền hụi gì đó. Các cụ nói chuyện lâu quá, Kim sốt ruột xin phép mẹ đi chơi phố một lát. Kim lững thững đi ra bến Bạch Đằng, thấy tàu chú đậu ở Cầu A. Bèn đánh bạo vào tìm chú, định bắt tội chú dẫn đi ăn kem Hà Nội.
Gặp một ông đứng lơ tơ mơ ở đầu cầu, Kim vừa nói tên chú ông ta vểnh râu lên - Gớm, cái đám râu sao rậm rạp thế - hỏi thật lẩm cẩm:
- À ... Tuấn… Tuấn. Phải thằng Cù Lần không cô?
Kim tròn mắt ngạc nhiên:
- Hơ… hơ… cù lần nào cơ ạ?
Ông ta vẫn con cà con kê:
- Thằng Hoàng Kim Tuấn chứ gì?
- Ư… ư … tôi cũng không rõ. Chú ấy bảo chú ấy ở tàu này mà.
Ông ta nhìn Kim chăm chú như nhìn một … hiên tượng lạ, một lúc mới cười hì hì:
- Phải rồi. Tuấn… “nhà văn nhớn” chứ gì? Tên nó là Tuấn, bút hiệu Hoàng Kim Tuấn nhà văn nhớn, và biệt hiệu cù lần đó. Cô tên Kim phải không?
Kim sửng sốt:
- Vâng ạ. Sao ông biết rõ thế?
Ông ta cười một cách tinh quái, ánh mắt sao nhiều ẩn ý thế (Kim nghĩ thế):
- Tôi tên Châu. Tuấn nó gọi tôi là Trâu Điên (cái tên nghe mới ngộ. Chú ác thế sửa tên người ta như vậy đó).
- Cô cứ gọi bằng tên đó cho nó than.
Kim vần thắc mắc:
- Thưa, sao ông biết tên tôi thế ạ?
Châu lại cười:
- Thì… thư cô gửi cho Tuấn, cả tàu ai chả biết. (Châu nheo nheo mắt). Hơn nữa tôi với thằng Tuấn thân nhau lắm mà.
Kim vội hỏi:
- Thế chú Tuấn đâu rồi ông?
- Nó lặn rồi. Người nhái có hạng đấy.
Kim đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Châu phải mất công giải thích rằng lặn là vắng mặt không có phép trong giờ làm việc, và người nhái là người lặn giỏi. Chú thế mà ghê thật.
Kim thất vọng ra về. Ông bạn thân của chú “tốt” quá cứ đòi tiễn chân Kim một đoạn đường. Hải Quân “nhà các chú” ông nào cũng gớm cả, tán gái một cây. Chắc chú cũng “mồm mép” chả thua gì ông… Trâu Điên đâu nhỉ?
Chú, sao chú nhiều tên thế thì Kim biết gọi bằng gì bây giờ? Chú Tuấn, chú Cù Lần, chú (nhà văn) Nhớn? À, mà tại sao chú lại có hỗn danh Cù Lần thế chú? Hôm nào chú đến chơi, thế nào Kim cũng bắt chú giải thích cho nghe. Sửa soạn tinh thần trước đi, chú nhé!
Dạo này mưa hoài nên ngõ hẹp vào nhà cháu bẩn kinh khủng, chắc chú ngại lắm phải không? Kim thương bộ quần áo lắm nên đành ở nhà vậy. Kim không mong chú nữa đâu, vì đường bẩn không muốn chú đi vào, tội nghiệp chú.
Chị Ánh vẫn cứ chê báo Hải Quân của chú “Cù Lần” như thường. Chú tức không? Vậy mà khi nghe Kim bảo có Nhất “Tuấn” viết trong này nữa bà ấy mắt sáng như hai vì sao, vội vàng đòi xem. Kim không cho, chị Ánh tức, vậy là Kim đã “trả thù” dùm cho chú đó. Đừng thèm tức nữa nghe chú! Kim thích chú vui thật nhiều.
Mến,
KIM”
Đọc xong thư Kim, tôi tiếc hùi hụi. Ít khi có dịp được rủ Kim đi chơi. Tôi nuôi một niềm hy vọng vu vơ là một hôm nào đó Kim lại nổi hứng đến tàu tìm tôi, nên tôi chịu khó ở lại tàu chờ mồi ngày, ít “lặn” hơn hồi trước. Sự kiện đó được coi như một sự tích. Sự tích “Tuấn si tình” loan chuyền khắp cả tàu và ngay cả đến Hạm Trưởng mỗi lần gặp tôi cũng phải nở những nụ cười tinh quái. Tôi bất cần coi như “pha” lại còn mang thêm niềm hãnh diện nho nhỏ trong long.
Bỗng dưng tôi thấy hờn giận Kim vô cớ. “Kim có biết chú đợi Kim ngày qua ngày trên chiếc tàu xám nhỏ này không? Tại sao Kim không đến?” Lẽ ra tôi không nên trẻ con như thế, nhưng tình yêu đã biến tôi trở lại lãng mạn thái quá. Tôi tưởng tượng ra cảnh Kim tìm tôi ở tàu, tôi đón Kim lên chơi trong ánh mắt tôn sùng và tiếng thì thào trầm trồ của đồng đội. Đẹp quá, nên tự tôi đánh lừa tôi.
Nhưng chờ đợi mãi mà Kim chả tới. Tôi buồn, tôi giận rồi tôi… ốm. Thật là khôi hài. Tự nhiên tôi bật cười khi nghĩ tới hỗn danh các bạn đặt cho tôi: Tuấn Cù Lần. Ừ, mà tôi cù lần thật. Nhưng mà tôi thích giữ cái cù lần này mãi, ai “gạ mua cũng chả bán” cho. Tôi nằm lỳ trên tàu hơn tuần lễ quên cả lời hứa đến chơi nhà Kim mỗi chiều chủ nhật, khi tàu còn ở bến. Tôi còn định nằm nữa nhưng một lá thư của Kim đến vừa kịp lúc làm tôi nhỏm dậy, bệnh tiêu tán và tôi giật mình bâng khuâng khi đọc thư Kim: chúng tôi gặp nhau đã một năm. Ngày Đệ chết, ngày chúng tôi tìm đến nhau, và ngày này cũng đã bắt đầu vào Hạ.
“Saigon, tháng năm, sáu sáu.
Chú,
Hôm nay là chủ nhật, buổi chiều đợi hoài mà không thấy chú đến. Chú quên Kim rồi nên chú không thèm đến thăm Kim. Phí cả buổi chiều ở nhà chờ chú. Từ nay thứ 7, chủ nhật Kim không thèm ở nhà nữa . Đi chơi hoài hoài cho chú xem.
Những ngày hè thật buồn chán, suốt ngày chỉ ăn ngủ và tán dóc với hàng xóm, chả làm được cái tích sự gì nên cứ bị mẹ mắng hoài thôi. Dạo này Kim lười biếng kinh hồn, lười luôn cả viết thư cho chú nữa đó. Tụi bạn ngoài Huế cứ viết thư vào rủa Kim hoài. Về Saigon rồi mi quên hết bạn bè hỉ.
Tụi Lan, Vĩnh, Hoài rủ Kim đi Vũng Tàu. Kim xin mẹ mà mẹ không cho. Mẹ bảo đường đi khó khăn nguy hiểm. Mẹ thì chỉ hay lo xa thế thôi. Từ ngày ở Huế vào Saigon đến giờ mẹ chả muốn cho Kim đi chơi đâu xa cả. Mẹ lo sợ đủ thứ. Giá như ở Huế, mùa này Kim đi chơi biển thật nhiều. Biển Thuận An không đẹp bằng Vũng Tàu nhưng vui lắm chú. Nếu không thì chị em Kim cũng kéo nhau đi chèo Périssoire trên sông Hương. Còn ở đây thì… ngồi nhà vậy. Cho nên, mong chú đến chơi kinh khủng.
Mến,
KIM”
Tôi vội vã sửa soạn rồi vọt ra công trường Mê Linh gọi xe đến nhà Kim. Tôi thấy khỏe khoắn như chưa hề đau ốm và bỗng thấy buổi tối nay thật đẹp, thật nhộn nhịp vô cùng...
Kim đón tôi bằng nụ cười vừa tươi thắm vừa hờn dỗi. Tôi tự hỏi: Nhìn nụ cười kia liệu có ai tin rằng đó là nụ cười vô tư của cháu dành cho chú, hay là nụ cười hàm ẩn một mối tình thắm thiết gái trai! Tôi đoán Kim đã dành cho tôi nhiều cảm tình tốt đẹp, nếu không kết luận rằng tình cảm người con gái ấy đang dần dần biến thái?
Tôi nghĩ mình không thể kéo dài tình trạng đơn phương này nữa. Yêu thầm nhớ trộm không phải là điều tôi mong mỏi và Kim, như một trái chín muồi, có thể bị kẻ khác cuỗm mất bất cứ lúc nào. Cho nên, một hôm tàn Hạ tôi tìm đến Hồng, cháu gái tôi. Hồng quen Kim sau này, khi tôi đưa Hồng đến chơi với Kim. Con gái dễ thân nhau. Tôi "phịa" ra chuyện tối sắp lấy vợ nhờ Hồng thêm thắt chi tiết sao cho hợp lý, rồi kể lại với Kim. Sau đó, tôi hồi hộp chờ phản ứng của "cháu gái". Thì phản ứng ấy đã đến trong một lá thư.
"Saigon, tháng tám, sáu sáu.
Thiên hạ sắp lấy vợ nên khoe khoang ghê quá. Có cần Kim báo tin mừng đó của chú cho tụi Lan, Vĩnh biết không? Nhớ cho tụi Kim biết sớm hơn để còn phải để dành tiền mua quà mừng chú nữa chứ, chú thích gì? Điều kiện phải vừa với túi tiền của ba đứa chung lại thôi đấy nhé. Học sinh... nghèo mà.
Dạo này chú còn dám đọc thư Kim không? hay lại sợ "cô nhỏ" nào đó giận, nghỉ không thèm chơi với chú nữa, chắc chú sẽ oán Kim lắm nhỉ? Chẳng cần đâu.
Chú không phải đi Nha Trang nữa hở? À, ở nhà cưới vợ mà. Kim điên quá. Những câu hỏi của chú hôm nào, giờ có cần nghe Kim trả lời không? Thôi vậy nhé. Bao giờ chú thật cần nghe, Kim sẽ trả lời cho chú sau. Còn bây giờ thì... Kim đoán chú không thích nghe mấy.
Không thèm chúc vui cho chúc đâu, vì hiện tại chú đang vui như Tết rồi còn gì nữa?
KIM"
"Những câu hỏi của chú hôm nào". Tôi nhớ lại, những câu tôi đã hỏi Kim trong một buổi hai đứa đi chơi với nhau, cũng là một lần dò ý và tôi hỏi tự nhiên trong tư cách ông chú hỏi cô cháu nhỏ: "Kim đã nghĩ tới chuyện lập gia đình chưa?". "Kim có ưng lấy chồng lính hay không?" và "Kim nghĩ gì về lính, nhất là...lính biển?" Kim không trả lời chỉ cười và nói:
- Một ngày nào đó Kim sẽ trả lời cho chú, bây giờ thì còn sớm chú a.
Cái ngày đó, với Kim qua lá thư này, không đến nữa. Tôi mỉm cười thích thú. Tôi biết rõ tình cảm của Kim rồi. Nhưng sau đó Kim cũng biết cái vụ tôi lấy vợ chỉ là tin cuội.. Hồng phản phé, "tố" cho Kim nghe và cả hai cô nhỏ xúm lại bắt tôi chuộc tội bằng một chầu xi nê và kem Hà Nội. Tuy vậy, mặc dù có Hồng ủng hộ tinh thần - tôi vẫn chưa đủ can đảm tỏ cho Kim biết là: Anh đã yêu rồi, em biết không?
Tình yêu đến cùng lúc với sự suy tư về thân phận và trách nhiệm. Sự chênh lệch giữa thực tế và mơ mộng thường làm cho tôi buồn day dứt. Đôi lúc tôi hờn giận vu vơ, không muốn đến nhà Kim và chỉ viết vài hàng nhờ Hồng chuyển, nói dối là tàu đi công tác.
Những liên lạc giữa chúng tôi chỉ qua thư tín, và chỉ những trang giấy ấy mới ghi nhận được nhiều điều đáng nhớ. Trong những thời gian buồn bã đó; lại một lá thư của Kim đến với tôi và lá thư này đã đóng một vai trò quan trọng: đọc xong, tôi quyết định phải tìm Kim thổ lộ lòng mình.
"Tháng mười, sáu sáu.
Chú,
Tối ở nhà chán quá. Ngồi nghe các ông bạn của anh Thành triết lý về tình yêu, về con gái nghe phát nhức cả đầu, điếc cả tai. Kim bỏ đến nhà con Lan chơi. Đang tránh nghe triết lý của ông anh thì gặp ngay giọng triết lý "ông cụ non" của hai ông tướng em trai và em họ Lan. Chán ơi là chán! Gớm, hình như các ông tướng này bị bồ đá hay sao mà tả oán dữ quá. Triết lý về những mode của con gái bây giờ. Kim, Lan cãi như máy mà cũng không làm sao hơn nổi cái giọng "hàm hồ" của hai tướng ấy. Nhất là ông tướng Duy. Con trai gì mà ăn nói "tham lam" quá trời. Cứ thao thao bất tuyệt không làm sao mà stop nổi nữa, còn hơn 3 ông Hải Quân hôm nào.
Kim, Lan tức quá lấy vélo của nó phóng đi, không thèm nghe mà cũng không thèm... trả tiền bò viên cùng chè khoai mà trước khi ăn bốn đứa đã giao hẹn "trả tiền kiểu Mỹ". Chú có biết "trả tiền kiểu Mỹ" là gì không? Bò viên và chè khoai ở cửa nhà Lan ngon lắm chú ơi. Đặc biệt nhất là món chè khoai "Bắc Kỳ" ngon "ba chê" luôn. Bao giờ Hồng và các em đi ăn quà chú bảo đến rủ Kim. Kim sẽ dắt đến nhà Lan ăn bằng thích. Món ăn bình dân, ngon mà lại... rẻ nữa. Đừng thèm ăn quà ở chợ, dở lắm. Kim "quảng cáo" món chè khoai ở nhà Lan sốt sắng như vậy, chắc bà cụ hàng chè biết được bà ấy sẽ... thích Kim lắm chú nhỉ? Chị em Hồng hợp với Kim lắm đấy. Hợp về "tài" ăn quà vặt. Thế, cô Thu của chú có hay ăn quà như tụi Kim không hở chú?
Chú thấy không, tụi Kim lúc nào cũng vui vậy đó. Không thèm buồn. Còn chú, lúc nào cũng nghe chú than buồn mà Kim thì chả nhận thấy "có điều gì" cho chú buồn cả. Thứ 7, chủ nhật đi chơi, đi bát phố. Thích thế còn gì nữa. Như tối thứ 7 vừa rồi chẳng hạn (chết chú chưa, vậy mà chú dám bảo là chú đi công tác Vĩnh Long nhé, chú nói dối như cuội ý... Ghét chú, ghét chú ghê đi).
"Nếu Tết này chú rảnh và không bị công tác (cho cô Thu của chú) - chú phải nói như thế chứ không được nói là "Nếu chú được ở Saigon, không bị đi công tác xa xôi" - vì lúc nào chú chả ở Saigon - chú nói "xạo" với Kim là chú đi xa đấy nhé! Kim biết thừa là chú chả đi đâu hết" - chú đến với Kim nhé. (Chú vẫn sống ở Saigon, vẫn được đi chơi chiều thứ 7, chủ nhật, chú ba xạo, Kim chả thèm tin chú nữa đâu).
Tối nay là chủ nhật, đang viết cho chú thì Lan đến. Con nhỏ kéo cả một tá em theo sau đến rủ Kim đi xem duyệt binh ở bến tàu. Không đi không được với nó, thế là đành phải xếp "bút nghiên" lại một bên.
...
10 giờ Kim về và leo lên gác, viết tiếp cho chú đó. Tuần này Kim thi đệ nhất lục cá nguyệt nên bận lắm. Còn vài môn nữa là xong. Làm bài chả được Kim buồn quá. Nhất là Anh Văn, Hình học. Kim, Lan hai đứa đều dốt kinh khủng. Có lẽ Kim sẽ đi học thêm Toán, Lý, Hóa. Chú thấy tụi Kim khổ như thế đó mà chả thèm buồn nhiều. Buồn ít thôi, để còn cười nữa chứ. Chắc chú sẽ bảo "Kim không bao giờ hiểu cái buồn của chú". Thế nhưng Kim lại bảo rằng Kim hiểu chú và hiểu rõ lý so buồn của chú đó. Nhưng vì Kim nhận thấy cái "lý do" buồn của chú không đáng buồn chút nào cả . Thế mà chú lại cứ than buồn.
Hình như 11 giờ hơn rồi thì phải. Mọi hôm Kim vẫn thức đến 12 giờ để tụng bài. Nhưng hôm nay - ngày lễ - nên Kim đã tự cho phép mình nghỉ để viết thư cho chú - viết cho mình chú thôi đó. Chúc chú vui hoài, đừng buồn. Nếu có buồn thì buồn chút chút thôi rồi lại vui như Tết - vui nhất thế giới như tụi Kim đó.
Thương mến,
KIM"
* * *
Chúng tôi đi bên nhau, một chiều chủ nhật tàn năm. Sau khi buổi lễ của đoàn Nữ Hướng Đạo chấm dứt, tôi và Kim về trước, Hồng phải ở lại trông coi các đội sinh dọn dẹp. Đường Chu Mạnh Trinh càng lúc càng lên dốc, như nhũng con đường Đà Lạt. Hàng cây cao chiều đó đổ lá nhiều, xào xạc dưới bước chân hai đứa.
Tôi nói nhiều, thật nhiều những điều tôi đang nghĩ. Nhưng tôi chẳng nhớ mình đã nói gì. Có lẽ là tôi tỏ tình, nhưng hẳn là những câu nói bối rối thiếu đầu thiếu đuôi, không trọn nghĩa. Cho đến khi ngừng nói tôi mới chợt thấy mình đã độc thoại khá lâu, và người con gái vẫn im lặng. Tôi đứng lại, nhìn vào mắt Kim rồi đặt tay trên vai Kim. Kim chưa trả lời những điều tôi nói, nhưng Kim không phản đối bàn tay trên vai. Tôi hiểu, mình đã toại nguyện rồi đó. Tôi không nhắc lại những lời đã nói, chỉ khi chia tay, tôi bảo:
- Chú (tôi vẫn chưa đủ can đảm xưng anh) mong sẽ nhận được thư Kim. Gửi bảo đảm, để chú sẽ là người duy nhất được thư đó nhé Kim.
Và cánh thư ấy đã đến, đề tháng Giêng. Lời lẽ trong thư khiến tôi thấy lòng tưng bừng mở hội, hân hoan tươi thắm như tháng Giêng cỏ non xanh lá.
“Tháng Giêng, sáu bảy.
Chú,
Khó quá, chưa lần nào viết thư cho chú mà Kim lại cảm thấy phân vân như lần này. Chú nói đúng đấy, chú đã làm xao động Kim thật sự, để, Kim bắt đầu “biết” suy nghĩ và bắt đầu buồn từ lúc này.
Có lẽ Kim đã hiểu chú muốn nói gì với Kim – nghĩ gì về Kim lâu rồi nhưng Kim không muốn tìm hiểu vội. Kim lại thích im lặng để giữ nguyên tình trạng này thích hơn. Kim sợ buồn, sợ suy nghĩ và Kim vẫn còn tiếc tuổi thơ của Kim.
Nhưng Kim đã đoán trước được tất cả những gì sẽ xảy đến – và, bây giờ thì sự thật đúng như điều dự đoán. Chú đã chán đóng vai một ông chú… hờ. Kim cũng nghĩ như thế. Nếu bây giờ Kim còn thích làm cháu gái của Hoàng Kim Tuấn mãi thì rất có thể Kim sẽ mất chú, hoặc là, chú sẽ mất Kim. Bởi vì Kim còn nhỏ, còn ham chơi và dễ bị lôi cuốn trong đám bạn bè hay bị lay chuyển vì những lời “tán” ngọt như kẹo của những “ông tướng” Kim quen.
Vì vậy Kim phải tuyên bố ngay bây giờ là: Kim rất vui mà đón nhận tất cả những “cảm tình đặc biệt” của chú đã dành cho Kim với điều kiện: chú phải là của Kim chứ không được tham lam như chú Đệ đâu nhé. Con gái bây giờ thường hay ích kỷ như thế đó. Ngược lại, con trai bây giờ thì lại tham lam không can nổi. Kim không muốn chú lại là một trong những người con trai tham lam đó. Chú phải hứa với Kim. Ngoài ra Kim không đòi hỏi chú phải có những điều kiện nào khác nữa. Kim mong chú.
KIM”
Thế là chúng tôi yêu nhau, sau hơn một năm trời gần gũi. Tôi mơ mộng, tình yêu bắt đầu vào tháng Giêng hẳn là phải đẹp và bền vững mãi. Thoạt đầu, chúng tôi cũng ngượng nghịu, nhưng sau tôi “lấy can đảm” từ giã tiếng chú để xưng anh. Mãi một hôm, cũng tháng Giêng, Kim “tập” gọi tôi bằng anh. Tiếng anh đầu tiên không gọi bằng lời nói mà bằng nét chữ. Từ trước tới nay những điểm đáng ghi nhớ của chúng tôi vẫn là nhờ những cánh thư, nét chữ
“Tháng Giêng, sáu bảy
Anh,
Hết chú cháu giờ lại anh em, ngượng ghê! Nhưng, ngượng thì cũng phải tập gọi bằng anh cho quen đi không thôi cứ chú cháu mãi thiên hạ bảo mình… khùng.
Thứ 7 tuần này Kim dọn nhà. Từ nay cho đến khi có… lệnh mới, anh không được “bắt tội” Hồng đến rủ em đi “lang thang” nữa đấy nhé.
Dọn nhà xong, anh đến nhà nói chuyện, đi ngoài đường anh hay… ”kỳ cục” quá à. Anh tưởng ba mẹ em, chị Ánh không biết chuyện tụi mình hở? Ông bà cụ biết từ lâu rồi, tại anh đó. Lần nào Kim đi chơi mà bà cụ lại chả biết thừa là anh rủ đi nên, anh “kỳ cục” vừa vừa chứ. Coi chừng em mách mẹ anh bị đòn đấy..
Buổi sáng đi chơi về không bị mắng, may ghê. Buổi chiều, bị phạt ở nhà nấu cơm một mình, Kim buồn quá xá.
Chiều chủ nhật tuần sau dọn nhà mới gọn gàng xong, anh đến nhà. Kim nhờ Linh vẽ “đường đi lối về” cho anh dễ tìm… Anh mà tìm không ra, em bắt đền cho mà xem. Và em còn xúi tụi nhóc chế anh “cù lần” nhất thế giới.
Thương,
KIM”
* * *
Những ngày cuối cùng của chyến hải hành là tàu ghé lại Phú Quốc 10 ngày để phát quà dân vận và chở hàng về cho Hải Tiếp Vụ. Tôi đang nằm đọc một tập truyện thì Châu – Trâu Điên - bước vào cười bí mật:
- Xùy 3 bò ra đây, cưng.
Biết có mè nheo cũng vô ích, tôi đưa tiền cho nó để lấy lá thư của Kim đang bị “cầm tù” trong túi nó và giao hẹn:
- Mày nợ ông 2 ngàn 8 rồi rồi nhé. Cuối tháng mà không trả…bố ghè gãy răng cho mà coi.
Trâu Điên cười hì hì, biến lên thang. Tôi nằm dùi ra giường, nâng niu lá thư êm ái mày hạnh phúc.
Chiều mai tàu nhổ neo trở về Saigon. Nhất định tôi sẽ được sống bên Kim những phút giây tuyệt diệu. Hàng chữ quen thuộc của Kim trải ra trước mắt, đẹp như buổi chiều thứ 7 sắp đến.
“Tháng ba, sáu bảy.
“Chú” yêu
Bây giờ vào khoảng 12 giờ đêm. Kim ngồi học một mình trong góc phòng. Buồn và sợ ma kinh khủng. Bài thi tụng hoài chả thuộc, mắt thì cứ rũ xuống. Kim buồn ngủ ghê đi ấy.
Không biết giờ này “chú Tuấn” của “cháu” đang làm gì nhỉ? Chắc chú đã ngủ yên hay có thể (dám lắm chứ) chú đang thao thức để nghĩ đến một cô bé nào đó. Ghê thật!
Sao tự dưng em thèm được gọi anh bằng chú như ngày xưa quá (mặc dù bây giờ anh chả “xứng đáng” là chú của Kim tí nào cả) nhưng Kim cũng cứ gọi bằng chú cơ – nghe! Tiếng “chú” nghe dễ thương và thú vị lạ lùng.
Kim không thích chú buồn và nghĩ ngợi vẩn vơ nên Kim viết toàn chuyện vui, vì là thư của “cháu” viết cho “chú” mà lỵ. Chú của cháu sẽ không phải buồn đến “quên” ăn “quên” ngủ nữa chứ?
Úi chà, Kim chưa thuộc bài mà lại ngồi viết thư, mai đi học bị phạt thì “chít”. Kim ngừng ở đây nhé, gần 1 giờ đêm rồi còn gì.
Và để chúc vui cho chú… “Tối nay em nhớ anh thật nhiều - thật nhiều!”
Thương yêu,
KIM”.


 
 
16. KỶ "LIỆM" - (Tango Bui chuyển)
Vào một đêm mát trời, cụ ông buồn ngủ bèn leo lên giường để đi vào giấc mộng đẹp....
Sau đó cụ bà cũng leo lên giường, nhưng không hiểu có phải tại thời tiết đổi mà tự dưng cụ lại nổi máu "rô măng tịt", quay qua cụ ông đang nằm xoay lưng, cụ ỏn ẻn :"Hồi đó trước khi ngủ anh hay xoa tay em..."
Đang thiu thiu, cụ ông mắt vẫn nhắm, đưa tay ra đàng sau đụng tay cụ bà, xoa xoa vài cái rồi rút tay lại, ngủ tiếp.
Lúc sau cụ bà lại ỏn èn :"Hồi đó anh hay gải đầu em trước khi ngủ"
Cụ ông lại đưa tay ra sau đặt lên đầu bà gãi gãi vài cái rồi rút tay, ngủ tiếp.
Một hồi cụ bà lại ỏn ẻn tiếp :"Trước khi ngủ anh hay cắn nhè nhẹ
vào tai em...."
Đến đây thì cụ ông ngồi bật dây, thò chân xuống đất bước đi.
Cụ bà ỏn ẻn :"Anh đi đâu đó?"
Cụ ông quay lại gắt :"Đi tìm hàm răng chứ đi đâu"......
 
 
 1. Tại sao một số Bác Sĩ từ chối điều trị để cứu sống bản thân - (by Tango Bui)
 
Một chọn lựa sáng suốt,dứt khoát và can đảm.
Câu hỏi: Tại sao một số bác sĩ từ chối phương pháp điều trị cứu sống cho bản thân, chẳng hạn như hóa trị, lọc máu, thông khí, phẫu thuật hoặc đặt ống ăn?
Trả lời bởi Maureen Boehm, cựu bác sĩ nội khoa.
Tôi không thể nói thay cho tất cả các bác sĩ, nhưng tôi nghĩ rằng họ (các bác sĩ) thường từ chối khi mục đích duy nhất của những phương pháp điều trị đó là kéo dài cuộc sống, chứ không phải chữa khỏi.
Rõ ràng là khi một người gần chết, cuộc sống của họ là khủng khiếp. Họ kiệt sức, ốm yếu. Cơ thể của họ, đã từ lâu, không còn mang lại cho họ niềm vui nữa.
Tuy nhiên, gia đình bệnh nhân thường yêu cầu chúng tôi làm mọi thứ.
Không muốn làm gia đình thất vọng, bệnh viện cho phép điều trị. Bác sĩ biết rằng sẽ không cứu được bệnh nhân mà còn khiến họ đau đớn và dẫn đến một loạt những phản ứng phụ khó chịu và mệt mỏi khác.
Điều này, về cơ bản là điều trị để chết.
Là bác sĩ, chúng tôi thấy việc này xảy ra hàng ngày.
Nó hết sức vô nhân đạo.
Bản thân tôi sẽ không cho phép bệnh nhân hóa trị hoặc lọc máu hoặc đặt máy thở, nếu không có hy vọng phục hồi.
Gia đình tôi biết điều này.
Tôi để lại di chúc thể hiện mong muốn của tôi nếu việc điều trị là vô ích.
Hãy để tôi kể chuyện này.
Tôi đã có một đồng nghiệp. Anh ta là một chàng trai khá trẻ, ở độ tuổi 40, có con đang đi học.
Anh được chẩn đoán mắc GBM, dạng u não nguy hiểm nhất. Anh còn khoảng 4 tháng nếu không điều trị hoặc có thể lâu hơn một chút.
Khi được hỏi anh đang cân nhắc điều trị gì, anh suy nghĩ một lúc, rồi thì thầm, đi biển.
Anh đưa gia đình đi du lịch châu Âu. Anh chơi với con, trên bãi biển. Họ đi du lịch qua những nơi vui vẻ và thú vị.
Anh ấy đã có những bữa ăn tuyệt vời, ấm áp cùng vợ con trong những quán cà phê nhỏ. Họ đã thử nhiều loại rượu vang hảo hạng và rất nhiều món ăn ngon.
Họ giữ lại rất nhiều niềm vui và những kỷ niệm đẹp trong trái tim suốt chuyến đi đó.
Khi bệnh tình trở nên nặng hơn, anh trở về Mỹ và không vào bệnh viện.
Anh ta chết ở nhà, được bao quanh bởi gia đình, vài tuần sau đó.
Tôi nghĩ anh ấy là người đàn ông rất khôn ngoan.
Anh ta đã thấy, giống như tôi, tất cả những người được trị liệu sẽ kéo dài cuộc sống của họ, chỉ trong một thời gian ngắn nhưng sẽ tàn phá gia đình của họ cả về mặt cảm xúc và tài chính.
Những tháng cuối cùng của họ trên trái đất này được dành để phục hồi sau khi điều trị hoặc vượt qua cuộc phẫu thuật. Họ đã bỏ lỡ cơ hội của mình cho một sự ra đi yên bình, đáng yêu với những người thân yêu của họ, thay vào đó họ chờ vòng hóa trị tiếp theo, hoặc phẫu thuật hoặc lọc máu, v.v.
Tôi sẽ không bao giờ, cho phép điều đó cho bản thân mình.
Khi thời gian của tôi kết thúc, tôi sẽ đi. Với tất cả sự bình yên.
Nguồn: Internet

2. Một Trăm Chỗ Lệch
 
Thỉnh thoảng nổi hứng, ông bảo, để ông nấu nướng, bà dọn dẹp rửa chén. Ông nấu nhanh, mắm muối mạnh tay. Khi nghe ông thông báo trổ tài món thịt heo kho trứng, bà tưởng như lượng Cholesterol phóng vút lên trần nhà.
Ông khuân về tảng thịt hai rọi, chứ không phải ba rọi. Rọi mỡ lấn lướt rọi thịt một cách sỗ sàng. Ông luộc trọn chục trứng gà. Ông theo nguyên tắc “cho gọn”, mua bao nhiêu, nấu bấy nhiêu. Cũng may, chợ gần nhà ông bà không bán vĩ trứng 24 cái.

Nhìn nồi thịt kho, ông tấm tắc: “Ngon bá cháy”. Bà nhăn nhó, với đà dinh dưỡng như vầy, chẳng chóng thì chầy ông bà trở thành võ sĩ Sumo.
Đến phiên bà lo việc bếp núc, ông rối cả mắt. Vài rẻo thịt mỏng dính nằm khép nép trên thớt. Mấy rổ rau dàn hàng nghênh ngang, nào cần tây, cà rốt, bắp cải. Bà giảng giải, ăn uống phải đầy đủ sinh tố từ A đến Z. Nồi canh mồng tơi (Spinach) to tướng được bà ban cho vài con tép riu. Ông chẳng biết mấy con, vì bà đã băm nhuyễn rồi. Đã vậy, sợ lên đường, lên muối, bà nêm lạt lạt. Bà nhắc chừng ông, cao máu, cao mỡ, thì phải để ý thế này, thế nọ.
Thằng em rể mắng vốn với ông: “Anh ơi, em gái anh coi chồng như thỏ, như bò. Vợ em cho em ăn toàn là rau với cỏ”. Ông thở dài sườn sượt: “Chú mầy vậy là còn hên! Anh đây, không chỉ ăn, mà còn phải uống rau cỏ nữa. Chú mầy thấy mắt anh lúc nào cũng trố trố không? Bả ép su hào, ớt chuông, dưa leo, rồi bả ép anh uống, mà phải uống trước mặt bả, chứ đâu lén đổ đi đâu được. Uống riết, trợn trắng”.
Bà dọn mì xào, ông trút cả tô nước mắm vào dĩa mì, hỏi giỡn:
-Bữa nay em quên nêm hay sao mà lạt nhách, lạt nhơ. Ăn hổng biết là món gì.

Bà nghiêm giọng:
-Lạt thì anh cứ việc thêm chút nước mắm. Chỉ sợ quá mặn mới hết thuốc chữa.

Bà nhớ ngay một chuyện cười thời đại dịch. Nhưng không dám nói trước bữa ăn, sợ cơm không lành, canh không ngọt. Bà định bụng, lúc nào thuận tiện, sẽ kể. Rằng, có ông chồng nọ than món ăn không có mùi vị. Bà vợ tức tốc gọi điện thoại cho bác sĩ. A lê hấp, bác sĩ đưa ông chồng vô cấp cứu, vì khứu giác không hoạt động là hiện tượng của nhiễm bệnh dịch. Ui, nghĩ vậy thôi. Chứ bà biết rõ mười mươi, nghe mấy chuyện như vầy, ông sẽ phán ngay: “Diễu dở!”
Mùa dịch, ông rầu rĩ, không lấy hẹn được ở tiệm hớt tóc. Thời may, có đứa bạn đàn em biết cầm kéo. Vài ba tuần, ông chạy đến cho thằng em tỉa tót tóc tai. Ông đi từ hai giờ chiều. Đâu chừng bốn giờ ông nhắn: “Em ơi, chiều khỏi lo cơm. Con Liên bữa nay nấu nướng linh đình lắm. Mình cũng được phần.”. Bà ngại quá, định bụng dặn ông. Lần sau phải từ chối, chứ đã nhờ người ta cắt tóc, lại còn đóng gói đồ ăn đem về. Thôi thì đằng nào cũng lỡ rồi. Xem ra có lộc ăn. Bà cho ông táo nghỉ việc. Bà nhẩm tính. Ông chạy xe khoảng 20 phút là đến nhà. Chắc 5 giờ hoặc trễ lắm 5 giờ rưỡi ông có mặt ở nhà. Đúng bữa ông bà ăn cơm chiều lúc 6 giờ. Quá tiện. Khỏi nấu ăn, bà loanh quanh trong vườn ngắm hoa, nghía lá. Trời xâm xẩm tối, bà nhìn đồng hồ, hơn 6 giờ mà vẫn chưa thấy ông. Bà bắt đầu nóng ruột. Chắc ông bị kẹt xe. Ồ, đoạn đường gần xịt, ở làng vắng vẻ, tha hồ mà chạy. Hay ông bị hư xe. Nếu bà gọi, chỉ làm ông rối lên, bà chẳng giúp được gì. Bà lóng ngóng ngó xuống đường. Mãi gần 7 giờ, ông mới về đến nhà. Bà mừng rỡ, thấy ông tươi tắn, khỏe khoắn chứ chẳng có vẻ gì mệt nhọc. Đưa cho bà bịch ny lông nóng hổi, ông nói :
-Em ăn liền đi cho nóng. Cháo vịt, ngon lắm.
-Anh chưa ăn, sao biết ngon?
-Ờ, hồi đầu anh định về sớm, ăn chung với em. Mà tại bữa nay thằng Linh ăn chay, mâm riêng. Con Liên than, ăn một mình buồn quá, rủ anh ăn. Anh thấy tội con Liên, nên ngồi ăn với nó cho vui.
Đã quá giờ, bụng bà đói cồn cào. Tô cháo vịt, chén nước mắm gừng bên dĩa gỏi bắp cải. Liên chu đáo gói cho miếng chanh và mấy lát ớt. Đúng là đại yến. Bà tính, trong lúc bà thưởng thức món ngon, rủ ông ngồi nói chuyện, thì cũng như ăn chung chứ có gì đâu. Ông lục đục trong tủ áo, nói vọng ra:

- Anh phải đi gội đầu ngay. Mấy sợi tóc chọt chọt, ngứa cổ quá.
Thôi, đành “độc thực” vậy. Bà nghĩ thầm, ông thiệt tốt bụng. Luôn đem niềm vui cho người khác. Nói theo ngôn ngữ thời thượng, đi đâu ông cũng dễ dàng đốn tim người chung quanh. Có điều, “sách lược” đắc nhân tâm của ông chỉ áp dụng cho người ngoài. Còn bà là “người trong”, lại ít khi được hưởng quy chế này.
Cô bạn khoe mới học trên mạng cách làm bánh đúc, mời hai ông bà đến ăn chiều. Cô bạn không hài lòng với kết quả. Bà chưa làm bánh đúc bao giờ, nhưng biết ăn, biết nhận xét. Bà xếp điểm món bánh đúc của cô bạn vào thứ hạng “mẹ thành công”: bột quá đặc, nhân quá mặn. Nhưng ông xuýt xoa khen ngon. Bà ngạc nhiên. Hồi giờ, ông vốn không ưa các món bánh bột. Bà càng ngạc nhiên hơn. Khi ra về, ông hỏi, cô bạn còn bánh không. Thế là cô bạn gói một bịch bự tặng ông bà. Bữa sau, bà nói, bánh đúc không ngon, bà không ăn. Bà ngó ông:
-Em đâu biết anh thích bánh đúc.

Ông cười cười:
-Khen cho người ta vui. Lời nói chẳng mất tiền mua.

Bà tửng tửng:
-Ủa, sao hôm trước, anh Nam khen bánh cuốn em làm ngon, anh nói, dân Bắc kỳ khách sáo, đãi bôi.
-Thì đúng chứ sao. Em mới dọn ra bàn, ổng chưa ăn, mà sao biết ngon, rồi khen xối xả.

Bà kê liền cái tủ đứng:
-Vậy, nếu anh Nam ăn, thấy dở, mà vẫn khen cho em vui, thì lại là thật lòng.

Bà đáo để gớm. Ông đuối lý. Nhưng sức mấy ông cho bà biết. Ông đành hì hụi đi hâm dĩa bánh đúc to kềnh. Bà nói, có việc phải ra bưu điện. May quá, ở nhà một mình, ông sẽ tìm cách giải quyết của nợ một cách êm thắm. Chứ tuồn cả núi bánh ấy vào bụng có mà phát ách.
Mấy đứa cháu đến chơi. Ông vui vẻ chuyện trò với lũ trẻ. Lúc đầu, bác bác, con con. Một hồi vui quá, ông đổi “tông”:
-Bác phải o bế tụi bây. Thằng Tí, ít bữa bác mầy già, mầy nhớ chạy vô viện dưỡng lão thăm bác nghe.

Bà đánh trống lảng, dụ tụi nhỏ ra vườn cho cá ăn. Khi mấy cháu về, bà nhẹ nhàng nói với ông:
-Mấy cháu còn nhỏ, anh đừng xưng hô mầy tao, nghe không hay.

Ông bực bội:
-Em khỏi lên giọng dạy đời. Anh đủ hiểu. Anh thương cháu, thân mật với cháu, mầy tao với tụi nó. Quan trọng là tình cảm, chứ nói năng lịch sự, mà ghét nhau, thì cũng như không.

Bà biết, bây giờ mà bàn thêm, ít bữa ông sẽ “mầy tao toàn tập” với cả đám cháu.
Nhà ông bà có hai hộp thư: một hộp vuông vức có khóa, một hộp to kiểu Mỹ chỉ có nắp mở ngang, tiện chỗ cho sách báo. Những người đi phát báo quảng cáo tưởng là hai hộp thư cho hai chủ. Vì vậy, họ bỏ vào mỗi hộp một bộ báo quảng cáo sặc sỡ, dày cộm. Bà nói:
-Em sẽ dán chữ “Keine Werbung”, “Xin đừng bỏ báo quảng cáo” vào hộp thư nhỏ để họ biết mà đừng bỏ thêm vào, dư thừa.

Ông nhướng mày:
-Chuyện ruồi bu. Đằng nào họ cũng in rồi. Không bỏ vào hộp thư, thì cũng vô thùng rác. Chỉ thêm một xấp báo chứ bao nhiêu.
-Biết vậy, nhưng rác nhỏ vẫn là rác. Với lại, nếu nhiều người không muốn nhận báo, dần dà, các cửa hiệu sẽ in ít báo hơn. Cũng là một bước tiến trong việc bảo vệ môi trường.

Ông nghĩ khác:
-Mình nhận thêm một xấp báo. Như vậy mình giúp cho người bỏ báo xong việc sớm một chút.

Bà hơi tức cười khi nghe “triết lý” của ông như vậy, bà mỉm mỉm:
-Mấy người lãnh tiền đi bỏ báo, phải làm cho đàng hoàng. Chứ đâu có bá đạo được.

Ông nhún vai:
-Anh vẫn muốn giúp cho người ta, anh nhận hai xấp báo quảng cáo trong hai thùng thư.

Ngưng một chút, ông đổi giọng:
-Em chẳng bao giờ nghĩ đến người khác.

Bà ngạc nhiên, quay nhìn ông lom lom, coi ông nói giỡn hay thiệt. Ủa, sao lạ vậy ta! Những lúc thấy bà lui cui đóng các thùng quà gởi về cho bà con ở Việt Nam, ông chẳng từng dịu ngọt với bà: “Anh quý em nhứt ở cái tính thương người, giúp người”.
Bỗng dưng bà nghĩ, cây không muốn lặng, việc chi mà buộc gió phải ngừng. Bà đều đều giọng:
-Tất nhiên, em có nghĩ đến người khác. Em nghĩ đến nhân viên Sở Vệ Sinh phải khuân nặng một cách vô ích những xấp báo làm ơn của anh.

Ông chọc quê:
-Em mà học luật, thiên hạ chết không kịp ngáp. Sao em nói cũng được.
Bà bực lắm, nhưng thôi không nói nữa. Kẻo ông lại bảo bà lúc nào cũng đòi phần thắng. Thế là thiện chí đóng góp bảo vệ môi trường của bà và xấp báo vô tích sự của ông đã làm không khí trong nhà ông bà bị “ô nhiễm” cả ngày.
Đó, mấy con sóng nhấp nhô vậy thôi, mà làm con thuyền tình ái của ông bà chòng chành miết. Lắm khi cả hai cũng lắc lư con tàu đi, thiếu điều văng ra khỏi thuyền.
Chiều cuối tuần, nhóm bạn cao niên tụ tập ăn uống, tán gẫu. Hồi trước, bạn bè tìm đến nhau trao đổi thông tin, kinh nghiệm nuôi dạy con cái. Giờ đây, tụi nhỏ lớn bộn, có cuộc sống riêng, bay nhảy khắp nơi. Nhà nào cũng chỉ còn lại hai… con khỉ già. Những dịp gặp nhau, hễ nhắc “chuyện chúng mình”, các ông, các bà bàn cãi sôi nổi như pháo tết. Họ thi nhau liệt kê những điều khập khiễng trong túp lều tranh của hai trái tim... gàn. “Bà xã tui hỏng lái xe, mà lái tài xế. Ngồi trong xe, cứ năm phút bả la oai oái: thắng, thắng lại anh. Nghe lời bả, chắc đi bộ còn nhanh hơn”. Người khác tiếp lời: “ Bà nhà tui rình tui còn hơn mật vụ. Tui vừa từ phòng tắm ra, bả nói, tui quên rửa tay. Tui hỏi sao bà biết. Bả nói, vừa nghe tiếng giựt nước cầu tiêu xong là thấy tui mở cửa ra liền...”
Mấy bà vợ chưa kịp phản công, chị chủ nhà lên tiếng:
-Mấy ông, mấy bà ơi, bàn bạc nhiêu đó đủ rồi. Bắt chước người xưa như vầy nè: Yêu nhau vạn sự chẳng nề,/ Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng. Bây giờ, mỗi người một... miệng, phụ vợ chồng tui ăn sạch sẽ nồi bún bò nhen.
Muỗng đũa khua lách cách, rộn ràng. Mọi người vui vẻ xì xụp. Có tiếng hít hà khen ngon, khen cay. Ông buột miệng:

- Giò heo thấm thía, ngon quá!
Bà nhìn ông. Rõ là ông thưởng thức tận tình và khen thiệt lòng. Bà dịu dàng:
-Ăn vừa miệng anh ha!
Bà quay qua chủ nhà:
-Chị Hai ơi, cho tụi em làm xấu, xin thêm khoanh giò heo nữa nhe chị.
Chủ nhà mau mắn:
-Tụi em cứ tự nhiên.
Ông đón tô bún có thêm miếng giò khoanh hấp dẫn, nói nhỏ vào tai bà:
-Tuần sau mình nghỉ ăn thịt vài bữa nghe em.
Bà thủ thỉ:
-Rau mà mình nêm nấu đậm đà thì cũng ngon đó anh.
Ô, vậy là, tuần sau, hai ông bà sẽ bớt được một chỗ lệch. Bà chưa hề đếm thử vợ chồng bà có bao nhiêu chỗ lệch. Ui, trăm hay biết đâu cả ngàn chứ chẳng chơi. Nhưng chả ngại! Miễn là hai ông bà phải cố gắng đáp ứng điều kiện ắt có và đủ: Yêu nhau.

Hoàng Quân
Tháng Giêng 2022
 
 
3. Tiến sĩ Farid Fata là Ác quỷ y khoa thế kỷ 21 
Vũ Cao (Theo Medical Daily) - (Tango Bui)

Farid T. Fata là một cựu bác sĩ huyết học / ung thư sinh ra ở Lebanon và là kẻ chủ mưu của một trong những vụ lừa đảo chăm sóc sức khỏe lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Fata là chủ sở hữu của Michigan Hematology-Oncology, một trong những cơ sở điều trị ung thư lớn nhất ở Michigan.
 
Là giám đốc chuỗi phòng khám, bệnh viện điều trị ung thư và các bệnh lý về máu lớn nhất bang Michigan với số lượng bệnh nhân lên đến 17.000 người, nhưng dưới sự phù phép của Tiến sĩ Farid Fata, ngoại trừ 1 người duy nhất thực sự mắc bệnh, những người còn lại đều bị Farid Fata biến thành 'ung thư' rồi điều trị dài ngày bằng hóa chất để trục lợi tiền bảo hiểm y tế…

Dấu hiệu đầu tiên của một tội ác y học
Vụ việc bắt đầu hé lộ vào tháng 1-2010 khi y tá Angela Swantek, người đã có 19 năm kinh nghiệm trong việc chăm sóc bệnh nhân ung thư đến Bệnh viện điều trị ung thư và các bệnh lý về máu Michigan, Mỹ (Michigan Hematology Oncology - viết tắt là MHO) để phỏng vấn xin việc làm.
Sau này lúc trả lời câu hỏi của tờ The Detroit News, Angela nói: “Trong khi đợi gặp tiến sĩ Fata, giám đốc MHO, tôi đi xem một số khoa phòng. Tại khoa điều trị ung thư, tôi thấy có khoảng 70 bệnh nhân đang được truyền dịch. Một y tá ở đây cho tôi biết tất cả đều bị ung thư tuyến giáp, ung thư tụy, gan, đại tràng, vòm họng, máu và một số loại ung thư khác”.

Vẫn theo y tá Angela, trong quá trình quan sát cô nhận thấy có nhiều điểm khiến cô nghi ngờ. Ấy là một số bệnh nhân được truyền dung dịch IVIG - là loại dùng cho người suy giảm miễn dịch, vốn không được chỉ định trong điều trị ung thư vì nó có thể gây sốc phản vệ, hay như một bệnh nhân khác lúc vừa được truyền xong hóa chất 5FU thì lập tức y tá cho truyền tiếp dung dịch Neulasta thay vì phải đợi sau 24 tiếng.
Nói với tờ The Detroit News, Angela cho biết bất kỳ một nhân viên y tế nào đã được đào tạo bài bản về chăm sóc bệnh nhân ung thư đều hiểu rằng quy trình điều trị của MHO không phù hợp, thậm chí là nguy hiểm. Nhưng khi cô nêu vấn đề này với một số y tá trong khoa, câu trả lời mà cô nhận được là: “Chúng tôi thực hiện theo y lệnh của tiến sĩ Fata. Ở đây trước giờ đều như thế”.
 
Một trong những cơ sở của MHO bị niêm phong sau khi FBI bắt Fata.
 
Và thế là thay vì gặp tiến sĩ Fata, Angela bỏ về. Suốt 3 tháng sau đó, cô nhiều lần trở lại MHO trong vai tìm người nhà để thu thập thêm chứng cứ. Đầu tháng 3, Angela gửi một báo cáo cho Văn phòng Y tế bang Michigan, nêu lên những nghi ngờ của mình về phương pháp điều trị ung thư ở MHO nhưng mãi đến tháng 5-2011, cô mới nhận được thư trả lời của Cục Điều tiết và cấp phép y tế (LARA) bang Michigan, nội dung cho biết: “Qua kiểm tra, LARA và Văn phòng Y tế bang Michigan không phát hiện bất cứ một sai trái nào của MHO và tiến sĩ Fata”.

Trong cuộc phỏng vấn của tờ The Detroit News, Angela nói: “Họ kết luận mà không hề gặp tôi để tìm hiểu những gì tôi đã nêu trong báo cáo”. Ban biên tập của tờ The Detroit News cũng cho biết Văn phòng Y tế bang Michigan từ chối tiết lộ chi tiết của cuộc điều tra vì Luật bảo mật không cho phép tiết lộ bất kỳ thông tin nào liên quan đến nhân thân người bệnh”.

Với bác sĩ Soe Maunglay, ông bắt đầu làm việc cho MHO vào giữa năm 2012. Và cũng như y tá Angela, bác sĩ Soe sớm nhận ra những bất thường trong điều trị. Khi phản ánh những việc này với tiến sĩ Fata, ông bị Fata chuyển sang một cơ sở khác cũng thuộc chuỗi MHO nhưng tại nơi này, Soe không còn được tiếp cận với các bệnh nhân ung thư nữa. Mối nghi ngờ của Soe càng tăng lên khi tháng 6-2013, Tiến sĩ Fata tuyên bố MHO đã được Bộ Y tế Mỹ cấp chứng chỉ “Sáng kiến thực hành chất lượng trong điều trị ung thư” nhưng khi nhờ một số bạn bè có quan hệ với Bộ Y tế kiểm tra, Soe biết Fata nói láo!

Cuối tháng 6, bác sĩ Soe dự định sẽ nộp đơn nghỉ việc ở MHO nhưng ngày 1-7, trong lúc tiến sĩ Fata về thăm quê nhà ở Liban, Soe tình cờ gặp một bệnh nhân là Monica Flagg 54 tuổi, bị gãy chân sau đợt hóa trị đầu tiên để chữa bệnh đau tủy - là bệnh ung thư buộc phải áp dụng phương pháp hóa trị liệu suốt đời. Tuy nhiên khi đọc kết quả xét nghiệm máu của Monica, bác sĩ Soe vô cùng sửng sốt khi thấy các chỉ số của bà đều nằm trong giới hạn bình thường.

Soe nói: “Hôm sau, tôi đến Phòng Hồ sơ để xem bệnh án. Nếu quả thực bà ấy bị đa u tủy thì hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu phải có những thay đổi - dù rất nhỏ nhưng cũng đủ để một bác sĩ chuyên khoa nhận ra nhưng bệnh án của bà không ghi nhận bất kỳ một khác thường nào. Vì thế trong trường hợp này, khi được Tiến sĩ Fata kết luận là ung thư, cứ mỗi lần hóa trị thì số tiền bảo hiểm y tế của bà Monica sẽ được chuyển vào tài khoản của MHO cho đến hết cuộc đời bà ấy”.

Và thay vì nghỉ việc, bác sĩ Soe quyết định ở lại để vạch trần sự trục lợi bỉ ổi của tiến sĩ Fata, người mà ông gọi là “ác quỷ y khoa”. Soe nói: “Từ trường hợp của bà Monica, tôi bí mật tìm hiểu thêm hồ sơ của các bệnh nhân khác. Do không có thời gian, tôi chỉ xác minh được hơn 1.000 trường hợp mà trong đó, chẳng ai có một dấu hiệu gì về bệnh ung thư nhưng tất cả đều được Fata chỉ định hóa trị. Riêng với 553 bệnh nhân, Fata đã hóa trị cho mỗi người ít nhất 12 liều, mỗi liều cách nhau 6 tuần lễ!”.
 
Người biểu tình mang theo di ảnh thân nhân họ và hàng chữ “45 năm tù là chưa đủ” sau khi tòa tuyên án Fata.
 
Sự ra đời của MHO và sự trục lợi trên nền tảng dối trá
Farid Fata sinh năm 1965 ở Liban. Sau khi lấy bằng bác sĩ tại Đại học Y khoa Beirut, ông ta di cư đến Mỹ rồi bắt đầu sự nghiệp bằng vai trò bác sĩ nội trú thuộc Trung tâm Y tế Maimonides ở Brooklyn, New York. Tiếp theo, Fata làm việc ở Trung tâm Ung thư Memorial Sloan Kettering, Manhattan cho đến năm 1999. Từ năm 2000 đến 2003, ông ta là bác sĩ điều trị ở Trung tâm Y tế Geisinger, bang Pennsylvania.
Cuối năm 2003, Fata nghỉ việc rồi thành lập Bệnh viện Điều trị ung thư và các bệnh lý về máu Michigan (MHO), cơ sở đặt tại Rochester Hill, thành phố Detroit, bang Michigan. 10 năm sau, MHO phát triển thành 7 cơ sở, là chuỗi bệnh viện điều trị ung thư lớn nhất bang. Bên cạnh đó, Fata còn sở hữu 3 phòng thí nghiệm, 20 nhà thuốc và 1 khu điều trị bức xạ, trong đó ông ta mạnh dạn đầu tư nhiều loại thiết bị tối tân, đắt tiền như máy chụp cắt lớp phát xạ positron.
Về điều trị, nhằm trục lợi tối đa tiền bảo hiểm y tế của những bệnh nhân bị Fata kết luận là “ung thư”, ông ta chỉ định khá nhiều những loại thuốc đắt tiền nhưng hoàn toàn không cần thiết, chẳng hạn như thuốc tăng trưởng tạo máu, muối sắt và gamma globulin tiêm tĩnh mạch (IVIG).

Chưa hết, Fata còn nhồi nhét cho người bệnh vô số các loại vitamin và thực phẩm chức năng. Các quyết toán của các đơn vị bảo hiểm như Medicare, Blue Cross, Blue Shield… cho thấy cứ một lần hóa trị, trung bình mỗi đơn vị bảo hiểm phải chi cho mỗi người bệnh là 40.000 USD!

Năm 2007, thủ đoạn gian dối của tiến sĩ Fata suýt nữa thì bại lộ. Một bệnh nhân là bà Maggie Dorsey khởi kiện Fata với lý do “chẩn đoán sai về bệnh ung thư gây thiệt hại nặng nề về sức khỏe sau 7 tháng điều trị bằng hóa chất”. Tuy nhiên, bằng các mối quan hệ của mình, Fata được tòa án thành phố Detroit, bang Michigan đồng ý cho ông ta tiến hành hòa giải.

Rút kinh nghiệm từ vụ việc này, Fata tổ chức lại MHO một cách kín kẽ hơn. Các phòng xét nghiệm được đặt xa nơi điều trị và kỹ thuật viên thực hiện xét nghiệm phải cam kết “không tiết lộ kết quả xét nghiệm cho bất kỳ ai ngoài tiến sĩ Fata theo Luật bảo mật Y khoa”.
Bác sĩ Soe nói: “Bằng cách ấy, các kỹ thuật viên chẳng hề biết rằng các xét nghiệm do họ thực hiện với kết quả bình thường lại được Fata thông báo với bệnh nhân là họ bị… ung thư! Điều tàn ác nhất của Fata là dù biết bệnh nhân không bị bệnh nhưng ông ta vẫn chỉ định truyền hóa chất bởi lẽ cứ mỗi lọ hóa chất do chính chuỗi nhà thuốc của MHO cung cấp, bảo hiểm y tế sẽ thanh toán lại cho ông ta…”.

Việc điều trị của Fata đã dẫn đến nhiều bi kịch. Ông Steinbeck được Fata chẩn đoán là ung thư tuyến giáp rồi được điều trị bằng axit zoledronic kéo dài suốt 3 năm đã khiến xương hàm ông bị hoại tử với một lỗ rò chạy sâu vào xoang hàm khiến răng ông rụng hết. Trong lúc những xét nghiệm thực hiện sau khi Fata bị bắt đã chứng minh ông không hề bị ung thư. Hay như ông Brown, được Fata chẩn đoán là ung thư máu rồi được đa hóa trị liệu trong suốt 1 năm.
Kết quả là đến nay, ông vẫn phải chạy thận nhân tạo vì biến chứng của hóa chất đã khiến ông suy thận mãn, chưa kể còn hàng trăm người khác, người thì tử vong bởi những loại thuốc điều trị căn bệnh mà mình không hề mắc phải, người thì sống dở chết dở do những phản ứng phụ của thuốc gây ra.
 
Tiến sĩ Farid Fata.
Tội ác phải bị trừng phạt
Sau khi thu thập xong những chứng cứ quan trọng, bác sĩ Soe tìm cách đưa vụ việc ra trước ánh sáng công lý. Soe nói: “Tôi liên lạc với George Karadsheh, phụ trách quản lý thực hành của MHO. Kinh hoàng trước những tài liệu mà tôi nêu ra, George Karadsheh hứa sẽ làm tất cả mọi điều có thể”.

Ngày 21-9-2013, tiến sĩ Fata bị Cục Điều tra liên bang (FBI) bắt giữ. Kết quả xác minh cho thấy trong suốt những năm điều hành MHO, có 17.000 bệnh nhân được ông ta kết luận là ung thư nhưng chỉ duy nhất 1 người là có bệnh thật! 553 trong số những người này bị biến chứng do hóa chất dẫn đến không thể tự chăm sóc bản thân. Số còn lại bị tổn hại sức khỏe và tâm lý từ trung bình đến nặng.

Tổng số tiền mà các đơn vị bảo hiểm y tế phải trả cho Fata là 34 triệu USD. Ngoài ra Fata còn nhận 18 triệu USD từ hai công ty bảo hiểm địa phương và một công ty bảo hiểm tư nhân, trả cho các phòng xét nghiệm chẩn đoán của chính ông ta để thực hiện những xét nghiệm không cần thiết.

Trước tòa, Fata bị cáo buộc 23 tội danh, bao gồm gian lận trong chăm sóc sức khỏe, gian lận bảo hiểm, rửa tiền, gây tổn hại nghiêm trọng đến tính mạng người khác, nhập tịch bất hợp pháp... Phía công tố đề nghị tòa tuyên phạt Fata 175 năm tù giam đồng thời thu hồi 9 triệu USD tài sản bất minh và quốc tịch Mỹ của ông ta.

Cũng tại phiên tòa, luật sư của Fata đề nghị bồi thẩm đoàn cho phép ông ta được tại ngoại với số tiền thế chân là 170.000 USD nhưng sau khi xem xét, bồi thẩm đoàn quyết định nâng tiền thế chân lên 9 triệu USD, bằng với giá trị của tài sản bất minh. Tuy nhiên ngay khi thấy Fata bị bắt, vợ ông ta đã nhanh chóng thu gom tiền bạc, nộp đơn ly dị rồi bỏ về Liban nên việc tại ngoại của Fata bất thành.
Ngày 3-7-2015, tòa án bang Michigan tổ chức buổi điều trần trước khi tuyên án. Trong buổi điều trần, hàng trăm nạn nhân của Fata đã kể lại những phương pháp điều trị của ông ta, trong đó có người được Fata hóa trị đến 177 lần nên khi xuất hiện ở tòa, người này vẫn phải đeo trên người hai cái túi đựng phân và nước tiểu.

7 ngày sau, Fata bị tòa kết án 45 năm tù giam không ân xá vì các tội danh nêu trên. Nói lời cuối cùng, Fata bày tỏ sự hối hận sâu sắc vì đã để lòng tham chế ngự: “Tôi đã lạm dụng tài năng của mình vì quyền lực và đồng tiền. Chính những điều đó đã hủy hoại bản thân tôi. Tôi vô cùng ăn năn và xấu hổ. Tôi đã cầu nguyện hàng ngày để những người vì tôi mà tổn hại sức khỏe, tha thứ cho tôi…”
Vũ Cao (Theo Medical Daily)

4. Những điều lạ ở Đại Hàn
Nhắc đến Đại Hàn người ta nghĩ tới một quốc gia hiện đại, đắt đỏ, nhưng tại đây có nhiều điều bất ngờ.
 
Giá đồ ăn và taxi rất rẻ: Du khách ngạc nhiên khi thấy giá đồ ăn và taxi ở Đại Hàn rất rẻ.
Chỉ với 5.000 won (khoảng 5 USD), bạn sẽ mua được một đĩa gà gaiba khổng lồ và nhiều món phụ. Bạn có thể đi bất cứ đâu ở thành phố Jeju chỉ với 5 USD và đi quanh đảo với giá 10 USD.

BM
 
Món gì cũng có kim chi ăn kèm: Hầu hết các nhà hàng đều phục vụ kim chi miễn phí.
Ở Hàn Quốc có nhiều loại kim chi được làm từ nguyên liệu đa dạng và dễ ăn.
Vị chua cay của kim chi rất hợp ăn kèm với hầu hết mọi món ăn xứ kim chi.

BM
Wi-Fi miễn phí có ở khắp nơi: Nếu bạn tới các thành phố lớn của Hàn Quốc,
 bạn sẽ chẳng cần tốn tiền cho 3G. Hầu như chỗ nào cũng có Wi-Fi miễn phí.
Các nhà hàng, siêu thị, thậm chí cả taxi cũng có Wi-Fi.

BM
 
Bạn có thể uống rượu ở bất cứ đâu: Ở quán, cửa hàng, trên tàu, trên xe bus, thậm chí là giữa phố... việc uống rượu nơi công cộng được coi là hợp pháp ở Hàn Quốc. Du khách có thể thường xuyên bắt gặp cảnh những người dân ngủ gục ở vệ đường hay trên tàu sau một đêm nhậu.
Thậm chí rượu còn được bán trong các máy bán hàng tự động.

BM
 
Hàng loạt tòa nhà giống hệt nhau: Ở Busan, du khách có thể thấy nhiều tòa cao ốc giống hệt nhau trên đường chân trời.

BM

Luật kiểm duyệt website: Dù là một nước hiện đại, chính phủ Hàn Quốc vẫn thực hiện việc kiểm duyệt website và chặn một số trang.

BM

Nhóm máu quyết định tính cách: Ý tưởng này xuất phát từ Nhật, sau đó lan tới Đài Loan rồi Hàn Quốc. Tại Hàn Quốc, điều này rất phổ biến, tương tự như cung hoàng đạo ở các nước phương Tây. Hầu như ai cũng biết nhóm máu của mình, họ rất tin vào việc phân loại tính cách theo nhóm máu. Loạt truyện tranh hài hước về các nhóm máu của Hàn Quốc đã trở nên nổi tiếng ở nhiều quốc gia khác.

BM

Người Hàn sợ số 4: Bạn sẽ hiếm thấy số 4 ở Hàn Quốc vì đây là con số có phát âm gần giống từ “chết”. Vì thế, các tòa nhà ở Hàn thường không có tầng 4 hoặc thay vào đó là tầng 3A.

BM

Người đi bộ tuyệt đối tuân hành luật giao thông: Khách bộ hành sẽ không sang đường nếu không có chưa có đèn báo. Dù đường có vắng tới mức nào, họ vẫn kiên nhẫn đợi đèn tín hiệu.

BM

Các quán rượu và hộp đêm mở cửa tới sáng: Nếu bạn thích tiệc tùng thâu đêm, nên tới Hàn Quốc. Ở đây không có luật bắt quán rượu và hộp đêm đóng cửa hay không được bán rượu sau một giờ nhất định. Nhiều nơi mở cửa tới sáng.

BM

Người Hàn Quốc không dùng mực đỏ: Tương tự như số 4, người Hàn Quốc coi mực đỏ tượng trưng cho cái chết. Nếu bạn viết tên ai đó bằng mực đỏ thì có nghĩa là bạn mong người ta chết sớm hoặc, nghĩ là họ sắp chết.

BM

Phẫu thuật thẩm mỹ là chuyện thường và được xã hội chấp nhận:
Dù hiện nay việc phẫu thuật thẩm mỹ đã phổ biến hơn, mọi người vẫn không thích công khai.
Ở Hàn Quốc, ngược lại, chuyện “dao kéo” được chấp nhận như một phần cuộc sống.
Sau khi phẫu thuật, nhiều người được các đồng nghiệp, gia đình và bạn bè khen ngợi, chúc mừng. Hàn Quốc hiện là một trong những địa điểm phẫu thuật thẩm mỹ uy tín và nổi tiếng nhất thế giới.

BM

Người dân rất yêu thích các chiến dịch vận động tranh cử: Trên những đường phố nhộn nhịp của Jeju và Busan, bạn có thể bắt gặp những nhóm người vận động tranh cử cầm biển và phát tờ rơi. Các xe gắn loa phát thông điệp tranh cử qua lại trên phố. Thậm chí các ứng viên còn tới tận quán ăn, trò chuyện với các du khách bằng tiếng Anh.

BM

Nỗi ám ảnh với quạt máy: Nhiều người Hàn Quốc tin rằng bật quạt lúc ngủ có thể khiến bạn tử vong. Họ cho rằng quạt sẽ hút hết oxy trong không khí, khiến nạn nhân ngạt thở và chết trong lúc ngủ.


5. Vợ Chồng (Tango Bui chuyển)

 6. Hai ông bà đi ăn tiệc cưới
(Tango Bui chuyển)
 
Trưa nay đi ăn đám cưới, mình được xếp ngồi cùng mâm với mấy bác già cả nam và nữ mình trẻ nhất mâm.
Người ngồi ngoài cùng rót tuần bia đầu tiên, đến lúc rót vào cốc bác Nam đối diện mình thì bác nữ bên cạnh nhắc:
- Một chút gọi là thôi anh ạ, nhà em không uống được!
Bác Nam phản ứng tức thì:
- Cứ đầy đi, không phải nghe lời bà ấy!
Tất nhiên cốc bia được rót đầy sủi bọt, tất cả cùng chạm cốc và bác Nam làm một hơi hết sạch cốc bia, bác nữ cằn nhằn:
- Đã bảo uống ít thôi lại uống hết cả cốc to thế này, huyết áp lại tăng vùn vụt cho mà xem.
Trước lúc đi đo là bao nhiêu?
Bác nam gạt đi:
- Kệ cái thằng huyết áp đấy, mình đang đi ăn cưới đấy bà!
Rồi bác nam thò đũa gắp miếng đùi gà đầu tiên trên đĩa, bác nữ lấy đũa của mình gõ cái vào đũa bác nam:
- Không ăn đùi, nhiều mỡ, ăn miếng lườn màu trắng kia kìa. Mỡ trong máu ông cao lắm, ông phải kiêng cho tôi chứ.
Bác nam hạ đũa xuống gắp miếng lườn trắng phía dưới vào bát, chuẩn bị cho lên miệng.
Thì bác nữ lại gõ cái đũa vào bát bác nam ý dừng lại rồi thò tay vào bát bác cầm miếng thịt gà về bát mình. Bác nam hỏi:
- Bà làm gì đây?
- Tôi bỏ da ra cho ông, da nhiều mỡ ông không ăn được!
Bác nữ bóc miếng da ra rồi để lại miếng thịt gà vào bát bác nam:
- Đấy, ông ăn đi, ông phải biết bệnh của mình và chỉ ăn như thế thôi.
Rồi bác quay ra cả bàn:
- Ông nhà tôi bị huyết áp cao, tim mạch, tiểu đường, mỡ máu, lúc nào cũng một đống thuốc theo người đấy ạ, bệnh từ miệng mà ra, nhắc ông ấy liên tục phải chú ý khi ăn uống mà ông ấy không nhớ.
- Mệt bà này quá, ăn đi, tôi vừa gắp vào bát đã kịp bỏ da ra đâu mà bà… - bác nam gắt.
Cả bàn cụng ly ăn uống hỉ hả nói cười, bác nữ cạnh mình xoay đầu đũa và bắt đầu gắp tôm vào bát mọi người. Con tôm bắt đầu hướng về phía bác nam, biết ý bác giơ bát ra đỡ con tôm và bảo:
- Cảm ơn bà, bà cứ để đó cho tôi tự nhiên.
Bác nữ vợ ngồi bên cạnh trợn tròn mắt lên:
- Ôi, ông không ăn được tôm, chô-lét-tơ-rông trong tôm cao lắm, ông không được ăn.
- Cái bà này - bác nam gắt - người ta gắp mời mình thì mình phải nhận đã, ăn hay không tính sau.
Mọi người lại ăn uống nói cười, cụng ly, bác nam mới với đũa vào đĩa tim xào cần tây, bác nữ lại thò đũa gõ vào đũa bác nam cái:
- Món này hôm nay họ xào mặn lắm, ông không ăn được, ăn sang cái khác đi.
Bác Nam vứt cạch đôi đũa xuống bàn đứng bật dậy:
- Ông chủ đám cưới đâu rồi? Ông đâu rồi?
Bác quát to nhưng đám cưới đông và ồn nên chỉ mỗi bàn mình nghe được bác quát và ông chủ đám cưới thì ở rất xa nên cũng không nghe được, bác cằn nhằn:
- Sao ông ấy lại xếp bà này ngồi cạnh tôi nhỉ? Bữa nào cũng ngồi ăn cạnh bà ấy rồi, đi ăn cỗ cưới cũng không thoát.
Bác ngồi phịch xuống với tay rót đầy cốc bia, bác nữ giữ chặt cốc bia:
- Ông không được uống, ông phải kiêng!
- Bà bỏ tay ra - bác nam gắt. - Bà để nguyên cho tôi ăn uống nếu không tôi đi sang bàn khác ăn đấy, tôi không ngồi đây nữa đâu.
Bác nữ rên rỉ:
- Bệnh đầy người ra, tôi lo là lo cho ông đấy, ông cứ ăn cho sướng mồm sướng miệng ông rồi nằm một chỗ thì cũng thân này hầu chứ ai! - quay ra cả bàn phân bua - đấy các bác xem, ông ấy biết bệnh của mình nếu có ý thức trong ăn uống thì tôi không phải nhắc thế đâu.
Rồi bác nữ quay sang bác nam dằn giọng:
- Ông không được uống cốc bia này nữa, lúc nãy ông uống cả cốc kia là quá tiêu chuẩn ngày hôm nay rồi.
Bác nam nhìn cả bàn:
- Xin lỗi các bác đã làm các bác mất vui, có lẽ tôi không nên ở đây nữa làm ảnh hưởng đến các bác quá, tôi rất ngại. Các bác cứ tự nhiên nhé, tôi xin phép ra ngoài. Rất xin lỗi các bác, lượng
thứ nhé!
Nói rồi bác nam đứng dậy, bác nữ kéo tay bác nam:
- Ơ, ông đi đâu đấy?
Bác nam hất tay bác nữ ra:
- Đi về chứ đi đâu, ngồi mà không được ăn không được uống thì ngồi làm gì!
Bác nữ thấy vậy cũng đành chào mọi người rồi đứng lên đi theo bác nam, cả mâm im một lúc rồi một bác bảo:
- Kinh nghiệm xương máu các ông nhé, đi ăn cỗ là không được cho vợ đi cùng.
- Mà nếu cho vợ đi cùng thì nhất quyết không được ngồi cùng mâm - bác nam khác đế luôn.
Cả mâm lại cụng ly ăn uống hỉ hả.
 
7. Gã Tiều Phu và Ông Thần

Có 1 người tiều phu trên đường về làm rơi một cái búa bằng sắt xuống sông.
Ðang ngồi than khóc thì có một vị thần hiện ra .
Vị thần thương tình nên lặn xuống vớt lên một cây búa bằng vàng, người tiều phu nói không phải.
Lần thứ hai, vị thần lặn xuống vớt lên cây búa bằng bạc, người tiều phu nói không phải.
Lần thứ ba, vị thần lặn xuống vớt lên cây búa bằng sắt, người tiều phu nói đúng là cây búa của mình.
Vị thần thấy người tiều phu trung thực, bèn tặng cả ba cây búa cho người tiều phu!.

Một hôm nọ, người tiều phu cùng vợ đang đi cạnh bờ sông.
Người vợ vô ý trật chân rơi xuống sông.
Người tiều phu đang ngồi than khóc thì vị thần hiện ra và lặn xuống vớt lên một cô người mẫu xinh đẹp, người tiều phu nói đúng là vợ của mình.

Vị thần tức giận, hỏi:
 "Sao nhà ngươi dám dối gạt ta?"
Người tiều phu sợ hải quì xuống nói:
"Lạy thần! Con không dám dối gạt thần, nhưng nếu con nói không phải, thì thần lặn xuống 3 lần đem lên 3 người, rồi thần tặng cả 3 người cho con thì ... chắc con chết sớm vì ...chịu đời... hổng nổi... thần ơi !!!"
(Sưu tầm...bậy...)


8. Chuyện Người Vợ Tuổi Dần - PNT 
(fb Tango Bui chuyển)

Tác giả là một nhà giáo từng có hơn 30 năm dạy học tại Việt Nam. Đến Mỹ theo diện ODP, hiện tiếp tục nghề cũ tại một trung tâm dạy kèm tại miền Nam Cali. Bài viết mới của ông lần này là một tự truyện về tình yêu và gia đình, với lời ghi như sau: “Để tặng chú Thành của tôi. Riêng tặng cọp mẹ và cọp con của anh. Và tất cả những ai tuổi Dần.”
* * *
 
Trước khi vào chuyện, chú cháu tôi xin lỗi với quý vị nữ lưu tuổi Dần, vì chúng tôi không có “định kiến” gì với quý vị cả. Đây chỉ là câu chuyện phiếm khi chú cháu tôi ngồi nhắc lại vài câu chuyện ngày xưa. Tôi chỉ xin kể lại nguyên văn những gì cháu tôi đã kể cho tôi nghe về chuyện gia đình nó.


“Chú bảo cháu nói về chuyện vợ chồng cháu, và cuộc sống của tụi cháu từ hồi lấy nhau đến giờ. Cháu sẽ kể cho chú nghe, nhưng sợ chú cho là chuyện tầm phào, chẳng có gì hay ho cả! Khi nào chú thấy chán thì nói, cháu sẽ ngưng kể nghe chú?

Như chú biết đó, cháu là con trai duy nhất trong nhà, nên khi vừa học xong, ra trường, chọn nhiệm sở, là ba má cháu đã hối thúc cháu lấy vợ ngay. “Để ba má sớm có cháu nội bồng ẳm cho vui, và đi khoe với người ta!” Cháu cũng định thú thật với ông bà là cháu cũng đã có quen với một cô bạn cùng trường, học dưới cháu hai lớp. Nhưng chỉ sợ ông bà nghe xong thì cũng “thất kinh hồn vía” như mấy thằng bạn thân của cháu khi cháu giới thiệu cô bạn với chúng nó.

“Chèn đét ơi ! Mi có uống lộn thuốc không dzậy hả thằng ôn con? Mi dzòm lại thân hình mi đi. Người ngợm cao chưa tới 1m 60, nặng chưa tới 45 kg, ốm nhom ốm nhách như thằng cao bồi Lucky Lucke trong mấy cuốn truyện bằng tranh mà dám cua nhỏ đó? Và mi lại còn tính lấy nó dzìa làm dzợ nữa? Nó sắp sửa thi lên đai đen Thái cực đạo đó nghe chưa thằng ôn con? Và nghe đâu nó lại còn là tuổi Dần nữa. Tụi tau thật hết ý !”

Thú thật với chú, hồi đó nếu tụi nó đừng có “lên án” cô nàng dữ dội như vậy thì chắc cháu cũng không tìm hiểu cô nàng kỹ như vậy đâu. Tính cháu, như chú biết đó, chuyện gì cháu làm mà có người ngăn cản thì thế nào cháu cũng phải quyết tâm làm cho được. Để chứng tỏ là mình đúng. Và thiên hạ sai. Đó cũng là một thứ gene di truyền của dòng họ mình phải không chú Một dòng họ “hình như” chỉ sản sinh toàn là những “enfants révoltés” !

Cháu lân la theo cô nàng mỗi cuối tuần khi nàng đến võ đường tập luyện như một đệ tử theo chân sư phụ (ủa quên, theo chân sư mẫu) đi phó hội. Hôm nàng thi lên đai đen, có lẽ cháu là người la hét lớn nhất trong võ đường để ủng hộ nàng mỗi khi nàng thắng được 1 điểm. Sau đó cháu mời nàng đi ăn một chầu mì gõ, và sau đó nữa là một chầu đâụ đỏ bánh lọt. “Để em lấy lại sức sau cuộc thi đấu!” Nàng thỏ thẻ cất giọng Nam Kỳ hỏi tôi: “Hình như đám bạn bè cùng lớp nói xấu em với anh ghê lắm phải không? Nào là em hung dữ như cọp cái (vì em tuổi Dần), và em lại có đai đen nữa. Tại sao anh lại không sợ mà còn theo em hoài dzậy?” Cháu ngồi thộn ra, sau đó mới chợt nhớ một câu tiếng Tây, nghe thì hơi cải lương, nhưng nếu tuôn ra bây giờ ở hoàn cảnh nầy thì thật là “hết ý”. Cháu nín thở nói liền một hơi không nghĩ: “Le coeur a ses raisons…” Cô nàng lườm cháu bằng một cái lườm… mà theo cháu thấy lúc đó…ôi sao mà nó đẹp đến như vậy “Anh tán gái cũng ghê lắm đó!”

Vậy mà đến khi cháu đề nghị đưa nàng vế nhà thăm và chào ba má cháu, nàng le lưỡi rút cổ lại: “Chèn ơi, làm gì mà lẹ quá dzậy, mình mới quen chưa tới hai năm mà! Đợi em ra trường đã được không?” Nhưng rồi sau đó cháu cũng rủ rê được nàng về “ra mắt” ba má cháu. Và sau đó là buổi họp gia đình. Hôm đó cũng có mặt chú nữa, vì chú là người em duy nhất cuả ba cháu, chú nhớ không?

“Ba má thấy nhỏ Mai cũng dễ thương, ăn nói lễ phép, khuôn mặt thông minh phúc hậu. Nó cũng có vẻ thương con lắm. Vậy gia đình nó như thế nào để có gì ba má đến thăm một bữa. À quên, con có biết nó bao nhiêu tuổi không?” Đến đây tôi chợt nhớ đến mấy câu nói của đám bạn bè, nhưng cũng liều mạng khai thật tuổi cuả cô nàng: “Dạ Mai tuổi Dần, thưa ba má”

Sau câu trả lời cuả cháu là một sự im lặng đến ngột thở. Chú là người đầu tiên lên tiếng phá tan sự yên lặng đó “Em cũng thấy Mai và thằng Ngọc nhà mình rất yêu nhau. Nó lại hiền từ, biết chiều chuông thằng Ngọc. Và theo em, có nghiên cứu chút xíu về tử vi, em thấy tuổi của Mai là tuổi “vượng phu ích tử” đó anh chị ạ. Em biết anh chị ngại khi nghe nó tuổi Dần. Nhưng không phải tuổi Dần nào cũng hung dữ và có số “sát phu” đâu! Tuổi nó và thằng Ngọc không khắc nhau đâu. Trái lại là đàng khác. “Vượng phu ích tử” của Mai sẽ rất tốt cho cung Quan, cung Lộc và cung Di của thằng Ngọc đấy! Hai tuổi nầy kết hợp với nhau sẽ sinh quý tử đó anh chị à.

Cháu thấy ba cháu gật đầu nhẹ, rồi quay sang nhìn má cháu. Đến bây giờ cháu mới hỏi thật chú: “Chú có biết Tử Vi không vậy? “Tôi cười khà khà trả lời: “Thì cũng biết sơ sơ. Nhưng lúc đó không hiểu tại sao chú lại thông minh nghĩ ra ngay cái tuyệt chiêu đó để làm xiêu lòng ông anh bà chị mình như vậy? Có lẽ chú thấy cái im lặng nặng nề của ba má cháu khi cháu khai Mai tuổi Dần ! “

Sau đó 2 gia đình đi lại thăm viếng nhau, và đồng ý đợi cô tuổi Dần của cháu ra trường rồi mới tổ chức đám cưới. Rồi cũng như mọi người, vợ chồng tụi cháu đổi đi làm ở hai tỉnh khác nhau, tuy không xa Sài gòn bao nhiêu nhưng cũng phải cuối tuần mới về nhà cha mẹ gặp nhau được. Vài năm sau cháu và Mai xin đổi về gần nhà, mua được căn nhà nhỏ của chính phủ bán cho công chức với giá rẻ. Đi làm cũng dành dụm được ít nhiều, tụi cháu sửa sang lại căn nhà cho tươm tất hơn để chuẩn bị cho đứa con đầu lòng sắp ra đời. Và đúng năm Dần, Mai sinh được một thằng con trai. Bây giờ ba má cháu đi đâu cũng khoe thằng cháu đích tôn tuổi Dần. “Cháu ẩn tuổi mẹ nó đấy, tốt lắm!”. Hai vợ chồng cháu lại tiếp tục “sớm vác ô đi tối vác ô ve” của đời công chức, tuy không bằng ai nhưng cũng rất hạnh phúc và sống tạm đủ.

Cuộc đời tưởng cứ thế bình an trôi qua cho đến ngày tụi cháu về hưu. Ai dè nửa chừng chúng ta bị “đứt phim”, và cũng như tất cả mọi người, chúng ta tất cả đều từ ông xuống thành thằng ráo trọi ! Cũng còn may là tụi cháu chỉ là những công chức quèn nên không bị đi tù, nhưng sau vài tháng được chúng cho lưu dụng để truyền tay nghề cho mấy tên từ ngoài Bắc vào, tụi cháu cùng nhiều đồng nghiệp khác bị gọi lên cho nghỉ việc. Và không đưọc lãnh một đồng trợ cấp nào !

Đến đây cháu mới thấy phục “ tài bói toán Tử Vi” của chú. Từ lúc quen nhau cho đến lúc thành vợ chồng, cháu chưa bao giờ thấy Mai biết buôn bán cả. Vậy mà sau khi bị nghỉ việc, không biết Mai đã xoay sở như thế nào mà sang được một quày nhỏ trong khu chợ ở gần nhà. Lúc đầu cháu được Mai hướng dẫn chạy hàng- ôi thôi hầm bà làng, đủ các loại- “về để cho có hàng bán với người ta, rồi tính tiếp” Mai giải thích. “Cửa tiệm tạp hoá hầm bà làng đủ thứ” của tụi cháu ngày càng thấy phát triển kha khá, đủ để lo tiền chợ búa cho cả gia đình ba má Mai và ba má cháu. Tối tối về đến nhà là cả hai vợ chồng mới có dịp trổ tài tính toán sổ sách chi tiêu. “Đây cũng là cách chúng ta ôn lại những gì đã học ở trường ngày xưa. Không thôi môn kế toán của anh và em sẽ hao mòn đi đó!”

Rồi ba má của cả hai bên, không hiểu nghe được ở đâu, về nói chúng cháu gom tiền bạc lại để vợ chồng cháu và thằng con vượt biên. “Ba má sẽ phụ tụi con chút đỉnh nếu thiếu”. Trong lúc cháu còn chần chừ vì chữ hiếu, không nỡ để ba má của cả hai đứa ở lại, thì cô vợ tuổi Dân của cháu quyết định thật nhanh: “Ba má nói đúng. Ở đây sẽ chết chùm cả đám. Tụi con sẽ đi rỉ tai với bạn hàng quen là vì buôn bán ế ẩm nên đành phải bán căn nhà nhỏ của tụi con để về ở chung nhà ba má, dành tiền đôn vốn lên làm ăn.”

Chuyên bán nhà cũng rất may mắn là có ngưới mua ngay, vì nhà ở ngay gần chợ cũng dễ làm ăn. Mai và cháu gửi sạp nhờ ba má Mai trông hộ, còn ba má cháu thì giữ dùm thằng nhỏ. Và đánh tiếng với bạn hàng và láng giềng là phải chạy hàng xa, tận ngoài Huế. Thật ra là tụi cháu lo “tìm đường cứu nước”! Đến lúc nầy cháu mới thấy phục Mai sát đất luôn. Nghe chỗ nào có tuy ô đi là Mai lân la đến làm quen. Cả chục mối như vậy thì sau cùng Mai mới tìm được một chỗ đáng tin cậy. Đưa trước một nửa, rồi khi đến nơi sẽ đưa tiếp cho chủ tàu. Và đặc biệt hơn là họ cho thằng con của tụi cháu đi miễn phí! Đúng là cọp con ẩn tuổi cọp mẹ có khác!

Chuyến đi nhờ Trời Phật và ông bà phù hộ nên không có chuyện gì xảy ra. Mấy tháng sau gia đình tụi cháu đươc qua Mỹ. Và cũng như những người tị nạn khác, cháu và Mai lao đầu vào đủ mọi thứ công việc- cháu làm Janitor trong trường học, Mai làm assembler trong một hãng điện tử. Thằng Minh đi học bằng xe buýt ở một ngôi trường gần nhà. Lúc đầu tiếng Anh tiếng U cũng quờ quạng lắm, và bị bạn bè cười vì không nghe được và không nói được tiếng Anh nên nó tức mình, quyết chí học.

Về nhà là đóng cửa phòng học một mình cho đến lúc tụi cháu gọi ra ăn cơm. Chỉ một năm sau, cháu lên lớp trên và bỏ hẳn chương trình của các học sinh yếu môn Anh Văn để vào thẳng chương trình Anh Văn chính của học sinh Mỹ. Tóan và các môn khác đều xuất sắc. Thằng Minh tốt nghiệp Trung Học với số điểm khá cao, nôp đơn vào 4, 5 trường Đại Học và tất cả đều gọi nó đi interview. Tụi cháu để nó tự chọn ngành học và môn học, không bắt buộc gì cả. Sau cùng nó chọn học Pharmacy ở USC sau khi tốt nghệp BS về Bio Chem tại UCI.

Bây giờ tụi cháu còn vài năm nữa là về hưu. Cháu hồi đó vừa làm Janitor vừa đi học, lấy được cái BA về Business Administration, và xin làm lại ở trường đó luôn. Bà Hiệu Trưởng sau khi interview cháu hỏi: “Ông đủ qualified cho công việc rồi, nhưng trước đây ông làm Janitor, bây giờ lên văn phòng làm Kế Toán, ông có ngại không? Ông có sợ học sinh sẽ nhìn ông như thế nào không?” Cháu trả lời: “Chỉ sợ nhà trường không nhận tôi làm kế toán thôi. Chứ với tôi không có công việc nào là tầm thường cả. Làm Janitor hay làm kế toán cũng là làm những công việc lương thiện để kiếm sống nuôi gia đình vợ con. Tôi phải rất cám ơn Bà Hiệu Trưởng trước đây đã nhận tôi làm Janitor để cho tôi có phương tiện học thêm. Bây giờ tôi ở lại làm kế toán văn phòng cho trường nầy là hợp lý quá rồi phải không thưa bà?”

Còn Mai thì sau đó cũng đi học lại và bây giờ làm ở một phòng Lab xét nghiệm máu ở gần nhà. Cô nàng còn định đi thi lấy bằng Pharm Tech để sau nầy phụ với cọp con ở Pharmacy!

Đó là câu chuyện của gia đình cháu từ khi xa chú và ba má đến bây giờ. Mộng ước của tụi cháu đã hoàn thành khi bảo lãnh cả ba má của Mai và ba má cháu sang đây. Rồi con chú cũng đưa chú qua Mỹ nữa để đai gia đình chúng ta đoàn tụ vui vẻ.

Và cũng để chú tiếp tục nghiên cứu Tử Vi để bói cho tụi cháu phần hậu vận như thế nào! Tiền vận thì chú đã xem đúng cho cháu vụ cọp mẹ và cọp con rồi đó! Ba Má tụi cháu cứ nhắc đến chú và phục chú quá xá trời về vụ tuổi Dần nầy! Cháu sẽ viết bài gửi đăng báo để quảng cáo cho chú đấy! Chú hãy đợi thân chủ đến xem Tử Vi nhé!

PNT

 
9. QUẢ MƯỚP NHÀ ÔNG! 
(fb Tango Bui chuyển)
fb Nguyễn Dũng
Ông ơi đo nó làm gì?
Bây giờ nó vậy là vì do ai.!?
Ông đừng chê nó là dài.!
Cũng đừng đổ tại do hai con dùng.
Cho dù chúng nó có chung
Cũng hai tư tháng được dùng mà thôi.
Còn ông dùng cả cuộc đời
Dùng như húc mả, giờ ngồi mà đo.
Ngày xưa ông muốn nó to
Nó căng nó mọng ông vò đẫy tay
Lên giuờng ông mó nó ngay
Hết xoa đến nắn lại nhay đẫy mồm.
Từ đêm đến sáng ông ôm
Bao năm như thế hỏi còn được không
Lỗi này là lỗi ở ông
Đo làm chi nữa buồn lòng cả hai.!


10. MỘT BỮA ĂN TỐI TUYỆT VỜI!
(fb Tango Bui chuyển)         
Sau 21 năm chung sống, một ngày, tự nhiên vợ của Peter nói với ông: “Anh hãy mời một phụ nữ khác đi ăn tối, xem phim. Em yêu anh, nhưng em biết người đó cũng yêu thương anh và muốn dành thời gian ở bên cạnh anh”. Peter thật bất ngờ khi nghe vợ khuyên, nhưng khi vợ “bật mí” người ấy chính là mẹ ruột của ông thì Peter vui vẻ điện thoại ngay.

Mẹ của Peter góa bụa đã 19 năm và sống một mình. Peter bận rộn công việc, con cái nên rất ít gặp mẹ. Nhận được điện thoại mời ăn tối của Peter, người mẹ ngạc nhiên: “Có chuyện gì không ổn hả con? Con khỏe không?”. Peter trấn an mẹ: “Mọi chuyện vẫn tốt, đơn giản là con muốn hai mẹ con mình ăn tối với nhau”.

Cuối tuần đó, Peter lái xe đến đón mẹ. Khi Peter vừa đến cửa, mẹ đã đứng đợi. Bà mặc lại bộ váy áo trang trọng của dịp kỷ niệm ngày cưới lần cuối cùng. Bà không quên uốn tóc và trang điểm nhẹ. Bà cười rạng rỡ: “Mẹ khoe với bạn là con mời đi ăn tối, các bà ấy rất ấn tượng về điều này”. Người mẹ vô cùng tự hào.

khi khoác tay con trai bước vào một nhà hàng ấm cúng và nổi tiếng với thức ăn ngon.

Lúc Peter xem thực đơn, bà lại mỉm cười: “Nhìn cảnh này, mẹ nhớ lúc con còn bé, mẹ toàn xem thực đơn để chọn món ăn phù hợp với con”. Peter trìu mến: “Bây giờ con sẽ làm thay mẹ”. Họ say sưa trò chuyện suốt bữa tối. Khi Peter tiễn mẹ về đến nhà, người mẹ nói: “Lần sau chúng ta lại ăn tối với nhau nhé, nhưng hãy để mẹ mời con”.

Chưa đầy một tuần sau, mẹ của Peter qua đời vì một cơn đau tim. Ít lâu sau, Peter nhận được một phong bì, trong đó có bản sao một hóa đơn trả trước ở chính nhà hàng mà Peter và mẹ mới đến ăn tối. Kèm với hóa đơn là lời nhắn của mẹ: “Con trai thân mến. Mẹ đã trả tiền trước cho hóa đơn này. Mẹ không chắc có thể cùng con trở lại đây lần nữa, nhưng mẹ vẫn trả tiền cho hai phần ăn - dành cho con và con dâu của mẹ. Chắc con không biết rằng bữa tối hôm ấy có ý nghĩa thế nào với mẹ. Thương con nhiều”.



11. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA THỨC ĂN VIỆT VÀ TÀU
Giáo sư Trần Văn Khê (Tango Bui chuyển)
 
Thật ra, tôi rất ngại khi cầm viết ghi lại những câu hỏi đã trả lời cho những bạn bè người nước ngoài khi họ hỏi tôi: Người Việt Nam ăn uống thế nào? Hay là cách nấu ăn của người Việt có khác người Trung Quốc hay chăng?
Vì đó chỉ là những phần nhận xét đã được nhanh chóng đúc kết để đưa ra những câu giải đáp kịp thời chớ không phải do một sự sưu tầm có tính cách khoa học. Trong câu chuyện, một vài bạn trong báo Tuổi Trẻ thấy nhận xét sơ bộ của tôi có phần nào lý thú, nghe vui tai, nên nhờ tôi ghi ra thành văn bản. Nể lời các bạn, tôi xin gởi đến các bạn đọc vài mẩu chuyện có thật về cách ăn và nấu ăn của người Việt chúng ta, và xin các tay nghề nấu ăn trong nước đừng cười tôi dốt hay nói chữ, dám múa búa trước cửa Lỗ Ban, đánh trống trước cửa nhà Sấm.
Trong một buổi tiệc, một anh bạn Pháp hỏi tôi: “Chẳng biết người Pháp và người Việt Nam ăn uống khác nhau như thế nào?” Tôi rất ngại so sánh… tôi trả lời… vì so sánh là biết rõ rành mạch cả hai yếu tố để so sánh. Thỉnh thoảng, tôi có ăn uống theo người Pháp nhưng làm sao biết cách ăn của người Pháp bằng người Pháp chính cống như anh. Tôi thì có thể nói qua cách ăn uống của người Việt chúng tôi. Để cho anh dễ nhớ, tôi chỉ đưa ra ba cách nấu ăn của người Việt, rồi anh xem người Pháp có ăn như vậy chăng?
☆ Người Việt chúng tôi ăn toàn diện, ăn khoa học, ăn dân chủ.
1. Ăn toàn diện:
Chúng tôi không chỉ ăn bằng miệng, nếm bằng lưỡi, mà bằng ngũ quan.
Trước hết ăn bằng con mắt, và do đó có nhiều món đem dọn lên, nhiều màu sắc chen nhau như món gỏi sứa của chúng tôi chẳng hạn: Có giá màu trắng, các loại rau thơm màu xanh, ớt màu đỏ, tép màu hồng, thịt luộc và sứa màu sữa đục, đậu phộng rang màu vàng nâu, v.v… Có khi lại tạo ra hình con rồng, con phụng, trong những món ăn nấu đãi đám hỏi, đám cưới.
Sau khi nhìn cái đẹp của món ăn, chúng tôi thưởng thức bằng mũi, mùi thơm của các loại rau thơm như húng quế, ngò, hoặc các mùi đặc biệt của nước mắm, của cà cuống.
Răng và nướu đụng chạm với cái mềm của bún, cái dai của thịt luộc và sứa, cái giòn của đậu phộng rang để cho xúc cảm tham gia vào việc thưởng thức món ăn sau thị giác và khứu giác.
Rồi lỗ tai nghe tiếng lốc cốc của đậu phộng rang, hay tiếng rào rào của bánh phồng tôm, hay tiếng bánh tráng nướng nghe rôm rốp. Sau cùng lưỡi mới nếm những vị khác nhau, hòa hợp trong món ăn: lạt, chua, mặn, ngọt, chát, the, cay, v.v…
Chúng tôi ăn uống bằng năm giác quan, về cái ăn như thế gọi là ăn toàn diện.
2. Ăn khoa học:
Hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu, nhất là ở Nhật Bổn thường hay sắp các thức ăn theo “âm” và “dương”. Nói một cách tổng quát thì những món nào mặn thuộc về dương, còn chua và ngọt thuộc về âm.
Người Việt thường trộn mặn với ngọt làm nước mắm, kho thịt, kho cá, rang tép, ướp thịt nướng, luôn luôn có pha một chút đường; mà ăn ngọt quá như chè, ăn dưa hấu hay uống nước dừa xiêm thì cho một chút muối cho âm dương tương xứng.
Người Tây khi ăn bưởi thật chua lại cho thêm đường, đã âm lại thêm âm thì âm thịnh dương suy, không đúng theo khoa học ăn uống.
Người Việt phần đông không nghiên cứu về thức ăn, nhưng theo truyền thống của cha ông để lại thành ra ăn uống rất khoa học.
Người Việt chẳng những để ý đến quân bình âm dương giữa các thức ăn mà còn để ý đến quân bình âm dương giữa người ăn và thức ăn. Khi có người bị cảm, người nấu cháo hỏi: Cảm lạnh (bị mắc mưa, đêm ra ngoài bị cảm sương) thì nấu cháo gừng vì cảm lạnh (âm) vào người phải đem gừng (dương) vào chế ngự. Nếu cảm nắng (bị mặt trời làm cho sốt) thì dương đã vào người phải nấu cháo hành (âm).
Lại nghĩ đến âm dương giữa người ăn và môi trường; mùa hè thời tiết có dương nhiều nên khi ăn có canh chua (âm) hoặc hải sâm (âm); mùa Đông thời tiết có âm nhiều nên ăn thịt nướng. Ta có câu: Mùa Hè ăn cá sông, mùa Đông ăn cá biển.
Quân bình trong âm dương còn thể hiện qua điếu thuốc lào. Thuốc lá phơi và đóm lửa (dương) hít một hơi cho khói qua nước lã trong bình (âm) để hơi khói thuốc vào cơ thể, nguồn hút có cả dương và âm, không kể nước đã lọc bớt chất nicotine có hại cho buồng phổi.
Chẳng những cân đối về âm dương mà còn hàn nhiệt nữa: Thịt vịt hay thịt cá trê (hàn) thì chấm với nước mắm gừng (nhiệt). Cách ăn của người Việt Nam khoa học, vì phù hợp với nguyên tắc âm dương tương xứng hàn nhiệt điều hòa. Ngoài ra, trong một món ăn thường đã có chất bột, chất thịt, chất rau làm cho sự tiêu hóa được dễ dàng.
3. Ăn dân chủ:
Trên bàn dọn bao nhiêu thức ăn, nhưng chúng tôi có thể ăn những món chúng tôi thích, hoặc phù hợp với vấn đề bảo vệ sức khỏe của chúng tôi. Ăn ít hay ăn nhiều thì tùy theo sức chứa bao tử của chúng tôi, chớ không phải ăn những món không ăn được, hay là ăn không nổi. Như vậy, cách của người Việt Nam rất dân chủ.
Anh bạn người Pháp thích chí cười to: “Ăn toàn diện, chúng tôi chưa nghĩ đến là về thính giác, ăn mà nghe tiếng động là vô phép nên ăn bớt ngon. Ăn khoa học, thì chúng tôi chỉ nghĩ đến calori mà không biết âm dương và hàn nhiệt. Còn ăn dân chủ, thì hoàn toàn thiếu sót, vì đến nhà chúng tôi có một thực đơn mà mỗi người một đĩa, ăn không hết sợ vô phép nên nhiều khi không ngon lắm hoặc quá no cũng phải cố gắng ăn cho hết. Tôi xin hoàn toàn hoan nghinh cách ăn của người Việt Nam.”
☆ Về cách ăn uống Việt Nam lại có thêm:
1. Ăn cộng đồng:
Thức ăn đầy bàn mà có một nồi cơm, một tô nước mắm để mọi người cùng xới cơm và chan nước mắm ở một nơi.
2. Ăn lễ phép:
Con lớn lên đã theo học ăn, học nói, học gói, học mở. Học ăn là trước nhứt, khi ăn phải coi nồi, ngồi coi hướng.
3. Ăn tế nhị:
Ăn ớt từ cách cắn trái ớt, có khi phải ăn ớt xắt từng khoanh, ớt bằm, ớt làm tương. Nước chấm, nhứt là ở miền Trung rất tinh tế, ăn món chi phải có nước chấm đặc biệt món nớ: bánh bèo, bánh lá, bánh khoái đều có nước chấm khác.
4. Ăn đa vị:
Một miếng nem nướng đã có vị thịt, riềng, muối, tỏi, hành cuốn vào bánh tráng lạt lạt, có chút bún, rau thơm, ớt (cay), chuối sống (chát), khế (chua), tương (ngọt, mặn, cay) có pha hột điều hay đậu phộng xay (béo). Ăn có năm vị chánh: Ngọt, mặn, chua, cay, béo; có cả ngũ sắc đen (tương), đỏ (ớt), xanh (rau), vàng (khế chín), trắng (bánh tráng, bún). Ăn một miếng mà thấy 5 màu, lưỡi nếm 5 vị và có khi hơn thế nữa.
Một lần khác, một anh bạn của tôi khai trương một tiệm ăn lớn tại Paris. Anh có mời đài phát thanh và báo chí đến để cho biết rằng tiệm của anh có cả thức ăn Trung Quốc và Việt Nam.
Các phóng viên muốn biết Việt Nam và Trung Quốc nấu ăn có khác nhau như thế nào. Hai đầu bếp Việt Nam và Trung Quốc được mời ra để báo chí hỏi thì hai người đều khẳng định là cách nấu ăn rất khác, nhưng phải xuống bếp coi mới thấy.
Nhà bếp nhỏ không chứa được mấy chục phóng viên, và ai cũng ngại hôi dầu hôi mỡ, nên ông chủ tiệm nhờ tôi tìm câu trả lời cho các nhà báo. Tuy không phải là một chuyên gia về nghệ thuật nấu bếp, nhưng tôi cũng phải tìm câu trả lời thế nào để cho các nhà báo bằng lòng. Tôi mới nói rằng, tôi không đi vào chi tiết, nhưng chỉ đưa ra ba điểm khác nhau trong cơ bản.
1. Người Việt Nam thường dùng bột gạo, trong khi người Trung Quốc thích dùng bột mì. Cho nên, Việt Nam có phở, hủ tiếu, bún thang, bún bò, bún riêu; mà người Trung Quốc thì chuyên về mì nước, mì khô, mì sợi nhỏ, mì sợi lớn, mì vịt tiềm. Người Việt làm bánh đùm, bánh xếp, bánh cuốn, bánh hỏi; người Trung Quốc thì bánh bao. Chả giò người Việt Nam cuốn bằng bánh tráng bột gạo; còn người Trung Quốc thì cuốn tép trong bánh bằng bột mì.
2. Nước chấm cơ bản của người Việt nam là nước mắm làm bằng cá; còn nước chấm của người Trung Quốc là xì dầu làm bằng đậu nành.
3. Người Việt thì thường pha mặn ngọt; người Trung Quốc thích chua ngọt.
Chỉ nói đại khái như vậy mà các phóng viên đã hài lòng; về viết bài tường thuật nêu lên những điểm khác nhau ấy. Ông Giám Đốc Tạp Chí Đông Nam Á, sau lời nhận xét đó, cho phóng viên đến phỏng vấn tôi thêm và hỏi tôi có biết yếu tố nào khác đáng kể khi nói về cách nấu ăn của người Việt khác người Trung Quốc ở chỗ nào. Tôi trả lời cho phóng viên trong 40 phút.
Hôm nay tôi chỉ tóm tắt cho các bạn những điểm chính sau đây:
1. Về rau: Người Việt tuy có ăn rau luộc, hay xào; nhưng thích ăn rau sống, rau thơm, mà người Trung Quốc không ưa ăn rau sống, cải sống, giá sống.
2. Về cá: Người Trung Quốc biết kho, chưng, chiên như người Việt Nam. Nhưng người Trung Quốc không làm mắm như người Việt. Có rất nhiều cách làm mắm và ăn mắm: Mắm thái, mắm nêm, mắm ruốc, mắm tôm, v.v… Các nước Đông Nam Á cũng có làm mắm nhưng không có nước nào biết làm nhiều loại mắm như người Việt.
3. Về thịt: Người Trung Quốc biết quay, kho, luộc xào, hầm như người Việt, mà không biết làm nem, bì và các loại chả như chả lụa, chả quế, v.v…
4. Người Trung Quốc ít có phối hợp nhiều vị trong một món ăn như người Việt. Khi chúng ta ăn một món ăn như nem nướng thì có biết bao nhiêu vị: Lạt lạt của bánh tráng, bún; mát mát ngọt ngọt của dưa leo, và đặc biệt của giá sống trộn với khế chua, chuối chát, ớt cay, đậu phộng cà bùi bùi, có tương mặn và ngọt. Người Việt trong nghệ thuật nấu ăn rất thích lối đa vị và tất cả các vị ấy bổ sung cho nhau, tạo ra một vị tổng hợp rất phong phú.
Cái ăn chiếm phần khá quan trọng trong đời sống của chúng ta. Khi dạy dỗ một trẻ em thì phải cho nó học ăn, học nói, học gói, học mở để biết ăn, nói với người ta.
Ra đường phải biết “ăn bận” hay “ăn mặc” cho phải cách phải thế. Đối với mọi người, không nên “ăn thua” làm chi cho bận lòng.
Làm việc gì phải cẩn thận “ăn cây nào, rào cây nấy”.
Trong việc tiêu tiền phải biết “liệu cơm, gắp mắm” và dẫu cho nghèo đi nữa “khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”.
Không nên ham ăn quá độ vì “no mất ngon, giận mất khôn”.
Ra làm ăn phải quyết tâm đừng “cà lơ xích xụi” chạy theo “ăn cò” người khác. Phải biết “ăn chịu” với người làm việc nghiêm túc thì công việc khỏi bị “ăn trớt”.
Không nên “ăn gian, ăn lận” hay bỏ lỡ cơ hội thì “ăn năn” cũng muộn.
Trong cuộc sống nên tìm việc làm hữu ích cho gia đình, cho xã hội, cho đất nước đừng để mang tiếng “ăn hại” “ăn bám” người khác.
Khi đàn chơi phải biết lên dây đàn cho “ăn” với giọng ca, hòa đàn cũng phải “ăn” với nhau, “ăn ý”, “ăn rơ” thì mới hay.
Các bạn thấy chăng? Cái “ăn” cũng khá quan trọng nên mới lọt vào một số từ ngữ của tiếng nói Việt Nam. Tuy chúng ta không như người Trung Quốc “dĩ thực vi tiên”, nhưng phải có ăn mới làm nên việc, vì “có thực mới vực được đạo.”
 
12. Kỷ Vật Từ Biệt - Pierre Bellemare
Đào Duy Hòa Phỏng Dịch - 
(Phỏng dịch từ nguyên tác “Souvenir d’adieu”) 
(Tango Bui chuyển)  
Linn Anderson, hai mươi lăm tuổi, trông duyên dáng, hùng dũng, khỏe mạnh trong bộ quân phục quân đội Hoa Kỳ. Ngày 4 tháng 9 năm 1949, Linn ngồi một mình trong nhà hàng Hokkaido tại cảng biển San Francisco.

Ðó là việc đầu tiên Linn thực hiện khi đặt chân trở lại mẫu quốc Hoa Kỳ với lý do đơn giản là nàng nhớ nước Nhật, nơi nàng vừa từ biệt sau một năm rưỡi công tác tại đó. Sau Thế chiến thứ hai, cũng như nhiều phụ nữ Mỹ khác, Linn tình nguyện đi theo đoàn quân viễn chinh Hoa Kỳ đến Nhật, với chức danh nữ thư ký quân đội.
Thời gian phục vụ ở Nhật, Linn đã trải qua những ngày tuyệt vời hơn cả mong đợi với nhiều kỷ niệm không thể nào quên trong đời. Nàng đã xem nhiều thứ, học hỏi vô số điều. Nhật Bản, so với Mỹ, là một đất nước rất xa về địa lý và rất khác biệt về văn hóa. Nàng muốn dùng bữa tại nhà hàng Nhật để ôn lại, đắm mình vào thế giới vừa tuột khỏi tầm tay: hương vị những món ăn, những buổi lễ hội ẩm thực, nghi thức dọn bàn ăn…
Chủ nhà hàng Hokkaido tiến đến bàn của Linn Anderson, nụ cười tươi trên môi. Hai bàn tay nắm lại, ông cúi người chào khách:

– Xin chào. Rất hân hạnh được đón tiếp quý khách tại nhà hàng chúng tôi.
Linn Anderson cười và gật đầu đáp lễ. Trước đây nàng hơi ái ngại trước kiểu cách chào hỏi “quá cầu kỳ” của người Nhật, nhưng giờ thì nàng đã quen rồi.
Cuộc trò chuyện giữa hai người bắt đầu. Linn thuật lại cảm nhận của nàng về nước Nhật trong thời gian làm việc tại đó. Chủ nhà hàng giải thích nhà hàng vừa được khai trương gần đây nên khách đến chưa đông. Nhưng tình trạng này sẽ nhanh chóng qua thôi. Sau những câu xã giao, Linn lấy trong túi xách ra một tấm lụa với những dòng chữ màu đỏ. Từ khi nhận “kỷ vật” này, nàng rất nóng lòng muốn biết ý nghĩa của nó.
– Ông có thể dịch cho tôi nội dung những dòng chữ viết trên tấm lụa này không?

Ông chủ người Nhật lướt qua dòng chữ và hỏi:
– Linn Anderson là ai vậy?
– Là tôi!
– Tôi xin chúc mừng cô.
– Chúc mừng tôi, về việc gì?
– Thì về việc cô thành hôn chứ còn gì nữa.
– Ông nói gì tôi không hiểu?

Chủ nhà hàng Hokkaido rất ngạc nhiên.
– Cô đã kết hôn với Sato Ikeda vào ngày 02 tháng 08 năm 1949. Ðó là nội dung ghi rõ trong tấm lụa này.

Gương mặt của Linn Anderson bỗng tái mét.
– Anh ta dám làm chuyện đó ư ?

Ông chủ nhà hàng vẫn còn sững sờ trước sự việc tréo ngoe này.
Linn ấp úng:
– Tôi là nạn nhân của một trò đùa cợt đáng xấu hổ.

Rồi nàng vội vàng đứng lên.
– Xin lỗi ông, tôi phải đi gặp luật sư của tôi ngay…
John Campbell, ba mươi tuổi, quen biết Linn Anderson lúc cả hai phục vụ trong quân đội. Sau khi giải ngũ, anh về hành nghề luật sư tại San Francisco. Tuy trẻ tuổi nhưng anh đã thu hút lượng thân chủ khá đông. Cuộc viếng thăm có phần bất ngờ của nữ đồng đội khiến anh rất vui pha lẫn ngạc nhiên.
– Ồ Linn! Thật là dễ thương khi em không quên bạn cũ!

Nhưng nàng tỏ vẻ không vui trước sự niềm nở của John.
– Em đến gặp anh với tư cách là một luật sư, John…

Rồi nàng lấy tấm lụa ra cho John xem.
– Có một người đã chế giễu em, John. Anh ta cưới em mà em không hề hay biết. Anh có thể cho em biết hậu quả của sự đùa cợt này nghiêm trọng đến mức nào?

John Campbell chỉ vào tấm lụa chi chít chữ Nhật hỏi:– Em định nói tấm lụa này là giấy kết hôn với tên em trong đó?
– Ðúng vậy.
– Vậy thì anh rất tiếc, nhưng nó thật sự có hiệu lực. Từ khi chúng ta chiếm đóng nước Nhật, hai bên đã ký hiệp định tương tác về các văn bản hành chánh.
– Ðiều đó có nghĩa là… em đã có chồng sao?
– Về mặt pháp lý thì hoàn toàn đúng.
– Nhưng không thể được, John! Người ta nói với em rằng buổi lễ hôm đó có ý nghĩa hoàn toàn khác với lễ thành hôn. Vậy là người ta đã lừa dối em. Một cuộc hôn nhân như thế không thể nào có hiệu lực!
– Em hoàn toàn có lý. Tuy nhiên trường hợp lừa dối, luật pháp sẽ hủy bỏ với điều kiện có bằng chứng cụ thể…
– Thật là tệ hại! Bây giờ thì em phải làm gì đây?

John Campbell đặt hai tay lên vai Linn Anderson, ấn nhẹ cho Linn ngồi xuống ghế và nói:
– Em đã làm đúng khi đến gặp anh bởi đó là nghề của anh mà… Nào, em hãy thuật lại sự việc từ đầu!
Linn lau nước mắt nói:
– Cám ơn anh đã chỉ dẫn.

Rồi Linn Anderson kể lại thời gian nàng công tác ở Nhật với cương vị là một thư ký cho một vị tướng Mỹ. Ðến Tokyo vào đầu tháng 01 năm 1948, nàng không thể nào quên ngày đầu tiên đặt chân lên đất nước mặt trời mọc: tuyết rơi khắp nơi phủ trắng mặt đất, mái nhà; bầu trời trong veo… Ðó là hình ảnh tuyệt đẹp đầy ấn tượng …
Nơi làm việc của nàng là Nagoya nằm về phía Nam của Tokyo. Tại đây nàng quen biết Sato Ikeda. Như những người đứng đầu doanh nghiệp quan trọng khác lúc bấy giờ, Sato Ikeda phải liên lạc với lực lượng chiếm đóng và Linn chính là người tiếp đón Sato Ikeda. Ðó là một chàng trai lớn hơn nàng 1-2 tuổi, nét mặt buồn buồn như đang suy tư điều gì đau khổ và bí mật. Ikeda tự giới thiệu tên mình sau khi nghiêng mình cúi chào rất lịch sự theo kiểu Nhật, một kiểu chào mới mẻ và lạ lẫm đối với nàng. Sau vài câu xã giao, nàng hỏi:

– Doanh nghiệp của ông hoạt động trong ngành nào?
– Nuôi ngọc trai, thưa cô.
Sự trầm trồ, quan tâm thể hiện rõ trên nét mặt của Linn.
– Cô có vui lòng đến thăm trang trại nuôi ngọc trai của tôi không?
– Rất hân hạnh được ông mời…

Vài ngày sau, Linn đến viếng trại nuôi ngọc trai. Nàng thật sự bị mê hoặc bởi thế giới ngọc trai do con người sáng tạo ra. Ikeda rất vui trước sự thán phục của Linn.
– Cô có muốn tôi làm hướng dẫn cho cô không?
– Ðể làm gì ?
– Ði thăm viếng khắp nước …Nhật!

Linn gật đầu đồng ý và Ikeda đã làm đúng lời hứa. Vào ngày cuối tuần, Ikeda đậu xe chờ Linn trước cửa sở làm để đưa nàng đi thăm đất nước Nhật Bản. Nước Nhật cổ kính với đình, chùa, bảo tàng… và cả nước Nhật hiện đại với những dấu tích chiến tranh gần như khắp nơi: những chàng trai trẻ mù lòa, cụt tay, cụt chân, những phụ nữ góa chồng và những khu phố bị san phẳng. Giờ thì Linn đã hiểu vì sao nét buồn luôn phảng phất trên gương mặt của Ikeda.
Nhưng lúc nào Ikeda cũng thể hiện là một người đồng hành thoải mái, hiểu biết rộng rãi về nền văn hóa Á Ðông bên cạnh người bạn gái đến từ nước Mỹ. Thỉnh thoảng đứng trước một cảnh đẹp tự nhiên, Ikeda ngâm vài câu thơ toát lên tâm tư tình cảm của dân tộc anh. Cùng với thời gian tình cảm giữa hai người trở nên sâu đậm hơn. Ðối với Linn đó là tình bạn, sự đồng cảm sâu sắc. Linn tin rằng tình cảm Sato Ikeda dành cho nàng cũng là tình bạn… cho đến một ngày Chủ Nhật của tháng 7 năm 1949…

Linn vừa thông báo với Sato nàng quyết định quay về Mỹ. Ngay lúc đó Ikeda thố lộ tình yêu đối với Linn và xin cầu hôn nàng, điều mà nàng không hề chờ đợi. Linn không muốn làm khổ chàng trai Nhật và cũng không thể chấp nhận lời cầu hôn.
– Không thể được anh Ikeda ạ. Mỗi chúng ta thuộc về một đất nước quá cách biệt, xa xôi.
– Không đâu, Linn. Tình yêu của chúng ta là có thể!
– Nào anh Ikeda. Khi cầu hôn em, anh có nghĩ rằng anh sẽ đến sống với em ở nước Mỹ không.
– Tất nhiên là không… Anh không thể rời bỏ nước Nhật.
– Còn em thì cũng không thể sống suốt đời tại đây.

Ikeda không đáp lời Linn. Chàng chỉ cúi đầu biểu hiện sự đồng tình…
Ba tuần sau, ngày 02 tháng 08 năm 1949, họ lại gặp nhau. Cả hai đều hiểu rằng đây là lần gặp nhau cuối cùng. Sato Ikeda trao cho Linn chiếc hộp nữ trang đựng một chuỗi hạt trai tuyệt đẹp. Rồi chàng nói với giọng hơi run:

– Em có muốn cùng anh đến ngôi đền Nagoya không? Ðó là một tập quán của người Nhật để nói lời từ biệt người thân.
Linn Anderson chấp nhận lời đề nghị của Ikeda. Nàng rất cảm động cùng Ikeda đến ngôi đền. Một vị hòa thượng đang chờ họ tại đó. Buổi lễ “từ biệt” được tổ chức trong tiếng kinh cầu của vị hòa thượng, khói nhang và mùi hương của vỏ cây đàn hương đang cháy trong lò. Theo hướng dẫn của Ikeda, thỉnh thoảng Linn nghiêng mình, cúi đầu, chắp tay xá… Buổi lễ “từ biệt” kết thúc không lâu sau đó. Vị hòa thượng đến trước mặt Linn, nắm hai tay vào nhau, cúi đầu 3 lần. Ngài lấy ra từ trong túi áo cà sa tờ lụa với mấy dòng chữ màu đỏ. Sato Ikeda nói với nàng:
– Em hãy cẩn trọng cất giữ bên mình tấm lụa này, xem nó như một kỷ vật quý báu…

Ðến đây, Linn chấm dứt câu chuyện kể. Luật sư John Campbell tỏ vẻ xúc động.
– Linn này. Có một điều làm anh khó hiểu. Việc lừa gạt này không phù hợp tí nào với tính cách của nhân vật Sato Ikeda mà em mô tả trong câu chuyện. Mặt khác, mưu mô mà Ikeda hành xử sẽ không hy vọng mang lại cho anh ta bất kỳ lợi ích nào.

Linn ngồi tư lự.
– Em cũng nghĩ vậy, em không thể tin nổi. Theo anh thì Ikeda làm điều đó vì mục đích gì ?
– Anh không biết. Cách hành xử của Ikeda quả là khó hiểu. Chắc phải đợi thời gian trả lời thôi…

Ngay trong ngày hôm đó, John Campbell liên lạc với Nagoya và anh nhận được câu trả lời mà anh mong đợi. Lập tức anh nhấc điện thoại lên thông báo kết quả cho nữ đồng đội xưa.
– Linn này! Anh biết tại sao Sato Ikeda đã cưới em… Thật không thể tưởng tượng! Anh không mấy khó khăn để tìm ra câu trả lời. Hiện tại ở Nagoya, người ta đang bàn đến câu chuyện này, và nhà chức trách Hoa Kỳ đang tìm em để thông báo sự việc.
– Việc gì?
– Khi em biết được sự thật, em sẽ hiểu rõ vấn đề…

Rồi John im lặng.
– Anh John, em xin anh hãy kể cho em nghe đi. Tại sao anh lại do dự, im lặng?
– Anh lo sợ em sẽ bị cú sốc… Sato Ikeda đã chết!
– Chết rồi ư!
– Vâng, anh ta đã tự tử chết. Thật là khủng khiếp. Sato Ikeda đã tự tử theo kiểu Nhật: hara-kiri, tức là mổ bụng tự sát…
Bên kia đầu dây, Linn hét lên một tiếng. Nàng cố xua đuổi hình ảnh ghê rợn vừa xuất hiện trong đầu: Sato cầm kiếm samurai tự rạch bụng. John nói tiếp:

– Anh hiểu rất khó khăn cho em vượt qua trạng thái bàng hoàng này. Nhưng hãy nghe anh kể tiếp. Sato Ikeda đã để lại một bức thư giải thích hành động của anh ta. Em hoàn toàn đúng khi từ chối lời cầu hôn. Một cuộc hôn nhân như thế là không khả thi bởi hai người thuộc về hai xã hội hoàn toàn khác biệt. Anh ta cám ơn em đã dành cho anh ta những giây phút hạnh phúc.
Linn Anderson đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác đến độ nàng không thốt lên được lời nào. Luật sư lại tiếp:
– Trong bức thư từ biệt, Sato Ikeda giải thích rằng chết vì tình yêu là điều anh mong ước. Một trong những người ông của Sato đã tự tử vì bố mẹ phản đối ông cưới người phụ nữ trẻ mà ông ta hết lòng yêu thương. Sato rất tôn sùng người ông này và anh ta rất hạnh phúc được hội ngộ ông nơi chín suối…
Ngưng giọng trong giây lát, luật sư John đi đến kết luận gây sốc nhất:
– Sato Ikeda không tự tử vì tuyệt vọng. Tất cả thành viên trong gia đình anh đã lìa đời trong chiến tranh. Do đó người thừa kế khối tài sản của anh là người thân duy nhất hiện nay, đó chính là em, Linn Anderson!
– Là em?
– Ðúng vậy, vì em là người vợ hợp pháp của Sato. Hôn lễ và tấm lụa “kỷ vật từ biệt”, giấy chứng nhận kết hôn hoàn toàn hợp pháp, được chính quyền Nhật công nhận. Toàn bộ tài sản của Sato Ikeda thuộc quyền sở hữu của em, giang sơn nuôi ngọc trai bây giờ là của em!
Linn Anderson như nghẹt thở trước những tin bất ngờ này vừa lọt vào tai nàng: người đàn ông tự tử chết theo cách khủng khiếp nhất, hara-kiri, đã biến nàng trở thành nhà tỷ phú chỉ trong tích tắc…

– Anh John, thật tình em không muốn khối tài sản đó!
– Anh hiểu em. Nhưng tài sản đó không thể vô chủ.
– Em nghĩ giải pháp tốt nhất là dùng nó để giúp những nạn nhân chiến tranh của nước Nhật.
– Thủ tục chuyển đổi quyền sở hữu sẽ phức tạp đấy…
– Vâng em biết. Anh giúp em thực hiện thủ tục nhé.
Bên kia đầu dây im lặng trong giây lát, rồi giọng nói cảm động của Linn nói tiếp:
– Anh John! Sato đã không lừa dối em. Ðó chính là “Kỷ vật từ biệt”!


13. Chuyện Suy Ngẫm
(Đông Quyên dịch - Tango Bui chuyển)
Đây là một câu chuyện có thật, xảy ra trong thế chiến thứ hai, một câu chuyện đầy tình người, đáng cho chúng ta đọc và suy ngẫm.

Trung uý Charlie Brown 21 tuổi, trưởng phi cơ chiếc B17F Flying Fortress tên phi cơ (Ye Olde Pub) thuộc phi đoàn 527th United States Army Air Force (USAA) đồn trú tại Kimbolton England
Ngày 20 tháng 12 năm 1943. Trung uý Charlie Brown cất cánh từ Kimbolton cùng phi hành đoàn 10 người, trong một phi vụ đánh bom khu kỷ nghệ gần thành phố Bremen Đức Quốc, thành phố được bảo vệ dầy đặc phòng không và 250 chiến đấu cơ gồm Bf 109, Fw 190 và GJ 11.

Trên vòm trời Bremen chiếc B17 của Charlie Brown bį phòng không của Đức bắn gần gãy lìa đuôi, mủi phi cơ bị hư hại nặng, phi cụ không còn hoạt động, điện, thủy điều hoàn toàn hư hỏng. Ba trong bốn động cơ không còn hoạt động được. Sau đó chiếc B17 bị các chiến đấu cơ Đức vây quanh, bắn nát như tổ ong, chiếc phi cơ B17 mất cao độ chúi xuống, trong lúc hỗn loạn không còn phi cụ, phi cơ lạc hướng bay sâu vào nội địa nước Đức. Trung uý Charlie Brown hồi tưởng:Phi cơ trong tình trạng tuyệt vọng nhưng anh không thể ra lệnh cho phi hành đoàn nhảy dù được, vì trên tàu còn 4 phi hành đoàn bị thương, một rất nặng, nên anh quyết định bay tiếp cho đến khi nào không còn bay được, anh sẽ đáp ép buộc, và tất cả phải chịu chung số phận với con tàu.

Anh Franz Stigler, người phi công lái chiếc Bf 109. Một anh hùng không chiến của không lực Luftwaffe (Đức Quốc) từng hạ 27 phi cơ của đồng minh, đang tiếp tế nhiên liệu, nạp đạn cho phi cơ dưới đất, được lệnh cất cánh khẩn cấp, bắn hạ chiếc B17, đang lảo đảo bay trong không gian vô định
Trung uý Charlie hồi tưởng: tôi phải vất vã lắm mới kéo được con tàu trở lại bình phi, thì lù lù bên trái của tôi một chiếc Bf109 của Đức kèm sát cánh

Trong giây phút kinh hoàng, tôi nhắm mắt lại, hy vọng đây chỉ là giấc mơ. Khi mở mắt ra chiếc Bf109 vẫn còn đó, và người phi công ra lệnh cho tôi phải đáp ép buộc xuống phi trường Đức, hay phi trường nước trung lập Sweden, tôi không đồng ý. Cuối cùng tôi thấy người phi công lái chiếc Bf109 bay nhanh phía trước, lắc cánh ra hiệu cho tôi theo, không còn lựa chọn tôi bay theo, độ hơn một giờ sau tôi nhìn thấy biển Bắc. Chiếc phi cơ Bf109 bay chậm lại song song với tôi, đưa tay chào, rồi lắc cánh nhẹ vài cái, dấu hiệu tạm biệt của người phi công, rồi mất dạng trong sương chiều.
Như một phép lạ, anh Charlie Brown bay được 250 miles(400 km) qua biển Bắc. Sau cùng đáp ép buộc xuống phi trường của hoàng gia Anh ở Seething, nơi đồn trú của phi đoàn 440th bomber group, chỉ có một người chết, còn tất cả những người bị thương đều được cứu. Sau đó tất cả phi hành đoàn báo cáo với sỉ quan chỉ huy ở đây, họ được chỉ thị giữ kín chuyện này, vì nói ra sự thật có vẽ phản tuyên truyền, vì không thể có một phi công Đức nào hào hùng và độ lượng với kẻ thù như vậy

Sau chiến tranh Charlie Brown ở lại phục vụ trong không lực Hoa Kỳ cho đến năm 1972 giải ngũ với cấp bậc trung tá sống tại Florida
Câu chuyện không chấm dứt ở đây. Trở về lại quê hương, anh Charlie Brown viết rất nhiều thư để mong tìm ra tông tích người phi công Đức đã không cướp đi mạng sống của cả phi hành đoàn chiếc B17 của anh. Tìm một người phi công sau một cuộc chiến tranh tàn khốc, không tên họ, chỉ có một câu chuyện, đâu phải dể tìm. Không nản lòng anh vẫn tiếp tục. Cuối cùng vào năm 1989, sau 46 năm tìm kiếm, anh Charlie Brown đã tìm ra được người phi công bí mật, lái chiếc Bf109. Một anh hùng không chiến của không lực Luftwaffe (Đức) cũng là một thiên thần độ lượng trên vòm trời Bremen vào những ngày cận giáng sinh năm 1943. Đó là anh Franz Stigler.

Sau khi chiến tranh chấm dứt anh Franz Stigler di dân sang sống ở Vancouver Canada. Trong bức thư đầu tiên anh Franz Stigler viết cho Charlie Brown “suốt bao nhiêu năm dài tôi luôn tự hỏi, không biết chiếc B17 đó có đưa phi hành đoàn về đáp an toàn hay không “

Họ gặp nhau sau 46 năm tìm kiếm diễn ra rất cảm động. Anh Franz Stigler hồi tưởng: tôi được lệnh cất cánh rượt đuổi bắn hạ chiếc B17, tống ga đuổi kịp, thì tàu của tôi báo hiệu máy đã nóng vượt bực, tôi đến từ phía sau quan sát chiếc B17. Một cảnh tượng thật tang thương, phần đuôi của con tàu gần như tan nát, một lổ hổng lớn có thể nhìn từ đuôi cho đến cockpit, người xạ thủ tail gun turret nằm chết đong đưa, nửa trong nửa ngoài trên pháo tháp. Tôi bay lên quan sát bên thân tàu, cả một vùng thân đầy lổ đạn to lớn, tôi có thể thấy cả phi hành đoàn bị thương nằm la liệt bên trong, người trưởng phi cơ đang vật lộn với con tàu mong giữ được bình phi, tôi ra hiệu cho anh ta theo tôi đáp xuống một căn cứ gần đó, để cứu những phi hành đoàn bị thương, anh ta nhìn tôi chăm chăm rồi nhè nhẹ lắc đầu, tôi không có can đảm giết những người anh hùng không còn vũ khí để tự vệ, tôi là một người phi công hào hùng, tôi chém giết để bảo vệ quê hương tôi, nhưng không hề có thù hận, khi còn chiến đấu ở Bắc Phi, người chỉ huy của tôi đã nói, nếu tụi mầy bắn một người phi công đã nhảy dù ra khỏi phi cơ, đó là một hành động tồi tệ, tao sẽ là người bắn rơi tụi mầy, trong trường hợp nầy cũng vậy, chiếc B17 nầy không còn tự vệ được, tôi phải để cho họ có một cơ hội, ngày mai tôi sẽ bắn họ khi họ ngang ngửa với tôi. Biết là không thể thuyết phục được người trưởng phi cơ B17 tôi bay ra phía trước lắc cánh, tôi cũng mừng khi thấy anh đã bay theo tôi, hướng dẫn chiếc B17 độ một giờ sau thì tôi thấy biển Bắc, tôi bay chậm lại song song, chào anh ta rồi quay trở về đáp, dĩ nhiên là tôi phải báo cáo với cấp trên, là tôi đã bắn hạ chiếc B17 trên biển.

Anh Charlie Brown và Anh Franz Stigler trở nên đôi bạn thân, họ đã gặp lại nhau nhiều lần, sau đó họ đã được không lực Hoa Kỳ bạn tặng những huy chương cao quý

Anh Charlie Brown mất ngày 24 tháng 11 năm 2008
Anh Franz Stigler mất ngày 22 tháng 3 năm 2008
Đông Quyên phiên dịch

 
14. QUẢ TIM BIẾT ĐI
(Tango Bui chuyển)
Lớp học mẫu giáo, trong 1 giờ tập vẽ,cô giáo nói với các em:
"Hôm nay cô cho các em vẽ tự do,muốn vẽ gì thì vẽ"
Các em cắm cúi vẽ sau đó nộp bài,cô giáo điểm qua các bài thì thấy các em vẽ nào là cái nhà, con chó, con mèo ,,v,,v,, nhưng có một bài lại vẽ hình trái tim có 2 bàn chân thò ra, cô giáo ngạc nhiên hỏi học trò:
- "Tại sao trái tim lại có chân?"
- "Thưa cô có chứ, trái tim có chân mà còn biết đi nữa"
- "Làm sao em biết?" 
- "Tại tối hôm qua em nghe bố em nói"
- "Hỡi Quả tim yêu dấu của anh ơi.....hãy Dzạng hai chân ra !!!!"
"Bởi vậy em biết Tim có chân....."
Cô giáo???????
 
 
15. QUA MẤY NGÕ HOA Thơ "MƯỜNG MÁN" (Tango Bui chuyển)
CHÀNG:
Chim vổ cảnh nẳng phai rồi đỏ
Về đi thôi o nớ chiều rồi
Nhìn làm chi mây trẳng xa xôi
Mắt buồn quả.....chao ôi là tội
Tay thương ai mà tay bổi rổi
áo nhớ ai mà hờ hửng đôi tà
Đường về nhà qua mẩy ngỏ hoa
Chớ có liệc mắt nhìn ong bưởm
Cỏ chi mô mà chân luổng cuổng
Cứ tà tà ta bược song đôi
Đi một mình tim sẽ mồ côi
Tóc sẽ rối đường ngôi không đẹp
Cứ..cứ để tóc rối cần chi ngôi kẹp
O cười trông duyên dảng vô cùng
Cho anh nhìn những hạt răng xinh
Anh sẻ đổi nghìn ngày thơ dại

NÀNG:
Răng mà cử theo tui hoài rứa
Cải ôn ni thiệt dị chi tề
Sớm chiều trưa ba buổi đi về
Đưa với đỏn mần chi không biệt
Ôi đôi mẳt...răng mà tha thiệt...
Đừng nhìn làm ngượng bước tôi đi
Bực thư tình ôn gửi mần chi
Cha mẹ biệt rầy la tôi chệt
Ôn nỏi chi những lời da diệt
Tôi như ma quỷ dượi âm ty
Nỏi hoài lời hoa mỷ mần chi
Tôi còn nhỏ chuyện tình răng biệt
Tội tôi quả cạch xa cho vài bược
Đừng đi gần hai bược song đôi
Xa xa cho kẻo bạn tôi cười
Mai vào lợp cả trường dị nghị
Răng lì rửa người chi không biểt dị
Thôi được rồi đưa lá thư đây
Mai tan trường đợi ở gộc cây
Tôi sẽ đến trả lời cho mà biệt ...
 
Số Thứ Tự:
27. Gậy Ông Đập Lưng Ông - Tác Giả : Tưởng Năng Tiến (fb Tango Bui, De Phan chuyển)
26. TÂM SINH TƯỚNG... (Tango Bui chuyển)
25. Câu Chuyện Ngày Xưa - Võ Kỳ Điền (Tango Bui chuyển) 
24. Tám Tàng, Mối Tình Kỳ Diệu (Tango Bui chuyển)23. Ngày tôi chết - Trường Sơn Lê Xuân Nhị (Tango Bui chuyển) 22. Lời Trăn Trối - Thanh Mai Minnesota (Tango Bui chuyển) 21. VẪN CẦN CÓ MẸ - fb Nga Le  20. Cười chút .. fb Xứ Mù Sương  19. ĐỜI NGƯỜI ??? fb TuyetMai Trinh
18. “Bà Tiên” người Mỹ - 16 tháng 7, 2022 - Năng Nguyễn (Tango Bui chuyển)17. Đừng Gọi Anh Bằng Chú - Dung Sàigòn - Võ Hà Anh (Tango Bui chuyển)
16. KỶ "LIỆM" - (Tango Bui chuyển)
------------------- 
1. Tại sao một số Bác Sĩ từ chối điều trị để cứu sống bản thân - (by Tango Bui)
2. Một Trăm Chỗ Lệch (by Tango Bui)
3. Tiến sĩ Farid Fata là Ác quỷ y khoa thế kỷ 21 - Vũ Cao (Theo Medical Daily) - (by Tango Bui)
4. Những điều lạ ở Đại Hàn (Tango Bui)
5. Vợ Chồng (Tango Bui)
6. Hai ông bà đi ăn tiệc cưới (Tango Bui chuyển)
7. Gã Tiều Phu và Ông Thần (Tango Bui chuyển)
8. Chuyện Người Vợ Tuổi Dần - PNT (fb Tango Bui chuyển)
9. QUẢ MƯỚP NHÀ ÔNG! (fb Tango Bui chuyển)
10. MỘT BỮA ĂN TỐI TUYỆT VỜI! (fb Tango Bui chuyển)
11. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA THỨC ĂN VIỆT VÀ TÀU
Giáo sư Trần Văn Khê (Tango Bui chuyển)
12. Kỷ Vật Từ Biệt - Pierre Bellemare - Đào Duy Hòa Phỏng Dịch - (Phỏng dịch từ nguyên tác “Souvenir d’adieu” - Tango Bui chuyển)
13. Chuyện Suy Ngẫm (Đông Quyên dịch - Tango Bui chuyển)14. QUẢ TIM BIẾT ĐI - (Tango Bui chuyển)
15. QUA MẤY NGÕ HOA - Thơ "MƯỜNG MÁN" (Tango Bui chuyển) 
 
 

No comments: