* Tiểu Đoàn 15 Nhảy Dù và Người Lính Trẻ Võ Bị
* 30/4/1975 và Người Lính Trẻ Võ Bị vào Giờ Thứ 25
* Tháng Tư Đen (Nỗi Buồn Không Dứt)
* Việt Cộng Giải Phóng Miền Nam Việt Nam Ngày 30/4/1975
* Việt Cộng Giải Phóng Nước Mỹ Sau 30/4/1975
* Nga Xâm Lược Ukraine - Nga Cộng Trổi Dậy
@ QLVNCH - TƯỚNG CHẾT THEO THÀNH (30/4/1975)
@ Điều Gì Xảy Ra Trên Đất MỸ ???
Trong bảy tháng đầu khi bay F-4s cất cánh từ căn cứ Ubon, Thái Lan. Tôi vẫn thuộc Phi Ðoàn Cú Ðêm (Night Owls). Lệnh ngưng thả bom của Johnson bắt đầu có hiệu lực một tháng trước khi tôi trở lại chiến trường. Do đó, phi công chúng tôi không có cơ hội ném bom miền Bắc Việt Nam. Chúng tôi chỉ còn biết bay ầm ì, rồi nhào lên lộn xuống trên đường mòn Hồ Chí Minh bên ranh giới nước Lào.
Tất cả những gì Nixon làm trong năm 1972 là tạo cho Bắc Việt có cơ hội mang tiếp tế vào miền Nam, mà đáng lẽ chúng ta phải chặn đứng việc cộng sản Bắc Việt tiếp tế vũ khí cho chiến trường miền Nam mới phải!
- “Mấy thằng phi công Mỹ ngu xuẩn đang sắp ném bom. Hãy ngừng xe lại và tấp vào lề đường. Trước sau gì chúng nó cũng đâm vào dãy núi Karst…”
Và đúng như thế, nhiều phi công của chúng tôi đã đâm máy bay vào dãy núi này mà chẳng thả trúng một xe tiếp liệu của Việt cộng nào, chỉ vì tầm nhìn quá hạn chế do thời tiết.
Mãi đến khi Mỹ mang máy bay Spectre–AC130 có trang bị vũ khí và có trang bị cả dụng cụ quan sát ban đêm như màn hình Ti Vi và những dụng cụ điện tử có thể cảm nhận được khói bay ra từ ống khói của xe vận tải, đồng thời máy bay này có thể nhìn qua đêm tối và mây mù.
- Một là áp lực những ổ súng phòng không của địch ngõ hầu chúng tôi có thể bắn hoặc thả bom trúng mục tiêu.
- Hai là hướng dẫn chúng tôi tới mục tiêu cần tiêu diệt.
Và kể từ đó, chúng tôi đã phá hủy rất nhiều xe vận tải tiếp liệu của địch. Tôi nhớ rõ, một lần, trong một đêm tôi bắn trúng 14 xe tiếp liệu của địch.
Mỗi khi máy bay Spectre-AC130 nhìn thấy đoàn xe, những phi công này sẽ đánh dấu cho chúng tôi bằng nhiều cách. Họ tác xạ vào mục tiêu bằng súng liên thanh 20 ly và cho chúng tôi biết đó là mục tiêu cần tiêu diệt. Hoặc giả họ ném hỏa châu để soi sáng cả đoàn xe phía dưới và chúng tôi cứ theo đó mà thả bom.
Ngoài ra, họ còn có thể ném một khối hỏa châu nặng, có khả năng cháy sáng tới 20 phút. Họ ném một khối hỏa châu này trước đoàn xe và một khối khác phía cuối đoàn xe, và cho chúng tôi biết cứ thế mà ném bom trong đoạn đường giữa hai khối ánh sáng. Vì vậy, chúng tôi đã phá hủy được nhiều đoàn xe tiếp liệu của cộng sản. Ðường mòn Hồ Chí Minh đã bị cầy nát làm trở ngại cho việc Cộng Sản chở tiếp tế vào miền Nam Việt Nam. Theo nhận định của phi công chúng tôi, chiến tranh đã có thể chấm dứt bằng quân sự!
Nhưng thật đau lòng: lệnh ngưng ném bom bắt đầu vào tháng 11 năm 1968, tất cả chúng tôi đau điếng! Anh em phi công chúng tôi đã trải qua bao nhiêu lần được lệnh ngưng thả bom và mỗi lần như thế chúng tôi cảm thấy như bị một quả đấm vào mặt, vì người ta (Ngũ Giác Đài) đã phá tan đi những gì chúng tôi đang thắng thế.
Thí dụ, trong giai đoạn 1966-1967, bạn bè chúng tôi, những phi công can trường, đang bay các phản lực cơ F-105s và F-4s trên lãnh thổ Bắc Việt, một nơi đầy nguy hiểm vì dàn hỏa tiễn địa không SAM tối tân nhất và màng lưới ra đa của Nga đầy rẫy dưới đất. Nhưng vì "Những Quy Luật Giao Chiến" (Rules Of Engagement - ROE), chúng tôi đã chiến đấu một cuộc chiến mà tay chúng tôi đã bị trói chặt, mắt chúng tôi như đã bị chọc thủng cho mù lòa và một nửa đạn dược trang bị đã bị cắt giảm.
Nhưng những viên chức chính phủ như Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara thì lại tuyên bố với công chúng rằng các phi cơ Mỹ không bị cắt giảm bom đạn và bom đạn Mỹ không bao giờ thiếu? Nhưng trong thực tế, chúng tôi đang chứng kiến bom đạn Mỹ ở Việt Nam đã bị cắt giảm nhiều, nhất là của không Lực Mỹ!
Chúng tôi đã chứng kiến bạn chúng tôi bay ra Bắc với trang bị kém hơn thời Ðệ Nhị Thế Chiến, chỉ vỏn vẹn với hai trái bom: 250 và 500 cân và hai thùng Bom Lửa (Napalm) trong một phi vụ phá hủy đường rầy xe lửa. Ðiều hiển nhiên là bằng loại Bom Lửa Napalm thì không thể nào làm hư hại hay cắt đứt đường rầy xe lứa, mà chỉ làm cháy cỏ và cây cối chung quanh đường rầy mà thôi. Chúng tôi cho rằng quyết định ngưng ném bom và cắt giảm đạn dược là MỘT TỘI PHẠM của những người có thẩm quyền. Nhiều khi chúng tôi đã đối đầu với một số hoa tiêu vì lương tâm mà họ đã phải không tuân lệnh oái oăm này, dù họ có phải ra tòa án quân sự.
Các viên chức này lại nói loanh quanh rằng không thiếu bom tại Việt Nam. Nhưng tại Sài Gòn, những tầu thương mại chuyên chở bom đạn bị tắt nghẽn tại các hải cảng vì hải cảng không đủ rộng để có thể đem những bom và vũ khí lớn quá tầm trưc tiếp vào bờ. Trong khi đó, vũ khí nhỏ và dụng cụ y khoa thì được Việt Cộng hối lộ và chở về mật khu.
Vào thời điểm đó, tôi vẫn còn nghĩ rằng với sự giúp đỡ của Hoa Kỳ, chính phủ VNCH biết phải làm gì để chiến thắng cuộc chiến này. Nhưng một thời gian sau đó, tôi nhận thức được rằng: "Hình như người ta (Quốc Hội Mỹ) không muốn và không được phép để VNCH thắng cuộc trong chiến tranh này!" vì thế nên Hoa Thịnh Ðốn đã cố tình áp đặt cái "Quy Luật Giao Chiến" ROE quái ác này!
Có một câu chuyện ai cũng biết là ở Trung Tâm Văn Hóa Trung Hoa (Chinese Cultural Center) tại Plaine des Jarres (Lào) như sau: Chúng tôi không được lệnh ném bom trong vòng ba cây số chung quanh trung tâm này.
Vào một đêm, một phi công tức khí lén thả một trái bom vào trung tâm này và kho đạn ở đây đã nổ trong suốt một tuần lễ!
Sau khi lệnh ngưng ném bom trên lãnh thổ Bắc Việt vào tháng 11 năm 1968, chúng tôi chỉ được phép ném bom khi xe tiếp tế của Việt Cộng ở đường mòn Hồ Chí Minh trên phần lãnh thổ nước Lào và chỉ được ném bom vào ban đêm mà thôi. Như vậy là chúng tôi gần như tự tử rồi! Vì ban đêm không thấy đường, súng phòng không địch thì bắn ra như sao, chúng tôi chỉ còn cách đâm máy bay vào dãy núi Karst là xong!
Có một lần vào một ngày quang đãng, tôi đếm được 100 xe tiếp tế nối đuôi nhau tại Ðèo Mụ Giạ thuộc Bắc Việt Nam. Những chiếc xe này đậu sẵn để đợi đêm tối di chuyển vào đường mòn. Và dĩ nhiên chúng tôi có lệnh cấm chỉ thả bom đoàn xe vào ban ngày, chỉ được ném vào ban đêm. Ðó là Quy Luật Giao Chiến (ROE) đấy!
Chúng tôi cũng không được thả bom đường xe lửa tiếp tế từ Trung Cộng vào Bắc Việt. Mỹ cũng không được phong tỏa hải cảng Hải Phòng…
85% POW là hoa tiêu và phi hành đoàn. Họ bị bắn hạ chung quanh những vị trí có hỏa tiễn SAM và phi cơ MIG.
Chúng tôi đã từng thấy từng đoàn xe vận tải nối đuôi nhau ngay ban ngày. Những xe này thuộc Lực Lượng Chuyên Chở 559 từ Hà Nội đổ vào.
Ghi chú:
- Rules Of Engagement (ROE) - Mark Berent
- To Bear Any Burden - Al Santoli
2. Sự thật về Chiến tranh Việt Nam
Bruce Herschensohn - 23/6/2014
Hoa Kỳ thắng hay thua trong chiến tranh Việt Nam?
Chúng tôi được dạy rằng đó là một thất bại to lớn đối với Mỹ, một điều chứng tỏ rằng việc can thiệp vào công việc của các quốc gia khác thường là sai lầm. Sự thật là quân đội của chúng tôi đã thắng trong cuộc chiến, nhưng các chính trị gia của chúng tôi đã thua cuộc. Những người Cộng sản Bắc Việt đã thực sự ký một hiệp ước hòa bình, đầu hàng vô điểu kiện một cách tốt đẹp. Nhưng Quốc hội Hoa Kỳ đã không kết thúc cuộc thương lượng.
Vào cuối năm 1972, Nam Việt Nam và Hoa Kỳ đã chiến thắng trong Chiến tranh Việt Nam bằng mọi biện pháp có thể hình dung được. Đó không phải là quan điểm của tôi. Đó là quan điểm của kẻ thù của chúng tôi, các quan chức chính phủ Bắc Việt. Chiến thắng rõ ràng khi Tổng thống Nixon ra lệnh cho Không quân Hoa Kỳ ném bom các mục tiêu công nghiệp và quân sự ở Hà Nội, thủ đô của Bắc Việt, và ở Hải Phòng, thành phố hải cảng lớn, và chúng tôi sẽ ngừng ném bom nếu Bắc Việt tham dự Hòa bình Paris. Cuộc nói chuyện mà họ đã bỏ đi trước đó. Bắc Việt đã quay trở lại cuộc đàm phán Hòa bình Paris, và chúng tôi đã ngừng ném bom như đã hứa.
Vào ngày 23 tháng 1 năm 1973, Tổng thống Nixon đã có một bài phát biểu trước quốc dân trên truyền hình, thông báo rằng Hiệp định Hòa bình Paris đã được ký kết bởi Hoa Kỳ, Nam Việt Nam, Bắc Việt Nam, Việt Cộng và các Hiệp định sẽ được ký kết ngày 27. Điều mà Hoa Kỳ và Nam Việt Nam nhận được trong các hiệp định đó là chiến thắng. Tại Nhà Trắng, hiệp ước ấy được gọi là "VV day", "Ngày Chiến thắng ở Việt Nam."
Hoa Kỳ đã ủng hộ chiến thắng đó bằng một cam kết đơn giản trong Hiệp định Hòa bình Paris rằng: nếu miền Nam yêu cầu bất kỳ khí tài quân sự nào để tự vệ trước bất kỳ hành động xâm lược nào của Bắc Việt, chúng tôi sẽ cung cấp viện trợ thay thế cho miền Nam theo từng phần (one-to-one), nghĩa là một viên đạn thay thế cho một viên đạn; một chiếc trực thăng thay thế cho một chiếc trực thăng, cho tất cả những thứ bị mất được thay thế. Sự tiến bộ của chế độ chuyên chế cộng sản đã bị chặn lại bởi những hiệp định đó.
Sau đó, tất cả tan rã. Và nó đã xảy ra theo cách này:
Vào tháng 8 năm sau, 1974, Tổng thống Nixon từ chức do hậu quả của cái gọi là "Watergate". Ba tháng sau khi ông từ chức diễn ra cuộc bầu cử quốc hội vào tháng 11 và trong đó đảng Dân Chủ (sau này trong cuộc bầu cử Tổng Thống năm 2020, đảng Dân Chủ này tự nhận là đảng Cộng Sản Dân Chủ Mỹ - the Democratic Socialist of America party) đã giành được chiến thắng vang dội cho Quốc hội mới và nhiều thành viên đã sử dụng đa số Phiếu của họ để Cắt tiền viện trợ quân sự mà Hoa Kỳ đã hứa, từng mảnh, phá vỡ cam kết mà chúng tôi đã thực hiện với miền Nam Việt Nam tại Paris; là cung cấp bất kỳ khí tài quân sự nào mà miền Nam Việt Nam cần trong trường hợp bị miền Bắc xâm lược. Nói một cách đơn giản và chính xác, đa số các thành viên Đảng Dân chủ (Democratic Socialist of America party) của Đại hội 94 đã không giữ lời của Hoa Kỳ.
Vào ngày 10 tháng 4 năm 1975, Tổng thống Gerald Ford đã trực tiếp kêu gọi các thành viên của quốc hội trong một Phiên họp chung buổi tối, được truyền hình trên toàn quốc. Trong bài phát biểu đó, ông thực sự cầu xin Quốc hội giữ lời của Hoa Kỳ. Nhưng khi Tổng thống Ford đọc bài phát biểu của mình, nhiều thành viên của Quốc hội đã bước ra khỏi phòng. Nhiều người trong số họ đã đầu tư vào sự thất bại của Mỹ ở Việt Nam. Họ đã tham gia biểu tình phản đối chiến tranh trong nhiều năm. Họ sẽ không viện trợ.
Vào ngày 30/4/1975, miền Nam Việt Nam đầu hàng và các Trại cải tạo được xây dựng, và hiện tượng Thuyền nhân bắt đầu.
Nếu miền Nam Việt Nam nhận được những vũ khí mà Hoa Kỳ đã hứa với họ thì kết quả có khác không?
Nó đã khác.
Joe Biden bỏ phiếu cắt viện trợ cho miền Nam VN, và chống người tị nạn Việt Nam vào đất Mỹ
Các nhà lãnh đạo Bắc Việt thừa nhận rằng họ đang thử lòng Tổng thống mới, Gerald Ford, và họ đã chiếm hết làng này đến làng khác, rồi thành phố, rồi tỉnh và phản ứng duy nhất của chúng tôi là quay lại với lời của chúng tôi. Hoa Kỳ đã không tiếp tế cho miền Nam Việt Nam như chúng tôi đã hứa. Sau đó, Bắc Việt biết rằng họ đang trên đường đến thủ đô Sài Gòn của Nam Việt Nam, nơi sẽ sớm được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh.
Hoa Kỳ biết rằng Bắc Việt sẽ vi phạm các hiệp định và vì vậy chúng tôi đã lên kế hoạch cho điều đó. Những gì chúng tôi không biết là Quốc hội của chúng tôi (dưới sự kiểm soát của đảng Dân Chủ, và năm 2020, đảng này tự xưng là đảng Cộng Sản Dân Chủ Mỹ) vi phạm các hiệp định. Và họ vi phạm, về tất cả mọi thứ, thay mặt cho Bắc Việt. Đó là những gì đã xảy ra.
Tôi là Bruce Herschensohn.
"Tinh thần" bỏ súng đã có, khi Ban-mê-thuột mất. Có từ thượng tầng. Không hiểu sao, tinh thần này lại bắt nguồn từ vị lãnh đạo cao nhất của VNCH. Không có câu trả lời chính xác.
"Tinh thần" bỏ súng hẳn đã có với Cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, khi sơ khởi, ông là người đầu tiên biết rằng Mỹ sẽ bỏ Miền Nam VN - nghĩa là khi Mỹ thay đổi chiến lược toàn cầu của họ.
Vậy thì cuộc chiến tại Miền Nam VN những năm 71-75, quân nhân cấp dưới lăn lộn, quyết đấu, hy sinh ... chỉ là "đơn giản" dưới cái nhìn ái ngại từ thế lực bên kia Thái Bình Dương, và dưới tâm tư "dằn vặt" của vị Tổng Tư Lệnh QLVNCH. Ông đã thấy được hậu quả của chiến lược Mỹ thay đổi.
"Nhìn ái ngại", khi dùng mấy chữ này, tôi đã thầm cảm ơn một nhóm người Mỹ "thiện tâm". Họ cũng thương cho số phận VN. Mà không phải tất cả. Cả 1 đa số + những kẻ biểu tình "phản chiến" tại Mỹ đã không chút thương tiếc chi dân VN, quân sĩ QLVNCH. Không những thế, họ còn "nguyền rũa", trách móc cuộc chiến đó đã lấy đi sinh mạng của hơn 5 vạn người thân của họ.
Này An Lộc, Kontum, Cổ Thành Quảng Trị. Bao nhiêu ngày đêm giành giựt từng tấc đất An Lộc. Từng tấc Cổ Thành Quảng Trị đổi lấy bao nhiêu sinh mạng người lính VNCH. Kontum kiêu hùng, Nguyễn Đình Bảo với Charlie, với bài hát để đời cho người ở lại.
Hơn 1 tuần tại Bình Tuy, tôi chỉ gặp Đại úy Triệu, thuộc Ty ANQĐ. Chúng tôi biết nhau khi cùng làm việc tại Quảng Ngãi những năm trước. Những ngày đầu tại Bình Tuy, tôi vào Tiểu khu mà "không gặp" những giới chức cần thiết. Gặp Triệu loanh quanh trong sân Tiểu khu. Đương sự nhìn ra tôi và gọi tên tôi. Triệu cho biết Phòng Tổng Quản Trị tạm đóng cửa. Vì không còn ai.
Tôi nhờ Triệu chở tôi đến Trung Tâm Hành Chánh Tiếp Vận của TK để nhận lương. Tôi chưa có lương từ tháng 1/1975. Lương và hồ sơ cá nhân "chạy" không kịp tôi. Tôi ăn lương Tỉnh Quảng Ngãi. Rời Quảng Ngãi, trình diện Bộ Nội Vụ đầu tiên, thì lương chuyển về Bộ Nội Vụ. Tiếp, trình diện Bộ Quốc Phòng, lương chạy theo. Về Bộ Tổng Tham Mưu, lương chạy nước rút. Về Quân đoàn/QK III, chờ hơn 1 tháng ở đây, lương chưa tới. Về Tiểu Khu Bình Tuy, hỏi thử. Chắc là lương "mắc đổ xăng", nhưng câu trả lời "hiệu quả" nhất chính là, doanh trại TTHCTV đóng cửa kín mít.
Tôi ở tạm căn phòng thuê của Triệu ngoài phố. Triệu cho biết tuần trước, dân + lính chạy loạn về Bình Tuy rất nhiều. Có Tướng Nhựt và nhiều đơn vị của Sư đoàn 2 BB, của BĐQ. Những ngày đầu có cướp bóc ... nay tạm yên. Triệu chở tôi xuống chỗ tạm đóng quân của SĐ 2 và BĐQ.
Tôi gặp Thiếu úy Thứ, làm việc tại BCH/BĐQ/V1CT. Trước kia Thứ là Trung sĩ I thuộc BCH/B20. Thứ di tản từ Đà Nẳng, đem theo chiếc Honda "dame". Tàu hải quân chuẩn bị bốc người về Vũng Tàu. Thứ hối hả không biết giải quyết chiếc xe Honda ra sao. Thấy tôi, Thứ giao mọi giấy tờ chủ quyền. Nếu còn gặp lại nhau thì tôi giao xe lại, nếu không, tôi toàn quyền. Tôi ghi địa chỉ của tôi tại Sài Gòn cho Thứ. Thế là chia tay.
Hôm sau, tàu và người đã rời Bình Tuy. Có tin Hàm Tân đã bị địch chiếm. Tôi đã rời nhà Triệu tối qua, và đến nhà A Tỷ, một người Tàu Chợ Lớn, đàn em (lính kiểng) của Triệu. Nhà ở sát bờ biển. Người ta ào ạt tìm thuyền rời Bình Tuy. Đổ đầy xăng chiếc xe Honda của Thứ, tôi chở A Tỷ dọc bờ biển đến 1 địa điểm khá vắng, kín đáo.
A Tỷ là 1 thương gia buôn đồ biển. Cậu ta đã thuê sẵn 1 chiếc ghe máy. Chỉ có khoảng 10 người trên ghe, chờ chúng tôi.
Ghe máy đến Phước Hải, Vũng Tàu an toàn. Ở lại đây qua đêm. Làng chài tại Phước Hải cũng rục rịch. Sau này tôi mới biết, cả làng chài Phước Hải đều là công giáo, họ đã dùng thuyền bè vượt biển hầu hết cả làng.
A Tỷ chở tôi. Hành trang gọn, nhẹ. Chúng tôi đều mặc dân-phục. Nhiều trạm xét, nhưng cả hai đều có đủ giấy tờ hợp lệ. Ghé qua căn vườn tại cây số 74.5 mà tôi đã mua năm ngoái, hỏi thăm cha mẹ vợ (đang coi sóc vườn) về tình hình ở đây. Chúng tôi tiếp tục chạy về Sài Gòn.
Đưa A Tỷ đến nhà tại Quân 5, tôi về nhà tại Quận Phú Nhuận. Đã là ngày 21/4/1975. Mệt quá, nghỉ ngơi, và ngủ vùi.
Gần 4 tháng qua, tôi chưa nhận đơn vị. Chưa được phát vũ khí, quân trang quân dụng.
Hôm sau, tội vội đến nhà bạn thân, là Lê Hữu Cương. Ở quận Tân Bình (hình như đường Thoại Ngọc Hầu). Cương có nhiều bạn tại Sài Gòn. Chúng tôi cùng nhau đi thăm hỏi tình hình. Hình như Tổng Thống Thiệu vừa từ chức.
Quanh qua La Pagode, Brodard, trước Quốc hội, trước Caravelle, từng nhóm người lớn tiếng bàn thời sự. Công khai chỉ trích chính quyền, chỉ trích nhiều nhân vật ...
Tôi tìm Đức (là Phạm Đức, con ông Phạm Tự - Ty trưởng Nội an Quảng Ngãi). Đức đã cho tôi biết chỗ làm việc. Chúng tôi vẫn duy trì liên lạc, sau khi Đức rời Quảng Ngãi năm trước. Đức đang là Sĩ Quan Cảnh Sát, làm việc tại phi trường Tân Sơn Nhất.
Bây giờ là 24/4/1975. Thiên hạ quanh tôi đều chú tâm một việc : làm sao ra nước ngoài. Đức rất thích tôi. Và nói rõ chương trình ít ngày tới. Vợ chưa cưới của Đức là Tiếp viên hàng không VN. Cả 2 đều có thể rời VN bất kỳ lúc nào, kể từ hôm nay. Tôi nói về ý định ra nước ngoài của mình cho Đức. Đức offer tôi 4 chỗ. Thời gian để quyết định là từ 25-27/4. Chỉ trong 3 ngày này, tôi có thể rời VN.
Chiều tối 25, Đức đến nhà tôi. Đức và bạn gái sẳn sàng rời tối nay, nếu tôi quyết định. Tôi cho Đức biết, nhà tôi có 7 người (2 vợ chồng + 5 con), biết ai đi ai ở lại đây? Đức ra về, hẹn chiều mai.
Vợ tôi thúc giục tôi đi 1 mình. Bà không nỡ xa con, dù bất kỳ đứa nào. Thế là trong ngày, tôi đi đổi lấy 1 ít tiền đô-la Mỹ (khoảng 100 bằng tiền lẻ 5$, 10$), ít vật dụng vừa chỗ 1 samsonite xách tay nhỏ.
Đức lại đến, xẩm tối 26. Rồi tôi lại đổi ý định. Đức bảo sẽ chỉ chờ đến trưa mai, nếu tôi không đến gặp Đức, và cho biết quyết định, thì Đức sẽ rời tối đó.
Đức và bạn gái rời VN đêm 27/4/1975. Cũng ngày này, Cương và tôi chạy tìm phương tiện, đủ chỗ cho cả 2 gia đình chúng tôi. Lần lượt 2 ngày sau, chúng tôi tìm mọi nơi, nhưng thất bại.
Thế là sau 30/4/1975, 2 đứa tôi : - 1 Cương thương-phế-binh đã giải ngũ, đã trả súng - và tôi, 1 quân nhân chưa được đơn vị nhận, chưa được phát súng - thì súng đã gãy rồi.
Đón chúng tôi, chỉ là trại giam khổng lồ trên cả nước VN, từ Nam chí Bắc, từ Cà Mâu đến biên giới Việt-Trung.
Tôi vẫn còn nhớ việc Thứ và chiếc xe Honda. Giao giấy tờ chủ quyền xe cho vợ tôi và dặn, khi nào Thứ hay người được Thứ viết giấy xác nhận, đến thì giao xe. Vài ngày trước khi đi trình diện "học tập cải tạo", thì Thứ đến. Ra đầu ngõ, Thứ mời tôi "ly sâm bổ lường". Rồi chia tay.
Kỷ-niệm thứ 47 ngày "gãy súng"!
(Stone Mountain GA - April 18, 2022)
No comments:
Post a Comment