Wednesday, November 5, 2014

• Sự Chính danh của nước VNCH

Sự Chính danh của nước VNCH
Vài chuyện ở hội đồng LHQ năm 1947-1949
1. Việt Nam Cộng Hoà:
Ở trang 536 trong cuốn Year Book năm 1947-1948 của LHQ có đoạn:



• Chuyện một lá cờ - Phạm Văn Thành

Five Council members offered draft resolutions or amendments concerning the relation between ECAFE [1] on the one hand and the Republic of Indonesia and Viet-Nam on the other. The representative of the U.S.S.R. proposed (E/907 and Corr.1) that the Council recommend that the Indonesian Republic and the Republic of Viet-Nam should be accorded associate membership in the Commission.

The representative of New Zealand suggested (E/931) that the Council submit to the Security Council all of its own as well as of ECAFE's records concerning possible Indonesian membership in the Commission and seek the Security Council's assistance, since the latter was seized of the Indonesian question, and that the Secretary-General be requested to submit to the next (i.e., fourth) session of ECAFE a full statement on the constitutional and de-facto situation in Indonesia.

The representative of the Netherlands proposed (E/937) an amendment to the New Zealand draft resolution, deleting therefrom the request for Security Council assistance (but not deleting the transmission to the Security Council of the records on the Indonesian application) and the request to the Secretary-General that he submit to ECAFE's fourth session a statement on the de facto situation in Indonesia.

The representative of Australia proposed (E/957) that the Economic and Social Council go on record as considering that ECAFE already had authority to deal with applications for membership from areas within its geographical scope and that no action was required on the matter at that session of the Council.

The representative of the ByelorussianS.S.R. suggested (E/967) that the operative part of the U.S.S.R. proposal (recommending that ECAFE admit the Indonesian Republic and the Republic of Viet-Nam as associate members) be incorporated into the Australian suggestion. At its 200th meeting, on August 16, 1948, the Council after rejecting the U.S.S.R. draft resolution (E/907) (by a vote of 9 to 4, with 5 abstentions, on the recommendation bearing on the Republic of Indonesia, and by a vote of 11 to 3, with 4 abstentions, on the recommendation regarding VietNam), adopted the Australian proposal (E/957) by a vote of 12 to 3 with 4 abstentions.



Năm thành viên Hội đồng được cung cấp dự thảo sửa đổi các nghị quyết hoặc tu chính liên quan đến mối quan hệ giữa ECAFE ở một mặt và nước Cộng hòa Indonesia và Việt Nam một mặt khác. Đại biểu của Liên Xô đề xuất (E/907 và Corr.1) Hội đồng nên đề nghị Cộng hòa Indonesia và Việt Nam Cộng Hoà được phép trở thành thành viên liên hiệp trong Ủy ban.

Đại diện của New Zealand gợi ý (E/931) rằng Hội đồng đệ trình lên Hội Đồng Bảo An tất cả các hồ sơ của mình và hồ sơ của ECAFE liên quan đến vấn đề Nam Dương có thể trở thành thành viên trong Ủy ban và tìm sự hỗ trợ của Hội đồng Bảo An, vì điểm thứ nhì được thụ lý từ câu hỏi của Nam Dương, và Tổng thư ký được yêu cầu đệ trình trong phiên họp kế tiếp (tức là, thứ tư) của ECAFE một tường trình đầy đủ về tình hình hiến pháp và tình trạng thực tế ở Nam Dương.

Đại diện của Hà Lan đề xuất (E/937) tu chính cho bản dự thảo mới của New Zealand, xóa bỏ yêu cầu được Hội đồng Bảo An hỗ trợ (nhưng không xóa thông tín đến Hội đồng Bảo An các hồ sơ gia nhập của Nam Dương) và yêu cầu đến Tổng thư ký rằng ông đệ trình ở phiên họp ECAFE lần thứ tư một tuyên bố về tình hình thực tế ở Nam Dương.

Đại diện của Úc đề xuất (E/957) Hội đồng Kinh tế và Xã hội cứ ghi nhận trong lục xem xét vấn đề ấy vì ECAFE đã có thẩm quyền xử lý các đơn gia nhập cho các thành viên từ các khu vực trong phạm vi địa lý của nó và không cần làm gì khác tại kỳ họp đó của Hội đồng.

Đại diện Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Belarus đã đề nghị rằng (E/967) tác phần của đề nghị từ Cộng Hoà Liên Bang Xô Viết (đề nghị rằng ECAFE đưa Nam Dương Cộng Hoà vàViệt Nam Cộng Hoà vào ghế thành viên liên kết) được gộp chung vào đề nghị của Úc Đại Lợi. Trong cuộc họp thứ 200 vào ngày 16 tháng 8 năm 1948, Hội đồng sau khi từ chối dự thảo (E/907) của Cộng Hoà Liên Bang Xô Viết (bằng số biểu quyết 9 trên 4, với 5 phiếu trắng về việc đề nghị về Cộng Hoà Nam Dương, và số biểu quyết 11 trên 3 với 4 phiếu trắng về việc đề nghị cho Việt Nam), tiếp nhận đề nghị của Úc Đại Lợi (E/957) với số biểu quyết 12 trên 3 với 4 phiếu trắng.




Trang 536 trong cuốn Year Book năm 1947-1948 của LHQ.

2. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà:
Ở trang 509 và 510 trong cuốn Year Book năm 1948-1949 của LHQ có ghi:

The question of the admission of Viet-Nam was considered by the Commission at its fourth session, but the Chairman ruled that no valid application for associate membership from the Democratic Republic of Viet-Nam had been received.

At its fifth session, the Commission had beforeit: a request for admission from the Democratic

Republic of Viet-Nam, and an application presented by France for the admission of the State of Viet-Nam. Both applications were considered simultaneously.

The representatives of France, Australia, Cambodia and the United Kingdom supported the candiditure of the Government of the State ofViet-Nam as being the duly-constituted and legal Government of the territory. The representatives of France and the United Kingdom pointed out that ECAFE's terms of reference stated that applications could only be considered when they were made, on behalf of a territory, by the Government responsible for its international relations, which, they felt, applied in the case of the application of the State of Viet-Nam. An application could also be considered when made by a territory not a United Nations Member, but responsible for its own international relations. These conditions were not met in the case of the "so-called" Democratic Republic of Viet-Nam, and they accordingly requested the Commission to declare the application not admissible.

The representatives of the USSR and the Republic of Indonesia supported the application of the Democratic Republic of Viet-Nam as the only legal Government of the territory. The USSR representative observed that the United Kingdom and Australian representatives, among others, had stressed the question of responsibility for international relations. He did not feel it correct that the application of the Democratic Republic of Viet-Nam could not be accepted because it "had not at present its own international relations". Although some representatives had expressed the view that the general criterion for deciding the independence of a country was that of general recognition, he believed that other considerations should be taken into account, such as the territory and population a Government controlled, its means, and its control of the armed forces.

The representative of India announced his intention to support both candidatures. The applications of such Governments as actually controlled the economic life of the region, he considered, should be supported.

By 8 votes to 1, with 3 abstentions, the Commission admitted the State of Viet-Nam as an associatemember of ECAFE. The application of the Democratic Republic of Viet-Nam was rejected by 2 votes in favour to 7 against, with 3 abstentions.


Vấn đề về việc gia nhập của Việt Nam được Ủy Ban xem xét tại kỳ họp thứ tư, nhưng Chủ tịch phán quyết rằng không nhận được đơn làm thành viên liên kết hợp lệ từ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

Tại kỳ họp thứ năm, Ủy ban đã nhận được: một thỉnh cầu gia nhập của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và một đơn khác do Pháp đệ nạp cho Quốc Gia Việt Nam. Cả hai đơn đều được xem xét cùng một lúc.

Các đại diện của Pháp, Úc, Campuchia và Vương quốc Anh hỗ trợ trường hợp của Chính phủ Quốc Gia Việt Nam như một Chính phủ của một lãnh thổ được thành lập hợp lệ. Các đại diện của Pháp và Vương quốc Anh đã chỉ ra rằng điều khoản tham chiếu ECAFE tuyên bố các đơn gia nhập chỉ có thể được xem xét khi họ đã đại diện cho một lãnh thổ, từ Chính phủ chịu trách nhiệm về quan hệ quốc tế, trong đó, họ cảm thấy, đơn gia nhập của Quốc Gia Việt Nam đã hội đủ. Một đơn gia nhập cũng có thể được xem xét khi được một lãnh thổ không phải là một quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc nhưng tự chịu trách nhiệm về các mối quan hệ quốc tế của mình. Những điều kiện này không được hội đủ trong trường hợp của "cái gọi là" Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và theo đó họ yêu cầu Ủy ban tuyên bố đơn tham gia ấy không thể chấp nhận được.

Các đại diện của Liên Xô và Cộng hoà Indonesia hỗ trợ đơn gia nhập của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là Chính phủ hợp pháp duy nhất của lãnh thổ. Đại diện Liên Xô nhận thấy rằng Vương quốc Anh và đại diện của Úc, trong số những người khác, đã nhấn mạnh vấn đề trách nhiệm đối với quan hệ quốc tế. Ông không cảm thấy nó đúng là đơn của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa không thể được chấp nhận bởi vì nó "đã không biểu thị quan hệ quốc tế của mình". Mặc dù một số đại biểu đã bày tỏ quan điểm cho rằng các tiêu chí chung để quyết định sự độc lập của một quốc gia là sự công nhận chung, ông tin rằng những cân nhắc khác nên được xem xét, chẳng hạn như lãnh thổ và dân số một chính phủ kiểm soát, phương tiện của nó, và việc kiểm soát các lực lượng vũ trang.

Đại diện của Ấn Độ thông báo ý định hỗ trợ cả hai ứng cử viên. Các đơn gia nhập của các Chính phủ ấy có vẻ thực sự kiểm soát đời sống kinh tế của khu vực, ông cho rằng, nên được hỗ trợ.

Với 8 phiếu biểu quyết trên 1 và 3 phiếu trắng, Ủy ban thừa nhận Quốc Gia Việt Nam như một thành viên liên kết của ECAFE. Đơn gia nhập của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã bị từ chối từ kết quả 2 phiếu ủng hộ so với 7 phiếu chống và 3 phiếu trắng.



Trang 509 trong cuốn Year Book năm 1948-1949 của LHQ.






Trang 510 trong cuốn Year Book năm 1948-1949 của LHQ.

3. Rút ra cái gì?
- Việt Nam Cộng Hoà đã từng được công nhận là một quốc gia chính thức và đã từng được biểu quyết là thành viên kết giao của Liên Hiệp Quốc từ tháng 8 năm 1948.

- Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đã bị khước từ đơn gia nhập ngay từ 1948 và không được công nhận là một quốc gia hợp pháp.

Chú thích:
[1] ECAFE là viết tắt của Economic and Social Commission for Asia and the Pacific (Uỷ ban kinh tế và xã hội Á Châu và Thái Bình Dương).




Bộ đội trường sơn: CẢM ƠN ANH, NGƯỜI LÍNH VNCH   


 KHÁI NIỆM :
Nhân bản là gì ? ‘nhân’= người, con người ; ‘bản’ = cái gốc, nền tảng. Vậy ‘nhân bản’ là cái gốc của con người từ khi mới hình thành (trong bụng mẹ) đến lúc chào đời. Con người, khi ấy mới chỉ là một sinh vật có bản năng, chưa có ý thức, tri thức, dục vọng.  Vì thế mới có câu “người mới sinh, tính vốn lành” (“nhân chi sơ, tính bản thiện” của Nho giáo), “trẻ thơ giống như một tờ giấy trắng” (tục ngữ VN) qua đó chưa in một tì vết nào. 
Con người là yếu tố căn bản để cấu thành xã hội, một xã hội tốt cần phải có con người tốt. Muốn như thế thì tờ giấy trắng phải được viết lên cụm từ nhân bản ngay từ lúc biết viết khi được khai trí từ lúc đứa trẻ mới cắp sách đến trường.

 Nhân bản xét theo nhãn quan xã hội : đó là cái gốc của con người, tuy nhiên tư duy con người luôn phát triển và sẽ không dừng lại, bởi con người là một sinh vật có lý trí, có biến đổi theo thời gian. Con người theo thời gian tăng trưởng sẽ ảnh hưởng bởi môi trường, hấp thụ bởi môi sinh (từ gia đình tới học đường, xã hội), nên cái gốc ấy sẽ dần biến đổi (có thể trở thành càng ngày càng tốt lành, mà cũng có thể trở nên ngày một hư đốn, tồi tệ). 


Vì thế, giáo dục là là công cụ phát triển xã hội  theo định hướng nhân bản, để có một quốc gia ổn định về phát triển và tốt dẹp. Giáo dục nhân bản phải là hướng đi lên cần thiết cho mọi chế chế độ chính trị hiện nay. 


Một xã hội muốn phát triển tốt đẹp phải có những định chế, luật lệ nhằm răn đe, sửa chữa những lệch lạc, sai lầm. Một chế độ dân chủ tự do đúng nghĩa phải là một chế độ biết tôn trọng triệt để về nhân quyền, nhân vị.

Giáo dục là nền tảng cho sự phát triển nhân bản và đào tạo cho xã hội một đội ngũ tốt trong việc giử nước dựng nước và xây dựng đất nước. Việt nam cộng hoà là một quốc gia tuy còn non trẻ trong việc xây dựng đất nước, nhưng biết đặt nền tảng nhân bản ngay từ khi thiết lập chính sách giáo dục cho toàn miền nam. Tiêu chuẩn đào tạo của chương trình giáo dục VNCH = Nhân bản, Khai Phóng và Tiến Bộ. Đây là nền tảng để đào tạo con người và hiền tài cho đất nước và chế độ tại miền nam trước năm 1975Giáo dục VNCH không đưa chính trị vào học đường, khác hẳn hoàn toàn với chính sách giáo dục phi nhân bản của VNDCCH và CHXHCNVN, mà bác và đảng thường gọi là chiến lược trồng người 100 năm của các đỉnh cao trí tuệ. Và tạo ra nhiều hệ lụy  hơn nửa thế kỷ qua  ( 1945-2014) từ một chính sách không đặt nặng nhân bản trong giáo dục đào tạo.Những hệ lụy mà đồng bào đã phải hứng chịu như:

1. Chính sách khát máu do những con người của đảng csVN  gây ra trong thời kỳ CCRĐ tại miền bắc 1953-1956, đem đến cái bất hạnh cho nhân dân miền bắc, đưa đến cuộc di cư lớn nhất trong lịch sử của Việt tộc vào năm 1954. 






2. Xâm lăng miền nam VN.....từ cái tết Mậu Thân 1968, và cuộc chiến tương tàn 20 năm do họ hồ và đảng csVN đã  tạo, gây ra cảnh chết chóc cho 2.000.000 thanh niên và đồng bào hai miền nam bắc.



3. Xã hội VN hiện nay đang nằm trong một tình trạng an ninh bất ổn, kinh tế kiệt quệ với số nợ công gần như ngập đầu. Mà mổi người dân phải gánh chịu bình quân là 903US Đô la cho mổi đầu người lớn nhỏ, con số chính thức do CHXHCNVN đã công bố. Công bố đó chưa phải là con số thật về nợ công của VN, vi nhà nước không công bố toàn bộ nợ của các doanh nghiệp VN

http://www.danluan.org/tin-tuc/20111003/no-cong-cua-viet-nam-tiem-an-nhieu-rui-ro

4. Dân oan hàng ngày đi biểu tình khắp nơi trên các đường phố từ bắc chí nam.  ( xem các clip Video có ở phần cuối của bài viết) 

https://www.youtube.com/watch?v=qW9lPeHslOI

5. Để thay đổi hoàn cảnh xã hội khắc nghiệt, đàn bà con gái VN phải chấp nhận những khổ hình về thân xác  để đưọc sự đổi đời bằng cách đi lấy chồng nước ngoài ....... từ đó trở thành nạn nhân của chế độ buôn người do đảng csVN chủ xướng

https://www.youtube.com/watch?v=4LUhsgrScZ8

Tóm lại với chính sách trồng người của đảng đã tạo ra những hệ lụy xã hội trong nhiều mặt, đem đến một sự phá sản toàn diện đất nước trong những ngày sắp tới đây!


VNCH MỘT CHẾ ĐỘ ĐẦY NHÂN BẢN TỪ HÌNH THỨC ĐẾN NỘI DUNG

Nhân bản cần phải được đề cao trong mọi chế độ chính trị xã hội của các nước văn minh hiện nay trên thế giới. Nhân bản xã hội  =  Con người + chính sách giáo dục.   ‘Nhân’ bản xã hội, như đã trình bày trên : ‘nhân’ là người, một con người cụ thể trong xã hội loài người. Nhân bản bao hàm ý nghĩa sâu rộng hơn  lòng nhân của con người phát xuất từ chính sách giáo dục và đến  từ trong đức tin của các tôn giáo. Một chế độ hữu thần bao giờ củng ôn hoà và hạnh phúc hơn các chế độ vô thần nơi các nước cộng sản. Ngày nay để che đậy bản chất vô thần, đảng csVN đã thiết lập một chế độ hữu thần trong bản chất vô thần. Tức là cho hoạt động tôn giáo theo định hưóng XHCN, một hình thức kềm chế tôn giáo một cách tinh vi qua bọn TÔN GIÁO QUỐC DOANH.

Nhân bản của VNCH được ghi từ trong hiến pháp 1956 và hiến pháp 1967. Nhân bản còn được gắn trên đầu súng của từng chiến sĩ VNCH, để giãm thương, và đưa kẻ thù trở về với Đạo Việt  trong lúc bảo vệ miền nam tự do.

                                                                                                                                                           
TÍNH NHÂN BẢN TRONG HIẾN PHÁP VNCH 1956 và 1967.
1. HP 1956

http://www.buinhuhung.com/TT_ND_Diem/02_Hien_Phap_VNCH_1956.htm
2. HP 1967 :

http://www.danviet.de/doc/muc10/b3411d.pdf

Trích lời mở đầu của bản hiến pháp 1956 như sau: 

" Chúng tôi, dân biểu quốc hội lập hiến:
Ý thức rằng Hiến Pháp phải được thực hiện nguyện vọng của nhân dân từ Mũi Cà Mau đến Ài Nam Quan
Nguyện vọng ấy là:
Cng cố  Độc lập chống mọi hình thức xâm lăng thống trị;
Bảo vệ tự do cho mỗi người và cho dân tộc;
Xây dựng dân chủ về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá cho toàn dân trong sự tôn trọng nhân vị;


Ý thức rằng quyền hưởng tự do chỉ được bảo toàn khi năng lực phục tùng lý tri và đạo đức khi nền an ninh tập thể được bảo vệ và những quyền chính đáng của con người đươc tôn trọng...."

Đây là một bản văn nói lên được bộ mặt và bản chất của một chế độ rất hoàn mỹ trong một thời kỳ 9 năm, những điều ghi trong hiến pháp nêu được tính nhân bản cần thiết trong việc xây dựng đất nước theo chiều hướng đi lên của cộng đồng tiến bộ trên thế giới.


ĐỊNH HƯỚNG NHÂN BẢN TỪ HỌNG SÚNG ĐẾN VIÊN ĐẠN CỦA QL.VNCH:
Một số tài liệu được sưu tầm dưới đây cho thấy con người được tôn trọng triệt để trên khắp nẻo đường đất nước, khắp nơi nơi đều có thể nhận ra được thành quả về nhân bản mà chế độ và con người trong chế độ VNCH đã đạt được trong 20 năm dựng nước VNCH. Những người lính VNCH đều được học tập cẩn thận về tính nhân bản trong khi tiến hành việc bảo vệ lãnh thổ VNCH trước sự xâm lăng của người cộng sản miền bắc. 






Với quốc sách chiêu hồi của VNCVH, không những thể hiện được tình anh em đồng bào cùng một bọc, mà còn tiết kiệm xương máu cho những người chủ chiến từ miền bắc, ngoài ra nó còn nói lên được tinh thần đùm bọc thương yêu trong truyền thống Việt đạo " bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn"







Những tù binh việt cộng được đối xữ rất nhân đạo 
từ trong nhà tù cho đến khi được trao trã theo 
tinh thần hiệp định Paris 

Tù binh vc đánh cờ trong trại tù của VNCH




Cách đối xử của VNCH với tù binh cs


Chế độ ăn uống rất đầy đủ cho các tù binh vc


Khẩu phần thịt đều được các tù binh vc nhận 
đầy đủ trong các trại tù của VNCH. 


 ảnh những vườn rau tự trồng trong 
trại tù binh vc của VNCH


Tù binh cộng sản được chăm 
sóc sức khoẻ rất tử tế 


Tù binh vc không chịu trả về bắc năm 1973 

Bầy vịt được các tù binh vc nuôi trong 
nhà bếp của trại tù Côn Sơn.


Vườn hoa do các tù binh vc trồng trong trại tù Côn Sơn


Hàng trăm tù binh vc không chịu hồi hương ra 
bắc theo tinh thần trao trã tù binh của hiệp định Paris

Ngoài chiến trường các tù binh cũng được đối xữ theo đúng những gì được học tập trong lúc còng đang đi học tại các quân trường huấn luyện binh sĩ của VNCH. Những hình ảnh sau đây sẽ nói lên được tính nhân bản trong QL.VNCH. Hình ảnh về cách đối xữ của lính nhảy dù VNCH với tù binh bị bắt sống ngoài mặt trận trong trấn đánh tại Sài Gòn năm Mậu Thân 1968.




TÍNH PHI NHÂN BẢN TRONG HIẾN PHÁP CHXHCNVN 1992 và 2013:

Trích lời mở đầu của bản hiến pháp 1992 của nước CHXHCNVN:

"rải qua mấy nghìn năm lịch sử, nhân dân Việt Nam lao động cần cù, sáng tạo, chiến đấu anh dũng để dựng nước và giữ nước, đã hun đúc nên truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa, kiên cường bất khuất của dân tộc và xây dựng nên nền văn hiến Việt Nam.


Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, đầy gian khổ hy sinh, làm Cách mạng tháng Tám thành công. Ngày 2 tháng 9 năm 1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Tiếp đó, suốt mấy chục năm, nhân dân các dân tộc nước ta đã liên tục chiến đấu, với sự giúp đỡ quý báu của bè bạn trên thế giới, nhất là các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng, lập nên những chiến công oanh liệt, đặc biệt là chiến dịch Điện Biên Phủ và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đánh thắng hai cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân và đế quốc, giải phóng đất nước, thống nhất Tổ quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân. Ngày 2 tháng 7 năm 1976 Quốc hội nước Việt Nam thống nhất đã quyết định đổi tên nước là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ra sức xây dựng đất nước, kiên cường bảo vệ Tổ quốc đồng thời làm nghĩa vụ quốc tế.


Qua các thời kỳ kháng chiến kiến quốc, nước ta đã có Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980.


Từ năm 1986 đến nay, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đại hội lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam đề xướng đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Quốc hội quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1980 để đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới.


Hiến pháp này quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước, thể chế hoá mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý.

Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ qúa độ lên chủ nghĩa xã hội, nhân dân Việt Nam nguyện đoàn kết một lòng, nêu cao tinh thần tự lực, tự cường xây dựng đất nước, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác với tất cả các nước, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp, giành những thắng lợi to lớn hơn."

Qua lời mở đầu chỉ thấy tự ca ngợi, tâng bốc cá nhân và tuyên dương thành tích của đảng csVN. Một hình thức tự đánh bóng của các đỉnh cao cháy rụi trong cái gọi là Bộ Chính Trị đảng bán nước csVN.  Bản hiến pháp sửa đổi 2013 cũng không thay đổi được nội dung của bản hiến pháp 1992 là bao nhiêu, chỉ thấy tăng quyền sát phạt nhân dân bằng công cụ truyền thống là buá liềm. 

TRÍCH HIẾN PHÁP NƯỚC CHXHCNVN 2013 ( Hiến pháp sửa đổi)
Bản Hiến pháp sửa đổi được Quốc hội thông qua sáng 28/11/2013. 

http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/quoc-hoi-thong-qua-hien-phap-sua-doi-2916328-p2.html

LỜI NÓI ĐẦU
Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, Nhân dân Việt Nam lao động cần cù, sáng tạo, đấu tranh anh dũng để dựng nước và giữ nước, đã hun đúc nên truyền thống yêu nước, đoàn kết, nhân nghĩa, kiên cường, bất khuất và xây dựng nên nền văn hiến Việt Nam.

Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, Nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh lâu dài, đầy gian khổ, hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của Nhân dân. Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bằng ý chí và sức mạnh của toàn dân tộc, được sự giúp đỡ của bạn bè trên thế giới, Nhân dân ta đã giành chiến thắng vĩ đại trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.  

Thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kế thừa Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

CHƯƠNG I - CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ

Điều 1
Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời.

Điều 2  
1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. 

3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Điều 3
Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.

Điều 4
1. Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. " Hết trích

Nhìn qua những bản hiến pháp của chế độ chính trị VNCH và  CHXHCNVN đã cho người dân thấy được thế nào là nội dung của hai chử NHÂN BẢN được thể hiện qua bản văn mang tính LUẬT cao nhất nước, để mọi cấp thi hành. 

Truyền thống nhân bản chỉ có từ con người thấm nhuần văn hoá truyền thống Việt, điều nầy không bao giờ có nơi họ "hồ" và các đảng viên cộng sản. Họ là những người đã có tư tưởng đi ngoài truyền thống của ĐẠO VIỆT và TÌNH VIỆT. 


Điều 4 hiến pháp của CHXHCNVN nói rõ : "lấy nền tảng Mác -Lenin và tư tưởng ung thối của họ "hồ" và là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội,  như vậy tính nhân bản truyền thống của Việt tộc nằm ngoài lề bản hiến pháp!!  Một chế độ chính trị độc đảng( nhất nguyên) nói lên được cấu trúc một chế độ chính trị độc tài phi dân chủ. Thiếu dân chủ là một chế độ không bao giờ tôn trọng nhân vị con người. Điều đó có thể nhận ra được qua chiều dài phát triển của đảng csVN, một quá trình đầy máu và xương trắng khắp 3 miền đất nước.  

Khi cuộc chiến chấm dứt vào ngày 30.4.1975, người cộng sản càng lộ rõ bản chất phi nhân qua việc luà quân cán chính VNCH vào các trại cải tạo, tức nhà tù theo cách nói của phe thắng trận.Người dân miền nam, những nạn nhân trực tiếp và gián tiếp đều bị trã thù dưới nhiều hình thúc như bị đưa đi đến các "vùng kinh tế mới", những nơi rừng thiêng nước độc không có mầm sống, để trù dập gia đình các cựu quân cán chính VNCH và các thành phần được chúng gắn cho cái mác là tư sản....Bọn người thắng trận nầy còn dùng những cách cướp tiền của nhân dân qua cái gọi là đổi tiền, để vơ vét hết của cải nhân dân miền nam. Cã nước phủ màu tang trong những ngày đầu đoàn quân giải phóng có mặt khắp nẻo đường của miền nam. ..Hàng triệu người lại một lần nửa bõ nước ra đi, để tìm hai chử TỰ DO cho cuộc sống và tương lai....cã thế giới tự do đã rơi lệ vì những chiếc thuyền mong manh của người vượt biển tìm tự do trên biển cã mênh mông vào những năm từ sau ngày 30.4.1975 đến 1980, 1981,1982..1985, 1986.

Đôi dép râu  dẫm nát đời son trẽ
Nón tai bèo che khuất nẽo tương lai
(ca dao)

Mức độ phi nhân của chế độ chính trị độc đảng như hiện nay, lần lần đã được phơi bày khì đoàn người thắng trận đưa quân qua Campuchia đễ cướp phá bắn giết nhân dân nước bạn trong cái chiêu bài giúp đở trong tinh anh anh em XHCN, để Campuchia thoát khỏi sự diệt chũng của Pon Pot. Với hành động nầy của phe thắng trận đã làm các nước trong thế giới tự do đi đến quyết định cấm vận kinh tế nước CHXHCNVN cho đến khi bọn vẹm rút quân ra khỏi Campuchia và lệnh cấm VN kinh tế đã được giải toả vào năm1989, để gọi là trừng phạt VN xâm lược Campuchia. Nhưng lệnh cấm vận trong việc mua bán vũ khi sát thương vẩn còn hiệu lực đến ngày hôm nay. Nước Mỹ đang cứu xét lại việc xã cấm vận trong việc mua bán vũ khí sát thương với CHXHCNVN.

Sau đây là một số tài liệu và hình ảnh tiêu biểu về sự phi nhân của đảng csVN sau ngày 30.4.1975 cho đến nay:

1. Trại cải tạo:

2. Cảnh vượt biên tìm tự do sau ngày 30.4.1975
3. Dân oan trên khắp các miền đất nưóc
4. Dân oan Sài gòn biểu tình
5. Giáo dục trong thời xã hội chủ nghiã, thầy trò đánh nhau trên bục giảng
6. Nữ sinh đánh nhau 
7. Hiệu trưởng trung học phổ thông và chủ Tịch tỉnh Hà Giang mua bán dâm nữ sinh
8. Thủ tướng và chủ tịch nước nói gì về nợ công của CHXHCNVN?
9. ĐCSVN đánh đập người tưởng niệm liệt sỹ Hoàng Sa
10. Liên Hiệp Quốc tố cáo CHXHCNVN vi phạm nhân quyền.
11. Tình trạng phá thai ở VN đứng vào hàng top ten của thế giới:

Bản văn có giá trị về mặt luật pháp cao nhất của một quốc gia đó là Hiến Pháp. VNCH trong cuộc chiến đầy chính nghĩa từ nền đệ nht cho đến đ nhị cộng hoà đị bị bọn csVN xuyên tạc và tuyên truyền láo khoét về tính nhân bản của VNCH để che lấp tội ác của bọn chúng về các hành động làm tay sai cho cộng sản quốc tế và xua dân vào cuộc chiến vô nghĩa do tham vọng của tên hồ chí minh và đảng Mafia bán nước cộng sản VN.Nếu như không có họ hồ và đảng csVN, thì mẹ VN đã không rơi lệ vì thân xác của 2 triệu thanh niên và đồng bào hai miền nam bắc đã chết vì chủ nghĩa ngoại lai do họ hồ mang về nước ta để lập đầu cầu cho việc bành trướng thế lực đỏ trong vùng Đông Nam Á.

Để đánh giá một chế độ về mức độ nhân bản, người ta có thể tìm thấy ngay trong hiến pháp của nước đó ban hành. Như các bản hiến pháp của VNCH và CHXHCNVN, để thắm thía về hai chử thế thái nhân tình và bể dâu. Nuối tiếc một chế độ tương đối hoàn mỹ như VNCH là một điều hân hạnh cho giới trẻ VN trong và ngoài nước. Vì đó là chiều hướng đấu tranh cho các nhà dân chủ hiện nay, tuy họ ngoài mặt họ tránh né để đấu tranh để một nước mang nội dung giống VNCH. Nhưng nội dung đấu tranh của họ đều nằm trong những điều có ghi trong hiến pháp nước VNCH thứ nhất và thứ nhì, đó là Dân Chủ Tự Do với nền Kinh Tế Thị Trường, Giáo dục nhân bản, khai phóng và tiến bộ. Độc lập và toàn vẹn lảnh thổ trước áp lực của Trung cộng, đa đảng trong quốc hội, đặt quyền lợi tổ quốc lên trên. Tất cã các yếu tố chính cho cuộc đấu tranh ngày hôm nay của các tổ chức chính trị chân chính trong và ngoài nước có thể tóm tắt trong cụm từ Dân tộc Độc lập, Dân Quyền Tự Do và Dân Sinh Hạnh Phúc.

Lý Bích Thuỳ
7.11.2014  (18 giờ GMT)

No comments: