“Viết với
Tổng Thống Ngô
Đình Diệm
Mở đầu trang
nhật ký, con viết cho cụ. Con nghĩ rằng cụ chưa chết, chưa thể chết được.
Cụ có biết con
buồn khổ suốt tuần lễ không? Dinh Gia Long bây giờ đồi với con xa lạ rồi. Cụ đã
ra đi không bao giờ trở lại. Những ngày sống bên cụ, phục vụ không quên được.
Con sẽ ghi lại
về cụ, người con hằng yêu mến suốt đời.
Đỗ Thọ
Saigon,
4/11/1963”
Ra đi!
“Giờ phút rời
khỏi hầm nhanh chóng không thể tưởng tượng được. Tôi, Đại úy Lê Công Hoàn, Đại
úy Lộc, Đại úy Bằng, ông già Ẩn đang quay quần chung quanh Tổng Thống. Ông Ngô
Đình Nhu từ ngoài hành lang vào nhìn Tổng Thống Ngô Đình Diệm nói: “Đi! Sửa soạn
đi”. Tổng Thống vẫn ngồi, mắt ngước lên hỏi ông Nhu: “Đi mô”. Ông Nhu đáp lại:
“Cứ đi đã”. Tổng Thống gọi ông già Ẩn: “Lấy chiếc kẹp (cặp) xuống đây”. Ông già
Ẩn nhanh chân đưa xuống chiếc “cặp da” cho Tổng Thống. Tổng Thống nói với những
sĩ quan có mặt: “Đi một đứa thôi”. Tất cả đều hiểu ý Thổng Thống nhưng Tổng Thống
lại không chỉ định dứt khoát ai theo Tổng Thống.
Chiếc cặp da
được đặt trên bàn trước mặt Tổng Thống.
Tổng Thống đứng
dậy (chuẩn bị đi) trao cho Đại úy Lê Công Hoàn chiếc cặp da đó. Như thế có
nghĩa là Hoàn được Tổng Thống chọn đi theo.
Tổng Thống bất
thần ngừng lại cửa hầm ít giây trong khi đó tôi lấy chiếc cặp da trên tay Lê
Công Hoàn và thưa với Tổng Thống: “Hoàn đã có vợ con, xin cụ cho con được thay
thế”. Tổng Thống nhìn tôi hơi khẽ gật đầu rồi bước đi. Tôi tạm biệt Lê công
Hoàn chạy theo Tổng Thống cho kịp thời gian đòi hỏi.
Buổi chiều ấy,
Tổng Thống Ngô Đình Diệm lót dạ một tô cháo gà do ông già Ẩn mang xuống hầm. Tổng
Thống uể oải cầm thìa múc cháo, một cử chỉ bệ rạc mất rồi. Tổng Thống nhìn các
sĩ quan chung quang rồi nói với ông già Ẩn: “Múc vài tô nữa cho anh em ăn với”…
Cũng tô cháo
này là bữa ăn phục dịch cuối cùng của ông già Ẩn đối với Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Lúc rời khỏi hầm,
tôi thấy tô cháo còn nguyên vẹn đang nằm hờ hững trên bàn. Lúc ấy là 7 giờ 10
phút tối 1-11-1963.
Còn gì buồn
hơn. Còn gì kỷ niệm hơn một buổi tối ảm đạm như thế. Một buổi tối mà số mệnh của
tất cả những người có mặt trong dinh Gia Long vô cùng bấp bênh. Đồng thời mang
đến buồn tẻ, tủi nhục tiễn đưa một vị Tổng Thống đến một phương trời vô định”
(Trích Nhật Ký
Đỗ Thọ, tr. 193-194)
“Tôi đứng sát
Tổng Thống ngay khi cụ rời dinh Gia Long và nghe cụ lẩm bẩm: “Đi như ri là mất
nước”"
(Lời cụ Cao
Xuân Vỹ)
Vâng! Cách đây
đúng 51 năm về trước, vào lúc 7 giờ 10 phút chiều ngày 1-11-1963, Tổng Thống
Ngô Đình Diệm đã nói lời cuối cùng “ĐI NHƯ RI LÀ MẤT NƯỚC” tại dinh Gia Long,
nơi tượng trưng cho uy quyền quốc gia trong suốt bao năm qua, ngay khi Tổng Thống
và ông cố vấn Ngô Đình Nhu ra đi…
Thế rồi, vào
khoảng 10 sáng ngày 02-11-1963, đài phát thanh Sài Gòn loan tin “Diệm Nhu đã tự
vẫn”. Trước tin sửng sốt này, cả thế giới bàng hoàng rồi phản ứng như sau:
I.-
CỘNG SẢN REO MỪNG:
Khoảng
hai chiều ngày 02-11-1963, tại thủ đô Hà-Nội, khi Hồ Tập Chương (tức quốc tặc Hồ Chí
Minh) biết chắc Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã bị giết chết, ông ta nói với những
nhân viên thân tín của ông ta như sau: “Lúc nãy người ta báo cho Bác biết là
Ông Diệm vừa bị lật đổ. Ông Diệm là kẻ địch thủ ghê gớm nhất của Bác. Nay Ông
ta đã bị loại rồi, thì chiến thắng chắc chắn sẽ về ta rồi."
“Lịch
sử Miền Nam Việt Nam từ năm1963 đến 1975 có thể thâu gọn trong câu nói đó, và
những người tự nhận là thuộc về Đệ Nhất Cộng Hoà nên nhắc nhủ những cá nhân,
hay đoàn thể, đã nhúng tay vào việc lật đổ và hạ sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm
nên suy nghĩ về câu nói đó và trách nhiệm của mình về những gì đã xảy ra từ năm
1963 đến nay…
1.-
Trong những năm trước năm 1963, trong số ký giả Hoa Kỳ ở Sài Gòn có ông Keyes
Beech, đặc phái viên của báo Chicago Tribune, một nhà báo rất được kính nể. Năm
1963 ông này không vào hùa với đám ký giả tay sai của bọn tài phiệt buôn bán
chiến tranh trên xương máu người dân Việt, chống Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Sau
năm 1963, ông vẫn được ở lại Saì Gòn, và ông vẫn thân thiện với tôi. Một hôm,
trong những chuyện ông kể cho tôi nghe có chuyện sau đây. Ông ta nói: "You
know, on the afternoon of the day President Diem was overthrown, I was in a bar
in Pnom-Penh. Sitting next to me was Wilfrid Burchett. We were not friends. But
on hearing the news about President Diem’s death, he turned to me and said:
"It's unbelievable! They have killed the only man with the ideas and the
organisation that can stop us". ("Thật là không thể tin được: chúng
nó đã giết chết người duy nhất có tư tưởng và tổ chức có thể chận chúng
tôi"). Wilfrid Burchett không nói rõ "chúng nó và "chúng
tôi" là ai, nhưng chúng ta cũng có thể thấy rõ là "chúng nó" là
phe chống cộng, và "chúng tôi" là phe cộng sản.
2.-
Hồi trẻ, trước năm 1945, ở Huế, tôi quen thân bà Hồ Thị Mộng Chi. Nhưng sau
1954, bà tỏ ra thân với phía Bắc Việt. Còn tôi lại cộng tác với Tổng Thống Ngô
Đình Diệm. Vì vậy tôi không đi lại với gia đình Bà Hồ Thị Mộng Chi nữa. Sau
1960, và nhất là sau 1968, thì "chiến tuyến" lại càng rõ ràng hơn nữa,
vì Bà Hồ Thị Mộng Chi làm bí thư cho Bà Nguyễn Thị Bình. Hai người con bà Chi
cũng "anti-Saigon" rất hăng, và khi "phe ta" thắng trận năm
1975 mẹ con đều dắt nhau về Việt Nam ngay. Qua bạn bè, đặc biệt là anh Bửu Kỉnh
(nay đã mất), một người bạn thân của gia đình bà Chi, và cũng thân tôi làm
trung gian, tôi gặp lại bà Hồ Thị Mộng Chi tại Pháp. Trong buổi tái ngộ, chúng
tôi nói chuyện lông bông luôn mấy tiếng đồng hồ. Tôi ngồi nghe nhiều hơn nói,
và nghe ba mẹ con bà đua nhau đả kích Việt Cộng kịch liệt! Tôi sửng sốt. Tôi
không dám hỏi tại sao, nhưng chỉ đoán, nhớ bà Chi nói "tụi nó tệ lắm".
Tôi được anh Bửu Kỉnh cho biết, trước đó trong chuyến về Việt Nam mẹ con bà
không được Việt Cọng tiếp đón niềm nở, vì nó thắng rồi nên không cần đến
bà nữa. Bà lại tưởng rằng vì bà là người có công, nhất là đã giúp cộng sản
trong việc tuyên truyền (con đại thần Triều Nguyễn mà lại đứng về phe cách mạng,
lại là bí thư của Bà Nguyễn Thị Bình, ở ngay Paris, trong những cuộc đàm phán hệ
trọng). Còn người con thì thổ lộ: "tụi nó dốt quá" (nó nói rằng Mã
Lai không phải là quốc gia độc lập, còn Lê Đức Thọ, được anh ta dẫn đi coi
thành tựu kinh tế kỹ nghệ Pháp lúc viếng thăm Paris thì cho rằng "chẳng có
gì đáng để ý")!! Nhưng điều đáng ghi nhất là giây phút chót của cuộc tái
ngộ. Lúc đó cũng gần 12 giờ khuya. Bà Chi đưa tôi ra cửa, và cùng tôi đi mấy bước
ra giữa phố, lúc đó vắng. Tôi không hề đề cập gì đến ông Diệm trong cuộc gặp gỡ,
nhưng trước khi chia tay bà ta nói: "Nghĩ kỹ lại, chỉ có Ông Diệm là hơn hết!"
(Trích “Cộng Sản Nghĩ Sao Về Tổng Thống Ngô Đình Diệm của GS Tôn Thất Thiện).
3.-
Trở lại chuyện ký giả cộng sản nổi tiếng Wilfrid Burchett, khi ông ta gặp quốc
tặc Hồ Chí Minh, ông Minh nói với Wilfrid Burchett rằng: "Tôi không thể ngờ
rằng tụi Mỹ ngu đến thế".
Còn
đài phát thanh Hà Nội, buổi tối ngày 02-11-1963 đã bỉnh luận như sau: "Do
sự lật đổ Ngô Đình Diệm và em ông là Ngô Đình Nhu, tụi đế quốc Mỹ đã tự mình hủy
diệt những cơ sở chính trị mà họ Ngô đã mất biết bao nhiêu năm để xây dựng"
Về
phía cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thì bọn chúng không ngờ, bọn chúng
lại may mắn như thế. Nên ông Nguyễn Hữu Thọ nói với báo Nhân Dân: "Sự lật
đổ Diệm là một món quà mà Trời ban cho chúng tôi."
Và
tên Phó Chủ Tịch Trần Nam Trung nói: "Tụi Mỹ quyết định đổi ngựa giữa
dòng. Chúng sẽ không khi nào tìm được một người hữu hiệu hơn ông Diệm."
Ngoài
ra, tên tướng CS Võ Nguyên Giáp và những đồng bọn còn sống sót của ông Hồ Chí
Minh, sau này gặp Ông Robert McNamara ở Hà Nội tháng 11 năm 1995, đã nói rằng:
"Chính sách Kennedy ở Việt Nam sai lầm hết chỗ nói. Ngô Đình Diệm là một
người có tinh thần quốc gia, không khi nào ông chịu để cho người Mỹ dành quyền
điều khiển chiến tranh, và sự người Mỹ dành quyền đã đưa người Mỹ đến thất bại
đắt giá. Cho nên, kết quả của cuộc đảo chánh lật đổ ông Diệm năm 1963 là sự kết
thúc sớm [sự hiện diện] Hoa Kỳ ở Việt Nam, một điều đáng làm cho người ta ngạc
nhiên"
II.-
CHÍNH QUYỀN HOA KỲ THÚ NHẬN:
Tổng
Thống John Kennedy thú nhận rằng:
1.- "Cuộc
đảo chánh đã xẩy ra tại Sài Gòn vào cuối tuần qua. Nó là tột đỉnh của cuộc thảo
luận trong ba tháng về một cuộc đảo chánh, một cuộc thảo luận đã gây chia rẽ
trong chính quyền ở đây và ở Sài Gòn".
2.- "Tôi cảm thấy
chúng ta phải gánh vác rất nhiều trách nhiệm vì nó đã khởi sự bằng điện
văn của chúng ta (mang số 243 được gửi váo cuối tháng Tám, chính xác
là vào hồi 9 giờ 36 phút tối thứ Bảy, 24 tháng 8, 1963, từ Bộ Ngoại
Giao Hoa Kỳ ở Washington, cho Đại sứ Lodge ở Sài Gòn) gửi vào
đầu tháng Tám trong đó chúng ta gợi ý cuộc đảo chánh".
3.- "Theo nhận định của
tôi điện văn đó đã được thảo quá tệ, đáng lẽ nó không bao giờ được gửi đi vào một
ngày Thứ Bảy. Đáng lẽ tôi đã không nên chấp thuận nó mà không qua một cuộc thảo
luận bàn tròn để qua đó Robert McNamara và Maxwell Taylor có thể trình bầy quan
điểm của họ. Còn Tướng Paul Harkins tiếp tục chống đối cuộc đảo chánh trên căn
bản là nỗ lực quân sự đang tiến hành tốt đẹp".
4.-
"Tôi đã bị sốc về cái chết của Diệm và Nhu. Tôi đã gặp Diệm với Thẩm Phán
Tối Cao Douglas nhiều năm trước. Ông đã là người có cá tính ngoại hạng và trong
khi ông gặp khó khăn vào những tháng vừa rồi nhưng trong khoảng mười năm qua
ông đã giữ vững nước ông để duy trì được nền đôc lập dưới những nghịch cảnh rất
khó khăn".
5.-
"Cách mà ông đã bị giết thật kinh khủng. Vấn đề bây giờ là liệu các tướng
có thể đoàn kết với nhau để cùng xây dựng một chính quyền ổn định, hay là Sài
Gòn sẽ bắt đầu, công luận tại Sài Gòn, trí thức, sinh viên, vân vân sẽ chỉ
trích chính quyền này như là áp bức và phi dân chủ trong một tương lai không
xa”.
6.- Phe chống đảo chánh gồm: "Tướng
Maxwell Taylor, Bộ Trưởng Tư Pháp Robert Kennedy, Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert
McNamara, Tổng Giám Đốc CIA John McCone".
7.- Phe ủng hộ đảo chánh:
"Bộ Ngoại Giao, dẫn đầu bởi Averell Harriman, George Ball, Michael
Forestal, Roger Hilsman.
8.- Michel Forrestal chỉ
là một thứ thiên lôi chỉ đâu đánh đấy của Averell Harriman.
9.- Averell W.Harriman đã
có biệt danh “cá sấu”. Tại bàn hội nghị, mắt ông ta lúc nào cũng lim dim như mắt
cá sấu nằm bên bờ lạch, lâu lâu “táp” một cái, con mồi khó thoát.
10.- Bobby Kennedy đã tặng ông
ta một con cá sấu nhỏ bằng vàng, và nhân viên ông ta tặng một con bằng bạc, coi
như kỷ vật “từ các nạn nhân”. Cá sấu Averell W. Harriman đợi hơn một năm, táp
được anh em Cố TT Ngô Đình Diệm.
III.-
NHỮNG TIẾT LỘ:
Sau
đây là lời tuyên bố của cố Tổng Thống Lyndon B. Johnson được ghi lại trong một
cuốn băng dài 30 tiếng đồng hồ do thư viện Johson Library ở Austin, Texas, công
bố ngày 28.2.2003 vừa qua. Những đoạn băng này cho thấy khi chiến tranh Việt
Nam đang ở vào thời kỳ gay go nhất, Tổng Thống Lyndon B. Johnson đã gặp khó
khăn vì sự chống đối của Quốc Hội. Ông bị giằn vặt về sự thất bại trong việc
lãnh đạo chiến tranh Việt Nam. Ông nói: “Tôi không thể rút ra, tôi không thể
chính là kiến trúc sư của sự đầu hàng” (I can’t get out, I just can’t be the
architect of surrender)
Tài
liệu này được công bố sau 40 năm kể từ khi Hoa Kỳ thuê một số tướng lãnh Việt
Nam làm đảo chánh lật đổ và giết chết ông Ngô Đình Diệm, khởi đầu cho việc đưa
quân vào miền Nam Việt Nam.
Tài
liệu vừa được công bố trên cho biết, vào ngày 1.2.1966, Tổng Thống Johnson đã gọi
điện thoại cho Thượng Nghị Sĩ Eugene McCarthay than phiền về việc chính quyền
Kennedy (lúc đó ông Johnson là Phó Tổng Thống) và liên minh cánh tả của ông ta ở
Thượng Viện đã ủng hộ việc ông ta đi vào cuộc chiến Việt Nam, nhưng lại không ủng
hộ ông trong việc tiếp tục cuộc chiến đó. Ông nhắc lại chuyện chính quyền
Kennedy tổ chức giết ông Diệm để có thể tham chiến ở Việt Nam:
“Ngài
nhớ, lúc đầu họ nói với tôi về Diệm. Ông ta tham nhũng và ông ta phải bị giết.
Vì thế, chúng ta đã giết ông ta. Tất cả chúng ta đã họp lại với nhau và sử dụng
một bọn ác ôn côn đồ đáng nguyễn rủa để hạ sát ông ta. Bây giờ chúng ta không
có sự ổn định chính trị [ở Miền Nam Việt Nam] từ lúc đó.”
(They
started on me with Diem. He was corrupt and he ought to be killed. So we killed
him. We all got together and got a goddam bunch of thugs and assassinated him.
Now, we’ve really had no political stability [in South Vietnam] since then.)
Ít
phút sau, trong một cuộc nói chuyện với Tướng Maxwell D. Taylor đang là Đại Sứ
Hoa Kỳ ở Nam Việt Nam, Tổng Thống Johnson lại nhắc lại điều đó. Ông nói với Tướng
Taylor: “Họ khởi đầu và nói: Chúng ta phải giết Diệm, bởi vì ông ta không tốt.
Chúng ta hãy, chúng ta hãy lật đổ ông ta. Và chúng ta đã làm.” (They started
out and said, “We got to kill Diem, because he’s no damn good. Let’s, let’s
knock him off. And we did.)
Tướng
Taylor đồng ý: “Phải, sự việc đã khởi đầu tất cả như thế. Đúng là sự việc đã khởi
đầu như thế.” (Yeah, that’s where it all started. That’s exactly where it
started!”)
Tổng
Thống Johnson giận dữ trả lời: “Và lúc đó tôi đã van nài họ, ‘Xin vui lòng đừng
làm điều đó’. Nhưng sự việc vẫn được khởi sự. Và họ đã lật đổ ông ta.” (“And I
just pled with them at the time, 'Please, don't do it.' But that's where it
started. And they knocked him off.”)
Trong
một bài dưới nhan đề “What's Hidden in the LBJ Tapes. Johnson thought JFK was
responsible for the murder of Ngo Dinh Diem.” đăng trên tuần san Weekly
Standard ngày 29.9.2003, James Osen đã trình bày và phân tích đoạn băng này với
kết luận rằng Tổng Thống Kennedy phải chịu trách nhiệm về cái chết của Tổng Thống
Ngô Đình Diệm. Tác giả đã nhắc lại chuyện một nhân viên CIA là Everette Howard
Hunt đã làm các điện văn giả để giúp Tổng Thống Nixon chứng minh Tổng Thống
Kennedy dính líu đến việc hạ sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Người
ta nhớ lại hôm 19.6.1972, hai ngày sau khi vụ Watergate bùng nổ, một nhân viên
của Safemasters Company và một nhân viên của Sở Mật Vụ (Secret Service) đã đột
nhập vào phòng 522 của Tòa Bạch Ốc, nơi chứa những tài liệu của một người tên
là Everette Howard Hunt, một nhân viên CIA có nhiệm vụ giúp Tổng Thống Nixon. Tại
đây các nhân viên điều tra đã khám phá ra hàng trăm điện văn (cables) ghi lại
các biến cố đưa đến cuộc đảo chánh vào ngày 1 tháng 11 năm 1963 ở Nam Việt Nam
với kết quả là Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông cố vấn Ngô Đình Nhu bị hạ sát.
Các nhân viên điều tra cũng khám phá ra hai điện văn giả về ông Diệm do
Everette Howard Hunt làm với ẩn ý nói rằng chính quyền của Tổng Thống Kennedy
và chính ông ta đã can dự vào việc giết hai nhân vật này.
Everette
Howard Hunt sinh năm 1918, đã làm việc cho CIA từ 1949 đến 1970. Trước đó, ông
ta bị coi là một nghi can quan trọng trong vụ giết Tổng Thống Kennedy vào ngày
22.11.1963, nhưng không bị truy tố vì “không đủ yếu tố buộc tội”. Trong vụ đặt
máy nghe lén nơi họp của Đảng Dân Chủ, ông đã bị phạt 8 năm tù.
Qua
những lời phát biểu của Tổng Thống Lyndon B. Johnson nói trên, chúng tôi thấy
có hai vấn đề được đặt ra: Vấn đề thứ nhất: Trách nhiệm của chính quyền Kennedy
trong vụ làm đảo chánh và hạ sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Vấn đề thứ hai:
Trách nhiệm của “bọn ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa” trong việc hạ sát một cách
dã man Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu. Chúng tôi xin trình bày
qua hai vấn đề này.
IV.-
NHẬN DIỆN CÁC CHÍNH PHẠM.
Không
phải đến ngày 28.2.2003, khi Johson Library công bố cuốn băng nói trên, chúng
ta mới có thể xác quyết chính phủ Hoa Kỳ đã đứng ra tổ chức cuộc đảo chánh ngày
1.11.1963 và ra lệnh giết chết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông cố vấn Ngô Đình
Nhu. Những văn kiện trao đổi giữa Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ và Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại
Sài Gòn trong thời gian từ tháng 8 đến tháng 11 năm 1963 cũng đủ để chứng minh
điều đó.
Cuốn
hồi ký của ông Robert S. McNamara, cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ, xuất bản
năm 1995 cũng đã xác định rất rõ Roger Hilsman Jr., Phụ Tá Ngoại Trưởng đặc
trách Viễn Đông Vụ, Averell W. Harriman, Thứ Trưởng Ngoại Giao, và Michael V.
Forrestal, một thành viên tham mưu (staffer) của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, là
“kiến trúc sư” của cuộc đảo chánh lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Roger
Hilsman là một nhân viên cao cấp của Bộ Ngoại Giao và cố vần về chính sách Việt
Nam. Năm 1961, ông được Tổng Thống Kennedy bổ nhiệm làm Giám Đốc Văn Phòng Tình
Báo và Nghiên Cứu của Bộ Ngoại Giao. Ông được coi như “kiến trúc sư chính về
chính sách Việt Nam của Hoa Kỳ” (principal architect of U.S. Vietnam policy).
Tháng Giêng năm 1962 ông trình bày “Một Quan Niệm Chiến Lược cho Nam Việt Nam”
(A Strategic Concept for South Vietnam), coi việc xây dựng nông thôn Việt Nam
như một chìa khóa đưa đến chiến thắng. Vào tháng 2 năm 1964, sau khi Tổng Thống
Ngô Đình Diệm bị lật đổ, đã có một sự bất đồng giữa Tổng Thống Johnson và Ngoại
Trưởng Rusk về chính sách Việt Nam do Hilsman là tác giả, nên Hilsman phải từ
chức. Năm 1967, Hilsman đã viết cuốn “To Move a Nation” ca tụng chính sách Việt
Nam của Tổng Thống Kennedy và đả kích sự leo thang chiến tranh của Tổng Tống
Johnson.
Nhưng
có lẽ tác giả cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu là
Averell W. Harriman.
Averell
W. Hariman sinh năm 1891, làm Đại Sứ Toàn Quyền của Hoa Kỳ từ 1960 đến 1961,
sau đó làm Phụ Tá Bộ Trưởng Ngoại Giao về các vấn đề Viễn Đông từ 1962 đến 1963
và Thứ Trưởng Ngoại Giao về các vấn đề chính trị từ 1963 đến 1964. Ông được coi
là “kiến trúc sư của chính sách Chiến Tranh Lạnh” (architect of Cold War
policy) của Hoa Kỳ. Trong thời gian làm Phụ Tá Bộ Trưởng Ngoại Giao về các vấn
đề Viễn Đông, Averell W. Harriman đưa ra chủ trương trung lập hóa Lào để bảo vệ
miền Nam Việt Nam. Chủ trương này đã bị ông Ngô Đình Nhu cực lực phản đối.
Câu
chuyện đã xẩy ra như sau: Vào tháng Giêng năm 1961, CIA đưa James W. “Bill”
Lair, một chuyên viên bán quân sự của Hoa Kỳ đến gặp lãnh tụ của HMong Trắng là
Vang Pao để thương lượng về vấn đề võ trang và huấn luyện cho người HMong chống
lại Cộng Sản Lào. Lúc đầu hai bên thỏa thuận Hoa Kỳ sẽ huấn luyện cho 1000 quân
HMong ở biên giới Thái - Lào và cung cấp vũ khí cho họ. Sau đó việc huấn luyện
và trang bị cứ gia tăng dần, đến mùa hè năm 1961, CIA đã huấn luyện và cung cấp
vũ khí cho khoảng 9.000 quân HMong chiến đấu. Tuy nhiên, vào tháng 5 năm 1962,
với sự yểm trợ của bộ đội Việt Cộng, Pathet Lào đã chiếm được thủ phủ Nam Tha ở
bắc Lào. Trước thất bại này, Averell W. Harriman đưa ra chủ trương trung lập
hóa Lào để ngăn chận Cộng Sản Việt Nam mượn đất Lào xâm nhập vào miền Nam Việt
Nam. Cả Hawks trong chính quyền Kennedy lẫn Ngô Đình Nhu đều cho rằng giải pháp
này không thực tế, nhưng Tổng Thống Kennedy vẫn theo ý kiến của Averell W.
Harriman. Ông ra lệnh cho khoảng 3.000 nhân viên quân sự Mỹ rút qua Thái Lan và
sau đó mở hội nghị với với Khrushchev bàn về một giải pháp trung lập cho Lào.
Ngày 23.7.1962 Tuyên Ngôn Trung Lập Lào được công bố. Khoảng 666 cố vấn quân sự
của Hoa Kỳ còn lại rút ra khỏi Lào.
Giải
pháp của Averell W. Harriman đã thất bại rất thê thảm. Theo báo cáo của CIA,
sau khi tuyên bố trung lập, khoảng 7000 bộ đội Việt Cộng chẳng những không chịu
rút khỏi Lào mà còn bành trướng thêm. Trong năm 1963, chính quyền Kennedy lại
cho phép CIA huấn luyện và trang bị cho khoảng 20.000 quân HMong để chống lại
quân Bắc Việt lẫn Pathet Lào. Chính phủ Ngô Đình Diệm đã phê phán Harriman nặng
lời. Có lẽ chính những lời phê phán này đã khiến Averell W. Harriman quyết tâm
tìm cách loại bỏ chính phủ Ngô Đình Diệm.
Averell
W. Harriman đã viếng thăm Việt Nam và báo động rằng chính phủ Ngô Đình Diệm
tham nhũng và bất ổn. Khi vụ Phật Giáo xẩy ra, chính Harriman đã thúc đẩy chính
phủ Kennedy làm áp lực buộc chính phủ Ngô Đình Diệm phải nhượng bộ Phật Giáo.
Phải chăng câu “Ngài nhớ, họ nói với tôi lúc đầu về Diệm. Ông ta tham nhũng và
ông ta phải bị giết.” mà Tổng Thống Johnson đã nhắc lại là lời của Harriman?
Michael
V. Forrestal (1927 – 1989) là Trưởng Ủy Ban Phối Hợp Việt Nam (Vietnam
Coordinating Committee) thuộc Hội Đồng An Ninh Quốc Gia từ 1962 đến 1965. Ông
là người được Averell W. Harriman nâng đỡ. Ông đã cùng với Roger Hilsman, Giám
Đốc Tình Báo của Bộ Ngoại Giao, đến thăm Việt Nam để duyệt xét tình hình tại chỗ.
Trong một bản phúc trình chung, cả hai đã tỏ ra nghi ngờ về khả năng đứng vũng
của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Bản phúc trình nói đến sự ngày càng lớn mạnh của
Việt Cộng và gợi ý rằng cuộc chiến này sẽ kéo dài hơn và tốn kém hơn như đã dự
trù. Bản phúc trình đồng ý trên nguyên tắc về sự hình thành các ấp chiến lược do
ông Ngô Đình Nhu chủ xướng, nhưng lại tỏ ra nghi ngờ về hiệu quả của kế hoạch
này. Trong phần phụ đính mật, hai tác giả đã đề nghị chính phủ Kennedy làm áp lực
buộc chính phủ Ngô Đình Diệm phải thực hiện cải cách và giải tỏa “cơ cấu chính
trị độc đoán” (authoritarian political structure).
Nói
cách khác, Michael V. Forrstal và Roger Hilsmans đã cố tình làm cho các nhà
lãnh đạo nước Mỹ tin rằng miền Nam Việt Nam không thể đứng vững nếu Hoa Kỳ
không can thiệp trực tiếp bằng quân sự, và muốn can thiệp trực tiếp bằng quân sự,
phải thay thế chính phủ Ngô Đình Diệm. Chính bản phúc trình này đã dọn đường
cho việc tiến tới lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm và đưa quân Mỹ vào miền Nam Việt
Nam.
Sau
khi các biến cố Phật Giáo xẩy ra tại Việt Nam, Roger Hilsman và Averell W.
Harriman, với sự phối hợp của Michael V. Forrestal, đã soạn thảo công điện mang
tên DEPTEL 243 chỉ thị cho Đại Sứ Henry Cabot Lodge thực hiện cuộc đảo chánh lật
đổ chính phủ Ngô Đình Diệm. Đây là loại công điện tối mật cần hành động lập tức
(operation immediate). Đô Đốc Harry Felt, Tư Lệnh Mỹ tại Thái Bình Dương, cũng
đã góp ý kiến. Điêu khó khăn là phải làm thế nào để qua mặt được Tổng Thống
Kennedy. Kế hoạch qua mặt này đã được ông Robert S. McNamara, mô tả rõ trong cuốn
hồi ký của ông và sẽ được trình bày ở sau.
Công
điện đã được đánh đi khẩn cấp vào tối thứ bảy 24.8.1993. Công điện ghi rõ:
“Chính phủ Mỹ không thể chấp nhận tình trạng quyền hành nằm trong tay của Nhu.
Phải cho Diệm cơ may loại trừ Nhu cùng phe nhóm và thay thế bằng những nhân vật
chính trị và quân sự khá nhất sẵn có. Mặc dầu những cố gắng của ông, nếu Diệm vẫn
cứng đầu và từ chối, chúng ta phải đối phó với sự thể rằng không thể giữ lại
ngay chính Diệm nữa.”
Để
yểm trợ cho chủ trương này, các ký giả Davis Halberstans của New York Times,
Neil Sheehen của UPI và Malcolm Browne của AP đã viết những bài tố cáo chính
quyền Ngô Đình Diệm chuyên chế và tham nhũng với nhận định rằng không thể thắng
trận ở Việt Nam với chính quyền Ngô Đình Diệm.
Vì
công diện này không được Bộ Trưởng Ngoại Giao, Bộ Trưởng Quốc Phòng và Giám Đốc
cơ quan tình báo CIA xem xét trước nên đã có những sự tố cáo lẫn nhau giữa các
cơ quan này về việc làm nói trên. Nhưng rồi bức công điện đó cũng không hề được
thu hồi.
Nhận
được công điện trên, sáng thứ hai 26.8.1963, Đại Sứ Henry Cabot Lodge triệu tập
ngay cuộc họp gồm tất cả các ngành của Tòa Đại Sứ Mỹ ở Việt Nam để lập kế hoạch
lật đổ Tổng Thống Diệm. Đại Sứ Henry Cobot Lodge không chỉ quyết định phải giết
Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu, mà còn quyết định phải giết cả
ông Ngô Đình Cẩn và Đại Tá Lê Quang Tung. Trong công điện ngày 5.10.1963 gởi về
Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, Đại Sứ Cabot Lodge đã dành một đoạn để đề cập đến những
người bị coi là nguy hiểm nhất ở miền Nam. Dương Văn Minh cho ông biết có ba
người nguy hiểm nhất là Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn và Dương Văn Hiếu. Nhưng
Lucien Conein luu ý rằng Lê Quang Tung đáng sợ hơn. Với nhận định như thế,
ngoài Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Lodge thấy rằng cần phải giết thêm ba người
nữa là ông Ngô Đình Nhu, ông Ngô Đình Cẩn và Đại Tá Lê Quang Tung. Thiếu tá Lê
Quang Triệu tuy không có tên trong sổ đen, nhưng đem mạng tới nạp nên đã bị giết
luôn! Riêng cái chết của Đại Tá Hải Quân Hồ Tấn Quyền vào sáng 1.11,1963 có lẽ
do quyết định của các tướng lãnh Việt Nam.
V.-
TRÁCH NHIỆM CỦA TỔNG THỐNG KENNEDY.
Trong
Chương III của cuốn hồi ký, dưới tiêu đề “Mùa Thu Định Mệnh Năm 1963” (24.8 đến
22.11.1963), ông Robert S. McNamara đã trình bày khá rõ ràng về quyết định của
Hoa Thịnh Đốn lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm. Ông viết:
“Khi
báo cáo về tình trạng xáo trộn tới tấp gởi về Hoa Thịnh Đốn vào ngày 24 tháng
Tám, các nhân viên có nhiệm vụ ứng trực nhận thấy rằng cơ hội để có hành động
chống lại ông Diệm đã đến. Trong đêm đó Hoa Kỳ đã đề ra một kế hoạch đảo chánh,
một hành động trong số những hành động quan trọng nhất của hai trào Tổng Thống
Kennedy và Johnson.
“Người
khởi xướng hành động này là Roger Hilsman Jr., nhân vật kế nhiệm Averell
Harriman, giữ chức Phụ Tá Ngoại Trưởng đặc trách Viễn Đông Sự Vụ. Hilsman là một
người thông minh, hay tự ái và thích nói nhiều, tốt nghiệp trường võ bị West
Point, từng có kinh nghiệm về du kích chiến trong thời Đệ Nhị Thế Chiến và khá
am tường về tình hình. Ông này cho rằng cuộc chiến không thể thắng được nếu còn
ông Diệm, vì thế phải tìm cách gạt ông ta ra."
“Chính
Roger Hilsman đã thảo bức điện tín gởi cho Đại Sứ Henry Cabot Lodge ra lệnh đảo
chánh. Bức điện này được ông Averell Harriman vừa được cử giữ chức Thứ Trưởng
Ngoại Giao chấp thuận ngay. Ông Michael Forrestal, một thành viên của Hội Đồng
An Ninh Quốc Gia, đã gởi ngay cho Tổng Thống Kennedy đang ở Hyamis Port với câu
“Đã được Ball của Bộ Quốc Phòng chấp thuận... Đề nghị cho tôi biết nếu Tổng Thống
muốn... hoãn hành động.” Ông George Ball gọi cho Tổng Thống trình bày nội vụ và
được Tổng Thống trả lời rằng ông đồng ý nếu các cố vấn của ông cũng đồng ý như
vậy. Sau đó ông George Ball gọi ngay cho Ngoại Trưởng Dean Rusk tại New York
báo tin Tổng Thống đã chấp thuận.”
Qua
đoạn ngắn nói trên, chúng ta thấy rằng quyết định lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm
đã được Hoa Kỳ dự tính từ lâu và vụ Phật Giáo là một cơ hội được tạo ra để
chính phủ Hoa Kỳ thực hiện dự tính đó. Roger Hilsman đã nói rõ: “Cuộc chiến
không thể thắng được nếu còn ông Diệm, vì thế phải tìm cách gạt ông ta ra.”
Sau
khi bức điện tín ra lệnh đảo chánh gởi đến Saigon, ông McNamara coi đó là một sự
qua mặt Tổng Thống. Theo ông, lúc đó chỉ có Thứ Trưởng Harriman, Phụ Tá Hilsman
ở Bộ Ngoại Giao và Mike V. Forrestal ở Tòa Bạch Ốc là những người nhất tâm làm
đảo chánh mà thôi. Trong cuộc họp ngày 27.8.1963, khi nghe đọc xong bản tường
trình của ông William E. Colby về tình hình Việt Nam, Tổng Thống Kennedy tỏ ý
muốn hoãn lại cuộc đảo chánh vì thấy chưa cần, nhưng Hilsman đòi làm ngay. Tổng
Thống ra lệnh đánh điện cho ông Lodge và tướng Harking hỏi nên tiến hành đảo
chánh hay nên lui. Tổng Thống đang lưỡng lự trong việc lật đổ ông Diệm thì tại
Saigon, ông Lodge xúc tiến một cách nhanh chóng việc thực hiện đảo chánh.
Cũng
trong cuốn hồi ký dẫn trên, ông McNamara cho biết những gì đã xẩy ra tại Tòa Bạch
Ốc sau khi nghe tin Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã bị giết. Ông viết:
“Chín
giờ ba mươi sáng 2 tháng 11, chúng tôi gặp nhau lại để tiếp tục cuộc họp hôm
qua. Khi buổi họp bắt đầu, chưa ai rõ số phận ông Diệm và ông Nhu ra sao. Đến nữa
chừng thì từ Phòng Tình Hình, Mike Forrestal tông cửa chạy vào. Văn phòng CIA tại
Saigon báo cáo rằng họ được các nhân vật trao đổi công tác của Saigon cho biết
hai anh em ông đã tự vẫn “trên đường từ thành phố đến Bộ Tổng Tham Mưu”.
“Khi
Tổng Thống Kennedy đọc mẫu tin này, mặt ông tái xanh như tàu lá. Tôi chưa hề thấy
ông xúc động mạnh đến như thế bao giờ. Forrestal thuật lại rằng cái chết của hai
người “đã làm cho ông rúng động một cách sâu xa, gây bàng hoàng trong tâm trí và đánh
mạnh vào tiềm thức tín ngưởng... làm lung lay lòng tin tưởng... về những gì ông
đã khuyến cáo liên quan đến Nam Việt Nam.” Arthur Schlesiger Jr. ghi nhận rằng“Tổng Thống buồn
thảm và bối rối cùng cực”, tinh thần suy sụp chưa từng thấy từ sau vụ thất bại ở
Vịnh Con Heo.”
Trong
bài “Chúng ta đã lầm lẫn, lầm lẫn khủng khiếp” đăng trên tờ Newsweek số ra ngày
17.4.1995, ông McNamara đã phê bình Ngoại Trưởng Dean Rusk và Tổng Thống
Kennedy như sau:
“Ngoại
Trưởng Dean Rusk, một người quên mình nhất, một cá nhân tận tụy phục vụ Hoa Kỳ, đã hoàn toàn
thiếu sót trong việc quản trị Bộ Ngoại Giao và giám sát Đại Sứ Henry Cabot
Lodge Jr., và cũng đã không tận tình tham dự các buổi họp của Tổng Thống.
Và Tổng Thống Kennedy, người mà tôi quy trách ít nhất, người đã phải lo toan
nhiều vấn đề khác nữa, đã thiếu sót trong việc kết hợp một chính phủ Hoa Kỳ
chia rẽ. Khi phải chạm trán với những lựa chọn khó khăn, ông không quyết định
trong một thời gian quá lâu.”
Sự
tiết lộ của ông McNamara về việc Bộ Trưởng Dean Rusk hoàn toàn thiếu sót trong
việc quản trị Bộ Ngoại Giao và giám sát các hành động của Đại Sứ Henry Cabot
Lodge khiến nhiều người suy đoán rằng ông Lodge đã tự ý ra lệnh giết ông Diệm
và ông Nhu, đặt Hoa Thịnh Đốn trong một tình trạng đã rồi. Nhưng nay Tổng Thống
Johnson lại cho biết việc hạ sát ông Diệm đã được chính quyền Kennedy qưyết định
trước. Tuy nhiên, ông không nói rõ chính Tổng Thống Kennedy đã ra lệnh giết ông
Diệm. Ông chỉ nói: “Họ khởi đầu và nói: ‘Chúng ta phải giết Diệm, bởi vì ông ta
không tốt. Chúng ta hãy, chúng ta hãy lật đổ ông ta. Và chúng ta đã làm.” Họ là
ai? Có Tổng Thống Kennedy trong đó không? Ông McNamara đã mô tả tình trạng khủng
hoảng của Tổng Thống Kennedy khi nghe tin ông Diệm bị giết và cho rằng Tổng Thống
Kennedy đã bị ba tên Roger Hilsman Jr., Averell W. Harriman và Michael V.
Forrestal đánh lừa.
Ký
giả Evan Thomas cho rằng “Kennedy chỉ ủng hộ việc lật đổ ông Diệm chứ không hề
ra lệnh giết và có lẽ cũng không tiên đoán được sự việc xẩy ra như vậy.” Nhưng
trong cuốn “The dark side of Camelot”, Seymour M. Hersch cho biết trong cuộc phỏng
vấn năm 1998, Lucien Conein, người chỉ đạo trực tiếp cuộc đảo chánh, có nói rằng
Kennedy “phải biết trước” (must have known) chuyện đó. Mặc dầu Lucien Conein
không chứng minh được sự suy đoán của ông ta, một số người căn cứ vào câu nói
này để cho rằng Kennedy biết trước chuyện ông Diệm phải bị giết.
Dầu
sao, cho đến nay, chưa có tài liệu nào cho thấy chính Tổng Thống Kennedy đã ra
lệnh giết ông Diệm. Trái lại, chiều thứ bảy 2.11.1963, lúc 6 giờ, Tổng Thống
Kennedy cùng vợ và các con dùng trực thăng bay về ngôi nhà mới của ông ở
Rattlesnake Mountain. Trong buổi cơm tối, bà Mary Gimbel, một người bạn của Tổng
Thống, đã nói với ông về ông Diệm và ông Nhu:
-
Họ đúng là những nhà độc tài.
Tổng
Thống trả lời:
-
Không, họ ở trong một tình trạng khó khăn. Họ đã làm cái tốt đẹp nhất mà họ có
thể làm cho quê hương họ.
Sau
khi lật đổ và giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Tổng Thống Kennedy không còn tin
tưởng vào cuộc chiến thắng tại miền Nam Việt Nam. Trong cuộc họp báo ngày
14.11.1963, Tổng Thống hỏi: “Bạn có chào thua tại miền Nam Việt
Nam không?”
Rồi
ông tự trả lời câu hỏi của chính mình:
“Chương
trình quan trọng nhất, dĩ nhiên là cho nền an ninh của chúng ta, nhưng tôi
không muốn Hoa Kỳ đưa quân tác chiến sang đó.”
Sau
đó ông nói:
“Giờ
đây mục tiêu của chúng ta là đưa quân nhân Hoa Kỳ về nước, cho phép Việt
Nam tự duy trì lấy nước họ như là một quốc gia độc lập.”[18]
Trong
khi đó, các thế lực tư bản của bọn tài phiệt buôn bán chiến tranh đứng đàng sau
muốn mở rộng chiến tranh để đổ quân vào Việt Nam mà Averell W. Hariman là một
tên tay sai đắc lực. Vì thế, Tổng Thống John Kennedy đã bị giết ngày
22.11.1963 tại Dallas.
Khi
hay tin Tổng Thống Kennedy bị ám sát, Phó Tổng Thống Lyndon Baines Johnson chỉ
vào bức hình Tổng Thống Ngô Đình Diệm đang treo trong nhà ông và nói:
“Chúng ta đã nhúng tay vào việc giết ông ta. Bây giờ
chuyện đó lại xẩy ra ở đây.”[19]
(Trích “Những Bí Mật Được Tiết Lộ Sau 40 Năm”, Tú
Gàn)
VI.- NHẬN ĐỊNH
CỦA PHÓ T.T. LYDON JOHSON
VỀ TỔNG THỐNG
NGÔ ĐÌNH DIỆM
|
1.- Tổng Thống
Ngô Đình Diệm là Winston Churchill của Đông Nam Á.
2.-
Tôi đã bảo: Đừng đảo chánh!
3.- Chúng ta
giết Tổng Thống Diệm để tạo bất ổn chính trị.
VII.- T.T.
LYNDON JOHSON THANH TRỪNG
CÁC
TAY CHỦ TRƯƠNG ĐẢO CHÁNH.
1.-
"Sau khi kế vị T.T. John Kennedy, vì giận những người đã tích cực thúc đẩy
đảo chánh, Hilsman là người đầu tiên bị T.T. Lyndon Johnson loại bỏ, nhưng nhờ
biết trước, đã xin nghỉ chỉ vài giờ trước khi chính thức bị sa thải"
2.-
"Còn Harriman, khi nhìn thấy Hilsman ra đi, nói “nếu tôi còn trẻ như
anh, tôi cũng từ chức”. Vì không từ chức, đã bị T.T. Johnson coi thường, nói là
người không đáng xách rác cho ông, bị ông giáng chức, cho đi Phi châu, trước
khi trở lại địa vị làm cảnh là “đại sứ lưu động”.
3.- Chúng nó
là một bọn côn đồ đáng nguyền rủa: "They are a Goddamn Bunch Of
Thugs"
VIII.- Ý
KIẾN CỦA ĐẢNG CỘNG HÒA HOA KỲ:
Theo
Henry Kissinger trong quyển Diplomacy:
1.- Loại bỏ ông Diệm đã không đoàn kết được dân
chúng sau lưng các tướng lãnh, như là Washington đã hy vọng, mà sự thật lại
trái ngược đã diễn ra.
2.- Cuộc đảo chánh đã phá hủy kiến trúc được xây dựng
trong hàng chục năm, để lại một nhóm tướng lãnh tranh quyền thiếu kinh nghiệm
hay thiếu hậu thuẫn chính trị.
3.- Do đó, việc Mỹ tham chiến ở Việt Nam không phải là nguyên
nhân, mà là hậu quả của cuộc đảo chánh 1-11, 1963.
IX.- CÒN VỀ PHÍA VIỆT NAM CỘNG HÒA?
Để trả lời vấn nạn trên, chúng tôi xin mượn lời của Tướng Tôn Thất
Đính thổ lộ trong cuốn hồi ký “20 mươi năm binh nghiệp” nơi trang 455 của ông
ta như sau:
"Đối với tôi, cuộc hành quân 1-11-1963, sau 16 giờ đồng hồ với
bao nhiêu biến cố vượt ra ngoài dự liệu và quyết định của tôi, không phải là một
thành công, mà chính là một thảm bại lớn lao đối với lịch sử. Sở dĩ vậy, vì biết
bao âm mưu chính trị ngoại giao, hận thù cá nhân, hận thù tập thể, đến giờ phút
đó mới được phơi bày bằng lời nói hay bằng hành động, trong ấy Phật Giáo
Việt Nam, quân lực VNCH là những nạn nhân của lịch sử hơn là những thành phần
mà lúc đó người ta thường qui định là chiến thắng vẻ vang! Có lẽ, ai cũng đều
thất bại và phạm tội với lịch sử Việt Nam cả, kể cả Hoa Kỳ là nước đồng mình,
khi kẻ thù từ quốc tế đến quốc nội bắt đầu vỗ tay cho tương lai chiến thắng của
chủ nghĩa Cộng Sản thì VNCH đã tự đưa mình vào hỗn loạn từ xã hội, chính trị
cho đến tôn giáo, quân sự, tạo cơ hội dấn thân vào trong cuộc đại bại chung sau
này khi chấp nhận đó là chính sách toàn cầu của Mỹ!"
Phật
Giáo Việt Nam có phải là nạn nhân như tướng Đính nói trên đây không?
Tuớng
Đính hỗn láo, vơ đũa cả nắm. Chỉ có một nhóm nhỏ theo “Tông Phái Trí Quang” núp
dưới tấm áo cà sa nâu, vàng để làm công cụ cho cộng Sản và ngoại bang thôi. Để
thấy rõ nhóm người này hành động như thế nào, mời quý độc giả đọc tiếp những
trang sau đây:
MỘT
CUỘC “ĐỒNG HÀNH” THẢM BẠI!
Dựa
theo phong trào chấn hưng Phật Giáo do Pháp phát động để ru ngủ phong trào chống
Pháp, năm 1932, Bác Sĩ Lê Đình Thám đã đứng
ra thành lập Hội An Nam Phật Học ở Huế, và năm 1934 ông cùng với Thích
Mật Thể lập Trường An Nam Phật Họcở chùa Trúc
Lâm và rước Hòa Thượng Thích Trí Độ từ Bình Định ra làm Giám Đốc.
Dĩ
nhiên, các tăng sĩ, cư sĩ và Phật tử được họ đào tạo từ 1934 đến 1945 hay các đệ
tử của họ đều đi theo Việt Minh, chẳng hạn như Thích Mật Thể, Thích Trí Quang,
Thích Trí Nghiễm tức Thích Thiện Minh, Thích Huyền Quang, Thích Pháp Dõng,
Thích Pháp Tràng, Thích Pháp Long, Thích Huệ Quang, Thích Trí Truyền, Thích Trí
Thủ, Thích Trí Tịnh, Võ Đình Cường, Tống Hồ Cầm, v.v. Phật Giáo dính liền với Đảng
CSVN qua đường dây này.
(Xem thêm trong Phật Giáo Việt Nam Sử Luận (tập III) của Nguyễn
Lang tức Thích Nhất Hạnh)
PHẬT
GIÁO VÀ CỘNG SẢN LÀ MỘT?
Năm
1946, khi đang làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Miền Nam Trung Bộ ở
Liên Khu V, Bác sĩ Lê Đình Thám đã tập họp các thanh niên Phật tử vào Đoàn Phật
Học Đức Dục ở Bồng Sơn, Bình Định, để giảng dạy về “Phật Giáo và nền
dân chủ mới”, coi con đường của chủ nghĩa cộng sản và con đường của Phật Giáo
là một, với mục tiêu thúc đẩy các thanh niên Phật tử gia nhập Đảng Cộng Sản và
tham gia kháng chiến. Tập “Đạo Phật và Nền
Dân Chủ Mới” do Nguyễn Hữu Quán biên soạn được coi là tài liệu học tập.
Tư tưởng đó đã ăn sâu vào tâm trí của một số tăng sĩ và Phật tử trong suốt cuộc
chiến và vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Sau đây là một vài thí dụ cụ thể:
Ngày
3.6.1966, Đại Đức Thích Nhất Hạnh đang ở Pháp thì được
một nhóm phản chiến của Mỹ mời qua thăm Hoa Kỳ. Nhân dịp này, ông đã công bố chủ
trương 5 điểm của Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang như sau:
-
Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ từ chức.
-
Quân đội Mỹ rút lui.
-
Ngưng oanh tạc Bắc Việt.
- Ngưng các cuộc
hành quân tại miền Nam Việt Nam.
- Mỹ phải giúp
lập chính thể dân chủ và tái thiết miền Nam không điều kiện.
Năm
điểm đòi hỏi này giống hệt năm điểm đòi hỏi của Mặt Trận Giải Phóng Miền
Nam. “Nó chỉ khác ở điểm là: Nó được gói ghém rất chu đáo và tỉ mỉ với
từ những đầu môi chót lưỡi với ngôn từ đầy nhân ái, với lòng từ bi, hỷ xả, thiện
tâm, thiện ý của các vị lãnh đạo Phật Giáo VN. Nhưng đó là những con dao nhọn tẩm
thuốc độc được gói ghém, bao bọc hoàn mỹ trong những chiến áo cà sa của những
người nhân danh đại diện Phật Giáo VN.
(Trích: “NHỮNG CON GIAO NHỌN TẨM THUỐC ĐỘC ĐƯỢC BỌC TRONG CHIẾC ÁO
CÀ SA” của
Võ Long Triều)
Năm
1967, Đại Đức Thích Nhất Hạnh cho xuất bản cuốn “Việt
Nam, Lotus in a Sea of Fire, a Buddist Proposal for Peace” (Việt
Nam, Hoa Sen trong Biển Lửa, một Đề Nghị Hòa Bình của Phật Giáo) để
lên án Hoa Kỳ, VNCH và yểm trợ MTGPMN. (Xin đọc tiếp bài “CÔNG CỤ CỦA CỘNG SẢN”
dưới đây)
Trong
cuộc meeting “mừng giải phóng” ngày 15.5.1975, Hòa Thượng Mãn
Giác đã đọc một bài diễn văn rất thống thiết, trong đó có những đoạn như sau:
“Trong những năm dài sống dưới ách nô lệ thực dân mới, Phật Giáo
chỉ nuôi một ước vọng sâu kín: độc lập và thống nhất...
“Ngày nay, ước vọng đó đã hiện thực. Hiện thực ấy ngày càng rõ
nét trong đời sống dân tộc, làm vang vọng lời xác quyết của Hồ Chủ Tịch “Nước
Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song
chân lý ấy không bao giờ thay đổi”... Bác Hồ kính yêu đã thay lời tổ tiên nói
lên...”
“Cuộc đấu tranh của Phật Giáo cho nền thống nhất tổ quốc cùng là một
với cuộc đấu tranh vì CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ..."
Sau
đó, chính Hòa Thượng Trí Thủ, Viện Trưởng Viện Hoá Đạo Ấn Quang, Hoà Thượng Trí
Tịnh, Viện Phó và Thượng Toạ Minh Châu, nguyên Tổng Thư Ký, đem Giáo Hội Ấn
Quang sáp nhập thành Giáo Hội Phật Giáo Nhà Nước. Trong lễ ra mắt Giáo Hội này
hôm 7.11.1981 tại Hà Nội, Thượng Tọa Trí Thủ đã nhân danh Chủ Tịch Hội Đồng Trị
Sự của Giáo Hội đọc một bức thư gởi Chủ Tịch Hội Đồng Nhà Nước Trường Chinh,
trong đó có đoạn như sau:
“Suốt
ba mươi năm chống Pháp, chống Mỹ, nhiều chùa là cơ sở của cách
mạng,nhiều tăng ni tạm thời rời bỏ Thiền môn, hăng hái tòng quân đánh
giặc cứu nước. Bác Hồ dạy: “Không gì quý hơn độc lập tự do!”, toàn thể tăng
ni và Phật tử Việt Nam ghi lòng tạc dạ lời dạy đó của Bác, nhận thức rõ lý tưởng
giải thoát của người tu hành không thể tách rời sự nghiệp giải phóng dân tộc,
do Hồ Chủ Tịch và Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo.”
Mới
đây, nhật báo Nhân Dân điện tử của Đảng CSVN số ra ngày 29.3.2013 đã đăng
bài “Tôn giáo chân chính đồng hành cùng dân tộc” của Trần
Chung Ngọc, một trong các lãnh tụ của nhóm Giao Điểm, đã nhắc lại những thành
tích mà Phật giáo đã góp phần với Đảng CSVN trong chiến tranh như “nhiều chùa
đã trở thành nơi nuôi giấu, nhiều tu sĩ bỏ áo cà sa đi theo kháng chiến, giã từ
thiền viện lướt binh đao…” và coi đó là “đồng hành
cùng dân tộc”!
CHUYỆN
TRÍ THỦ VÀ TRÍ TỊNH
Trong
hai ngày 12 và 13.2.1980, do sự lèo lái của Ban Tôn Giáo Chính Phủ và Mặt Trận
Tổ Quốc, đại diện một số tổ chức Phật Giáo Trung, Nam, Bắc đã họp tại Sài Gòn
và thành lập Ban Vận động Thống nhất PGVN. Ban này gồm có hai ban là Ban Chứng
Minh và Ban Thường trực Ban Vận động TNPGVN. Người ta thấy có bốn nhân vận lãnh
đạo cao cấp của Giáo Hội Ấn Quang trong hai ban này là Thích Đôn Hậu,
Thích Trí Thủ, Thích Trí Tịnh và Thích Minh Châu. Thích
Trí Thủ làm Trưởng Ban, Thích Trí Tịnh làm Phó còn Thích Minh Châu làm Chánh
Thư Ký.
Một
đại hội Phật Giáo đã được tô chức tại chùa Quán Sứ, Hà Nội, từ ngày 4 đến ngày
7.11.1981 với sự tham dự của 165 đại biểu thuộc 9 tổ chức Giáo hội và hệ phái
Phật Giáo, trong đó có Giáo Hội Ấn Quang. Đại hội đã thành lập hai hội đồng, Hội
đồng Chứng minh và Hội đồng Trị sự, mỗi hội đồng có 50 thành viên. Thượng Tọa Trí
Thủ làm Chủ Tịch Hội đồng
Trị sự, Thượng Tọa Trí Tịnh làm Phó, còn Thích Đôn Hậulàm Đệ Nhất Phó Pháp
chủ kiêm Giám Luật Giáo trong Hội đồng Chứng Minh.
Một
câu hỏi được đặt ra: Thích Trí Thủ và Thích Trí Tịnh có liên hệ với Việt Cộng
như thế nào mà được Đảng CSVN tín nhiệm và giao cho những nhiệm vụ quan trọng
như vậy?
Khi
Việt Minh cướp chính quyền năm 1945, Thích Trí Thủ thành lập
hội Phật Giáo Cứu Quốc Trung bộ và Thừa Thiên, và cho người đi khắp các tỉnh
thành lập hội Phật Giáo Cứu Quốc tại mỗi tỉnh để ủng hộ Việt Minh. Thích Trí Thủ
còn xuất bản nguyệt san Giải Thoát làm cơ quan tuyên truyền cho Việt
Minh. Sau đó, ông đắc cử Đại biểu Hội đồng nhân dân Thừa Thiên và được chính
quyền Cách Mạng mời đến Trung Bộ Phủ giao quyền quản lý các chùa chiền ở Huế và
Thừa Thiên. Ngoài ra, chúng tôi không có tài liệu nào khác về cuộc đời hoạt động
chính trị của ông.
Trường
hợp của Thích Trí Tịnh hoàn toàn bí mật. Ông sinh năm
1917 tại làng Mỹ Luông, tỉnh Sa Đéc. Năm 1937 ông thọ giới với Hòa Thượng Hồng
Xứng ở chùa Vạn Linh trên núi Cấm. Năm 1940 ông ra Huế học Trường An Nam Phật Học
của Thích Trí Độ. Từ đó, không thấy ông tham gia vào hoạt động chính trị nào.
Cho đến năm 1976, khi Giáo Hội Ấn Quang bắt đầu chống lại chính quyền, ông được
cử làm Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Lúc đó
người ta mới biết ông là người của Đảng CSVN. Khi ông qua đời, Ủy ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tặng thưởng ông Huân chương Hồ
Chí Minh, Huân chương Độc Lập hạng nhất, Huy chương Vì sự nghiệp đại đoàn kết
toàn dân và Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ.
TÌM
NỘT LỐI THOÁT?
Cuộc “đồng hành” của Phật
giáo với Đảng Công Sản từ 1932 đến nay thường được biện minh bằng những lý
do sau đây:
1.- Con đường
của chủ nghĩa cộng sản và con đường của Phật Giáo là một.
2.- Mục
tiêu đấu tranh của Cộng Sản và của Phật giáo là một: Vì Chủ Nghĩa
Xã Hội!
3.- Đồng
hành với Đảng Cộng Sản là đồng hành với dân tộc.
Nhưng
các nhà lãnh đạo Phật giáo đã bị đánh lừa!
Ngày
nay chủ nghĩa cộng sản đã bị chính người cộng sản hủy bỏ vì sự hoang tưởng của
nó. Đảng CSVN chưa bao giờ coi Phật giáo như là một tổ chức “đồng hành” với họ
mà chỉ coi Phật giáo như một công cụ. Thích Trí Độ, Thích Minh
Châu, Thích Trí Thủ, Thích Trí Tịnh… không phải là người của Phật giáo mà là
cán bộ cộng sản được cài vào các tổ chức Phật giáo để biến Phật giáo thành công
cụ. Kết
quả: “Cách mạng” thành công nhưng Phật giáo trắng tay!
Để
che đậy những thất bại thê thảm này, một phong trào đánh phá Thiên Chúa Giáo đã
được phát động rất rầm rộ, tố cáo Thiên Chúa Giáo là tay sai ngoại bang, còn Phật
giáo làm tay sai cho Cộng Sản là “đồng hành với dân tộc"! Đó chỉ là cách chạy
tội. Như chúng tôi đã nói nhiều lần, lối thoát duy nhất của Phật giáo
là trở về với con đường giải thoát của Đức Phật.
(Trích “Một cuộc “đồng hành” thảm bại!” của
Lữ Giang.)
BẰNG
CHỨNG TỰ THÚ
Ngày
17.1.2010, Hoà Thượng Quảng Độ đã lấy tư cách Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống
kiêm Viện trưởng Viện Hoá Đạo, GHPGVNTN, gởi Thông Tư số 07/VHĐ/VT đến các chư
Tôn đức Tăng Ni và Đồng bào Phật tử nói về “hiện trạng vu khống, chụp mũ
hàng Giáo phẩm GHPGVNTN lưu hành trên Mạng và các cơ quan truyền thông”.
Mở
đầu, Hoà Thượng Quảng Độ đề cập đến các tài liệu được phổ biến trong thời gian
gần đây cho rằng Đệ Tam Tăng Thống Thích Đôn Hậu là “Cộng Sản”. Hoà Thượng đã
đưa ra một số sự kiện để chứng minh rằng Hoà Thượng Đôn Hậu không hề theo Cộng
Sản. Hoà Thượng nói rằng hồ sơ của Hoa Kỳ được giải mật cũng “chưa thấy tài
liệu nào cho biết GHPGVNTN hay hàng giáo phẩm lãnh đạo GHPGVNTN dính líu đến Cộng
sản.”
Sau
đó Hòa Thượng tố cáo các chính quyền VNCH bị Việt Cộng xâm nhập. Hoà Thượng viết:
“Dưới
thời VNCH Phật Giáo bị đàn áp nên phải đứng lên “đấu tranh” chứ không hề muốn lật
đổ chính phủ hay làm lợi cho Cộng Sản”.
Hoà
Thượng yêu cầu các chư Tôn đức Tăng Ni, Phật tử, đặc biệt ở hải ngoại có nhiều
phương tiện thông tin, “tìm kiếm tài liệu, hãy thu tập chứng liệu và tìm
phương cách giải hoặc những bài viết hoặc do thiếu hiểu biết, hoặc cố tâm vu
cáo GHPGVNTN theo các chủ trương tiêu diệt những sinh lực dân tộc, mà Phật giáo
là một, cho những viễn đồ phi dân tộc và phản tổ quốc.”
Nhiều
người nghi Thông Tư này do chú tiểu Võ Văn Ái soạn vì lối lập
luận gần gióng như các lập luận mà chú đã đưa ra trước đây và dưới Thông Tư còn
có những “chú giải” rất nhảm nhí của chú.
Sở
dĩ chúng tôi gọi ông Võ Văn Ái là “chú tiểu Võ Văn Ái” vì khi
tu ở Đà Lạt, Võ Văn Ái mới là chú tiểu (người Huế gọi là “điệu”) rồi xuất. Chú
học chưa hết trung học đệ nhất cấp thì năm 1953, lúc 18 tuổi, qua sự giúp đỡ của
Tướng Nguyễn Ngọc Lễ, chú được cấp một thông hành đi Pháp qua ngã Hồng Kông.
Qua Pháp chú đi làm thư ký, không hề học hết trung học. Thế mà không hiểu sao
bây giờ chú được thăng lên “Giáo sư”. Kể từ khi được CIA xử dụng, lúc nào chú
cũng nói năng và hành xử như “Quyền Tăng Thống” GHPGVNTN ở hải ngoại, có quyền
trên các chư Tôn đức Tăng Ni!
Thật
ra, những vấn đề do Hoà Thượng Quảng Độ nêu lên không có gì mới lạ, vì những vấn
đề đó đã được tranh luận nhiều qua một tiến trình lịch sử kéo dài 47 năm. Trước
tiên, một số chư tăng (như Thích Trí Quang, Thiền sư Nhất Hạnh) và “sử gia” Phật
Giáo (như Đỗ Mậu, Chánh Đạo, Trần Gia Phụng) đã xử dụng phịa sử để xuyên tạc lịch
sử, chúng tôi đã dùng những tài liệu chính xác để phản biện, các nhóm này đã phải
im lặng. Nay Hòa Thượng lại chính thức biện bác một lần nữa, nên chúng tôi buộc
lòng phải trình bày lại một số vấn đề để làm sáng tỏ lịch sử. Tuy nhiên, vì Hoà
Thượng đã nêu lên quá nhiều vấn đề, nên trong mỗi lần, chúng tôi chỉ xin trình
bày một vấn đề, và cũng chỉ trình bày những điểm chính, vì bài báo có giới hạn.
Riêng trường hợp của Đức Đệ Tam Tăng Thống Thích Đôn Hậu, chúng tôi xin trình
bày sau.
VẤN
ĐỀ TRƯỚC TIÊN CẦN MINH XÁC
Chúng
tôi thấy vấn đề trước tiên cần được minh xác là hàng giáo phẩm GHPGVNTN có dính
líu đến Cộng Sản hay không. Hòa Thượng viết:
“Gần đây tác nhân chính yếu trong chính tình Việt Nam là Hoa Kỳ vừa
giải mật một số hồ sơ phơi bày diễn tiến chính sách Hoa Kỳ tại Việt Nam Cộng
hoà thông qua sự thi hành của giới chính trị gia bản địa. Qua đó chưa thấy tài
liệu nào cho biết GHPGVNTN hay hàng giáo phẩm lãnh đạo GHPGVNTN dính líu đến Cộng
sản.”
Thưa
Hoà Thượng, cần gì phải đi tìm các tài liệu trong hồ sơ giải mật của Hoa Kỳ để
xác định GHPGVNTN và hàng giáo phẩm GHPGVNTN có dính líu đến Cộng Sản hay
không. Chỉ cần đọc các tài liệu do các sử gia Phật Giáo công bố như bộ “Việt
Nam Phật Giáo Sử Luận” và “Hoa Sen Trong Biển Lửa” của Thiền
Sư Nhât Hạnh, cuốn “Bảo Trước Cổng Chùa” của Hoà Thượng Mãn
Giác, Bạch Thư của Hòa Thượng Thích Tâm Châu, hoạt động của một số tăng ni
trong Giáo Hội, các tài liệu do chính GHPGVNTN công bố, những lời tuyên bố của
các nhà lãnh đạo giáo hội như Hòa Thượng Trí Thủ, Hòa Thượng Huyền Quang hay của
nhà cầm quyền CSVN, v.v., chúng ta cũng có thể xác định được GHPGVNTN không những
chỉ “dính líu” mà còn yểm trợ cho Cộng Sản.
BỊ
XÂM NHẬP NGAY TỪ ĐẦU
Tài
liệu cho thấy rằng Phật Giáo đã dính líu với CSVN kể từ khi Mặt Trận Việt Minh
mới thành lập. Năm 1932, Bác sĩ Lê Đình Thám đứng ra lập Hội
An Nam Phật Học.Năm 1934, ông cùng với Thượng Tọa Thích Mật Khế lập Trường
An Nam Phật Họcở Huế để đào tạo các tăng sĩ và đưa Hoà Thượng Thích
Trí Độ từ Bình Định ra làm Giám Đốc trường này.
Năm
1945, khi Việt Minh cướp chính quyền, Hoà Thượng Trí Độ được Việt Minh cử
làm Chủ Tịch Trung Ương Hội Phật Giáo Cứu Quốc, một tổ chức vận
động Phật Giáo của Việt Minh. Bác sĩ Lê Đình Thám cũng tham gia Ủy Ban Phật
Giáo Cứu Quốc của Việt Minh tại Huế. Năm 1946, khi Pháp chiếm Huế, ông tản cư về
Quảng Nam và được Việt Minh cử làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến
Miền Nam Trung Bộ ở Liên Khu V. Điều này cho thấy hai nhân
vật cao cấp lãnh đạo Hội An Nam Phật Học và Trường An Nam Phật Học đều là cán bộ
cao cấp của Cộng Sản.
Theo
hồ sơ của Mật Thám Pháp để lại, Hòa Thượng Thích Trí Độ đã gia nhập Đảng Cộng Sản
từ 1941. Dùng ảnh hưởng của mình, Hòa Thượng đã lôi kéo các tăng sĩ tốt nghiệp ở
Trường An Nam Phật Học và các đệ tử của ông đi theo Việt Minh. Trong danh sách
các tăng sĩ đi theo Việt Minh, chúng ta thấy Thích Mật Thể giữ chức Chủ Tịch Ủy
Ban Phật Giáo Cứu Quốc ở Thừa Thiên, Thích Thiện Minh ở Quảng Trị, Thích Trí
Quang ở Quảng Bình, Thích Huyền Quang ở Liên Khu 5 (gồm các tỉnh Nam, Ngãi,
Bình, Phú), Thích Pháp Dõng ở Gia Định, Thích Pháp Tràng ở Mỹ Tho, Thích Pháp
Long ở Vĩnh Long, Thích Huệ Quang ở Trà Vinh, v.v.
Hòa
Thượng Thích Đôn Hậu làm Chủ Tịch Hội Phật Giáo Cứu Quốc Trung Bộ, trụ sở của Hội
đặt tại chùa Từ Đàm, Huế. Hòa Thượng Thích Minh Nguyệt làm Chủ Tịch Hội Phật
Giáo Cứu Quốc Nam Bộ, trụ sở đặt tại chùa Ô Môi, xã Mỹ Quý, thuộc chiến khu Đồng
Tháp.
Tại
Liên Khu 5, Bác Sĩ Lê Đình Thám đã tập họp các thanh niên Phật tử vào Đoàn
Phật Học Đức Dục ở Bồng Sơn, Bình Định, để giảng dạy về “Phật
Giáo và nền dân chủ mới”, coi con đường của Phật Giáo và con đường của cộng
sản chủ nghĩa là một, với mục tiêu thúc đẩy thanh niên Phật tử gia nhập Đảng Cộng
Sản và tham gia kháng chiến. Ông cho phổ biến cuốn “Phật Giáo và nền dân
chủ mới” khắp các tỉnh miền Trung.
Báo
Đuốc Tuệ của Phật Giáo ngày 30.8.1945, kêu gọi thành lập đoàn Tăng Già Cứu Quốc
và:
“Ủng Hộ chính quyền Nhân Dân,
Mau mau gia nhập Đội Quân Giải Phóng Việt Nam!”
(Xem thêm: Việt Nam Phật Giáo Sử Luận III, Nguyễn Lang, tr. 181 –
203)
Năm
1954, sau hiệp định Genève, Thượng Tọa Thích Trí Quang đang làm Hội trưởng Hội
VN Phật Học ở Huế, đã lợi dụng cương vị này cùng với một số trí thức Phật Giáo
lập Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Hòa Bình. Nhiệm vụ của Ủy Ban là yểm trợ
Việt Minh đòi hỏi hiệp thương để tiến tới bầu cử thống nhất hai miền trong thời
hạn hai năm. Thích Trí Quang và nhóm này đã được ông Ngô Đình Cẩn chiêu hồi và
sử dụng.
Với
một khởi đầu như thế, sau này nhóm Phật Giáo đấu tranh yểm trợ Cộng Sản là chuyện
không có gì đáng ngạc nhiên.
DÙNG CHIÊU BÀI HÒA BÌNH
Sau
khi lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm, nhóm Phật Giáo đấu tranh đã vội thành lập
GHPGVNTN để thống lãnh Phật Giáo toàn miền Nam với hy vọng biến chính quyền
Dương Văn Minh thành một chính quyền Phật Giáo. Nhưng chính quyền Dương Văn
Minh chỉ lo vơ vét và Mỹ chỉ dùng chính quyền này như một “chính phủ trái độn”,
nên ngày 30.1.1964, khi Mỹ dùng Tướng Khánh làm “chỉnh lý” lật đổ chính quyền
Dương Văn Minh và thiết lập một thứ chính quyền thừa hành chính sách của Mỹ,
nhóm Phật giáo đấu tranh lại bắt đầu quậy phá. Tướng Nguyễn Khánh đã thỏa mãn gần
như mọi yêu sách của Phật Giáo (giết Ngô Đình Cẩn, cho hoạt động theo một quy
chế đặc biệt, cho sư Cộng Sản Thích Minh Châu về làm Viện Trưởng Đại Học Vạn Hạnh,
lấy công sản “cúng dường” để xây VN Quốc Tự, v.v.) nhưng nhóm Phật Giáo đấu
tranh không chấp nhận Tướng Nguyễn Khánh. Biên bản cuộc họp lúc 11 giờ trưa
ngày 11.5.1964 tại Toà Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn giữa Đại Sứ Lodge, Tướng Taylor, Tướng
Harking và ông Suilivan, có đoạn ghi như sau:
“Ông Đại Sứ đặc biệt không sợ một cuộc đảo chánh lật đổ Tướng
Khánh. Ông đặc biệt lưu ý Phật Giáo như là một nguồn có thể gây nguy hiểm cho
chính phủ. Đặc biệt, ông nghĩ rằng Thích Trí Quang, người lãnh đạo Phật Giáo,
là một người có tiềm năng gây rối (a potential trouble maker). Đã lật đổ được một
chính phủ, ông ta nghĩ rằng có thể làm như thế để chống lại Khánh. Ông
ta đã bày tỏ với ông Đại Sứ rằng ông ta không coi Khánh như là một “Phật tử tốt” (good
Buddist), theo dự đoán, có nghĩa làKhánh là một Phật tử không theo đường lối
của Thích Trí Quang.”
(FRUSS 1964 – 1968, Volum I, tr. 304 – 305, Document 147).
Khi
thấy không còn cơ hội lập một chính phủ Phật Giáo do các tăng sĩ làm “quốc sư”,
GHPGVNTN bắt đầu áp dụng chiến thuật ngụy hòa với hy vọng sẽ đẩy Mỹ ra khỏi miền
Nam, loại bỏ Công Giáo và giúp Cộng Sản chiếm miền Nam Việt Nam, sau đó dùng Phật
Giáo để “hóa giải” Cộng Sản!
Cuốn “Hoa
sen trong biển lửa” do Thiền Sư Nhất Hạnh phổ biến năm 1967 đã chứa
đựng toàn bộ chiêu bài ngụy hòa của GHPGVNTN (Ấn Quang). Giáo Hội tưởng đây là“thượng
sách”, nhưng Phật Giáo đã bị cả Mỹ lẫn Cộng Sản biến thành công cụ.
LÀM CÔNG CỤ CỦA MỸ
Sau
khi mở rộng chiến tranh Việt Nam để thực hiện đấu thầu quốc phòng, loại bỏ các
võ khí cũ còn lại và sáng chế những võ khí mới, các nhà tư bản Mỹ bắt đầu mở
chiến dịch phản chiến để rút quân Mỹ ra và chấm dứt chiến tranh. Khi cuộc chiến
đang được đẩy mạnh, ông McNamara, người điều khiển cuộc chiến, kể lại rằng ngày
26.8.1966, ông đọc một tập tài liệu của CIA mang tên là “The Vietnamese Communists
Will to Persist” trong đó nói rằng Hoa Kỳ không thể làm gì để đánh bại
kẻ thù. Ông đã gọi cho George Allen, một phân tích gia của CIA đã nghiên cứu vấn
đề Việt Nam trong 17 năm, và hỏi ông ta rằng ông ta có thể làm gì khi ở vào vị
thế của ông hiện nay. Ông ta trả lời: “Ngưng tăng cường lực lượng của
Hoa Kỳ, ngưng thả bom miền Bắc và thương lượng với Hà Nội về ngưng bắn.” Lý
do để Mỹ quyết định chấm dứt chiến tranh Việt Nam đã được ông NcNamara ghi một
cách giản dị như vậy! (Xem bài “Những thế lực đàng sau” của
chúng tôi trên motgoctroi.com, mục “Mỗi tuần”).
Vào
tháng 5-1966, khi Đại Đức Thích Nhất Hạnh đang ở Pháp thì được một nhóm phản
chiến của Mỹ mời qua Hoa Kỳ để “góp một bài tay” cho phong trào phản chiến đang
dấy lên ở Mỹ.
“Thượng toạ Nhất Hạnh nói về vấn đề Việt Nam và Phật giáo
như một trong những người có thẩm quyền quyết định...”
Bản
tuyên cáo này và những lời tuyên bố tiếp theo đều được “nói và viết
theo đơn đặt hàng” của nhóm phản chiến Mỹ. Phải công nhận Thiền Sư
Nhất Hạnh là một điệp viên văn hóa và tôn giáo lì lợm, ông “dám nói và
dám làm theo đơn đặt hàng” không biết ngượng mồm, bất chấp dư luận,
bất chấp sự thật và bất chấp đạo lý.
CÔNG CỤ CỦA CỘNG SẢN
Ngoài
việc yểm trợ cho chiến dịch ngụy hòa do cơ quan tình báo Mỹ phát động để rút
quân ra khỏi Việt Nam, GHPGVNTN đã yểm trợ cho Cộng Sản chiếm miền Nam.
1.- Yểm trợ đòi hỏi của MTGPMN
Ngày
3.6.1966, Thiền sư Nhất Hạnh đã công bố chủ trương 5 điểm của GHPGVNTN như sau:
-
Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ từ chức.
-
Quân đội Mỹ rút lui.
-
Ngưng oanh tạc Bắc Việt.
- Mỹ phải giúp
lập chính thể dân chủ và tái thiết miền Nam không điều kiện.
Năm
điểm đòi hỏi này giống hệt 5 điểm đòi hỏi của MTGPMN.
2.- Xuyên tạc lịch sử để yểm trợ MTGPMN
Năm
1967, Đại Đức Nhất hạnh cho xuất bản cuốn "Vietnam, Lotus in a Sea
of Fire, a Buđhist Proposal for Peace" (Việt Nam, Hoa sen
trong biển lửa, môt đề nghị hòa bình của Phật giáo), nói về cuộc tranh đấu của
Phật Giáo từ 1963-1966 và những chết chóc tang thương do Hoa Kỳ và quân đội
VNCH gây ra. Ông lên án Ngô Đình Diệm đàn áp Phật Giáo, Nguyễn Cao Kỳ độc tài
quân phiệt và ca tụng Hồ Chí Minh là anh hùng dân tộc. Ông tuyên bố MTGPMN do
những người quốc gia chống chế độ Ngô Đình Diệm lập ra chứ không phải do Hà Nội
lập ra, nhưng vì Mỹ đã đổ quân và vũ khí vào VN, nên họ "nghiêng
theo khối CS, và càng ngày càng trở thành công cụ của khối CS".
Năm
1968, khi hòa đàm Paris bắt đầu họp, ông được cử làm phát ngôn viên chính thức
của GHPGVNTN (Ấn Quang) ở hải ngoại.
3.- Tuyên ngôn 6 điểm của Phái đoàn GHPGVNTN (Ấn Quang)
Tháng
10-1970, một phái đoàn PGVN do Thượng Tọa Thích Thiện Minh cầm đầu qua Nhật Bản
dự Hội Nghị Thế Giới về Tôn Giáo và Hòa Bình họp tại Tokyo từ 16 đền
22.10.1970. Phái đoàn gồm có các Thượng Tọa Thích Thiện Minh, Thích Huyền
Quang, Thích Mình Tâm, Đại Đức Thích Nhất Hạnh (phát ngôn viên) và 2 cư sĩ Ngô
Văn Giáo và Vĩnh Bữu. Tại hội nghị này, phái đoàn đã đưa ra đề nghị 6 điểm của
PGVN như sau:
1.-
Các phe lâm chiến phải bắt đầu xuống thang ngay lập tức để đạt đến một cuộc
ngưng bắn toàn diện vào lúc 18 giờ chiều 30 Tết Tân Hợi (tức 26.1.1971).
2.-
LHQ sẽ chỉ định một nhóm quốc gia trung lập để họp thành Ủy Hội Kiểm Soát
Ngưng Bắn gồm cả đại diện của Quân đội VNCH và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền
Nam VN.
3.-
Chính phủ VNCH phải phóng thích các tù nhân chính trị, sinh viên, trí thức,
tu sĩ và tất cả những người đã bị tạm giam vì tranh đấu cho hòa bình và chủ quyền
của dân tộc.
4.-
Chính phủ Hoa Kỳ phải chấm dứt tình trạng thối nát, độc tài và bất lực ở
miền Nam VN bằng cách để cho người Việt tự do chọn đại diện đa số dân chúng có
bản chất hòa giải dân tộc, không liên kết và có đủ khả năng để:
-
Thương thuyết với chính phủ Hoa Kỳ về thời biểu triệt thoái mau chóng toàn thể
quân lực Hoa Kỳ ở VN và những liên hệ ngoại giao, văn hóa và kinh tế giữa Hoa Kỳ
và VN.
-
Thương thuyết với Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam VN về những thể thức tổng
tuyển cử để bầu lên một chính phủ đại diện cho mọi khuynh hướng chính trị ở Nam
VN, một cuộc bầu cử hoàn toàn tự do dưới sự giám sát quốc tế, trong đó mọi người
VN thuộc bất cứ khuynh hướng chính trị nào đều có thể tham dự.
5.-
Các chính phủ Hoa Kỳ, Sô-viết, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa và các quốc
gia liên hệ khác cộng tác với nhau để chấm dứt đau khổ của người dân Việt bằng
cách ủng hộ đề nghị này do chính người Việt đề ra.
6.-
Các phe lâm chiến tại VN, nhân dân ưa chuộng hòa bình trên thế giới, các
giáo hội tôn giáo và các nhà nhân bản cấp thời hành động để thúc đẩy các quốc
gia có trách nhiệm về chiến tranh VN chấm dứt cuộc chiến tranh tại VN.,
Kampuchea và Lào.
Từ
văn từ đến nội dung, bản tuyên bố viết giống hệt các bản tuyên bố của MTGPMN.
Trước
một hội nghị quốc tế về tôn giáo và hòa bình, thay vì trình bày một cách lịch sự
đề nghị của PGVN, phái đoàn đã đưa ra một mệnh lệnh theo “kiểu ông cố nội”, ra
lệnh cho mọi người liên hệ phải thi hành, vì thế GHPGVNTN (Ấn Quang) đã làm mất
cảm tình đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới. Phái đoàn Đan Mạch đã vặn
hỏi tại sao PGVNTN (Ấn Quang) chỉ đòi quân đội Mỹ rút mà không đòi tất cả các
quân đội ngoại nhập phải rút, trong đó có cả quân đội CS Bắc Việt, phái đoàn
PGVN không trả lời được.
4.- Lập các tổ chức ngụy hoà
Sau
Đại hội Phật Giáo kỳ 3 của GHPGVNTN (Ấn Quang) tổ chức tại Saigon ngày
20.8.1968, luật sư Trần Ngọc Liễng dưới sự chỉ đạo của Thượng Tọa Thích Thiện
Minh, tuyên bố thành lập Lực Lượng Quốc Gia Tiến Bộ. Ngày
15.11.1969, LS Liễng đưa ra một tuyên bố khẳng định mục đích của Lực Lượng là
đòi các lực lượng ngoại nhập (Mỹ và đồng minh) phải rút khỏi miền Nam, thành lập
chính phủ hòa giải dân tộc. Các báo ở Saigon hỏi ông tại sao không nói gì về
phía Cộng Sản, ông không trả lời.
Ngày
27.1.1973 Hiệp Định Paris được ký kết. Điều 12 của Hiệp Định này dự liệu thành
lập tại miền Nam Việt Nam một Hội Đồng Quốc Gia Hòa Giải và Hòa Hợp Dân
Tộc sau khi ngưng bắn. Hội Đồng này gồm ba thành phần: VNCH, MTGPMN và
các thành phần ở giữa. Thừa lệnh của Hội Đồng Viện Hóa Đạo, ngày 31.1.1973, Thượng
Tọa Thích Thiện Minh đã phổ biến một thông bạch tuyên bố thành lập Lực
Lượng Hòa Giải Dân Tộc và cử Luật sư Vũ Văn Mẫu làm Chủ Tịch. Lực lượng
này bao gồm “các thành phần ở giữa” để đứng về phía MTGPMN
trong Hội Đồng. Thông bạch đòi hỏi phải “nghiêm chỉnh thực thi ngưng bắn” và
tiến tới lập chính phủ hòa hợp hòa giải. Thông bạch này đã bị các đảng phái quốc
gia và báo chí công kích mạnh nên Lực Lượng không hoạt động được.
Tháng
2-1974, nhóm luật sư Trần Ngoc Liễng lại lập “Tổ chức nhân dân đòi thi
hành hiệp định Paris”, xác định mình là lực lượng thứ ba, mục tiêu chính là
đòi thi hành hiệp định Paris, Mỹ rút quân, thành lập Chính phủ hoà giải dân tộc.
XUẤT
ĐẦU LỘ DIỆN
Trong
cuốn Bạch Thư công bố ngày 31.12.1993, Hòa Thượng Thích Tâm Châu đã viết:
“Ngày 30.4.1975 là ngày cáo chung của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Những
bộ mặt thân Cộng Sản đã lộ rõ nguyên hình, không ai mà không rõ:
- Khi quân Cộng Sản từ rừng về Saigon, đã có gần 500 Tăng, Ni của
phe tranh đấu Ấn Quang ra đón chào.
- Ngày 19.5.1975, phe tranh đấu Ấn Quang đã tổ chức sinh nhật Hồ
Chí Minh tại chùa Ấn Quang.
- Hiệp Thương Chính Trị thống nhất hai miền Nam Bắc của Cộng Sản,
một Thượng Tọa của phe Ấn
Quang đã làm một bài tham luận, nịnh Cộng Sản, kể công của Ấn Quang và
đã kích Nha Tuyên Úy Phật Giáo cùng Giáo Hội Thích Tâm Châu”.
Trong
cuốn “Bảo qua cổng chùa”, Hòa Thượng Thích Mãn Giác cho
biết sau khi Việt Cộng mới chiếm được miền Nam Việt Nam, Hội Đồng Viện Hóa Đạo
của GHPGVNTN (Ấn Quang) đã họp và quyết định tham gia tổ chức “mừng giải
phóng”với nhà cầm quyền, đồng thời tổ chức mừng sinh nhật Hồ Chí Minh tại
chùa Ấn Quang. Hòa Thượng viết:
“Lần đầu tiên trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam, Giáo Hội đã tổ chức
một buỗi lễ hết sức long trọng để mừng sinh nhật của một cá nhân. Ngay trong thời
kỳ phong kiến quân chủ, Giáo Hội cũng không làm như vậy. Mỗi chùa riêng tư có lễ
chúc tụng Vua, nhưng không phải làm tập thể Giáo Hội. Tại sao Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam Thống Nhất đã làm như vậy? Vì kính ngưỡng Hồ Chủ Tịch? Vì muốn chứng
tỏ thiện chí hợp tác?
Bản
Thông Cáo số 66-VHD/VP/TC ngày 8.5.1975 của Viện Hóa Đạo (Ấn Quang) về tổ chức
đón mừng hòa bình và kỷ niệm ngày sinh nhật của ông Hồ Chí Minh 19 tháng 5, Hòa
Thượng Mãn Giác cho biết:
“Tin tưởng vào những hứa hẹn về hòa hợp hòa giải dân tộc của Chính
Phủ Cách Mạng Lâm Thời, sau ngày giải phóng, Phật Tử Việt Nam đã tận
tình hợp tác với Chính Phủ Cách Mạng. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống
Nhất không được mời tham dự buổi lễ Mừng Chiến Thắng do chính phủ tổ chức ngày
15 tháng 5, 1975, nhưng Giáo Hội, với thiện chí sẵn có vẫn hợp tác trong nhiệm
vụ đoàn kết dân tộc và tái thiết xứ sở, đã động viên trên 900 Tăng Ni trong thành phố Hồ Chí Minh để
tham dự cuộc meeting trên. Ban tổ chức không chịu nhường chỗ đứng
cho phái đoàn Phật Giáo tại khán đài, nhưng Giáo Hội vẫn kiên chí tham gia
trong buổi lễ. Ngày 19 tháng 5, 1975 hơn 20.000 Phật tử đã tề tựu tại
chùa Ấn Quang để làm lễ sinh nhật Hồ Chủ Tịch. Đây là một số lượng đáng kể
vì ngoài chính phủ ra, không có đoàn thể nhân dân nào có thể huy động số người
tham dự buổi lễ đông đảo như vậy.”
TỰ THÚ NHẬN HỢP TÁC VỚI CỘNG SẢN
Trong
cuộc meeting “mừng giải phóng” ngày 15.5.1975, Hòa Thượng
Mãn Giác đã đọc một bài diễn văn rất thống thiết, trong đó có những đoạn sau
đây:
“Trong những năm dài sống dưới ách nô lệ thực dân mới, Phật Giáo
chỉ nuôi một ước vọng sâu kín: độc lập và thống nhất...
“Ngày nay, ước vọng đó đã hiện thực. Hiện thực ấy ngày càng rõ nét
trong đời sống dân tộc, làm vang vọng lời xác quyết của Hồ Chủ Tịch “Nước Việt
Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân
lý ấy không bao giờ thay đổi”... Bác Hồ kính yêu đã thay lời tổ tiên nói
lên...”
“Cuộc đấu tranh của Phật Giáo cho nền thống nhất tổ quốc cùng là một
với cuộc đấu tranh vì CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ..."
Sau
đó, chính Hòa Thượng Trí Thủ, Viện Trưởng Viện Hoá Đạo Ấn Quang, Hoà Thượng Trí
Tịnh, Viện Phó và Thượng Toạ Minh Châu, nguyên Tổng Thư Ký, đem GHPGVNTN (Ấn
Quang) sát nhập thành Giáo Hội Phật Giáo Nhà Nước. Trong lễ ra mắt Giáo Hội này
hôm 7.11.1981 tại Hà Nội, Hoà Thượng Trí Thủ đã nhân danh Chủ Tịch Hội Đồng Trị
Sự của Giáo Hội đọc một bức thư gởi Chủ Tịch Hội Đồng Nhà Nước Trường Chinh,
trong đó có đoạn như sau:
“Suốt ba mươi năm chống Pháp, chống Mỹ, nhiều chùa là cơ sở của
cách mạng, nhiều tăng ni tạm thời rời bỏ Thiền môn, hăng hái tòng quân đánh giặc
cứu nước. Bác Hồ dạy: “Không gì quý hơn độc lập tự do!”, toàn thể tăng ni và Phật
tử Việt Nam ghi lòng tạc dạ lời dạy đó của Bác, nhận thức rõ lý tưởng giải
thoát của người tu hành không thể tách rời sự nghiệp giải phóng dân tộc, do Hồ
Chủ Tịch và Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo.”
Những
hoạt động của các chùa và tăng sĩ Phật Giáo ở Huế cho Việt Cộng mà Liên Thành
ghi lại trong cuốn “Biến động miền Trung” chỉ mới là một
phần nhỏ. Năm 1974, khi tôi trở về Đà Nẵng để quan sát tình hình, nhất là tin
Việt Cộng sắp chiếm Thường Đức, một nhân viên an ninh đã cho tôi biết trong 10
chùa ở Đà Nẵng, có đến 8 chùa hoạt động cho Việt Cộng. Nếu Hoà Thượng chịu khó
đọc lại các hồi ký viết về Đà Nẵng ngày 29.3.1975, ngày Đà Nẵng bị mất, Hoà Thượng
sẽ thấy các tổ chức Phật Giáo và chùa chiền ở Đà Nẵng đã hành xử như họ là cơ
quan đại diện của Cộng Sản tiếp thu thành phố!
Trong
cuộc gặp gỡ Hòa Thượng Huyền Quang tại Hà Hội chiều 2.4.2003, Thủ Tướng Phan
Văn Khải xác nhận:
“Phật giáo Việt Nam đã từng góp công sức của mình vào sự nghiệp giải
phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.”
Khi
Cộng Sản chiếm miền Nam, các tăng sĩ lãnh đạo đấu tranh của GHPGVNTN (Ấn Quang)
đã coi sáng kiến của mình là tuyệt vời, là “đỉnh cao của trí tuệ loài người”,
nhưng những hậu quả sau đó thật là thê thảm cho cả đất nước lẫn Phật Giáo!
Thưa
Hoà Thượng, trên đây chỉ là những nét đại cương về một số tăng sĩ và GHPGVNTN
hoạt động cho Cộng Sản, nếu Hoà Thượng cần biết thêm, chúng tôi sẽ trình bày
chi tiết. Trong bài tiếp theo chúng tôi sẽ nói về âm mưu lật đổ và cướp chính
quyền của một số tăng sĩ và GHPGVNTN (Ấn Quang).
(Trích: “Bằng Chứng Tự Thú” của Lữ Giang)
LÒNG
HẬN THÙ TÔN GIÁO
Như
chúng tôi đã nói, năm 2010, Tiến Sĩ Cao Huy Thuần, một đệ tử của Thích Trí
Quang thuộc nhóm “Trá hàng VC để làm văn hóa, hoằng pháp...”, hiện
đang ở Pháp, đã được Việt Cộng mời về thuyết trình về kỷ niệm 1000 Thăng Long.
Sau khi được lên “dây cót”, Cao Huy Thuần đã tuyên bố huênh hoang với báo chí
và dùng phịa sử để xuyên tạc các biến cố đã xẩy ra tại miền Nam Việt Nam, mặc dầu
sử liệu đã công bố gần đầy đủ rồi.
Thật
ra, các biến cố lịch sử tại miền Nam đã bị Thiền sư Nhất Hạnh xuyên tạc một
cách trắng trợn và đang phải trả giá, nay đến lượt Cao Huy Thuần!
Trong
các lời phát biểu với báo chí, Cao Huy Thuần đã xuyên tạc nhiều sự kiện lịch sử
với tất cả lòng thù hận. Tuần trước, chúng tôi mới chỉ nói đến chuyện Cao Huy
Thuần xuyên tạc biến cố trước đài phát thanh Huế tối 8.5.1963. Chúng tôi đã đưa
ra những bằng chứng pháp lý và lịch sử để phản chứng, Cao Huy Thuần không thể
chối cãi được. Hôm nay chúng tôi xin nói những sự xuyên tạc của Cao Huy Thuần đối
với Dụ số 10 được Quốc Trưởng Bảo Đại ban hành ngày 6.8.1950 ấn định quy chế hiệp
hội cho toàn quốc gia Việt Nam. Đây là vấn đề đã được chúng tôi trình bày với
Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Hòa Thượng Thích Chơn Thành và ông Trần Gia Phụng,
nhưng Cao Huy Thuần vẫn tiếp tục loạn ngôn với ngụ ý Dụ này được chính quyền
“bán thuộc địa” đưa ra để ưu đãi Thiên Chúa Giáo! Chúng tôi thấy cần phải trình
bày lại rõ ràng vấn đề này một cách dứt khoát.
KHÔNG
BIẾT GÌ LỊCH SỬ
Trong
cuộc phỏng vấn của báo Thời Đại Mới ngày 30.4.2011, Cao Huy Thuần đã nói về Dụ
số 10 ngày 6.8.1950 như sau:
“Buồn cười không thể tưởng tượng về cái Dụ số 10: Dụ này không
xem Phật giáo như một tôn giáo mà chỉ như một hiệp hội, ngang hàng với các hiệp
hội từ thiện, mỹ nghệ, tiêu khiển, thể thao! Tôn giáo
thì chỉ có một thôi, là Thiên chúa giáo vì Thiên chúa giáo không nằm trong Dụ số
10...”
“Buồn cười ra nước mắt: đòi dẹp bỏ Dụ số 10 để mình được làm tôn
giáo như ai! Không nhận ra cái bất công khủng khiếp này thì không hiểu được cái
nhục mà tôi gọi là cái nhục gia tài, cái nhục
không riêng gì của thế hệ lúc đó mà nhục cả cha ông từ bao nhiêu thế hệ trước...”
Phóng
viên báo Thời Đại Mới nói Dụ số 10 không phải có từ thời ông Diệm mà đã có từ
thời Bảo Đại. Ông Diệm chỉ thừa hưởng. Cao Huy Thuần trả lời:
“Đúng vậy! Và chính vì vậy mà cái nhục của Phật giáo được dân tộc
san sẻ, trở thành cái nhục chung. Một đạo dụ, ban hành dưới thời bán thuộc địa
Liên Hiệp Pháp,xếp tôn giáo truyền thống của dân tộc vào loại vô tôn giáo, lại được
một chính quyền mang tiếng là độc lập trân trọng giữ y nguyên văn, áp dụng triệt
để, như thể là con thừa tự! Độc lập chỗ nào? Nhục cho cả nước. Dân chúng miền Nam bị
tròng hai cái ách vào cổ: cái ách độc tài chính trị và cái ách độc tài tôn
giáo...”
Cao
Huy Thuần có bằng Tiến Sĩ về khoa học chính trị tại Đại học Picardie ở Pháp,
nhưng qua bài phỏng vấn nói trên, chúng ta thấy kiến thức của Cao Huy Thuần rất
giới hạn, có lòng hận thù Thiên Chúa Giáo điên cuồng, không hề nghiên cứu để nắm
vững vấn đề mình muốn trình bày, nên đã phát ngôn rất bừa bãi.
1.- Luật hiệp hội dưới thời phôi thai
Dưới
thời phong kiến, Việt Nam không có quy chế hiệp hội. Đến thời Pháp thuộc, quy
chế hiệp hội bắt đầu hình thành, nhưng vì đất nước lúc đó được chia thành
ba Kỳ, nên rất phức tạp.
Ngày
26.3.1883 Pháp ban hành bộ “Dân luật giản yếu” dựa hoàn toàn vào bộ Dân
luật Pháp năm 1804. Năm 1931 Pháp ban hành bộ “Dân luật Bắc” và từ
1936 đến 1938, bộ “Dân luật Trung” (còn có tên là “Hoàng Việt
Trung kỳ Hộ luật”). Hai bộ luật Bắc và Trung đã phối hợp các nguyên tắc của
Dân Luật Pháp với phong tục tập quán của Việt Nam, trong đó có ấn định quy chế
lập hội, nhưng rất sơ sài.
2.- Những trường hợp đặc biệt
Tại
Nam Kỳ và các nhượng địa của Pháp, Luật về hiệp hội 1901 của Pháp được áp
dụng. Đây là đạo luật vẫn còn áp dụng tại Pháp cho đến nay.
Lúc
đó, ở Việt Nam có hai hội có phạm vi hoạt động toàn quốc là Trung Hoa Lý
Sự Hội và Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris (Société des Missions
Etrangères de Paris). Vì hoạt động của các bang hội người Hoa thường gây khó
khăn cho việc quản lý, nên với sự thỏa thuận của chính phủ Trung Hoa, ngày
27.12.1886 Pháp đã chính thức ban hành quy chế bang hội cho người Hoa tại Việt
Nam và đặt dưới sự kiểm soát của Pháp. Sau đó Pháp cũng đã ban hành một quy chế
riêng cho Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris. Quy chế của hai hội này cũng dựa vào Luật
về hiệp hội 1901 của Pháp.
KHÁI
NIỆM VỀ DỤ SỐ 10
Thỏa
Ước Việt – Pháp được ký kết giữa Bảo Đại và Tổng Thống Vincent Auriol của Pháp
tại điện Élysée ở Paris ngày 8.3.1949 và các hiệp định thi hành thỏa ước này được
Quốc Trưởng Bảo Đại và Cao Ủy Pháp Pignon ký ngày 30.12.1949 tại Tòa Đô Chánh
Sài Gòn, công nhận Chính Phủ Việt Nam có tổ chức hành chánh riêng, tư pháp
riêng, tài chánh riêng, quân đội riêng. Về vấn đề nội bộ, Chính Phủ Việt Nam có
quyền “thi hành đầy đủ quyền nội bộ của chính phủ ấy...”
Luật
sư Trần Văn Tuyên kể lại, sau khi có Thỏa Ước nói trên, chính phủ Nguyễn Phan
Long được thiết lập do Sắc Lệnh số 6/QT ngày 21.1.1950 của Quốc Trưởng Bảo Đại,
đã quyết định biên soạn một quy chế hiệp hội chung cho cả nước với mục đích đưa
hoạt động của tất cả các đảng phái, giáo phái, tôn giáo và hội đoàn vào khuôn
khổ của luật pháp.
Công
việc này chưa hoàn tất thì cuối tháng 4 năm 1950 chính phủ Nguyễn Phan Long bị
giải tán. Chính phủ Trần Văn Hữu được thiết lập do Sắc Lệnh số 37/CP ngày
6.5.1950 để thay thế chính phủ Nguyễn Phan Long. Thủ Tướng Trần Văn Hữu đã ra lệnh
cho Bộ Nội Vụ và Bộ Tư Pháp phối hợp hoàn tất quy chế hiệp hội.
Nội
dung của dự luật này đã phỏng theo Luật về hiệp hội 1901 (Les
associations loi 1901) của Pháp, chỉ sửa đổi một số điều khoản cho phù hợp với
tình hình Việt Nam mà thôi, vì Luật về hiệp hội 1901 đã từng áp dụng tại Nam Kỳ
và các nhượng địa với những hiệu quả tốt.
Điều
1 của Luật về hiệp hội 1901 của Pháp quy định như sau:
“L'association est la convention par laquelle deux ou plusieurs
personnes mettent en commun d'une façon permanente leurs connaissances ou leur
activité dans un but autre que de partager des bénéfices. Elle est régie quant
à sa validité, par les principes généraux du droit applicable aux contrats et
obligations.”
Điều
1 của Dụ số 10 ngày 6.8.1950 đã rập khuôn theo điều 1 của Luật về hiệp hội 1901
của Pháp nói trên:
“Hội là hiệp ước của hai hay nhiều người thỏa thuận góp kiến thức
hay hành lực một cách liên tiếp để theo đuổi mục đích không phải là phân chia lợi
tức, như là mục đích thuộc về tế tự, tôn giáo, chính trị, từ thiện,
thể thao và đồng nghiệp ái hữu.
“Muốn có hiệu lực thì hội nào cũng phải hợp với nguyên tắc chung của
pháp luật về khế ước và nghĩa vụ.”
Khi
dự luật được trình lên, Thủ Tướng Trần Văn Hữu đã phê duyệt và gởi qua
Pháp cho Bảo Đại ký, vì lúc đó Bảo Đại đang ở Pháp. Bảo Đại đã ký tại Vichy ngày
6.8.1950 và được đăng trong Công Báo Việt Nam số 33 ngày 19.8.1950.
TRƯỜNG
HỢP NGOẠI LỆ
Điều
thứ 44 của Dụ số 10 có quy định như sau:
“Chế độ đặc biệt cho các hội truyền giáo Thiên chúa và Gia tô và
các Hoa Kiều Lý Sự Hội sẽ ấn định sau.”
Tại
sao điều khoản này được đưa vào cuối Dụ số 10? Phải chăng chính phủ Trần Văn Hữu
muốn ưu đãi Thiên Chúa Giáo và Hoa Kiều Lý Sự Hội? Không phải như vậy.
Khoan
1 của Thỏa Ước Việt – Pháp được ký kết giữa Bảo Đại và Tổng Thống Vincent
Auriol của Pháp tại điện Élysée ngày 8.3.1949 có quy định như sau:
“Sự cai trị các sắc dân không phải là người Việt Nam... sẽ được cứu
xét bằng quy chế riêng…. Các quy chế này phải được sự thỏa
thuận của Đại Diện Chính Phủ Cộng Hoà Pháp Quốc, vẫn còn có trách nhiệm đối với
họ.”
Như
chúng tôi đã nói ở trên, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam lúc đó đang đặt
dưới quyền của Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris (Société des Missions Étrangères de
Paris) của Pháp và có một quy chế riêng do Pháp ấn định.
Giữa
Pháp và chính phủ Trung Hoa cũng đã chấp thuận cho người Hoa có một chế độ
riêng đặt dưới quyền quản lý của Pháp.
Căn
cứ vào khoản 1 của Thỏa ước Élysée đã nói trên, muốn ấn định quy chế của hai tổ
chức này, Việt Nam phải tham khảo ý kiến của Pháp trước khi quy định.
Vì thế, điều 44 Dụ số 10 phải quy định như trên chớ không phải vì muốn ưu đãi
Thiên Chúa Giáo và các bang hội Hoa Kiều.
Như
chúng tôi đã nói, hai quy chế đã được áp dụng cho Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris
và các Hoa Kiều Lý Sự Hội cũng là các nguyên tắc ấn định trong Luật về hiệp hội
1901 của Pháp, tức giống Dụ số 10 chứ chẳng có gì đặc biệt.
Một
câu hỏi được đặt ra là các nhà tranh đấu của Phật Giáo năm 1963, khi đọc điều
44 của Dụ số 10, họ có biết tại sao điều 44 đã quy định như vậy không?
Nhiều
người tin rằng họ biết, vì điều 44 không chỉ nói đến một quy chế đặc biệt cho
Thiên Chúa Giáo mà còn cho cả Hoa Kiều Lý Sự Hội nữa.
Từ
năm 1960, khi chưa có vụ Phật Giáo, trong một bài đăng trên nguyệt san Quê
Hương, ông Vũ Quốc Thông, Giáo Sư Đại Học Luật Khoa Sài Gòn, đã giải thích rằng
việc quy định những vấn đề liên quan đến chính sách ngoại giao hay các luật lệ
liên quan đến người Pháp và ngoại kiều sinh sống tại Việt Nam, đều phải có sự đồng
ý của Cao Ủy Pháp tại Đông Dương, chính phủ Việt Nam mới được ban hành. Do đó,
muốn ban hành các quy chế về các hội truyền giáo của Thiên Chúa Giáo và các hội
của Hoa Kiều đang hoạt động tại Việt Nam như Société des Missions Étrangères de
Paris, Protestant Mission, Chinese Congrégations, v.v..., đều phải có sự đồng ý
của Pháp mới ban hành được.
(Vũ
Quốc Thông, “Việt Nam Tự Do, Chính Thể Cộng Hòa Nhân Vị”, nguyệt san Quê Hương
số 16, ngày 16.10.1960, tr. 1 - 39 và 247 – 262).
Giả
thiết các nhà tranh đấu Phật Giáo không biết những quy định pháp lý nói trên đi
nữa và muốn phân bì thì họ phải phân bì vừa với Hoa Kiều Lý Sự Hội vừa với
Thiên Chúa Giáo, tại sao họ chỉ phân bì với Thiên Chúa Giáo? Câu trả lời có thể
rất giản dị như sau:
Tại
vì các nhà lãnh đạo đấu tranh Phật Giáo muốn MƯỢN LÒNG HẬN
THÙ THIÊN CHÚA GIÁO LÀM ĐỘNG LỰC KÍCH ĐỘNG ĐẤU TRANH nên họ
chỉ chụp lấy chữ “Thiên Chúa Giáo” trong điều 44 và bỏ qua một bên Hoa
Kiều Lý Sự Hội. Họ biết dân chúng chẳng ai đọc Dụ số 10 và khi họ tuyên bố Dụ số
10 ưu đãi Thiên Chúa Giáo là đa số các Phật tử tin ngay. Đây là một trò TRÍ TRÁ
mà thuật ngữ Phật Giáo gọi là VỌNG NGỮ.
Chiến
thuật mượn lòng hận thù Thiên Chúa Giáo làm động lực kích động đấu tranh là chiến
thuật đã được các nhà lãnh đạo đấu tranh Phật Giáo xử dụng trong suốt cuộc chiến
Việt Nam và kéo dài cho đến ngày nay. Toàn bài phát biểu của Cao Huy Thuần với
báo Thời Đại Mới mà chúng tôi đang bàn đến có thể được coi là biểu tượng rõ nét
nhất của sự kích động lòng hận thù tôn giáo. Nhiều người tin rằng chiến thuật
này chắc chắn sẽ được tái áp dụng hậu cộng sản, khi các nhóm Phật Giáo quá
khích muốn tạo bạo loạn để cướp chính quyền. Nhưng đây là một chiến thuật sai lầm,
vì khi áp dụng chiến thuật này, các nhà đấu tranh Phật Giáo đã phải đối phó
cùng một lúc vừa với chính quyền vừa với Thiên Chúa Giáo, thất bại là chuyện
đương nhiên.
ĐÀNH
CHẤP NHẬN “CÁI NHỤC GIA TÀI”
Các
nhà Phật Giáo đấu tranh và Hòa Thượng Quảng Độ đã cho rằng “Dụ số 10 tồn
tại từ thời thực dân Pháp xem Phật giáo như một hội đoàn, với
nhiều kỳ thị, ức chế dưới thời đệ nhất Cộng hoà.” Nay Cao
Huy Thuần cũng chỉ lặp lại luận điệu đó và cho rằng Dụ số 10 không xem Phật
giáo như một tôn giáo mà chỉ như một hiệp hội, ngang hàng với các hiệp hội từ
thiện, mỹ nghệ, tiêu khiển, thể thao! Ông coi đó là “cái nhục” mà ông gọi
là “CÁI NHỤC GIA TÀI”.
Phật
giáo có đến 84.000 pháp môn (vô lượng pháp), ai tu theo pháp môn nào cũng được,
nên trên thế giới không có Giáo Hội Phật Giáo thống lãnh toàn thể các tăng sĩ
và tín đồ. Ở Việt Nam, vì nhu cầu thống lãnh Phật Giáo để tạo sức mạnh cướp
chính quyền, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất mới được hình thành. Đó là
một tổ chức chính trị hơn là một tổ chức tôn giáo.
Thật
ra, Giáo Hội cũng chỉ là một hiệp hội, nhưng người
Thiên Chúa Giáo gọi làGiáo Hội (Ecclesia, Église, Church) vì đó là chữ được
dùng trong Thánh Kinh (Mat. 16,19). Năm 1964, khi 11 tổ chức Phật Giáo Việt Nam
quyết định thành lập một tổ chức Phật Giáo Việt Nam thống nhất, họ cũng dùng chữ
Giáo Hội (Church). Vậy chữ Church đó lấy từ đâu ra? Không lẽ lấy từ Thánh Kinh?
Dù
coi hiệp hội là một “CÁI NHỤC GIA TÀI”, nhưng khi đến Mỹ, Pháp và các nước trên
thế giới, các tổ chức Phật Giáo Việt Nam đều “thi đua” nạp đơn xin gia nhập các
quy chế hiệp hội tại các nước này để được hưởng những quyền lợi được luật pháp
ban cho, ở Mỹ có quy chế hiệp hội bất vụ lợi (nonprofit organization) còn ở
Pháp có Luật về hiệp hội 1901 (gióng Dụ số 10 của VNCH).
Luật
thuế vụ liên bang của Mỹ [Federal 501(c) (3) Status] đã định danh năm thứ hiệp
hội bất vụ lợi có thể được miễn thuế, đó là các hiệp hội
có mục đích bác ái, các tổ chức khoa học (scientific
organizations), các tổ chức giáo dục (educational organizations), các hiệp hội
có mục đích văn học, và các nhóm tôn giáo (religious groups).
Vậy
khi các chùa và các tổ chức Phật Giáo ở hải ngoại xin được hưởng các quy chế
này "ngang hàng với các hiệp hội từ thiện, mỹ nghệ, tiêu khiển, thể
thao..." là họ đã chấp nhận một “CÁI NHỤC GIA TÀI”?
TÁC
HẠI CỦA “QUY CHẾ ĐẶC BIỆT”
Năm
1964, theo yêu sách rất gay cấn của nhóm Phật Giáo đấu tranh, Tướng Nguyễn
Khánh đã ban hành Sắc Luật số 158-SL/CP ngày 14.5.1964 công nhận Hiến
Chương ngày 4.1.1964 của GHPGVNTN, cho phép Giáo Hội này được hoạt động theo một
“chế độ đặc biệt” nằm trên và ngoài luật pháp quốc
gia. Hiến Chương của Giáo Hội coi là tài sản của GHPGVNTN tất cả các quốc tự,
các ngôi chùa làng, các ngôi tổ đình, các ngôi chùa xây dựng bởi các vị Tăng sĩ
và các hội đoàn Phật giáo cũ, v.v.
Sự
thống lãnh quyền lực và tước đoạt tài sản này đã đưa tới sự chống đối mạnh liệt
của các hội đoàn và tông phái Phật giáo. Một cuộc chiến tranh đẩm máu đã xẩy
ra. GHPGVNTN đã bị bể ra làm hai: Giáo Hội Ấn Quang và Giáo Hội Việt Nam Quốc Tự.
Ngày 18.7.1967, Tổng Tống Nguyễn Văn Thiệu đã ban hành Sắc Luật số 23/67 hủy bỏ
Sắc Luật số 158-SL/CP ngày 14.5.1964 và công nhận Hiến Chương mới của Giáo Hội
Việt Nam Quốc Tự. Kể từ đó, Giáo Hội Ấn Quang hoạt động ngoài vòng pháp luật và
cho đến nay đã bể thành 8! Trong khi đó, Dụ số 10 vẫn được áp dụng đến ngày 30.4.1975 và vẫn
được đa số các đoàn thể của người Việt hải ngoại trân trọng: Khi xin phép lập hội
thì họ làm theo luật Mỹ, nhưng khi làm Nội Quy họ vẫn mô phỏng theo các nguyên
tắc của Dụ số 10.
Trên
đây là hậu quả tai hại của một “chế độ đặc biệt” mà nhóm Phật Giáo đấu tranh đã
đòi hỏi bằng mọi giá.
Cao
Huy Thuần đã từng viết: “Tìm cách phục hồi sự thật lịch sử... để không phạm
lại những lỗi lầm cũ.” Bây giờ chúng tôi đã phục hồi lại sự thật lịch
sử, Cao Huy Thuần sẽ tính sao?
Chúng
tôi sẽ đề cập tiếp vần đề “Phật giáo từng bị chụp mũ “thân Mỹ”, “thân Cộng” mà Cao Huy Thuần
đang la làng.
(Trích: “Lòng Hận Thù Tôn Giáo” của Lữ Giang)
Lòng thù
hận Thiên Chúa Giáo
Như
chúng tôi đã nói nhiều lần, theo báo cáo của CIA, chủ trương của nhóm Phật Giáo
đấu tranh là tiến tới thành lập một chính quyền Phật Giáo do giáo quyền lãnh đạo
(theocracy). Cuộc đấu tranh đã lên đến cao điểm vào năm 1966, khi Phật
Giáo cướp chính quyền thất bại ở Đà Nẵng và Huế. Người chủ trương và lãnh đạo
cuộc đấu tranh cướp chính quyền là Thích Trí Quang và lý thuyết gia về Phật
giáo là “đạo dân tộc” và Phật giáo phải nắm chính quyền
là Lê Mạnh Thát.
Khi
đấu tranh, các tăng sĩ lãnh đạo đã dùng lòng hận thù Thiên Chúa Giáo và vọng ngữ
làm động lực. Tuy nhiên, sau khi thất bại, nhóm Phật Giáo đấu tranh vẫn tiếp tục
xử dụng lòng hận thù Thiên Chúa giáo và vọng ngữ để chạy tội, biện minh cho những
sai lầm nghiêm trọng của mình. Lòng thù hận
Thiên Chúa giáo và vọng ngữ đã trở thành “con đường giải thoát” của Phật Giáo đấu
tranh!
LÒNG
HẬN THÙ BIỂU TƯỢNG
SỰ
TUYỆT VỌNG
Sách
báo được viết để kích động lòng hận thù Thiên Chúa Giáo từ 1963 đến nay khó mà
đếm hết được. Vào các nhà sách trong và ngoài nước đều thấy tràn ngập. Hiện nay
trên Internet, có hai websites đã chính thức xử dụng lòng hận
thù Thiên Chúa Giáo và vọng ngữ như “con đường giải thoát” của Phật
Giáo, đó là sachhiem.net vàchuyenluan.org.
Hầu hết các websites của Phật Giáo đều có tham gia vào trận chiến này. Hàng
ngày, số bài chống Thiên Chúa Giáo được chuyển đi trên các diễn đàn Internet Việt
ngữ không phải chỉ hàng chục mà có lúc đến hàng trăm lần: Công Giáo hắc
sử, Tội ác của Công Giáo La Mã, Phải tiêu diệt Thiên Chúa Giáo, Nói về 7 núi tội
ác của Công Giáo, Sự thật về Tội ác Nhân Loại của Đạo Công Giáo và tội ác Diệt
Chủng Nhân loại của Tòa Thánh VATICAN, Công Giáo La Mã là một đặc sản văn hóa
phi nhân tính, v.v. Dĩ nhiên, đó chỉ là tiếng chó sủa trăng, chẳng làm rụng
được sợi chân lông của ai, nhưng nó biểu tượng cho sự tuyệt vọng của
những kẻ bị dồn vào đường cùng.
CHỈ
LÀ NHỔ RA LIẾM LẠI!
Phương
pháp thông dụng được nhóm Phật giáo đấu tranh xử dụng là “nhổ ra liếm
lại” và coi đó là “bằng chứng lịch
sử”! Chúng đã biến wikipedia.org thành
một công cụ, đưa lên những bài xuyên tạc lịch sử rồi trích dẫn lại và coi đó là
tài liệu lịch sử đáng tin cậy! Chúng tôi đã đưa một thí dụ cụ thể:
Đọc
bài nói về Ngô Đình Diệm trên wikiprdia.org, chỉ vài
hàng đầu đã thấy sai bét rồi. Nhiều người tin người viết thuộc nhóm Giao Điểm
hay Ấn Quang. Tác giả viết:“Ngô Đình Diệm sinh ngày 3 tháng 1 năm 1901 tại
làng Đại Phong, huyện Lệ Thủy, Quảng Bình trong một gia đình quan lại có truyền
thống theo đạo Công giáo lâu đời ở Việt Nam.”
Có
người thấy bài viết bậy quá đã vào thử sửa lại một đoạn đầu xem sao: “Ngô
Đình Diệm sinh ngày 3.1.1901 tại làng Phước Quả, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa
Thiên...”
Nhưng
một tuần sau mở ra xem lại, bọn lưu manh đã sửa lại như cũ! Chúng vừa lưu manh
vừa dốt! Ông Ngô Đình Khả sinh tại Quảng Bình, còn anh em ông Diệm đều sinh ở
Huế (còn sổ rửa tội).
Những
phịa sử của Đỗ Mậu, Cửu Long Lê Trọng Văn (tức Lê Văn
Thông, cán bộ ở Lào), Chu Bằng Lĩnh (Mạc Thu, tên thật là Lưu Đức Sinh,
ghiền thuốc phiện)... được coi như là “kinh nhật tụng” của Phật
Giáo đấu tranh, cứ đem ra tụng đi tụng lại hết ngày này qua ngày khác trên các
diễn đàn.
Không
phải chỉ “bọn lau nhau” tích cực phát động chiến dịch này, mà một số cao tăng
cũng đã đứng ra lãnh đạo. Người hung hăng nhất là Thích Trí Quang. Từ 1963 đến
nay, ông đã liên tục dùng “hồi ký” để phổ biến phịa sử chống Thiên Chúa Giáo.
Trước tiên là cuốn “Tiểu truyện tự ghi”. Chúng tôi biết
rất rõ quê quán, gia đình và bổn sư của ông, thế mà ông tưởng không ai biết, cứ
“múa gậy vườn hoang”. Tập “Từ Rạch Cát tới Tòa Đại Sứ Mỹ” được ông
viết gióng truyện Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân, còn ông là Tôn Ngộ Không! Bị chúng
tôi lật tẩy, năm 2011 ông viết lại với một văn phong ôn hòa hơn, lấy tên là “Trí Quang Tự
Truyện” được Nhà xuất bản Tổng Hợp ở Sài Gòn ấn hành. Cuốn này được
viết và trình bày chuyên nghiệp hơn, có lẽ có người giúp, nhưng lại mâu thuẫn với
nhiều điều ông nói trong các cuốn trước và phịa sử vẫn còn nhiều (chúng
tôi sẽ nói sau), vì thế có người cho rằng “Trí Quang đã tự lột mặt nạ của
chính mình”! Ông vẫn còn nói lẩm cẩm về Dụ số 10, một văn kiện mà ông chẳng
hiểu gì hết. Ông loạn ngôn: “Rõ ràng, Dụ số
10 cho Thiên Chúa Giáo là độc tôn, là “tôn giáo”, cho các tôn giáo khác, kể cả
Phật Giáo, chỉ là tín ngưỡng lặt vặt. Vậy mà Dụ nầy, thủ tướng Diệm mới cầm quyền,
đã ban hành tục Dụ duy trì, ‘ký thay Quốc trưởng’.” Thật
ra Dụ số 10 được Bảo Đại ban hành từ năm 1950 vẫn tồn tại đến 30.4.1975, ông Diệm
và các chính phủ tiếp theo không hề ban hành một văn kiện nào để duy trì hay hủy
bỏ Dụ số 10, vì nội dung của Dụ này không khác gì Luật về hiệp
hội 1901 (Association loi 1901) của Pháp đã được ban
hành ở Việt Nam trước đó và còn tồn tại ở Pháp đến ngày
nay. Nhưng ông có trình độ văn hóa khá thấp, thấp nhất trong các tăng sĩ
lãnh đạo Ấn Quang, nên nói chuyện pháp lý với ông rất khó. Ông vẫn ôm chặt lòng
thù hận Thiên Chúa Giáo!
ĐIỆP
VIÊN HAI MANG?
Hôm
nay chúng tôi nói đến một nhân vật quan trọng khác đối với cuộc chính biến
1963, đó là Thích Đức Nghiệp. Chúng tôi gọi ông là một nhân vật
quan trọng vì ông và Trần Quang Thuận đã được CIA xử dụng để tổ chức vụ thiêu
Thích Quảng Đức, khởi đầu cho kế hoạch lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm.
Tài
liệu cho biết William Kohlmann, một nhân viên tình báo Mỹ đang làm việc ở Anh
quen biết với Trần Quang Thuận đã được điều động qua Sài Gòn để hướng dẫn Trần
Quang Thuận và Đại Đức Thích Đức Nghiệp thực hiện vụ thiêu Thích Quảng Đức. Lúc
Đó Đại Đức Thích Đức Nghiệp đang là giáo sư Anh ngữ tại trường Vạn Thắng. Ông
đã từng làm thông dịch viên cho Mỹ từ cuộc di cư 1954. Thích Quảng Độ làm thông
dịch viên cho USIS.
Bill
Kohlmann kể lại rằng ban tổ chức định dùng xăng để thiêu Thầy Quảng Đức, nhưng
được cho ý kiến là xăng sẽ cháy rất nhanh, không đủ thời gian để chụp hình và
làm các nghi thức trước khi lửa tắt, và thời gian cháy chưa đủ để làm Thầy Quảng
Đức tắt thở, do đó phải đổ thêm Diesel vào cho cháy chậm lại. Thích Đức Nghiệp
có nhiệm vụ liên lạc với ký giả Malcolm Browne của AP, một nhân viên CIA khác,
có nhiệm vụ báo tin cho các ký giả đến đúng lúc để quay phim, chụp hình và gởi
đi khắp thế giới. Ba mươi vụ tự thiêu tiếp theo không có CIA dính vào, đã trở
thành con số không!
Trong
vụ này, Trần Quang Thuận đã phạm một lỗi lầm rất lớn là dùng chiếc xe Austin
mang số DBA 599 của ông già vợ là Tôn Thất Hối, chở Thích Quảng Đức đến hiện
trường nên cơ quan tình báo của ông Diệm phát hiện ra đường dây tổ chức. Trần
Quang Thuận bị CIA sa thải ngay vì lý do “làm gián điệp cho Pháp”. William
Kohlmann nói ông ta đã biện hộ cho Thuận nhưng CIA cứ sa thải. Vì hồ sơ này,
khi Trần Quang Thuận qua Mỹ xin vào làm cho sở xã hội đã bị từ chối.
Lý
lịch của Thích Đức Nghiệp vẫn được giấu kín. Thích Quảng Độ sinh năm 1928.
Thích Đức Nghiệp đồng tuổi hay chỉ nhỏ hơn Thích Quảng Độ một hai tuổi. Sau khi
chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, ông được Mỹ cho đi học tại Đại Học Yale ở
Connecticut và được cấp bằng tiến sĩ triết học. Nhưng ông hiện là Phó Pháp Chủ
Hội Đồng Chứng Minh GHPG Nhà Nước và làm mưa làm gió ở chùa Giác Minh.
Nhiều bài trong nước tố ông là tay sai của Giáo Hội quốc doanh và coi ông là một
thành phần hai mang, vừa làm tay sai cho Mỹ vừa làm tay sai cho Cộng Sản.
ĐỈNH
CAO CỦA LÒNG HẬN THÙ
VÀ
VỌNG NGỮ
Thích
Đức Nghiệp có viết cuốn “Đạo Phật Việt
Nam” được Thành Hội Phật Giáo Sài Gòn xuất bản năm 1995, trong đó có
rất nhiều phịa sử. Hôm nay chúng tôi chỉ trích một đoạn ông nói về nguyên nhân
đưa đến biến cố tối 8.5.1963 trước đài phát thanh Huế, để đọc giả thấy ông phịa
tài tình không thua gì Đặng Văn Nhâm viết cuốn “Giặc thầy chùa”. Ở trang
192 ông viết:
«Xuyên qua
những dữ kiện lịch sử, việc cố tình kỳ thị tôn giáo của chế độ ông Diệm đã tiềm
phục từ lâu, cụ thể từ 1957 tới 1963 qua những bản phúc trình của Phật giáo
Trung Việt. Ðặc biệt vào lễ khánh thành nhà thờ Ðức Mẹ La Vang tại Quảng
Trị, trùng hợp với đại lễ Phật Ðản hằng năm, từ ngày 8-4 đến 15-4 âm lịch trên
toàn quốc. Vào dịp lễ khánh thành này, ông Diệm, ông Nhu, ông Cẩn,
Giám Mục Ngô Ðình Thục cùng đi dự lễ. Trên đường tới nhà thờ tại Quảng Trị, phải
đi qua thành phố Huế, thấy trang hoàng cổng chào và cờ Phật
giáo rợp trời, ông Diệm mới hỏi người tùy tùng và được trả lời: "Ðây là cờ
Phật giáo. » Do đó, ông Diệm liền hạ lệnh cho Quách Tòng Ðức, Ðổng lý văn phòng
phủ Tổng thống, cùng đi theo: "Hãy gửi gấp công điện, khắp nơi phải hạ cờ
Phật giáo xuống!". Ðó là nguyên nhân chính xảy ra cuộc tranh đấu Phật giáo
chống chính quyền ông Diệm vào mùa Phật Ðản năm 1963.»
(Thích Đức Nghiệp, “Đạo Phật Việt Nam”, Thành hội Phật Giáo TP Hồ
Chí Minh, 1995, tr. 192.)
Đây
là một sự bịa đặt quá trắng trợn! Hàng năm Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đều
làm lễ «khánh thành» nhà thờ Đức Mẹ La Vang? Chẳng ai
tin được chuyện này.
Đền
thờ Đức Mẹ La Vang do Linh Mục René Toussaint Morineau khởi xây từ năm
1924 và khánh thành ngày 22.8.1928. Năm 1901, Đức Giám mục Gaspar
Lộc quyết định tổ chức 3 ngày lễ thánh hiến Ðền Thánh La Vang và cuộc cung
nghinh tượng Ðức Mẹ La Vang từ 6 đến 8.8.1901. Giáo dân giáo phận Huế thuộc ba
tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên đã tham dự rất đông đảo. Từ đó, Đại Hội Thánh Mẫu
La Vang được tổ chức 3 năm một lần vào giữa tháng 8, tức vào
dịp lễ Đức Mẹ Lên Trời vào ngày 15 tháng 8. Lễ này không hề
trùng với lễ Phật Đản như Thích Đức Nghiệp đã nói, vì trước 1963 lễ Phật Đản được
tổ chức vào ngày 4 tháng tư âm lịch, sau đó đổi lại ngày 15 tháng 4, tức trước
Đại Hội Thánh Mẫu La Vang khoảng 2 tháng.
Đại
Hội LangVang lần thứ 14 được tổ chức năm 1958, lần thứ 15 năm 1961 và lần thứ
16 năm 1964. Năm 1963 không có Đại Hội La Vang và cũng không có chuyện «ông Diệm,
ông Nhu, ông Cẩn, Giám Mục Ngô Ðình Thục cùng đi dự lễ» ở La Vang năm này.
Do
lời thỉnh cầu của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, ngày 22.8.1960 Ðức Giáo Hoàng
Gioan XXIII đã long trọng ban sắc chỉ nâng đền thờ La Vang lên bậc Vương Cung
Thánh Ðường dâng kính Ðức Mẹ La Vang. HĐGMVN họp tại Huế ngày 13.4.1961 đã quyết
định chọn đền thờ Ðức Mẹ Lavang làm "Ðền Thờ toàn quốc dâng kính Trái
Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Ðức Mẹ", và nhận linh địa Lavang
làm "Trung Tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc". Do đó, Đại Hội
Thành Mẫu La Vang năm 1961 được tổ chức rất trọng thể, có 10 vị Giám mục,
300 Linh mục, gần 1000 tu sĩ nam nữ và khoảng 300.000 giáo dân đến dự. Nhân dịp
này, hai phái đoàn cao cấp của chính phủ VNCH cũng có mặt, một do Tổng
Thống Ngô Đình Diệm dẫn đầu đến La Vang ngày 16.8.1961 và một do Phó Tổng Thống
Nguyễn Ngọc Thơ đến ngày La Vang ngày 21. Tướng Perakiraly của Hungari cũng
tham dự.
Hòa
Thượng Đức Nghiệp đã lấy biến cố 1961 ghép vào năm 1963 và coi đó là
nguyên nhân đưa tới biến cố tối 8.5.1963 tại đài phát thanh Huế. Vọng ngữ như
thế, thật khó tưởng tượng nổi!
Một
người đậu tiến sĩ triết học ở Đại Học Yale, Hoa Kỳ, không thể viết một sự kiện
lịch sử sai lầm nghiêm trọng như vậy. Nhưng ông đã bịa đặt ra những chuyện nói
trên với hai mục tiêu: Mục tiêu thứ nhất là kích động lòng hận thù Thiên Chúa
Giáo làm động lực đấu tranh, và mục tiêu thứ hai là biện minh cho những sai lầm
của Giáo Hội Ấn Quang, vì những tham vọng chính trị hão huyền, đã bị Mỹ rồi Cộng
Sản biến thành công cụ, xài xong rồi đập bể ra từng mảnh!
Trong
bài "Buddhism and Politics”, Hòa Thượng Sri Dhammananda có nhận định
như sau:
“Khi
tôn giáo bị sử dụng để thỏa mãn các ý đồ chính trị thì tôn giáo sẽ phải hy sinh
các lý tưởng đạo đức cao quí của mình và trở nên bị hạ thấp giá trị do những
nhu cầu chính trị trần tục.”
(When religion is used to pander to political whims, it has to
forego its high moral ideals and become debased by worldly political demands.)
(Trích: “Lòng Hận Thù Thiên Chúa Giáo” của
Lữ Giang)
CHUYỆN
KẺ PHẢN BỘI.
1.-
Làm tay sai cho CIA gây thảm họa hoạ
cho
đất nước.
a) Sự thật đã
rõ ràng
Trong
cuộc phỏng vấn được phổ biến trên đài BBC ngày 31.10.2009, Hồ Quang Phương, nạn
nhân của tệ trạng bạo hành của Cảnh Sát Mỹ ở San José, đã phát biểu như sau:
“Khi
vụ đó xẩy ra mà không có băng video, không có gì chứng minh là mình đúng, có thể
bị xử có tội. Bây giờ có băng video rồi, công lý đứng về phía mình.”
Trong
vụ đảo chánh và giết ông Diệm cũng vậy.
Trong
một cuốn băng dài 30 tiếng đồng hồ do thư viện Johson Library ở Austin, Texas,
công bố ngày 28.2.2003, cho biết vào ngày 1.2.1966, Tổng Thống Lyndon B.
Johnson đã nói chuyện bằng điện thoại với Thượng Nghị Sĩ Eugene McCathy như
sau:
Johnson:
-
... Nhưng ngài nhớ, lúc đầu họ nói với tôi về ông Diệm.
MacCarthy:
-
Có chứ.
Johnson:
- (Rằng) ông
ta tham nhũng và ông ta phải bị giết. Vì thế, chúng ta đã giết ông ta. Tất cả
chúng ta đã họp lại với nhau VÀ XỬ DỤNG MỘT BỌN ÁC ÔN CÔN ĐỒ ĐÁNG
NGUYỀN RỦA để hạ sát ông ta. Bây giờ, chúng
ta thật sự không có sự ổn định chính trị (ở Miền Nam Việt Nam) từ
lúc đó.”
Khi
cuốn băng này chưa được công bố, một số viên chức Mỹ có trách nhiệm và một số sử
gia cố gắng cãi chày cãi cối để kết luận rằng vụ đảo chánh năm 1963 là do một
nhóm sĩ quan VNCH thực hiện, người Mỹ không hề nhúng tay vào. Còn các Tướng Tá
Việt Nam làm đảo chánh tự tôn là “nhà cách mạng” và ngày 1.11.1963
được biến thànhNgày Quốc Khánh. Nhưng khi cuốn băng nói trên
được công bố, lịch sử đã được làm sáng tỏ.
b)
Tên chỉ đạo hống hách
Trưa
ngày đảo chánh 1.11.1963, Lucien Conein, người được nói là có nhiệm vụ theo dõi
cuộc đảo chánh nhưng thật sự là người chỉ đạo cuộc đảo chánh, đã đến Bộ Tổng
Tham Mưu VNCH mang theo một cái túi đựng 3 triệu đồng Việt Nam (42.000
USD)mà ông đã rút ra trước từ ngân khoản của Trạm CIA. Ngoài số tiền này,
Lucien Conein còn mang một khẩu súng lục, một cái radio đặc biệt để thông báo
tin tức về cuộc đảo chánh cho Trạm CIA và các viên chức CIA khác nằm trong mạng
lưới của ông ta.
Lucien
Conein đã tự ý leo lên ngồi ở ghế bành của của Đại Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham
Mưu Trưởng VNCH, gác chân lên bàn, bên cạnh là khẩu Magnum 44, dưới chân bàn là
hai xách tay bạc Việt Nam...
(Hoàng Lạc và Hà Mai Việt, “Việt Nam năm 1954 – 1975, những sự thật
chưa hề nhắc tới”, tr. 247).
Tướng
Trần Văn Đôn cho biết, khi hay tin ông Diệm và ông Nhu đã rời khỏi dinh Gia
Long, Lucien Conein đã nói một cách hống hách:
- Hai ông ấy đi
đâu? Phải bắt lại cho kỳ được vì rất quan trọng.
Ông
ta nói bằng tiếng Pháp:
- On ne fait pas d'omelette sans casser les oeufs.”
(Người ta không thể làm món trứng rán mà không đập bể những cái trứng).
(Trần Văn Đôn, Việt Nam nhân chứng, tr. 228)
Tên
“thủ trưởng” này quả thật quá hống hách!
c)
Phản bội tổ quốc
Nhà
cầm quyền Mỹ ra lệnh lật đổ và giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm để có thể đổ quân
vào miền Nam. Họ hành động như vậy vì quyền lợi của nước Mỹ. Còn nhóm sĩ quan
VNCH nhận chỉ thị và tiền của Mỹ làm đảo chánh lật đổ và giết Tổng Thống Ngô
Đình Diệm, đưa VNCH vào những ngày đen tối và sau đó làm mất miền Nam Việt Nam,
họ chỉ là những tên lính đánh thuê không hơn không kém. Họ không hành động vì
quyền lợi của tổ quốc.
Trong
trường hợp này, tội của những kẻ làm lính đánh thuê chắc chắn nặng hơn tội của
kẻ chủ mưu, vì họ đã phản bội tồ quốc.
2.-
Hiệp định Paris: Bán đứng VNCH
Một
số người cho rằng Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu là người có công khi buộc Hoa Kỳ
và Việt Cộng phải thay đổi một số điều khoản có hại cho VNCH trong dự thảo hiệp
định Paris. Nhưng nói như thế là hoàn toàn sai lầm.
Ngày
18.10.1972 Kissinger đã đến Saigon để làm áp lực buộc Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
phải đồng ý nội dung bản dự thảo hiệp định Paris với hy vọng sẽ mang bản dự thảo
đó ra Hà Nội ngày 24.10.1972 để Thủ Tướng Phạm Văn Đồng ký tắt vào. Nhưng
Kissinger đã thất bại. Chỉ trong một thời gian ngắn, Bộ Ngoại Giao, Bộ Tư Pháp
và Bộ Dân Vận - Chiêu Hồi đã phát hiện ra đến 23 điểm cần phải
điều chỉnh. Kissinger chỉ đồng ý điều chỉnh 16 điểm không quan trọng mà
thôi. Số còn lại phải để nguyên, trong đó có điều khoản quan trọng nhất
là chỉ buộc Mỹ rút
khỏi miền Nam chứ không buộc quân đội Bắc Việt.
Chúng
ta nhớ lại, khi Hội Nghị Genève 1954 sắp kết thúc, thừa lệnh của Thủ Tướng Ngô
Đình Diệm, ngày 19.7.1954 Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ tuyên bố tại Genève rằng
chính phủ quốc gia Việt Nam không chấp nhận chia cắt Việt Nam và yêu cầu đặt Việt
Nam dưới quyền kiểm soát của Liên Hiệp Quốc. Chính phủ Ngô Đình Diệm đã cương
quyết không ký tên vào hiệp định này.
Ngày
21.7.1954 khi đại diện Pháp và Việt Minh ký hiệp định Genève chia cắt đất nước
làm đôi, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm ra lệnh treo cờ rũ và đọc một bài diễn văn chống
lại sự bất công của Hiệp Định này đã trao cả miền Bắc cho Cộng Sản và thêm 4 tỉnh
miền Trung. Thủ Tướng nói: “Chúng tôi không thể đặt vào vòng nô lệ hàng triệu đồng bào trung
thành với chủ nghĩa quốc gia...”
Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu đã không hành động như vậy. Ông thừa biết Bắc Việt cố giữ
lại điều khoản không rút quân trong hiệp định Paris là để khi Hoa Kỳ rút hết, họ
sẽ mở cuộc tấn công trở lại, nhưng bị ám ảnh bởi cái chết của Tổng Thống Ngô
Đình Diệm khi Mỹ muốn đem quân vào Việt Nam mà ông là một trong những thủ phạm, Tổng Thống
Thiệu đã tự trấn an bằng những lời cam kết của Tổng Thống Nixon mà Tướng Haig mới
chuyển đến, đã ra lệnh cho Ngoại Trưởng Trần Văn Lắm ký tên vào Hiệp Định Paris
ngày 27.1.1973. Trong trường hợp nầy, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã đặt sinh mạng
và địa vị của mình lên trên quyền lợi quốc gia. Đây là lỗi lầm trọng đại căn bản
dẫn tới mất miền Nam.
CẦN LÀM SÁNG TỎ LỊCH SỬ
Trong
thời chính phủ Ngô Đình Diệm, tôi còn là sinh viên nên không đính líu gì đến chế
độ này, nhưng ít ra tôi cũng được chứng kiến tận mắt nhiều biến cố đã xẩy ra.
Tôi cảm thấy kinh hoàng khi khảo cứu hồ sơ vụ án Ngô Đình Cẩn và vụ án Đặng Sỹ.
Sau này tôi cảm nhận rằng lời nguyền rủa của Tổng Thống Johnson dành cho những
kẻ tay sai của CIA không có gì quá đáng.
Khi
ra hải ngoại, tôi lại cảm thấy kinh hoàng hơn khi đọc các cuốn phịa sử không phải
chỉ của Đỗ Mậu hay Lê Trọng Văn mà cả của Thiền Sư Nhất Hạnh! Tôi không thể ngờ
được người ta đã cố tình viết lịch sử một cách bố láo bố lếu như vậy.
Tôi
bắt đầu đọc lại bản phúc trình của phái đoàn điều tra Liên Hiệp Quốc về vụ Phật
Giáo, các tài liệu chính thức được giải mật trong các bộ Foreign Relations of
the United States liên quan đến vấn đề Việt Nam của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ công bố,
v.v., tôi quyết định phải đem lại sự thật cho lịch sử. Bài “Kẻ phản bội” cũng
nằm trong loạt bài đó.
(Trích: “Chuyện Kẻ Phản Bội” của Lữ Giang)
Sau
cuộc cách mạng Bolshevik ngày 17 tháng Mười năm 1917 tại Nga thành công, đưa Cộng
Sản lên nắm chính quyền; ông Vladimir Lenin gọi bọn người chạy theo liếm gót Cộng
Sản để tâng bốc là “polezniye duraki”, tiếng Anh gọi là “useful idiots” (những
thứ người ngu xuẩn nhưng có ích cho Cộng Sản).
Tại
Việt Nam bọn “polezniye duraki” quả thực chỉ mong được ngoại bang hay Cộng Sản
ban cho “bơ thừa, canh cặn”, vì thế bọn chúng quay ra tiếp tay chống đối và đạp
đổ tất cả những cái tử tế, tốt đẹp của xã hội đang cưu mang và thi ân cho
chúng. Tưởng rằng, bọn “useful idiots” này sẽ tỉnh ngộ sau khi cái mặt nạ Cộng
Sản thực sự rơi xuống, nhất là bọn tài phiệt buôn bán chiến tranh trên xương
máu người Việt, họ dùng bọn người này như: cây mã tấu, khẩu Rouleau, khẩu
Thompson, khẩu Aka. v.v. được tẩm thuốc độc dưới lớp áo màu vàng hay màu nâu, rồi
khi xong việc, bọn chúng liền bị bọn tài phiệt buôn chiến tranh quang vào đống
rác, thì bọn chúng phải tỉnh ngộ chứ! Ai ngờ bọn ngu xuẩn này vẫn tiếp tục u muội
mãi. Thế rồi, những tên ngu xuẩn đó từ từ chết dần, người ta hy vọng bọn đàn em
của bọn chúng sẽ tỉnh ngộ tránh được những vết xe đổ vỡ trước đây. Nhưng than
ôi! Vậy bọn ngưới này là loại người ăn cái gì nhỉ?
Thế
rồi đã nửa thế kỷ năm trôi qua, và nhất là giáo lý của nhà Phật mà Đức Thế Tôn
luôn dạy các Phật tử và chúng sanh: từ bi, hỷ xả, để đạt đến chân, thiện, mỹ. Đức Phật thường
khuyên bảo đệ tử của ngài rằng: “Hận thù không nên giữ trong đầu quá một đêm”. Phật
cũng dạy “Lấy ân báo oán, oán tiêu tan, lấy thù báo oán,oán chập chồng như núi
Thái Sơn… không đời kiếp nào hết…”
Thế
mà không hiểu vì sao, vào tháng Sáu năm 2013, tại chùa Bảo Quang, Nam
California, Đại Lão Hòa Thượng Tâm Châu, Thượng Chủ GHPGVN trên toàn thế giới
khơi lại chuyện Hòa Thượng Quảng Đức “tự!” thiêu sáng ngày 11-06-1963 tại ngã
ba đường Lê Văn Duyệt và Phan Đinh Phùng, Sài Gòn. Trong khi nói chuyện cụ nhấn
mạnh năm nay (2013) cụ đã 93 tuổi, ý cụ lấy danh dự của một người đạo cao chức
trọng, lại rất cao tuổi ra để thề không nối láo, hơn nữa lúc đó cụ là Chủ Tịch Ủy
Ban Liên Phái của Phật giáo tranh đấu chấp thuận đơn của Hòa Thượng Quảng Đức
được tự thiêu trong số bẩy đơn tất cả.
Khi
nghe đên đây, chúng tôi sực nhớ lại, trên đời này tàn ác, lừa phỉnh, gian dối
chỉ bằng Cộng Sản là cùng. Thế mà khi điệp viên tình báo Đặng Chí Bình và phi
công John Macain đang tự tử trong lao tù Cộng Sản, nhưng bọn công an phát hiện
kịp, chúng vẫn ngăn chặn và cứu sống hai ngươì này. Lại còn khuyên nhủ nữa. Thế
mà những kể mang danh là con Phật lại tổ chức giết người.
Nhưng
muốn tìm hiểu thật chính xác về việc Hòa Thượng Quảng Đức tự thiêu hay bị
thiêu, xin quý độc giả vào: Google, rồi đánh máy vào đó như sau: “thượng tọa
thích quảng đức tự thiêu? hay bị cộng dản thiêu sống?” sẽ thấy rõ, không thể chối
cãi được.
Nhắc
đến Ủy Ban Liên Phái của Phật giáo tranh đấu năm 1963, theo như chúng tôi được
biết, khi bản Thông Cáo Chung giữa Ủy Ban Liên Phái của Phật giáo và Ủy Ban
Liên Bộ của Chính Phủ VNCH, về phía Phật giáo đã ký và đã được Đại Lão Hòa Thượng
Thích Thiện Khiết ký KHÁN, thì bản Thông Cáo Chung được trao cho ông Ngô Đình
Nhu. Ông Ngô Đình Nhu đưa cho bà Nhu đọc để thêm ý kiến, bà Nhu lấy làm lạ rồi
phì cười vì những đòi hỏi của Phật giáo chưa bao giờ bị cấm. Bà đề nghị ký
nhưng ghi tay thêm mấy chữ là “những đòi hỏi trong đây chưa bao giờ bị cấm”.
Ông cố vấn Ngô Đình Nhu đem bản Thông Cáo Chung đến buổi họp của Ủy Ban Liên Bộ
sau đó và nói lại ý của bà Nhu, ngoại trưởng Phật giáo Vũ Văn Mẫu yên lặng
không nói gì, nhưng Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ phát biểu: “Họ uống trà sâm
còn mình uống trà thường khiến mình là thằng ngu”. Vì câu nói này mà ông Mẫu cạo
đầu thừ chức Ngoại Trưởng. (Trích: “Hồi Ký của Bà ngô Đình Nhu, tr. 188). Tưởng
xin được bổ túc thêm, bà Nhu còn nhắc chồng rằng: “Anh trình Tổng Thống phê bên
lề: “Chấp thuận” rồi ký tắt ngay đó. Chứ đừng ký KHÁN như cụ Tịnh Khiết. Vì Tổng
thống là Quốc Trưởng, không thể ngang hàng với đại diện một tổ chức được. Vì
như Tổng Thống đã nói: “Tôn giáo nằm trong quốc gia, chứ quốc gia không nằm
trong tôn giáo”….
Trở
lại “Thông bạch” của cụ Tâm Châu gửi đồng bào Phật tử. Cụ Tâm Châu nhắc đì nhắc
lại nhiều lần: “Mục đích của việc tự thiêu của Hòa Thượng Quảng Đức nhằm thức tỉnh
nhân tâm Tổng Thống Ngô Đình Diệm, chứ không thù oán gì chế độ.” Còn các vị Hòa
Thượng, Thượng Tọa khác như: Quảng Độ, Trí Quang, Đôn Hậu.v.v. nhằm cứu nguy Phật
giáo và dân tộc.
Nay,
Phật giáo và dân tộc Việt Nam đang quoằn quoại trong nanh vuốt của Việt Cộng,
nhất bọn Cộng Sản Việt Nam vô thần, vô tổ quốc đang dâng hiến cả nước Việt Nam
thân yêu của chúng ta cho Trung Cộng, bằng chứng cụ thể là cái HỘI NGHỊ THÀNH
ĐÔ ngày03-09-1990 đã được phơi bày. Thế mà các cụ như: Tâm Châu, Trí Quang, Quảng
Độ. v. v. chẳng thấy “Cụ” nào dám tự thiêu để cứu nguy Phật giáo và cứu nguy
dân tộc cả, mặc dầu tuổi của các cụ là tuổi gần đất xa trời rồi. Riêng cụ Quảng
Đội kêu gọi “biểu tình tại gia”, khác nào “trùm mền la xung phong”.
Sở
dĩ chúng tôi không dám đặt chữ “Thích” trước tên Tâm Châu, Quảng Độ, Trí Quang,
Đôn Hậu, Đức Nghiệp. v.v. vì chúng tôi không dám vô lễ xúc phạm đến Đức Thế Tôn
Thích Ca Mâu Ni…
Đang
khi theo dõi đọan video clip cụ Tâm Châu “thanh minh thanh nga” tại chùa Bảo
Quan, chúng tôi lắc đầu, sửng sốt và nhớ lại câu giáo huấn sau
đây: “Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá”. Còn nói theo kiểu “Đại
Phịa Sử Gia” ở Canada thì: “Đống cứt đã khô mặt, nay lại bởi ra cho thối thêm gấp
bội” (Đúng là “Gậy ông đập lưng ông”). Nhưng có lẽ cuộc nói chuyện của cụ Tâm
Châu tại chùa Bảo Quang lót đường cho kế hoạch “NGHỊ QUYẾT 36 TÔN GIÁO VẬN” của
Cộng Sản. Vì chỉ có bọn Ma Tăng mới lưu thù chuốc oán trên 50 năm qua
dưới hai chữ “PHÁP NẠN”, mà Bọn Ma Tăng đã được đào tạo dưới mái trường
công an của chế độ CSVN mổi năm huấn luyện hoàn thành khoảng 2000 tân công an đầu
trọc tung ra từ quốc nội tới hải ngoại để hoạt động, đó là điều có thật.”
(Trích: “NGHỊ QUYẾT 36 TÔN GIÁO VẬN” của Võ Long Triều)
Để
tìm hiểu thêm về kế hoạch này, xin quý vị đọc những lá thư sau đây của Thiếu tá
Liên Thành:
From: UBTTTAĐCSVN <ubtttadcsvn.vg@gmail.com>
Date: 2014-10-17 16:43 GMT-07:00
Subject: (Hiệu đính & final) CHIẾC MẶT NẠ CỦA THÍCH QUẢNG ĐỘ VÀ ĐÁM CỘNG TĂNG THUỘC PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT ĐÃ BỊ RỚT SAU NỬA THẾ KỶ DỐI GẠT ĐỒNG BÀO
Date: 2014-10-17 16:43 GMT-07:00
Subject: (Hiệu đính & final) CHIẾC MẶT NẠ CỦA THÍCH QUẢNG ĐỘ VÀ ĐÁM CỘNG TĂNG THUỘC PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT ĐÃ BỊ RỚT SAU NỬA THẾ KỶ DỐI GẠT ĐỒNG BÀO
CHIẾC
MẶT NẠ CỦA THÍCH QUẢNG ĐỘ VÀ ĐÁM CỘNG TĂNG THUỘC PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
ĐÃ BỊ RỚT SAU NỬA THẾ KỶ DỐI GẠT ĐỒNG BÀO
________________________________________________________
Liên
Thành
Orange County, CA ngày 16/10/2014
Kính gởi: Đồng bào tại quốc nội và
hải ngoại
Thưa đồng bào,
Trước tình hình đất nước sắp mất vào tay Tàu cộng, thì đã có một biểu tượng của lòng yêu nước và tinh thần bất khuất ngày càng lan rộng trong giới trẻ quốc nội và hải ngoại. Biểu tượng ấy không ai khác hơn là Tổng Thống VNCH Ngô Đình Diệm. Từ Facebook cho đến blog đã chứng minh rằng người Việt Nam đang rất ngưỡng mộ và noi gương tiết trực, vị quốc vong thân của vị Tổng Thống Đệ I VNCH. Từ đây gọi chung là Tinh thần TT VNCH Ngô Đình Diệm.
An ninh tình báo của CSVN nhận thức rõ hiện tượng đặc biệt này. Vì vậy hiện nay, CSVN đã nghiên cứu và quyết định dùng hình tượng Thích Quảng Đức như là một vũ khí chiến lược làm biểu tượng để chống lại Tinh thần TT VNCH Ngô Đình Diệm. Bọn CSVN quốc nội và hải ngoại hằng năm làm lễ truy điệu vụ Thích Quảng Đức bị dàn dựng thiêu sống, tuyên truyền cái gọi là "cuộc vận động Phật giáo năm 1963" của đám Cộng tăng, và khai thác cuộc phản loạn năm 1963.
Đã hơn 50 năm trôi qua, từ ngày tổ chức Phật giáo Việt Nam Thống Nhất (PGVNTN) dùng danh nghĩa Phật giáo đã phá nát miền nam Việt Nam từ vụ phản loạn ngày 1/11/1963 đạp đổ nền Đệ I VNCH, sát hại Tổng Thống Đệ I VNCH Ngô Đình Diệm,sự phối hợp giữa CSVN và đám điệp viên tôn giáo cộng sản nằm vùng (Cộng tăng) đến nay vẫn còn ngoan cố như vậy. CSVN vừa quyết định bỏ ra 150 tỉ đồng VN tức tương đương 7 triệu Dollars cho công trình Việt Nam Quốc Tự để đánh bóng vũ khí chiến lược Thích Quảng Đức và công khai công nhận sự thành lập của đám Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất với công tác giải trừ VNCH năm 1963. (Sự thành lập của Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là một đề án đã được tên Hồ Chí Minh chấp thuận cho Thích Trí Quang thực hiện mà tôi đã chứng minh trong sách Thích Trí Quang, Thần Tượng hay Tội Đồ Dân Tộc.)
Trong đó đại diện là 5 tên điệp viên tôn giáo cộng sản nằm vùng đứng đầu là Cộng tăng:
Trước tình hình đất nước sắp mất vào tay Tàu cộng, thì đã có một biểu tượng của lòng yêu nước và tinh thần bất khuất ngày càng lan rộng trong giới trẻ quốc nội và hải ngoại. Biểu tượng ấy không ai khác hơn là Tổng Thống VNCH Ngô Đình Diệm. Từ Facebook cho đến blog đã chứng minh rằng người Việt Nam đang rất ngưỡng mộ và noi gương tiết trực, vị quốc vong thân của vị Tổng Thống Đệ I VNCH. Từ đây gọi chung là Tinh thần TT VNCH Ngô Đình Diệm.
An ninh tình báo của CSVN nhận thức rõ hiện tượng đặc biệt này. Vì vậy hiện nay, CSVN đã nghiên cứu và quyết định dùng hình tượng Thích Quảng Đức như là một vũ khí chiến lược làm biểu tượng để chống lại Tinh thần TT VNCH Ngô Đình Diệm. Bọn CSVN quốc nội và hải ngoại hằng năm làm lễ truy điệu vụ Thích Quảng Đức bị dàn dựng thiêu sống, tuyên truyền cái gọi là "cuộc vận động Phật giáo năm 1963" của đám Cộng tăng, và khai thác cuộc phản loạn năm 1963.
Đã hơn 50 năm trôi qua, từ ngày tổ chức Phật giáo Việt Nam Thống Nhất (PGVNTN) dùng danh nghĩa Phật giáo đã phá nát miền nam Việt Nam từ vụ phản loạn ngày 1/11/1963 đạp đổ nền Đệ I VNCH, sát hại Tổng Thống Đệ I VNCH Ngô Đình Diệm,sự phối hợp giữa CSVN và đám điệp viên tôn giáo cộng sản nằm vùng (Cộng tăng) đến nay vẫn còn ngoan cố như vậy. CSVN vừa quyết định bỏ ra 150 tỉ đồng VN tức tương đương 7 triệu Dollars cho công trình Việt Nam Quốc Tự để đánh bóng vũ khí chiến lược Thích Quảng Đức và công khai công nhận sự thành lập của đám Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất với công tác giải trừ VNCH năm 1963. (Sự thành lập của Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là một đề án đã được tên Hồ Chí Minh chấp thuận cho Thích Trí Quang thực hiện mà tôi đã chứng minh trong sách Thích Trí Quang, Thần Tượng hay Tội Đồ Dân Tộc.)
Trong đó đại diện là 5 tên điệp viên tôn giáo cộng sản nằm vùng đứng đầu là Cộng tăng:
1- Thích Trí Quang: Đảng viên cộng sản, Tình báo viên
của Cục tình báo chiến lược Hà Nội, cũng là mật báo viên cơ quan tình báo Hoa kỳ
2- Thích Đôn Hậu: Chánh Đại Diện Phật Giáo Ấn Quang
Miền Vạn Hạnh, Tình báo viên của Cục tình báo chiến lược, thoát ly ra Hà nội
vào năm Mậu Thân
1968
3- Thích Quảng Độ: Tăng Thống PGVNTN hiện tại, Cán bộ
Tình báo chiến lược của Tổng Cục Tình báo Bắc Việt, qua ngỏ Ấn Độ xâm nhập bất
hợp pháp vào miền Nam VN vào năm 1958
4- Thích Thiện Siêu: Trụ trì chùa Từ Đàm, 40 năm tuổi đảng, Dân biểu cộng sản 4 nhiệm kỳ (sau 1975)
4- Thích Thiện Siêu: Trụ trì chùa Từ Đàm, 40 năm tuổi đảng, Dân biểu cộng sản 4 nhiệm kỳ (sau 1975)
5- Thích Minh Châu: 43 năm tuổi đảng, Cán bộ tôn giáo vận
của cục Tình báo chiến lược Hà Nội. Từ chùa Quán Sứ Hà Nội qua Ấn Độ, vào miền
nam chính thức bằng Visa do Thủ Tướng VNCH thời đó là Thủ Tướng Nguyễn Khánh cấp
năm 1964 (Cộng tăng Thích Trí Quang và tổ chức PGVNTN của y đã áp lực Tướng
Khánh).
Thích Minh Châu giữ chức vụ Viện Trưởng viện Đại Học Vạn Hạnh từ đó đến 30/4/1975, sau 1975 giữ chức vụ dân biểu của cộng sản Việt Nam 2 nhiệm kỳ.
Thích Minh Châu giữ chức vụ Viện Trưởng viện Đại Học Vạn Hạnh từ đó đến 30/4/1975, sau 1975 giữ chức vụ dân biểu của cộng sản Việt Nam 2 nhiệm kỳ.
Sau 1/11/1963, chỉ trong vòng 2 năm từ tháng 1/1964 đến cuối tháng 6/1966, bọn chúng đã thực hiện 153 cuộc biểu tình bạo động phá rối an ninh trật tự khắp toàn các đô thị lớn, nhỏ, tại miền nam Việt Nam không ngoài mục đích tạo cơ hội thuận tiện cho cộng sản Bắc Việt xâm chiếm miền nam Việt Nam.
Trong khoảng thời gian nầy phải nói đến
cuộc phản loạn của bọn chúng tại miền Trung do tên Cộng tăng Thích Trí Quang cầm
đầu mưu toan chiếm giữ 6 tỉnh miền Trung (Quảng trị, Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng,
Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi) để dâng cho cộng sản Bắc Việt.
Kế đến là Tết Mậu Thân 1968 bọn chúng cho ra đời Lực Lượng Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình với tên Việt gian Lê Văn Hảo làm Chủ Tịch và tên Thích Đôn Hậu Chánh Đại Diện PGVNTN miền Vạn Hạnh làm phó Chủ Tịch. Chúng phối phợp với quân du kích và bọn Việt Cộng nằm vùng, dùng chùa Từ Đàm làm Bộ Chỉ huy An ninh và trung tâm thanh lọc đã chôn sống 5327 thường dân vô tội và bắt đi mất tích 1200 người.
Và cuối cùng ngày 30/4/1975 cũng chính bọn nầy cùng với 500 sư sãi của PGVNTN kéo nhau ra tận ven đô Sài Gòn đón quân Cộng sản vào Thủ Đô Sài Gòn của VNCH.
Qua bao đau thương tang tóc của đồng bào, bao nhiêu khổ nạn của dân tộc, bao nhiêu điêu linh của tổ quốc do bọn nầy gây ra, vậy mà khi nào bọn chúng cũng vỗ ngực nói rằng bọn chúng vì Quốc nạn và Pháp nạn mà phải tranh đấu phải hy sinh, phải tự thiêu như Thích Quảng Đức, phải tuyệt thực 90 ngày không chết như Thích Trí Quang, phải thực hiện 153 cuộc biểu tình bạo động khắp toàn lãnh thổ VNCH.
Sau 30/4/1975, tên điệp viên tôn giáo cộng sản Thích Quảng Độ lại đóng vai trò đối lập cuội với cộng sản trong chức vụ Tăng Thống của PGVNTN tuyên bố: “Đang trực diện đối đầu với cộng sản để giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn”, kêu gọi đồng bào Phật tử hải ngoại đóng góp cả hằng chục triệu Dollars cho y và tổ chức PGVNTN, đồng thời kêu gọi đồng bào trong nước chống cộng sản bằng cách: “Biểu Tình tại Gia”.
Cũng sau ngày 30/4/1975 tại Hải Ngoại thì tên Việt Gian Võ Văn Ái, đám Cộng tăng, dâm tăng, thổ phỉ tăng PGVNTN như Thích Viên Lý, Thích Viên Huy, Thích Giác Đẳng, cũng hô hào đồng bào Phật Tử Hải Ngoại đóng góp tiền bạc cho công cuộc trực diện đối đầu với Cộng sản để giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn của tên cộng sản Thích Quảng Độ Tăng Thống PGVNTN.
Và gần 1 năm trước đây, 12/2013, thì PGVNTN chia làm hai tiếp tục con đường lường gạt tiền bạc của tín đồ và dùng Phật giáo tạo lập nhiều cơ sở nằm vùng để mưu toan cầm nắm cộng đồng Hải Ngoại:
Một bên là Võ Văn Ái, Thích Giác Đẳng, Thích Quảng Độ vẫn giữ danh xưng là Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, một bên là Thích Viên Lý chùa Điều Ngự với danh xưng là Tăng Đoàn Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
Cả hai phe hiện đang tranh nhau xây chùa to, hốt tiền bá tánh, Phật tử.
Kế đến là Tết Mậu Thân 1968 bọn chúng cho ra đời Lực Lượng Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình với tên Việt gian Lê Văn Hảo làm Chủ Tịch và tên Thích Đôn Hậu Chánh Đại Diện PGVNTN miền Vạn Hạnh làm phó Chủ Tịch. Chúng phối phợp với quân du kích và bọn Việt Cộng nằm vùng, dùng chùa Từ Đàm làm Bộ Chỉ huy An ninh và trung tâm thanh lọc đã chôn sống 5327 thường dân vô tội và bắt đi mất tích 1200 người.
Và cuối cùng ngày 30/4/1975 cũng chính bọn nầy cùng với 500 sư sãi của PGVNTN kéo nhau ra tận ven đô Sài Gòn đón quân Cộng sản vào Thủ Đô Sài Gòn của VNCH.
Qua bao đau thương tang tóc của đồng bào, bao nhiêu khổ nạn của dân tộc, bao nhiêu điêu linh của tổ quốc do bọn nầy gây ra, vậy mà khi nào bọn chúng cũng vỗ ngực nói rằng bọn chúng vì Quốc nạn và Pháp nạn mà phải tranh đấu phải hy sinh, phải tự thiêu như Thích Quảng Đức, phải tuyệt thực 90 ngày không chết như Thích Trí Quang, phải thực hiện 153 cuộc biểu tình bạo động khắp toàn lãnh thổ VNCH.
Sau 30/4/1975, tên điệp viên tôn giáo cộng sản Thích Quảng Độ lại đóng vai trò đối lập cuội với cộng sản trong chức vụ Tăng Thống của PGVNTN tuyên bố: “Đang trực diện đối đầu với cộng sản để giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn”, kêu gọi đồng bào Phật tử hải ngoại đóng góp cả hằng chục triệu Dollars cho y và tổ chức PGVNTN, đồng thời kêu gọi đồng bào trong nước chống cộng sản bằng cách: “Biểu Tình tại Gia”.
Cũng sau ngày 30/4/1975 tại Hải Ngoại thì tên Việt Gian Võ Văn Ái, đám Cộng tăng, dâm tăng, thổ phỉ tăng PGVNTN như Thích Viên Lý, Thích Viên Huy, Thích Giác Đẳng, cũng hô hào đồng bào Phật Tử Hải Ngoại đóng góp tiền bạc cho công cuộc trực diện đối đầu với Cộng sản để giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn của tên cộng sản Thích Quảng Độ Tăng Thống PGVNTN.
Và gần 1 năm trước đây, 12/2013, thì PGVNTN chia làm hai tiếp tục con đường lường gạt tiền bạc của tín đồ và dùng Phật giáo tạo lập nhiều cơ sở nằm vùng để mưu toan cầm nắm cộng đồng Hải Ngoại:
Một bên là Võ Văn Ái, Thích Giác Đẳng, Thích Quảng Độ vẫn giữ danh xưng là Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, một bên là Thích Viên Lý chùa Điều Ngự với danh xưng là Tăng Đoàn Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
Cả hai phe hiện đang tranh nhau xây chùa to, hốt tiền bá tánh, Phật tử.
Đến nay, 10/2014, thì chiếc mặt nạ đạo pháp dân tộc của bọn CSVN và tổ chức Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã bị rớt. Như trên đã nói, vũ khí chiến lược Thích Quảng Đức và vụ phản loạn 1963 đang được CSVN đem ra. Thành Ủy cộng sản tại Sài Gònqua thông cáo chính thức vào ngày 12 tháng 10 năm 2014 rằng:
Ngày 12/10 CSVN đã tổ chức lễ đặt đá khởi công xây dựng Việt Nam Quốc Tự, Quận 10 trước sự chứng kiến của đông đảo lãnh đạo chóp bu CS tại Sài Gòn. Việt Nam Quốc Tự được thiết kế và xây dựng lại trên quy mô rộng 10.000 m2, trong đó có hơn 7.200m2 vừa được Ủy ban nhân dân CS tại Sài Gòn cấp cho. Công trình Việt Nam Quốc Tự dự kiến sẽ ngốn 7 triệu Đôla này sẽ hoàn thành trong 2 năm tới.
Bọn CSVN mang hy vọng ngôi Việt Nam Quốc Tự cao 13 tầng sẽ trở thành biểu tượng cho "13 tổ chức, hội đoàn, tông phái tham gia thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và cuộc vận động Phật giáo năm 1963."
Nơi đây sẽ tôn thờ trái tim của Thích Quảng Đức, đồng thời sẽ xây dựng nhà trưng bày về "cuộc tranh đấu của Phật giáo"… khi đang lâm vào hoàn cảnh "pháp nạn năm 1963."
http://www.vietnamplus.vn/khoi-cong-xay-dung-viet-nam-quoc-tu-moi-tai-thanh-pho-ho-chi-minh/285820.vnp
Thích Quảng Độ, Võ Văn Ái, Thích Viên Lý, Thích Giác Đẳng của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, trong 2 năm liên tiếp 2013 và 2014, đã đồng hành cùng Cộng sản trong việc dùng Thích Quảng Đức để đấu tố VNCH và Cố TT Đệ I VNCH Ngô Đình Diệm tại chùa Pháp Luân, Texas, và chùa Điều Ngự, Nam Cali, và trên các phương tiện truyền thông như đài truyền hình IBC của chùa Điều Ngự và đài Radio Quê Mẹ của Võ Văn Ái. Hãy giải thích với đồng bào trong và ngoài nước về hành động bán nước hại dân của các ông trong một cuộc tranh luận với tôi tại bất cứ nơi đâu và thời gian nào, ngoại trừ Việt Nam, dưới sự chứng kiến của đồng bào và giới truyền thông.
Rất mong các ông nhận lời mời của tôi.
California, USA ngày 16 tháng 10 năm 2014
Liên Thành
Chủ tịch Ủy ban Truy Tố Tội Ác Đảng Cộng
Sản Việt Nam
P.O. Box 6147, Fullerton, CA
92834
Điện thoại: 626-257-1057
Email: ubtttadcsvn.vg@gmail.com
Đồng
thời xin quý vị đọc tiếp hai bài dưới đây về những trò ma thuật đã diễn ra trước
đây:
THƯ
THIẾU TÁ LIÊN THÀNH GỬI ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG TÂM CHÂU
Orange County, California, ngày 13 tháng 7 năm 2013
“Thưa
Hòa Thượng,
Từ
bao nhiêu năm nay cho đến trước cuối tháng 6-2013 Hòa thượng nói chuyện tại
chùa Bảo Quang Nam Cali, và trước ngày 4-7-2013 Ký giả Đoàn Trọng phỏng vấn Hòa
Thượng trên đài truyền hình channel 57.7 thì cá nhân tôi vẫn một lòng tôn kính
Hòa thượng. Nhất là khi Hòa thượng ra cuốn Bạch Thư tố cáo Ác Tăng Thích Trí
Quang và Phật Giáo thuộc nhóm Ấn Quang là cộng sản, mặc dầu trước đó trong thời
gian cuộc nổi loạn 1963 Hòa Thượng cũng đã sát cánh với Thích Trí Quang và nhóm
cộng sản Ấn Quang như Hòa thượng đã tuyên bố trong cuốn Bạch Thư ngày
31-12-1993 tại hải ngoại.
(Trích -
Viện Hóa Đạo Ấn Quang cử các vị ra nước ngoài liên lạc với các nhóm phản chiến,
yêu cầu Mỹ rút quân, phản đối chính sách chống Cộng của VNCH, đòi hòa bình. Viện
Hóa Đạo Ấn Quang cử Thượng Tọa Nhất Hạnh làm Trưởng Phái Đoàn Hòa Bình bên cạnh
Hòa Đàm Paris.)
“ trích - Thực sự, cuộc tranh đấu từ tháng 6-1966, cho đến
nay chia đôi Giáo Hội, đều do bàn tay CS đạo diễn, làm hại cho Phật Giáo
và quốc gia VN không nhỏ. Vì vậy, Phật Giáo không phải là không có trách nhiệm,
liên đới đến sự để mất VNCH cho CS.
Vấn đề này, chính Hòa Thượng Thích Huyền Quang cũng thường nhắc đi
nhắc lại: “CS từng tuyên bố: “Phật Giáo Ấn Quang hai lần có
công với Cách Mạng”. - ngưng trích Bạch Thư Thích Tâm Châu
Nhưng
nay, sau khi nghe Hòa thượng tuyên bố nguyên nhân của vụ tranh đấu Phật Giáo
vào năm 1963 và vụ ông Lâm văn Tức/Thích Quảng Đức tự thiêu, thì tôi xin thưa
cùng Hòa Thượng cảm nghĩ của tôi đối với Hòa Thượng như sau:
Tôi
hoàn toàn thất vọng và khinh bỉ tư cách của Hòa thượng, một kẻ tuổi đời đã 93
tuổi mà có thể ăn nói hồ đồ, vu khống, trở trái làm mặt một cách không ngượng
ngùng, và không biết xấu hổ là gì.
Trong
buổi nói chuyện tại chùa Bảo Quang và buổi phỏng vấn của ký giả Đoàn Trọng trên
đài truyền hình channel 57.7 ngày 4/7/2013 Hòa thượng đã nói một số vấn đề tôi
xin nêu ra dưới đây để mọi người cùng thấy sự láo lường và tư cách hèn hạ của
Hòa Thượng:
1. - Hòa thượng nói rằng: 'Vô tình hay là cố ý đã có một cái thông
điệp là cấm treo cờ Phật giáo trong mùa Phật Đản.'
Xin
hỏi Hòa thượng đã đọc được văn thư của Tổng Thống hay Chính Phủ Đệ I Cộng Hòa cấm
treo cờ Phật giáo ở đâu, khi nào, ai đưa cho Hòa thượng đọc. Hòa thượng có dám
thề trước tượng Phật là có văn thư nầy và chính Hòa thượng đã đọc được hay không?
Lịch
sử đã chứng minh và Ủy ban Điều tra của Liên Hiệp Quốc cũng đã chứng minh rằng
không có vấn đề kỳ thị tôn giáo, có nghĩa rằng hoàn toàn không có văn thư nào của
Tổng Thống hoặc của chính phủ cấm treo cờ Phật Giáo mà chỉ có văn thư nhắc lại
thể thức treo cờ tôn giáo phải nhỏ hơn cờ quốc gia mà thôi.
2)- Hòa thượng nói, mục đích chính của cuộc tranh đấu 1963 vì
cầu cho được "Bình đẳng Tôn giáo" thôi.
Xin
thưa cùng Hòa thượng rằng, những gì mà cộng sản và nhóm Phật Giáo Tranh Đấu
1963 vẫn thường làm là sử dụng Dụ số 10 để gán ghép cho chính phủ Đệ
I Cộng Hòa tội bất bình đẳng với Phật giáo. Cũng vì Dụ số 10 này mà ông Thích
Quảng Độ vào năm 2011 đã phạm vào tội vọng ngữ thậm xưng không thể tha thứ khi
phát biểu rằng: "Dưới thời ngoại thuộc, Phật giáo đã hoàn tất công
cuộc Chấn hưng khởi từ những năm 20 thế kỷ trước, bằng cuộc Xuống Đường không
tiền khoáng hậu năm 1963, thế kỷ XX, để chấm dứt thời kỳ ngoại thuộc biến một
tôn giáo dân tộc thành hội đoàn tư hữu, biến đạo lý truyền thống thành ý lực
ngoại bang"
Có
lẽ các ông chỉ biết "tranh đấu" mà không đọc nên chẳng biết nội dung
của Đạo Dụ nói gì và Đạo Dụ nầy có từ bao giờ, do ai, và mục đích của Đạo Dụ nầy
là gì. Xin thưa:
Dụ
số 10 là của Vua Bảo Đại ban hành vào ngày 6/8/1950. Ông Bộ Trưởng bộ Nội Vụ của
chính phủ Đệ I Việt Nam Cộng Hòa Bùi văn Lương đã giải thích như sau: Theo Hiến
Pháp VNCH, sự tu chính luật phải do Quốc Hội đưa ra. Tóm lại việc tu
chính một Dụ phải có hai điều kiện:
1-
Xét thấy rằng có nhu cầu phải tu chính.
2- Phải có nhu cầu xuất phát từ dân
chúng. Trong cả hai nhiệm kỳ quốc hội mà đa số đều là Phật Tử đều không đưa ra
yêu cầu tu chính Dụ số 10, thế thì tại sao nhóm Phật Giáo Tranh Đấu lại đổ tội
cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm? Đổ tội cho Tổng Thống một việc mà hiến pháp quy định
không thuộc quyền hạn và trách nhiệm của Tổng Thống, như vậy những kẻ đã đổ tội
có mưu đồ gì, nhất là khi những kẻ đó lại khoác trên mình cái áo của Phật?
Trong trường hợp này, rõ ràng Phật là vũ khí để nhóm Phật giáo Tranh Đấu
đã dùng để đẻ ra tội cho bất cứ ai mà đám này muốn triệt hạ.
- Xét về điểm số 1: Cho đến khi có vụ Phật giáo giáo
xẩy ra, đã không có nhu cầu tu chính Dụ số 10. Mặc dầu văn kiện kiểm soát các hội
rất chặt chẽ và gắt gao, nhưng chính phủ VNCH không hề áp dụng những điều kiện
đó, mà ngược lại lại rất rộng rãi cho tất cả các tôn giáo, đặc biệt là Phật
giáo. Có một điều khoản trong Dụ, ví dụ như điều kiện buộc phải đăng ký với Bộ
Nội Vụ tên những thành viên của chùa, Ủy ban, hay Hội Phật Giáo, mà điều này ai
cũng thấy là rất cần thiết để đối phó với cộng sản, thì chính phủ đều bỏ qua, đặc
biệt ở các tỉnh. Theo ông Bộ Trưởng Nội Vụ Bùi văn Lương thì trước 1960 và sau
1960 chính phủ đều không thi hành Dụ số 10 đối với Phật giáo, ngay chính ông ta
cũng không kiểm tra. Mãi đến năm 1963 khi xảy ra vụ Phật giáo thì ông Bộ Trưởng
Bùi văn Lương mới mở hồ sơ ra xem xét, mới thấy rằng đã từ lâu, 1954 đến 1963
chính phủ đã không hề áp dụng Dụ Số 10.
-
Xét về điểm số 2: Chính Phủ không hề và chưa bao giờ có yêu cầu, thư
tín gì từ phía dân chúng đòi hỏi tu chính Dụ số 10. Từ ngày 16/6/1963, sau khi
thỏa hiệp với phái đoàn Phật Giáo, đích thân chính phủ đã đưa vấn đề Dụ số 10
ra Quốc Hội và đã cử một ủy ban đặc biệt để nghiên cứu tu chính Du số 10. Trong
khi đó chính phủ cũng đã chính thức tuyên bố ngưng áp dụng Dụ số 10, cho dù
chính phủ đã không hề áp dụng từ lâu.
Trong
ngày 26/10/1955 Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm công bố Hiến Ước tạm
thời có câu: “Luật lệ hiện hành vẫn tạm giữ nguyên”, Dụ số 10 nằm trong số các
luật lệ hiện hành nên đương nhiên là tạm giữ. Sau đảo chánh, ngày 4/11/1963,
Trung Tướng Dương Văn Minh, Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, khi tuyên bố
Hiến Chương tạm thời số 1 cũng có câu “Các luật lệ hiện hành vẫn tạm duy trì”.
Như vậy, ngay cả với chính quyền Dương Văn Minh thì Dụ số 10 vẫn không hề bị hủy
bỏ. Chính phủ của Trung Tướng Nguyễn Khánh, và sau nầy là chính phủ Đệ II
Cộng Hòa vẫn tham chiếu Dụ số 10 để làm những Nghị Định hay Sắc Luật để phê chuẩn
bản Hiến Chương Phật giáo sau nầy. Ngay cả cho đến ngày 30/4/1975, Dụ số 10 vẫn
không hề bị hủy bỏ.
Như
đã biết thủ tục pháp lý để hủy bỏ một Dụ không phải là dễ, và không thuộc quyền
hạn và trách nhiệm của hành pháp. Thích Trí Quang đổ tội cho Tổng Thống Việt
Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm kỳ thị Phật giáo qua vấn đề Dụ số 10 là hoàn toàn cả
vú để lấp miệng em, tuyên truyền lường gạt tín đồ nhẹ dạ không hiểu biết gì về
luật pháp và hiến pháp quốc gia.
3)- Hòa Thượng nói rằng:
Chùa Từ Đàm và các ngôi chùa tại Huế bị phong tỏa, bị cúp điện, nước,
và không cho tiếp tế thực phẩm.
Thưa
Hòa thượng, sự thật không phải như vậy, có lẽ Hòa thượng không có mặt ở Huế nên
ông chẳng biết mô tê là gì. Nhà tôi ở sát cạnh chùa Từ Đàm và tôi đã chứng kiến
hàng giờ hằng ngày cho đến khi lên đường đi lính. Sự việc là chỉ có một mình
chùa Từ Đàm bị phong tỏa để không cho tín đồ Phật tử tập trung đông đảo tại
chùa, chứ điện nước không bị cúp, các thầy và các điệu vẫn vô ra chùa không bị
lực lượng an ninh cấm đoán, các điệu các thầy muốn ăn gì, mua gì thì có ai cấm
đoán đâu.
4)- Thích Quảng Đức tự thiêu:
Theo
Hòa thượng phát biểu thì chính Hòa thượng là người chấp thuận đơn xin tự thiêu
của Thích Quảng Đức, cũng chính Hòa thượng là người đầu tiên hướng dẫn đoàn biểu
tình và cũng là người đầu tiên hướng dẫn cuộc tự thiêu của ông Quảng Đức với lý
do là để cứu nguy cho Phật giáo tại Huế. Thú thật với Hòa thượng tôi vừa nghe
câu nói nầy từ miệng Hòa thượng nói ra tôi bỗng thấy buồn nôn và ói mửa. Thú thật
khi đó tôi nhìn mặt Hòa Thượng trên mặt kênh truyền hình mà tưởng như đang
nhìn mặt của tên ác quỷ, mặt của một tên sát nhân chứ không phải là mặt của Đại lão Hòa
Thượng Thích Tâm Châu. Hành động chấp thuận và tổ chức cho đồng loại tự thiêu
là hành động đáng ghê tởm và là hành động của tên sát nhân, chứ không phải là
hành động của kẻ chân tu, Hòa thượng có biết không?
Ông
Quảng Đức bị thiêu sống chỉ phục vụ cho mưu đồ của Cộng Sản Bắc Việt và chính
phủ Mỹ. Bởi vì hơn ai hết Hòa thượng là Chủ tịch Ủy Ban Liên Phái đã hội họp với
phái đoàn Liên Bộ của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa về năm nguyện vọng của Ủy Ban
Liên Phái. Hai bên đã giải quyết xong, ổn thỏa trong tinh thân xây dựng, thượng
tôn luật pháp. Và chính Hòa thượng cũng đã hai lần được diện kiến Tổng Thống Việt
Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm, và cũng chính Hòa thượng đã nói Hòa thượng rất
kính nể Tổng Thống. Mọi việc rắc rối hai phái đoàn đã giải quyết xong thì tại
sao phải nướng sống Quảng Đức. Câu trả lời rất dễ hiểu là nếu mọi việc đã dàn xếp
xong, tình hình chính trị yên ổn thì lấy lý cớ gì để cho Việt Cộng và Chính phủ
Hoa Kỳ lật đổ Tổng Thống Diệm được. Nướng sống Thích Quảng Đức để phát động hận
thù tạo bất ổn chính trị đó là lý cớ duy nhất và Quảng Đức chỉ là cục thịt nướng
trong bữa tiệc hả hê của Cộng Sản Bắc Việt, của Chính phủ Hoa Kỳ, của Ác Tăng
Việt Cộng Thích Trí Quang, và cuối cùng của kẻ sát nhân Đại Lão Hòa Thượng
Thích Tâm Châu thôi.
Năm
mươi năm sau 1963-2013 cộng sản xây tượng phong Liệt Sĩ cho Thích Quảng Đức thì
tại Hải Ngoại đám cộng sản nằm vùng trong Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, đám cộng
sản và việt gian phối hợp với Phật giáo quốc doanh dưới sự chứng kiến của tên Cộng
sản gộc Lê Mạnh Thát tổ chức thật rùm beng Lễ Tưởng Niệm Đồng Chí Liệt Sĩ Thích
Quảng Đức, vì Bác vì Đảng, tự nướng trong đó có sự ca ngợi của Đại Lão Hòa Thượng
Thích Tâm Châu.
Câu
cuối cùng tôi xin được hỏi Hòa thượng là: Ngày xưa 1963 Hòa thượng đã từng hăng
say phối hợp với Ác Tăng Việt cộng Thích Trí Quang đạp đổ Đệ I VNCH sát hại Tổng
Thống Ngô Đình Diệm, sau đó có phải vì địa vị, tiền bạc thế lực danh vọng giữa
Hòa thượng và tên ác tăng Việt Cộng Thích Trí Quang thanh toán nhau. Trí Quang
đã dọa thanh toán Hòa thượng ít nhất hai lần bằng "một đĩa máu, một
con dao, và một huyết thư" đặt ngay trong Việt Nam Quốc Tự và
trong chùa Từ Quang (trích Bạch Thư, Thích Tâm Châu, tr. 28). Hòa thượng phải
chạy trốn cuộc truy sát của Ác tăng Việt Cộng Thích Trí Quang mà chạy bám theo
Tướng Nguyễn Ngọc Loan và Nguyễn Cao Kỳ để được che chở và để được thành lập khối
Việt Nam Quốc Tự đối kháng lại khối Ấn Quang của Ác tăng Việt Cộng Thích Trí
Quang, chứ thật ra ngài về với Đệ II VNCH chỉ vì cầu xin Đệ II VNCH sự che chở,
đùm bọc mạng sống thôi, chứ chẳng phải vì quốc gia đạo pháp gì phải không Hòa
thượng?
Đức
Phật đã nói: “Ba điều không thể che giấu đó là: Mặt trăng, mặt trời và sự thật”.
Hòa thượng là kẻ tu hành sao không nghe lời dạy của Đức Phật?
Đối
với Liên Thành nầy, Hòa thượng không còn là Đại lão Hòa Thượng Thích Tâm Châu của
Bạch Thư năm 1993 nữa, cá nhân tôi, và những người Việt tỵ nạn cộng sản, những
Phật tử chân chính, chúng tôi đã quá thật vọng về Hòa thượng.
Tôi
Liên Thành hoàn toàn chịu trách nhiệm về bài viết nầy và rất mong được công
khai nói chuyện cùng Hòa thượng trước sự chứng kiến của mọi giới về vấn đề ông
Thích Quảng Đức bị thiêu hay tự thiêu cũng như vấn đề Tổng Thống Ngô Đình Diệm
và Đệ I VNCH có đàn áp Phật Giáo hay không?
Trân
trọng chào Hòa Thượng.
Liên Thành”
(Trích “Thư thiếu tá Liên Thành gửi Hoà Thượng Thích Tâm Châu)
Nguyễn Công Hoan tưới xăng đốt
Thích Quảng Đức
Đại Đức Thích Huệ Nhật
LTS-
Đây là tang chứng VG Nguyễn Công Hoan và các Ác tăng PG Ấn Quang dàn dựng giết
Thích Quảng Đức. Theo lời tố cáo của ông Trần Trung Đạo, Bà Hàn Giang Trần Lệ
Tuyền và Video ghi lại HT Thích Quảng Đức "không tự tẩm xăng tự
thiêu" hình ảnh, tài liệu cho thấy Thích Quảng Đức bị việt gian Nguyễn
Công Hoan chích thuốc mê man, tê liệt, xong bị tưới xăng đốt sống ngày 11 tháng
6, 1963 tại Sài gòn. Hiện nay Nguyễn Công Hoan và những tên ác tăng của PG Ấn
Quang hiện đang có mặt tại Hoa Kỳ và khắp chùa trên thế giới. Chúng tôi yêu cầu
Hội Đồng Nội An Hoa Kỳ và Sở Di Trú mở lại hồ sơ điều tra
những kẻ đồng lõa, kẻ dàn dựng phạm tội giết người đang lẫn trốn trong hàng
giáo phẩm Phật giáo GHPGVNTN như Thích Giác Đức, Thích Minh Chiếu, Thích Giác
Lượng,, Thích Hộ Giác, Nguyễn Công Hoan v. v..
Và, chính Nguyễn Công Hoan (Huỳnh Văn Thạnh) là tên
giả sư đã tự tay cầm một can xăng để tưới từ trên vai xuống người của Hòa thượng
Thích Quảng Đức. Rồi cũng chính Nguyễn Công Hoan đã dùng chiếc Zipo loại lớn để
bật lửa rồi đốt cháy Hòa thượng Thích Quảng Đức trong lúc ông đã bị hôn mê hoàn
toàn, theo: Lệnh Bức Tử của Phật Giáo Ấn Quang.
Trước đây, tôi đã viết về cái chết của Hòa thượng Thích Quảng Đức
và tên dân biểu lưỡng triều Nguyễn Công Hoan, là lúc Nguyễn Công Hoan đang có mặt
tại nước Mỹ.
Tưởng cũng nên nhắc lại: Vào năm 1977, trong lúc đương là Dân biểu
của bọn việt-gian-cộng-sản của tỉnh Phú Khánh, Nguyễn Công Hoan (Huỳnh Văn Thạnh) đã
cùng Trần Bình Nam, tức Trần Văn Sơn, cựu Trung tá Hải Quân – cựu dân biểu
VNCH; nhưng Trần Bình Nam vì là người thân của Dương Văn Minh, và là bạn chí
thiết của Nguyễn Công Hoan, nên không bị vào tù «cải tạo» mà vẫn sát cánh kề
vai bên Nguyễn Công Hoan (Huỳnh Văn Thạnh) là Dân
biểu của việt-gian-cộng-sản. Cả Nguyễn Công Hoan và Trần Bình Nam đã dùng một
chiếc thuyền chỉ có hai người là bạn thân thiết với nhau cùng với người tài
công, để lên đường «vượt biển» tại bãi biển Nha Trang.
Sau đó, cả Nguyễn Công Hoan và Trần Bình Nam đã đến nước Mỹ. Tôi
nhớ lúc đó, đã có nhiều tờ báo; trong đó, có Văn Nghệ Tiền Phong của Ông Nguyễn
Thanh Hoàng đã lên tiếng và đặt nghi vấn về chuyện «vượt biển» của hai người
này. Song rồi theo thời gian, mọi chuyện cũng đã đi vào quên lãng.
Nguyễn Công Hoan hiện đang sống trên đất Mỹ, nhưng y không hề ra mặt
hay lên tiếng. Riêng Trần Bình Nam, tức Trần Văn Sơn là thường xuyên viết bài
đưa lên nhiều trang điện báo. Xin mọi người đừng quên: Trần Bình Nam là bạn
thân thiết của Nguyễn Công Hoan (Huỳnh Văn Thạnh), từng
hoạt động với nhau, và cũng cùng nhau lên thuyền «vượt biển» vào tháng 5 năm
1977, là thời điểm bọn việt-gian-cộng-sản đang kềm kẹp người dân trong trong
bàn tay sắt thép một cách kinh hoàng nhất; nhưng Nguyễn Công Hoan và Trần Bình
Nam đã thuận buồm xuôi gió trên một chiếc thuyền du lịch để sang nước Mỹ.
Trở lại với đoạn phim trên: You tube video: Bo Tat Quang Duc (Monge Budista suicidio). Tôi
thật hết sức kinh hoàng khi nhìn thấy những tên sư sãi của Ấn Quang, tất cả đã
đều vô cảm trước ngọn «Lửa Từ Bi» đang đốt cháy đồng môn!!!
Nhưng, tôi lại càng khiếp đảm hơn nữa, khi nhìn thấy thái độ của
những nhân viên cảnh sát Việt Nam Cộng Hòa. Bởi tất cả họ cũng đều dửng dưng
trước hành vi phạm pháp của Phật giáo Ấn Quang, khi họ ngang nhiên tưới xăng đốt
người giữa thanh thiên bạch nhật. Họ đã đồng lõa với tội ác, vì thấy chết mà
không ngăn cản, không cứu người. Chẳng những thế, mà họ còn đưa cả hai cánh tay
ra ngăn cản những người khác để không cho ai được cứu người. Họ là ai? Xin
thưa, họ là những nhân viên cảnh sát đã theo lệnh của Phật giáo Ấn Quang, vì phải
giết chết Hòa thượng Thích Quảng Đức, mới mong làm sụp đổ Nền Đệ Nhất Việt Nam
Cộng Hòa.
Đến đây, tôi xin được trích đoạn lại về cuộc đốt người này, qua cuốn
sách Trong Lòng Địch của Tác giả Trần Trung Quân, từ trang số 99 đến trang 114,
đã xuất bản vào năm 1984, như sau. Kính mời quý vị cùng theo dõi:
«Vào khoảng 4 giờ rưỡi sáng, Vũ Mạnh Trường mới đi vào công tác
cụ thể. Trung úy Dương Quang Lâm, phụ tá của Vũ Mạnh Trường chăm chú ghi từng
tên một, và tên người được trao phó cho công tác. Chính Vũ Mạnh Trường cũng đã
thấm mệt. Nhấp một ngụm trà cho thấm giọng, Trường đưa đôi mắt đỏ lừ gườm gườm
nhìn Thích Trí Quang:
Làm cách mạng không thể không có máu đổ. Nếu là máu nhà sư thì
càng tốt nữa. Sự thù hận của dân chúng đối với Diệm-Nhu càng ngùn ngụt bốc cao
hơn không còn sức mạnh nào ngăn chặn nỗi nữa. Bộ chính trị trung Ương đảng đã
nhận rõ tình hình và quyết định rằng, chỉ vài nhà sư chết thảm là bọn Diệm-Nhu
sẽ sụp đổ vô phương cứu vãn. Cho nên Đảng đã quyết định là phải giết sư để xúc
tiến công cuộc thống nhất đất nước. Đồng chí Kiều Tuấn Cương (bí danh của Thích
Trí Quang) nghĩ thế nào?
Thích Trí Quang ấp úng:
- Dạ… dạ…
Vũ Mạnh Trường quắc mắt đập mạnh tay xuống bàn giận dữ:
- Tôi yêu cầu đồng chí phát biểu ý kiến về sự thực hiện kế hoạch
của đảng, có yêu cầu đồng chí tán thành hay phản đối đâu mà đồng chí dạ…
Thích Trí Quang ngồi im, gục mặt xuống. Cả hội trường không ai
phát biểu ý kiến nào. Trường đắc chí, hất mặt lên, lớn tiếng dõng dạc:
- Đảng ta đã trù liệu cả rồi. Bộ Chính Trị ủy ban Trung ương Đảng
đã là những «đỉnh cao trí tuệ của loài người». Chúng ta bì sao kịp! Mà địch
cũng không thể nào chống đỡ nỗi. Đảng có lệnh chúng ta phải khích động hoặc tạo
điều kiện khích động các sư tự thiêu để cúng dường tam bảo! Có thế mới hấp dẫn
được dư luận thế giới, mới gây căm thù sâu sắc trong dân chúng đối với chính quyền
miền Nam được. Này! đồng chí Cương, thằng Giác Đức nó dám tự thiêu không?
- Chắc là không đâu, đồng chí. Nó nói hăng lắm, nhưng chỉ ba hoa
thôi. Nó là học trò tôi, tôi biết rõ nó lắm. Háo danh, nhưng rất hèn.
- Thế còn Thích Hộ Giác?
- Hộ Giác cũng vậy, háo danh. Cái mộng của nó là mò lần lên chiếm
ghế Viện Trưởng Viện Hóa Đạo đặng nở mặt với đời. Cái thứ như thế mà đòi hỏi nó
hy sinh thì thật là khó. Chỉ có ai hy sinh cho nó leo lên thì chắc nó ký cả hai
tay mà thôi.
- Thích Thanh Từ thế nào?
- Thích Thanh Từ là đệ tử của Thích Thiện Hoa. Thầy Thích Thiện
Hoa còn ở Bến Tre chưa lên. Không có lệnh của thầy hắn chắc không chịu làm việc
gì.
Đến
đây, Cao Đăng Chiếm mới lên tiếng:
- Việc này, đồng chí Hằng có thể làm được.
Hằng,
tức Thích Thiện Minh giật mình đánh thót, vội nhỏm dậy:
- Thưa đồng chí…
Nhưng
Chiếm đã khoát tay ra dấu cho Hằng ngồi xuống, cười nhạt:
- Tôi không bảo đồng chí tự thiêu đâu mà lo. Đồng chí còn đắc dụng
vào nhiều việc khác. Tôi chỉ nói rằng, với tài miệng lưỡi của đồng chí và lòng tín
cẩn của Thích Quảng Đức nơi đồng chí, chắc đồng chí thừa sức cải tạo tư tưởng của
Thích Quảng Đức, để hắn tình nguyện tự thiêu.
Thích
Thiện Minh cười tít mắt. Cao Đăng Chiếm đã gãi đúng chỗ ngứa của tên đội lốt thầy
chùa để làm chính trị và có nhiều anh hùng tính cá nhân này. Thích Thiện Minh vặn
mình mấy lượt cho khắp hội trường phải ngó lại nhìn hắn, rồi mới lên tiếng:
- Cái đó, mấy anh khỏi lo. Quảng Đức đã bị tôi thuốc nước rồi.
Ngày hôm kia trả lời cuộc phỏng vấn của tụi báo chí ngoại quốc, tôi đã gài cho
Quảng Đức kẹt cứng rồi. Tôi đã nhân danh Thích Quảng Đức mà tuyên bố như vầy:
“Nếu Diệm không phóng thích tất cả tù nhân chính trị, không ban hành một chế độ
đặc biệt cho các tôn giáo, trong đó có Phật Giáo được treo cờ Phật Giáo ngang
hàng với quốc kỳ, thì thầy Thích Quảng Đức nguyện sẽ tự thiêu để gióng lên tiếng
chuông báo động với thế giới về những hành động kỳ thị tôn giáo, nhằm tiêu diệt
Phật giáo của chính phủ Diệm-Nhu. Và Hội đồng Ấn quang sẽ đưa vấn đề ra trước
Liên Hiệp Quốc”.
Trường
gật gù có vẻ tán thưởng:
- Thái độ của Quảng Đức lúc ấy như thế nào?
-
Quảng Đức không nói gì, chỉ cúi đầu nhìn xuống. Nhưng tôi biết hắn có vẻ hơi thất
vọng. Tuy nhiên, tính Quảng Đức rất ôn hòa và vị tha, lại dễ xiêu lòng, nên sau
đó, tôi đã thêu dệt cả một tòa sen rực rỡ trên niết bàn đang chờ đợi ông ta, nhờ
ông ta hy sinh vì Phật Pháp. Ông ta sẽ đắc đạo, sẽ thành Phật, và bức chân dung
của ông sẽ được thờ phượng ở khắp các chùa sau này…
Kết
quả có đến 80 phần trăm là Quảng Đức nghe tôi và sẵn sàng hy sinh. Điều tôi lo
ngại là chúng ta không ra tay gấp, rủi gặp Hộ Giác, gặp những tên ba hoa như Hộ
Giác lỡ miệng xúi bậy ông ta bỏ ý định sẽ hỏng hết.
Ngày
tự thiêu của thầy Quảng Đức gần kề bao nhiêu, thì sức khỏe của thầy sa sút bấy
nhiêu. Tim thầy mệt cầm canh. Gần như cả ngày thầy không hề nói một câu, ngoài
việc tụng kinh niệm Phật. Ý thầy đã quyết chết và sẵn sàng “vị pháp vong thân”
rồi, nên tùy thân xác còn lưu lại nơi trần thế, hồn thầy đã bay vào thế giới
khác. Lúc này, Thích Thiện Minh ra lệnh cho Huỳnh Văn Thạnh phải suốt ngày cận
kề bên thầy Quảng Đức, không được rời thầy nửa phút. Không phải hắn lo cho sức
khỏe của thầy, nhưng là đề phòng mật vụ VNCH bắt mất thầy thì thực là xôi hỏng
bỏng không. Cộng sản đã mất bao nhiêu thì giờ để thuyết phục vừa áp lực thầy tự
thiêu cúng dường, thì không thể sơ hở trong phút chót được. Thích Trí Quang đã
thức trắng mấy đêm liền để dọn tinh thần cho thầy, trong khi Huỳnh Văn Thạnh
nâng giấc thầy còn hơn cha mẹ, lo giặt giũ quần áo, lo từng miếng ăn tới ngụm
nước uống cho thầy. Để về sau, chính hắn đã tưới xăng lên người thầy và châm lửa
đốt thầy.
Huỳnh
Văn Thạnh theo cộng sản từ năm 1959, nhưng hắn không tập kết ra Bắc. Cộng
sản để hắn ở miền Nam làm công tác tình báo cho Việt cộng ở khu 5. Tới năm
1962, hắn được biệt phái qua khu Dương Minh Châu, cho xâm nhập vào Sài Gòn hoạt
động trong chiến dịch giáo vận. Năm 1964, cho phù hợp với đường lối và chính
sách mới của Việt cộng là “gây ung thối trong hàng ngũ quốc gia” Thạnh được triệu
ra khu, ẩn bóng một thời gian và sau đó Việt cộng làm hộ tịch giả cho hắn mang
tên mới là Nguyễn Công Hoan, và cho hắn về Sài Gòn hoạt động chính trị công
khai, đứng phe đối lập với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Năm 1966 tới năm 1972,
nhiều lần cán bộ nằm vùng vận động tối đa rồi mới đưa hắn ra ứng cử dân biểu quốc
hội VNCH, và hắn đắc cử tại đơn vị Phú Yên.
Sau
ngày cộng sản chiếm Sài Gòn tên Huỳnh Văn Thạnh, tức Nguyễn Công Hoan, xuất đầu
lộ diện nguyên hình, tích cực tuyên truyền cho cộng sản và chỉ điểm cho công an
việt cộng bắt không biết bao nhiêu chiến sĩ quốc gia chân chính. Để trả công
cho hắn, việt cộng cho hắn vào quốc hội của cộng sản, để lừa bịp dư luận rằng
cái quốc hội của cộng sản không hoàn toàn chỉ gồm những đảng viên hay tay sai của
cộng sản, mà còn gồm cả một số dân biểu, nghị sĩ “Ngụy” đã biết ăn năn hối cải
trở về với “cách mạng”.
Tuy
nhiên, Nguyễn Công Hoan vào múa may ở quốc hội của cộng sản một thời gian, thì
những tên chủ nhân việt cộng của hắn thấy cũng không lừa bịp nỗi ai, nên bèn
cho hắn “vượt biên tỵ nạn” để ra nước ngoài làm công tác kiều vận. Nguyễn Công
Hoan đã vượt biển sang Nhật, sau đó, nhờ thủ đoạn và móc nối chính trị hắn đã tới
được nước Mỹ một cách ngon lành. Nhưng cái mác dân biểu lưỡng trào của hắn và
cuộc tỵ nạn mờ ám của hắn đã bị đồng bào nghi kỵ, cho nên hắn chẳng làm được
trò trống gì. Hiện nay, hắn trùm mền núp bóng một tên sư hổ mang để chờ một cơ
hội khác.
Đó
là những chuyện xảy ra về sau, mà đa số chúng ta, nhất là bạn đọc của Văn Nghệ
Tiền Phong đều biết rõ. Nay xin trở lại với chuyện “tự thiêu của thầy Thích Quảng
Đức”. vấn đề mà việt cộng lo ngại nhất là làm sao mang một thùng xăng khá lớn để
có thể đốt cháy thầy Quảng Đức ngay tức khắc để các cơ quan công quyền không kịp
cứu. Mang một thùng xăng lớn tới nơi mà chúng định thiêu thầy Quảng Đức cho
trót lọt không phải dễ, vì an ninh VNCH đã rõ mưu đồ của việt cộng. Huỳnh Văn
Thạnh, tức Nguyễn Công Hoan, chính là tên đã được việt cộng trao cho trọng
trách cung cấp xăng đốt thầy Thích Quảng Đức, và Thích Thiện Minh là người được
đề cử để giám sát vụ này, nên hắn rất lo lắng. Đêm hôm trước khi xảy ra vụ “tự
thiêu”, chính Thích Thiện Minh biểu tài xế lái xe chở đi gặp Huỳnh Văn Thạnh để
cho biết rằng xăng đã được giấu trong hai thùng nhỏ đựng dầu hôi trong gánh
hàng của một nữ cán bộ việt cộng đóng vai người đi bán hàng rong buổi sớm.
Thích Thiện Minh hỏi:
- Bao nhiêu lít?
Thạnh trả lời:
- 15 lít, thưa thầy.
- 15 lít đủ đốt không con?
- Dư sức mà thầy, 5 lít cũng đủ chết bà Quảng Đức rồi.
- Phần kế hoạch F2 con cẩn thận nhé.
- Thầy yên
tâm, trước khi “xuất hành”, con sẽ gửi thêm một mũi Trenxinne nữa. Sau đó, con
sẽ bồi thêm hai mũi trợ tim Haldol là đủ.
- Vậy à. Tốt lắm, công con to lắm…
Bảy
giờ sáng, ngày 20 tháng 4 năm 1963 (ngày âm lịch) dương lịch là ngày 11-6-1963,
không khí bên trong chùa buồn như đám ma. Tăng ni ai nấy đều mặt mày ủ rũ
thương cho thầy Quảng Đức chỉ chốc lát nữa đây sẽ bị đưa lên giàn hỏa để “bảo vệ
đạo pháp”. Ngoại trừ một số ít cán bộ việt cộng và tay sai núp áo cà sa giết
người cho cộng sản, là hăm hở chờ đợi giờ phút xảy ra biến cố.
Ngay
từ lúc 4 giờ sáng, Huỳnh Văn Thạnh đã vô giường thầy Quảng Đức, lật mông thầy
lên để chích cho thầy một mũi Trenxinne, mà hắn thỏ thẻ thưa là “thuốc trợ tim”
để thầy mau bình phục sức khỏe. Thầy Quảng Đức ngủ mê man, ngủ say sưa như một
đứa trẻ thơ trong nôi, sau khi đã no sữa, ống thuốc Trenxinne thấm, cơ thể thầy
Thích Quảng Đức bỗng mềm nhũn, ngắt véo, thầy cũng không biết đau.
Lúc
ấy, Huỳnh Văn Thạnh, tức Nguyễn Công Hoan, mới ra dấu cho đàn em chạy vào lau
mình mẩy cho thầy, và thay cho thầy bộ áo cà sa mới toanh. Thế là việt cộng đã
chuẩn bị xong để đưa thầy Thích Quảng Đức ra cúng tổ… Các… Mác!!! “
Trên
đây, là những trích đoạn về lệnh bức tử Hòa thượng Thích Quảng Đức của Phật
giáo Ấn Quang, tiền thân của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và bọn việt-gian-cộng-sản,
trong cuốn sách Trong Lòng Địch của tác giả Trần Trung Quân.
Đây
là một bài viết có liên quan đến đoạn phim vừa đưa lên: You Tube video: Bo Tat
Quang Duc (Monge budista suicidio). Nên một lần nữa, tôi lại phải mời
quý độc giả hãy cùng đọc lại những lời của cựu Đại đức Thích Huệ Nhật, tức Mục
sư Tin Lành Nguyễn Huệ Nhật, trong cuốn sách “Từ Áo Cà Sa Đến Thập Tự Giá”. Ông
đang có mặt tại Đức quốc, để cùng nhau suy gẫm:
“Cái chết tự
nguyện là gì? Những người tự thiêu cho đạo pháp:
“Tôi
xin giới hạn trong phạm vi hiểu biết của cá nhân mình, và những gì tôi viết sau
đây cũng là một số kinh nghiệm và nhận xét của riêng tôi, sau ba lần tưởng đã
chết nhưng nay tôi còn sống trong Ơn Cứu Rỗi của Thiên Chúa, nên xác tín hơn, rộng
mở hơn.
Người tự thiêu đầu tiên trong thời kỳ Phật giáo đấu tranh chống lại
kỳ thị tôn giáo dưới thời chính phủ Ngô Đình Diệm là Hòa thượng Thích Quảng Đức.
Ngài là một vị tu sĩ bán thế xuất gia, nghĩa là có vợ con trước khi đi tu. Con
ruột ngài cũng là đệ tử nổi tiếng của ngài sau khi ngài hy sinh. Ngài chỉ nổi
tiếng sau khi hy sinh.
Cũng như tất cả các vị thánh tăng đã nối tiếp tự thiêu cho Đạo
Pháp, bản thân Hòa Thượng Thích Quảng Đức không hề biết rằng kết quả tốt do sự
hy sinh của ngài chỉ là nhất thời từ 1-11-1963, còn hậu quả xấu do sự hy sinh của
ngài là lâu dài từ mùa hè 1966 đến nay. Vì sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm bị lật
đổ, Phật giáo Việt Nam chỉ thắng thế nhất thời, để rồi càng bị CSVN lợi dụng
sâu sắc hơn, và đưa những cuộc đấu tranh kế tiếp đến ngày 30-4-1975, cho cộng sản
Việt Nam lên cướp chính quyền.
Nhìn lại quá trình, chỉ hai năm đầu sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm
sụp đổ, Hội Phật Học VN đã trở thành GHPGVNTN nổi như cồn, nhưng đó là thời
gian manh nha đưa GHPGVNTN đến tình trạng suy đồi và phân rẽ ngay trên đỉnh cao
thế lực của họ. Năm 1966, GHPGVNTN chia rẽ thảm khốc giữa hai phe Việt Nam Quốc
Tự và Ấn Quang. Chưa bao giờ lịch sử Phật giáo Việt Nam có sự căm thù nhau,
phân rẽ nhau tệ hại như thế. Vụ đem bàn thờ Phật ra đường để đấu tranh trong
mùa hè 1966, là một bằng chứng suy tàn nhất của tinh thần và tổ chức Phật giáo
Việt Nam. Nếu tôi kể ra những bất đồng của các vị lãnh đạo PG trong vụ Đem Phật
Ra Đường, thì rất phiền. Những cuộc tranh giành đẫm máu trong khuôn viên Việt
Nam Quốc Tự cho đến nay vẫn còn giữ kín, trừ vụ kéo sập dãy nhà do Đại đức
Thích Đức Nghiệp xây lên sát lề đường Trần Quốc Toản là không thể dấu diếm được.
Tôi ngẫm nghĩ Thượng tọa Thích Trí Quang chỉ là một mẹ mìn rất đắc lực của cộng
sản Bắc Việt. Ông bắt cóc niềm tin của đa số Phật tử, để biến họ thành phương
tiện hữu hiệu nhất cho cộng sản Bắc Việt vào xâm chiếm miền Nam, và ông đã cho
cộng sản Bắc Việt vắt chanh bỏ vỏ tất cả nhân, tài, vật lực do niềm tin ấy mà
có. Khi công việc bắt cóc ấy hoàn thành, mẹ mìn Thích Trí Quang ngồi im lặng
rung đùi và được cộng sản Việt Nam bảo vệ kỹ, không ai dám động một sợi lông
chân của ông.
Tôi tin chắc rằng Hòa thượng Thích Quảng Đức đã không hình dung nổi
hậu quả tang thương về sau nầy, đối với Phật giáo nói riêng, và dân tộc nói
chung, qua sự hy sinh của ngài. Chính người con trai ruột của ngài, người đã trở
thành một vị Thượng tọa nổi tiếng tại ngôi chùa của ngài để lại trên đường Trương Minh Giảng,
đã sống ba chìm bảy nổi mang nhiều tăm tiếng và cũng bị tù đày trong chế độ cộng
sản.
Lần tự thiêu thứ nhất tại Sài Gòn là lần tôi hoàn toàn chờ đợi
theo sự sắp xếp và tổ chức của Ủy Ban Liên Phái, nhưng không thực hiện được, vì
tình hình sao đó.
Một người khác là thầy Lưu Bổn đệ tử của Hòa Thượng T.M.H chùa
TL, Huế, cũng đã nhảy xuống giếng sâu tự tử tại chùa Phật giáo Đà Nẵng, vào mùa
hè 1972, sau khi bị nghi ngờ một chuyện xấu. Mười lăm phút trước khi nhảy xuống
giếng, thầy Lưu Bổn ngồi ăn trưa với tôi một cách lặng lẽ.
Một người bạn khác của tôi tên T. An, cũng đi tu ở chùa Phổ Đà tại
Đà Nẵng, ông mở một trường Bồ Đề ở gần ga xe lửa Đà Nẵng, cũng đã tự thiêu vì một
chuyện riêng, nhưng sau đó được dư luận báo chí cho là tự thiêu vì ý nghĩa lớn
lao khác. Trong thế giới tôn giáo đã lâm lụy vào những cơ mưu chính trị thời Việt
Nam Cộng Hòa, một vài trường hợp các tu sĩ tự tử bằng cách tự thiêu đã được gán
cho những ý nghĩa cao cả “Ý nghĩa cao cả” ấy được áp đặt cho mục đích khác, mà
người tự thiêu không đặt ra, nhưng sau cùng những người bà con của họ cũng được
hưởng tiếng thơm “Thánh Tử Đạo”. Cũng có nhiều vụ tự thiêu do ý định tự tử để
giải quyết chuyện riêng, nhưng khi thực hiện, họ lại nêu lý do thiêng liêng để
che đậy chuyện bậy bạ. Hoặc là người tự tử bằng cách tự thiêu xong rồi, sau đó
mới được gán cho một ý nghĩa thiêng liêng. Thời đó, nhiều vụ tự thiêu đã bị lạm
dụng. Người tình nguyện tự thiêu thì đông, nhưng người đáng được chấp nhận thì
ít. Vì một người có đời sống không sáng sủa, nếu được chấp nhận cho tự thiêu, sẽ
có nguy cơ làm mất niềm tin của nhiều người khác. Tất cả những người tình nguyện
tự thiêu đều là những người không sáng giá khi còn sống. Những người sáng giá
nghĩ rằng mình cần sống để làm việc có kết quả hơn.
Những người nêu trên đều quen thân với tôi, nên tôi biết một số
lý do tại sao họ đã tự thiêu. Giống như những người thất tình, những thí sinh
thi rớt, những đứa con giận cha mẹ, những người bị thất bại làm ăn… Họ không
còn thiết sống nữa. Họ tìm đến cái chết để trốn chạy một thực tại bất đắc chí bằng
cái chết tự sát.”
Quý độc giả vừa đọc qua những trang sách của tác giả Trần Trung
Quân và cựu Đại đức Thích Huệ Nhật.
Nên biết, sau khi chiếm được miền Nam tự do cho đến hôm nay, bọn việt-gian-cộng-sản
đã trả công cho Phật giáo Ấn Quang bằng rất nhiều hình thức; trong đó, có nhiều
con đường mang tên Thích Quảng Đức.
Riêng tôi, vì đã vô cùng căm phẫn trước những hình ảnh của Hòa thượng
Thích Quảng Đức đã bị cả lũ người bất lương, vô nhân tính và tàn ác, khi đem sinh
mạng của Hòa thượng Thích Quảng Đức ra để làm phương tiện cho cứu cánh. Bởi
vậy, nên tôi phải viết lên bài này, với tất cả tâm thành, tôi ước mong cho mọi
người đừng bao giờ đem sinh mạng của bất kể người đó là ai để làm vật hy sinh.
Bởi mỗi sinh mạng của một con người trên thế gian này, đều do Trời sinh, thì
xin mọi người hãy để cho Trời diệt.
Nhưng, những việc làm của Phật giáo Ấn Quang; trong đó có: Lệnh Bức
Tử: Hòathượng Thích Quảng Đức, đã được xác tín hơn nữa, qua những
lời của chính Hòa thượng Thích Quảng Độ qua cuốn sách:
«Nhận định những sai lầm tai hại của đảng cộng sản Việt Nam đối với
dân tộc và Phật giáo Việt Nam Thống nhất». Cuốn
sách này đã do Võ Văn Ái viết lời giới thiệu và phát hành vào năm 1995; và
Thích Quảng Độ đã có những lời viết như sau:
«Chính quyền ông Ngô Đình Diệm càng ngày càng trở nên độc tài, gia
đình trị và có tính kỳ thị tôn giáo, nên ít được lòng dân. Sau khi đã tiêu diệt
các tôn giáo khác, như Cao Đài, Hòa Hảo, năm 1963, ông Ngô Đình Diệm
ra tay đàn áp Phật giáo, toàn thể tăng ni Phật tử miền Nam đã phải đứng lên chống
lại để bảo vệ đạo pháp. Đến tháng 11-1963, chế độ ông Ngô
Đình Diệm bị lật đổ».
Và đến cuốn ngụy thư thứ hai lại cũng do Võ Văn Ái viết lời giới
thiệu và đã đăng trên báo «Quê Mẹ» số 113, trang 06, tháng 06 năm 1995, với cái
tựa đề:
«Bằng đôi chân của mình mời người hãy đi lên», của
Thích Đức Nhuận «nguyên Tổng thư ký Viện Tăng Thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
Nhất» tức Ấn Quang.
Mở đầu Thích Đức Nhuận đã viết:
Đến trang số 09, Thích Đức Nhuận viết tiếp:
«Năm 1963, Phật giáo Việt Nam phát khởi cuộc vận động chống chế độ độc
tài gia đình trị Ngô Đình Diệm, đòi tự do và bình đẳng tôn giáo và được
toàn dân từ Bắc chí Nam ủng hộ. Bạo quyền mang đặc tính kỳ thị tôn
giáo sụp đổ. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được thành lập».
Nên ghi nhớ, vào đại hội thống nhất Phật giáo năm 1981, Thích Đức
Nhuận đã được bầu lên ngôi «Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt
Nam cộng sản».
Qua những lời của chính Thích Đức Nhuận đã viết, rõ ràng là Thích
Đức Nhuận đã công khai nhận trách nhiệm của Phật giáo Ấn Quang với câu nói:
«Phật giáo Việt Nam phát khởi cuộc vận động chống chế độ…» là để
đánh đổ Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa. Điều
quan trọng hơn cả là:
«đã được toàn dân từ Bắc chí Nam ủng hộ».
Như thế, đã quá rõ ràng, đã quá sáng tỏ, để cho mọi người hiểu được
rằng: Phật giáo Ấn Quang «phát khởi cuộc vận động chống chế độ và đã được
toàn dân từ Bắc chí Nam ủng hộ». Nghĩa là gồm cả cộng sản Bắc Việt.
Như vậy, căn cứ theo những lời của chính hai người đã và đang đứng
đầu của GHPGVNTN, tức Ấn Quang, thì cả hai đã công khai nhận trách nhiệm về cái
chết của Hòa thượng Thích Quảng Đức, và kéo theo là sự sụp đổ của Nền Đệ Nhất
Việt Nam Cộng Hòa và hệ lụy là ngày mất nước: 30-4-1975, với các sư sãi của Phật
giáo Ấn Quang đã công khai đưa từng đoàn xe ra tận núi rừng, để đón rước cộng
quân vào các thành phố tại miền Nam tự do, cùng với những màn bắn giết các vị
là Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Hòa, vào trước ngày 30-4-1975, để trả thù và để
lập công với bọn việt-gian-cộng-sản.
Chính vì thế, Phật giáo Ấn Quang cho dù có ngụy biện bằng cách nào
chăng nữa, thì vẫn không bao giờ xóa được những tội ác của một thời «tranh đấu»
có bàn thờ Phật xuống đường, có máu đổ đầu rơi. Chẳng những vậy, mà qua cái «Thông bạch
của hàng giáo phẩm đang đứng đầu Phật giáo Việt Nam đang hành đạo tại Hoa Kỳ», những
người này đã bênh vực cho Thích Trí Dũng, người đã công khai trên sách báo là:
«Vào Tết Mậu Thân, 1968, chùa Phổ Quang là nơi khai hỏa đánh sân bay
Tân Sơn Nhất».
Vậy, để biết thêm một cách tường tận hơn, xin kính mời quý vị hãy
đọc lại bài:Tưởng Niệm Bốn mươi Năm Cuộc thảm Sát Mậu thân: 1968-2008; hiện vẫn
còn lưu giữ trên trang điện báo: Hồn Việt: hon-viet.co. uk
Ngày 28-02-2010
Đ ại Đức Thích Huệ Nhật
Còn
linh mục Cao Văn Luận lúc gần cuối đời đã phê phán như sau: “Sự thanh toán ông
Diệm và chế độ ông ta phải chăng là một sai lầm tai hại cho đất nước Việt Nam.
Những hỗn loạn chính-trị, những thất bại quân sự sau ngày 1-11-1963 đã trả lời
cho câu hỏi đó”.
(Xin được nhắc lại: Linh mục Cao Văn Luận được Tổng Thống Ngô Đình
Diệm bổ nhiệm giữ chức viện Trưởng viện Đại Học Huế. Nhưng khi biến cố Phật
giáo xẩy ra, linh mục Cao Văn Luận đứng về phe ông Trí Quang, chống Chính Quyền,
nên ông ta đã bị Tổng Thống Ngô Đình Diệm cách chức Viện Trưởng Viện Đại Học Huế,
rồi lại còn bị giam lỏng tại Sài Gòn).
Tóm
lại, tất cả người Việt chúng ta đều là nạn nhân của bọn tài phiệt buôn bán chiến
tranh của Hoa-Kỳ điển hình là tên Thứ Trưởng Ngoại Giao Averell William Hariman,
của truyền thông và báo chí Hoa-Kỳ, của các cường quốc nói chung… nhưng chúng
ta cũng là nạn nhân của chính chúng ta, trong đó những kẻ nhiều tội nhất là những
kẻ làm tay sai cho Mỹ, cho Pháp, cho Cộng sản quốc tế,...!
Để
kết thúc những dòng thô thiển trên, chúng tôi xin trở lại lời nói cuối cùng
trên đây của Tổng Thống Ngô Đình Diệm khi Tổng Thống và ông Ngô Đình Nhu rời khỏi
dinh Gia Long:
“ĐI
NHƯ RI LÀ MẤT NƯỚC”
Nhưng
chúng tôi băn khoăn: “Mất nước” là mất miền Nam Việt Nam vào tay Cộng Sản miền
Bắc hay mất cả nước Việt Nam vào tay Trung Cộng, như lời Tổng Thống và ông cố vấn
Ngô Đình Nhu đã tiên đoán trước đây:
“Nếu
Cộng Sản miền Bắc thắng được miền Nam, thì toàn thể nước Việt Nam sẽ trở thành
quận hay tỉnh của Trung Cộng. Yếu tố còn lại chỉ là thời gian”.
Lê Thanh Hùng
Ghi nhớ ngày “Quốc Tang” thứ 51 (2014) của toàn thể dân tộc Việt Nam.
No comments:
Post a Comment