* TRONG CUỘC ĐAO BINH (1-6) - Nguyễn Hữu Thời
* TRONG CUỘC ĐAO BINH (7, 8, 9, 10, -...) - Nguyễn Hữu Thời
* TRONG CUỘC ĐAO BINH (7, 8, 9, 10, -...) - Nguyễn Hữu Thời
---------------
NHỮNG NGÀY THẤM MỆT
Khi
thức dậy tôi thấy mình đang nằm trên chiếc giường ngoài bìa gần lối ra
vào. Phòng sĩ quan ở trong cùng, không rộng lắm, khoảng 20 giường, rất
ít giường trống. Buổi sáng im ắng. Các thương binh ngủ vùi. Tôi nhìn
xuống đùi mình, băng trắng dầy cộm đẫm máu. Căn phòng nặng mùi trụ sinh
và thuốc sát trùng lẫn với mùi tanh tưởi của da thịt đã ung thối vì hoại
tử.
Tôi nằm ngữa, nhìn lên cái quạt trần đang quay. Lại mừng khi biết mình còn sống và không bị cưa chân. Vết thương râm ran chưa gây đau nhức.
Tôi nhớ lại chuyện đêm qua. Khi được đưa vào giường, người thương binh kế bên đã lần mò ngồi dậy, bước qua và quay đầu giường của tôi lên cao cho vừa tầm. Sáng nay, tôi hỏi thăm anh. Tôi tự giới thiệu mình và được biết anh là Tín, chuẩn úy, khóa 5/73 (Đồng Đế). Tín là nạn nhân sống sót của đại đội 2 tiểu đoàn 464 sau trận phục kích “đội mồ” trên cánh đồng lúa bên ngoài khu trù mật Cái Sơn trưa hôm kia. Tín kể lại: Đặc công Việt Cộng núp bên dưới đám lúa chưa gặt, bất ngờ xuất hiện, đánh bằng lựu đạn, rồi cận chiến bằng dao và mã tấu…Cả đại đội tan tác, không kịp phản ứng. Giữa cơn hoảng loạn, Tín bị một quả M79 do quân bạn ở phía sau bắn không nổ “thoi” trúng lưng làm thủng một lỗ to hơn quả cam. Khi Việt Cộng lục soát trận địa, Tín đã ngã xuống, nằm úp mặt trong đám lúa. Anh giả vờ chết; một tên Việt Cộng nói: “Thằng này chuẩn úy; để tao thí cho nó một viên”.
Viên K54 trượt qua đầu nên anh sống sót. Tôi nhìn thấy một vết xước nhỏ trên màng tang của anh. Vậy là chúng tôi cùng bị thương trên một mặt trận. Tín vào đây trước tôi một ngày. Tôi bị trên đùi trong, phải nằm ngữa, còn Tín bị trên lưng, phải nằm sấp. Chúng tôi chỉ có thể cử động rất nhẹ và chậm. Gần trưa, có một đại úy bác sĩ đến nhìn tôi một chút, rồi đi ra.
Hôm sau, tôi mới biết thế nào là đau đớn. Buổi sáng, một trung sĩ và một nữ y tá đẩy chiếc xe chở thuốc đỏ thuốc tím cùng với băng bông dao kéo vào phòng và dừng lại bên giường tôi. Tín xoay trở ngồi dậy, lấy một cái khăn tay nhét đầy miệng tôi, một thương binh khác cũng lò dò bước sang, đè 2 chân tôi xuống để tôi khỏi vùng vẫy. Tôi được khuyên phải dùng hai bàn tay bóp chặt hai thanh giường để có sức chịu đựng. Người y tá tháo băng, lấy kéo răng cưa gắp một miếng gạc to đùng, anh xịt thuốc đỏ, thuốc tím lên miếng gạc rồi thọc vào lỗ vết thương của tôi. Anh vừa “quậy” liên tục, rất nhanh, vừa hỏi: “Chào chuẩn úy đẹp trai quá! Có người yêu chưa? Dân Saigon à? Chuẩn úy ra trường được bao lâu rồi…?”. Quá đau đớn, tôi rú lên, nhưng miệng bị cái khăn chặn lại, hai tay tôi bóp mạnh hai song sắt thành giường đến mức như…mềm đi ! Mồ hôi trán vã ra cùng hai dòng nước mắt, không phải do khóc mà do nỗ lực bất thành muốn chấm dứt cơn đau đớn. Người y tá rành nghề, thao tác rất mạnh và nhanh để rút ngắn cơn đau, vừa làm vừa hỏi chuyện để thương binh phân tâm. Cơn đau có ngắn đi nhưng nó sẽ không chấm dứt... Nó sẽ trở lại, người y tá nói, vào ngày kia, khi lại rửa vết thương. Thật khiếp đảm khi da thịt con người bị…mổ sống! Tôi tự nhủ “Phải bị, ít nhất là một lần, cho biết, nghe con!”
Ngày hôm sau nữa, không phải đau, mà là nhức, khi tôi được chích trụ sinh liều mạnh vào mông (Penicillin…một triệu rưỡi đơn vị). Y tá vừa rút mũi kim ra là cả người tôi…xệ đi, nhất là cái mông. Cơn nhức nhối âm ỉ cả ngày.
Ở đây, một ngày rửa vết thương, một ngày chích thuốc. Cứ 2 ngày bác sĩ đến thăm một lần. Đại úy bác sĩ đến từng giường, xem lại vết thương, hỏi thăm thương binh có sốt không, ngủ được không, dặn dò uống thuốc…v…v…Vào ngày rửa vết thương, buổi sáng, không làm gì được. Nghe tiếng cái xe thuốc, được đẩy vào phòng, với tiếng dao kéo khua lanh canh, thương binh nào cũng xanh mặt. Cả phòng lại tràn ngập tiếng…rống! Người nào được rửa thì…la hét; xong, nhìn người khác la hét lại…cười. Chuẩn úy hay thiếu tá gì cũng vậy, ai cũng rống to như heo bị chọc tiết. Mỗi ngày được ăn cơm 2 bữa, trọng cái plate, dùng muỗng múc. Cơm có 3 món: mặn, xào và canh, 1 quả chuối tráng miệng. Rất nhiều thương binh bỏ ăn vì quá yếu, không tự múc được. Nếu không có người nuôi thì coi như…nhịn. Nằm được 2 ngày, tôi bắt đầu quan sát quanh phòng. Chếch bên dãy bên kia có một ông chuẩn úy già khó tính, nói huyên thuyên và phàn nàn đủ thứ chuyện. Ông bị đạn xuyên qua ống chân, mỗi lần rửa vết thương phải đẩy miếng compress xuyên qua cái lỗ trống để “kéo cưa” hay “thông nòng”. Lần nào cũng vậy, ông la bai bải và chửi thề liên tục. Hàng ngày, có một cô bé khoảng 15 tuổi vào phòng giúp đỡ các thương binh. Cô thay drap giường, lấy quần áo dơ bỏ giặt, đỡ thương binh ngồi dậy, cho uống thuốc hay giúp đi tiêu tiểu. Cô còn mang mấy cái bô đi đổ và rửa sạch rồi để lại chỗ cũ. Được biết cha cô cũng là một quân nhân phục vụ ở tiểu khu và cô tình nguyện vào đây làm việc không lương. Cô hay đến bên giường tôi, hỏi thăm và kể đủ chuyện. Ban đêm cô cũng vào, hát cho chúng tôi nghe. Cô thường đứng giữa phòng, hát “Một Mai Giã Từ Vũ Khí”, một ca khúc quen thuộc. Tôi nhớ ở Thủ Đức, Nguyễn Văn Thanh, biệt danh là Thanh “phù-sa”, hay hát bài này, rất tha thiết. Cô bé này hát không hay lắm, nhưng cũng ru được vài anh thương binh vào giấc ngủ. Riêng tôi không thích cô bé hát mà chỉ muốn cô thủ thỉ trò chuyện. Cũng có anh không thích bài hát chút nào và muốn cô im cho, như ông chuẩn úy già. Không hiểu bực tức điều gì, ông gay gắt với cô bé: “Mày hát cho tụi tao nghe cũng tốt, nhưng hát bài gì cũng được, đừng có hát bài này. Mẹ…Cứ giã từ vũ khí suốt cả ngày!”.
Cô bé tiu nghĩu, cụt hứng. Rồi nước mắt chảy quanh. Cô không hát nữa, lặng lẽ gom mấy cái bô rồi đi ra khỏi phòng. Tôi hơi buồn nhưng nàng đã trở lại ngay hôm sau.
Một tối, lại một đêm mưa, một chuẩn úy trẻ được đẩy vào phòng. Anh mang bảng tên nền đen chữ đỏ, bị thương ở chân. Màu bảng tên cho thấy anh thuộc tiểu đoàn 1 SV trong Thủ Đức, tôi tin anh là bạn cùng khóa. Đó là Phan Tiến Bình, ở đại đội trinh sát 746. Trong trường, anh ở đại đội 12, còn tôi bên 11. Bình cũng mừng khi biết tôi cũng 3/73. Bình nằm giường phía bên kia, ưa nói chuyện. Rãnh rỗi, Bình kể cho tôi nghe chuyện bào huynh của anh đã tử trận Hoàng Sa trên HQ10 ra sao.
Mỗi sáng, sau khi rửa vết thương hay chích thuốc, tôi đều bị cơn đau nhức hành hạ. Lần nào rửa vết thương, theo phản xạ trong cơn đau đớn, tôi cũng gào rú không thành tiếng, cứ ú ớ trong chiếc khăn tay mà bạn thương binh đã nhét vào miệng. Rồi nhắm mắt chịu đựng…Sau đó là nằm bẹp. Tôi như một võ sĩ hạng ruồi bị cú knock-out, không gượng dậy nỗi vì đang thấm đòn.
Người đầu tiên vào thăm tôi là Ông Địa, thường vụ đại đội. Tôi hỏi thăm tình hình tiểu đoàn. Ông cho hay sau khi tôi bị thương, tiểu đoàn bị chặn đánh. Đại đội có thêm trung sĩ Tuấn chết, Phi bị thương, phải cưa mất chân phải, đang nằm bên Phan Thanh Giản. Ông nói hôm sau, đại đội 2 đi đầu, tiến sâu vào cũng bị 2 chết, 3 bị thương, nhưng diệt được 4 “chuột”, lấy được 2 AK. Ông nói hiện giờ tiểu đoàn đang dưỡng quân một tuần lễ ở hậu cứ và sân vận động quận. Tôi im lặng nghe, không nói gì. Ông trao cho tôi một món tiền ủy lạo.
Rồi đến Tĩnh (khóa 8b/72) trên đường về phép Saigon, cũng ghé thăm tôi. Nhà Tĩnh trên đường Đỗ Thành Nhân, Q4, không xa nhà tôi. Tôi biên mấy chữ, nhờ Tĩnh đến nhà tôi báo tin cho anh Nguyên hay.
Hai ngày sau, anh Nguyên, cùng bà bác, mà tôi coi như mẹ, từ Saigon xuống Vĩnh Long thăm tôi. Anh bảo anh đi về khuya, không thấy gì trong nhà; sáng sôm sau anh mới nhìn thấy mảnh giấy được nhét qua khe cửa. Vài ngày sau nữa, từ Cần Thơ, anh Lý và anh Lưu cũng sang thăm tôi; lúc này tôi đã có thể xuống giường và đi vài bước chầm chậm. Vết thương còn hở miệng nhưng đã bớt đau.
Một buổi trưa, có phái đoàn của một nhà dòng đến thăm. Mấy bà soeur đi từng giường, hỏi han các thương binh rất ân cần. Được mấy bà soeur cho một hộp sữa và bịch kẹo. Cảm thấy chút an ủi.
Sau khi phái đoàn nhà dòng ra về, căn phòng lại yên ắng.
Viên chuẩn úy già, nằm trên giường, nhìn sang phía giường tôi, nói to: “Đ.m! Sao trong này toàn là chuẩn úy? Tao cũng chuẩn úy đây!”; rồi tiếp: “Cấp bậc này là chết nhiều nhất trong hàng sĩ quan!”. Rồi ông nói thêm: “Tao không chết, nhưng bị thương lần này là lần thứ ba!”.
Tôi lò cò sang chào hỏi ông; được biết siêu huynh trưởng này thuộc khóa 27, rất ba gai; vi phạm kỷ luật nặng nên phải ra tòa án binh, bị giáng cấp từ trung úy xuống chuẩn úy. Thảo nào, ông luôn bất mãn, lúc nào mặt cũng khó đăm đăm.
Một sáng, thức dậy, tôi thấy mấy móng tay bên bàn tay trái của mình bị ai sơn màu hồng đậm. Tôi ngạc nhiên nhưng cũng không buồn dò hỏi hay tìm hiểu làm gì. Buổi trưa, cô bé đến giường tôi, miệng cười tủm tỉm. Cô này nghịch ngợm thật. Như để xin lỗi, cô hỏi: “Chú có cần mua món gì không? Để cháu đi mua cho, nhé?”. Tôi nhờ cô ra phố mua dùm tôi vài tờ báo. Mấy tháng nay, tôi chẳng biết tin tức gì cả. Những ngày qua chỉ…nằm trên giường, nghe văng vẳng tiếng ca, tiếng nhạc từ cái truyền hình trong câu lạc bộ bên ngoài. Tôi thầm nghĩ…Vài ngày nữa khỏe lên một chút, tôi sẽ mượn cái nạng, để đi xuống câu lạc bộ uống cà phê.
Thi vào thăm tôi. Thi là người lính hậu cứ nhưng rất mến tôi. Nhà Thi ở ngay Vĩnh Long, nên có thể xin phép về thăm nhà, tiện thể vào bệnh viện thăm tôi. Tôi nhờ Thi mượn dùm tôi cái nạng. Tôi chống nạng, gượng đi lọc cọc theo Thi xuống câu lạc bộ uống cà phê. Xuyên qua dãy giường bệnh của lính và HSQ, tôi thấy đủ loại thương tật. Lính tác chiến bị thương đủ kiểu: trên đầu, trên mặt, trên mắt, chân, tay, lưng, bụng… Cũng giống như phòng sĩ quan; phòng này nặng mùi rất khó thở. Tuy nhiên, nhờ các cánh cửa sổ to mở rộng, cùng đám quạt trần luôn quay tít, lính và dân có thể ráng chịu được. Một vài thương binh còn khỏe giơ tay chào tôi khi tôi đi ngang qua. Bệnh viện này không cấp phát đồng phục bệnh nhân, nên thương binh phải mặc quân phục của mình. Cấp bậc gì cũng còn nguyên vẹn trên cổ áo và trên cánh tay. Có một trung sĩ sư đoàn 9BB bị mất 2 chân sát háng và 1 tay, nằm im trên giường như một cái gối…
Tôi hiểu tại sao có nhiều “em gái hậu phương” đi theo các đoàn ủy lạo thương bệnh binh, đã vội ôm mặt chạy ra khỏi phòng, có cô còn ngất xỉu khi nhìn thấy cảnh tật nguyền của các thương binh.
Trên đời này, tình thương sẵn có là chưa đủ. Cần có thêm một điều kiện nữa để có thể thực sự thương yêu người khác; đó là lòng can đảm. Thiếu đức tính này, khó lòng…
Câu lạc bộ của bệnh viện dân quân Nguyễn Trung Trực nhỏ nhưng cũng có nhiều món. Ở đây bán cà phê, hủ tíu, bánh bao và một ít thứ lặt vặt như thuốc lá, kim chỉ, khăn mặt, kem đánh răng, bàn chãi, sữa hộp…Tôi và Thi ngồi uống cà phê, nghe nhạc. Một giai điệu thời thượng… “…Đến lúc biết mơ mộng như những cô gái xuân nồng, nàng yêu anh quân nhân Biệt Động trong một ngày cuối đông...”. Rời câu lạc bộ, Thi nói chiều nay về tiểu đoàn và hẹn tôi tuần sau sẽ lại đến đưa tôi ra phố uống cà phê ngon hơn.
Vừa lóc cóc về đến phòng, tôi thấy một thương binh rất nặng được đẩy vào. Người ta yêu cầu ông chuẩn úy già nhường cái giường bìa của ông cho người thương binh mới đến. Các y tá nhanh nhẹn dọn lại giường, trải drap mới, rồi đặt vị này lên. Nghe nói đây là một thiếu tá tham mưu phó hành quân, toàn thân ông bị băng kín trắng toát, chỉ để lộ đôi mắt, cái mũi và cái miệng. Trên đầu ông, “ăn ten dù” treo lủng lẳng: chai máu, chai nước biển, chai truyền dịch, dây nhợ chằng chịt, y hệt như “người tình không chân dung” của nữ tài tử điện ảnh Kiều Chinh. Từ khi ông vào, căn phòng im lặng hơn. Chúng tôi giữ ý, bớt nói chuyện ồn ào, cả ông chuẩn úy già cũng vậy.
Ông thiếu tá qua một đêm trong phòng. Đến sáng, người ta đẩy ông đi; chiều, đẩy trở vào lại; nhưng sáng hôm sau nữa, khi chúng tôi thức dậy thì thấy cái giường trống. Ông đã tắt thở trong đêm.
Cái chết của vị thiếu tá để lại một không khí ảm đạm trong phòng suốt mấy ngày sau. Ông chuẩn úy già cũng bớt ồn ào. Dù sao ông cũng sắp xuất viện.
Một chuyện ngộ nghĩnh xảy ra: Một chuẩn úy nằm ở cuối phòng, bị thương nhẹ ở tay và sắp sửa xuất viện. Sáng nay anh đi vào toilet và không thấy trở lại. Mãi đến chiều tối, chúng tôi thấy anh trở lại, trên băng ca, chân bó bột! Anh bị té trong toilet vì nền nhà trơn trợt. Vậy là thay vì về nhà nghỉ phép dưỡng thương trước khi trở lại đơn vị, anh sẽ…nằm ở đây thêm một thời gian dài nữa. Sướng không?
Đây là lúc ông chuẩn úy già lên tiếng: “Mẹ! Thằng này giỏi! Mày té kiểu nào hay quá! Mày chỉ tao té một phát giống như mày coi!”. Cả phòng cười rần, vui vẻ.
Chàng chuẩn úy méo mặt, chống chế: “Em bị tai nạn huynh trưởng ơi; em đâu có cố ý”.
Thi lại đến, mang cho tôi một chục cam và 4 hộp sữa, nói : “Má em gửi cho ông thầy”. Tôi cảm động, cảm ơn Thi. Tôi lén chuồn ra phố, đi uống cà phê với Thi. Bây giờ tôi đi với nạng đã khá hơn. Chúng tôi không đi đâu xa, chỉ ra đến góc phố. Cảm giác dễ chịu được trở lại với đời sống phố phường, đời sống của sắc màu và sự bình yên. Trên đường trở về bệnh viên, tôi được một cô gái hỏi thăm. Cô này tự giới thiệu là nữ sinh Tống Phước Hiệp, học lớp 11. Thấy tôi có vẻ phân vân, Thi kín đáo nhét vào tay tôi một món tiền, để tôi có thể mời cô gái đi ăn kem. Đấy! Tình huynh đệ chi binh như thế! Lẽ ra, là quan, tôi phải đãi đằng và cho tiền lính của mình; đằng này…Thi giơ tay lên chào tôi và mau lẹ quay đi, miệng cười rất tươi như chúc tôi được vui vẻ.
Những ngày đau nhức trong bệnh viện cũng dần trôi qua, vết thương của tôi đã kéo da non, chưa kín hết khoảng hở, nhưng tôi cảm thấy mình từ từ khỏe lại. Thấm thoát đã gần một tháng từ buổi chiều mưa ấy. Hôm qua, bác sĩ bảo tôi hồi phục khá, vì “thịt cũng hiền”. Có thể, nay mai tôi sẽ được xuất viện. Bạn cùng khóa của tôi, Bình, đã xuất viện tuần trước. Tín, kế bên giường tôi, có thể phải ở lại thêm 10 ngày nữa, vì vết thương của anh bị nhiễm trùng.
Đúng ngày thứ 30, tôi được về nhà. Buổi sáng, một trung sĩ hành chánh vào phòng đưa cho tôi giấy xuất viện, cùng tờ giấy phép trên đó ghi: Nghỉ phép 29 ngày trình diện đơn vị. Anh trung sĩ cũng trao cho tôi một cái túi trong đó có nhiều khăn mặt, băng bông, thuốc tây và một bao thư bên trong có 1.000 đồng kèm một tờ giấy in sẵn mấy lời của trung tá bác sĩ giám đốc bệnh viện cảm ơn “sự phục vụ, hy sinh và lòng can đảm” của tôi. Người ta bảo khi trở lại đơn vị, cần nộp giấy này cho Ban 1 để xin “Chiến Thương Bội Tinh”.
Dù vết thương chưa lành hẳn, còn một mãng hở nhỏ đang kéo da non, chút máu còn rỉ ra khi cử động mạnh, nhưng đã đến lúc tôi phải xuất viện. Cần giường trống cho nhiều thương binh nữa đang được đưa về.
Từ giã bệnh viện, tôi bước chầm chậm ra ngoài đường, đứng đợi xe đò. Tôi vô tình đứng gần một cô gái, chắc cũng đang đợi xe. Cô mỉm cười chào tôi, cất tiếng:“ Chuẩn úy mới xuất viện ?”. Tôi gật đầu. Cô gái niềm nở: “ Chuẩn úy khỏe hẳn chưa ? Chuẩn úy về Saigon?” Tôi lại gật đầu và nói “Cảm ơn cô”. Cô gái nhìn tên tôi: “Chuẩn úy tên họ đầy đủ là gì?” Tôi đáp: “Nguyễn Hữu”. Cô gái khen: “Chữ lót đẹp quá!”. Rồi cô tự giới thiệu mình đã học xong trung học, nhà ở Chợ Lách, có vườn cây ăn trái, sẽ xin làm cô giáo”. Tôi khen: “Vậy là giỏi lắm”. Cô nói cô đang đợi xe lôi để về Chợ Lách. Tôi nhìn lại cô gái, khuôn mặt sáng, dễ nhìn…Cô hỏi xin tôi địa chỉ. Tôi im lặng. Cô gái không nói gì thêm.
Cô gái muốn làm quen, muốn biết địa chỉ quân bưu của tôi để viết thư. Nhìn lại y phục đơn giản và cách ăn nói thật thà của cô gái, tôi biết cô là “gái nhà lành” đúng nghĩa như cách gọi thông thường dành cho những cô gái miền Tây con nhà gia giáo.Tôi tin cô gái này không giống như những nữ sinh Saigon, chỉ muốn quen lính để đóng vai em gái hậu phương theo trào lưu nhất thời.
Không biên cho cô gái họ tên, đơn vị và kbc của mình, tôi đã phụ lòng cô…Chắc là cô thất vọng và không hiểu tại sao anh lính này lạnh nhạt như vậy. Điều này thật bất thường. Tôi biết làm sao; vì sự thật là trong tập thể những con người mặc quân phục trong cái thế giới đặc biệt của chúng tôi, có những anh rất kỳ quặc, bất bình thường; và có thể tôi cũng ở trong số đó, với cái tâm trạng thường xuyên ngỗn ngang, bất định.
Tôi chợt nhớ lại một truyện ngắn tựa là Chiếc Bóng Thoáng Qua của nhà văn Nguyên Vũ. Một đêm, trên đường đi làm về, cô gái là vũ nữ bị một đám thanh niên sàm sỡ quấy rối. Người lính biệt kích xuất hiện đúng lúc, tả xung hữu đột, đấm đá túi bụi đám thanh niên, khiến họ phải bỏ chạy. Hai người đi ra bờ sông gần đó, nói chuyện, làm quen nhau. Cô gái đưa người lính về phòng trọ của mình để qua đêm. Cô gái chờ đợi được trả ơn người lính. Không có chuyện gì xảy ra. Sáng sớm, nàng thức dậy thì người lính đã ra đi. Cô gái hoang mang không hiểu thái độ của người lính. Cô tự hỏi phải chăng anh đã bị…bất lực vì một mảnh đạn nào đó? Cô bâng khuâng…Thật là bất thường!
Cô gái trong truyện và cô gái này…Làm sao các cô hiểu được nhiều khi, người lính cảm thấy tình nước, tình dân còn sâu nặng hơn cả tình yêu nam nữ và tình dục. Tình yêu, rồi tình dục, rồi…lấy nhau…trong chiến tranh…sướng thật đấy; nhưng có thể chỉ dẫn đến một kết thúc không có hậu: cô nhi quả phụ; điều mà người lính trận không bao giờ muốn.
Làm lính tác chiến thì tiền lính, tính liền; sống nay, chết mai. Cái thế sống đó khiến cho người lính nào, từ sâu kín, cũng mang một mặc cảm, cái mặc cảm nghèo nàn, chết chóc. Từ mặc cảm này dẫn đến những cách xử sự khác nhau: có người yêu cuồng sống vội, hưởng thụ cho qua ngày; có người cứ yêu, rồi tới đâu hay tới đó; cũng có người nghĩ xa hơn cho người con gái, không nở làm điều gì đó gây thêm đau khổ.
Nhìn vẻ mặt hơi buồn của cô; tôi cũng ái ngại. Xe đò đến. Chúng tôi nói lời tạm biệt nhau. Ngồi trên xe, tôi cứ phân vân, không nhớ mình đã quên một điều gì. A ! Cô gái nhỏ trong bệnh viện ! Lúc đó, tôi mới nhớ mình đã vội vã rời bệnh viện mà quên từ giã cô, người đã giúp đỡ tôi rất nhiều suốt tháng qua. Cô gái đó là bông hoa nhỏ cuộc đời trao tặng cho chúng tôi, những chiến binh ngã ngựa, giữa đổ nát của chiến tranh.
Thôi nhé! Giã từ người em gái nhỏ hậu phương. Cô hãy ở lại và tiếp tục làm những công việc cần thiết mà, nếu không có tình thương, và lòng can đảm, không ai có thể làm được, cho lính.
Nguyễn Hữu Thời
(Viết muộn- 11/1/ 2021)
Comments:
* Nghia Nguyen
Khúc
nầy “hỉ nộ ái ố “quá , đọc nhớ lại hồi tôi nằm Phan thanh Giản, Cần thơ
năm 1970 … phòng bịnh tấn đầy bao cát , tử khí, hét la…!
* Nguyễn Thị Ngọc Mai
Mong
đến thứ 7 để được đọc bút ký của anh như ngày xưa các chị nữ sinh mong
chiều thứ 7 để được các anh đón những ngày về phép,đọc để biết đời lính
gian khổ mà oai hùng ,ko biết giờ này các anh ở đâu với tuổi thất thập
cổ lai hy,chắc cũng có nhiều anh đã ngã xuống trên chiến trường ,ngày
nhỏ em thuòng mơ uóc khi lớn lên sẽ là Nữ Quân Nhân để được như chị ấy
vào BV quân y chăm sóc các chú các anh ,nhưng chưa kịp lớn thì ngày
30/4/75 đến.
* Lua Nguyen
Những tình người cao thượng trong cuộc chiến
* Phan Văn Nhẫn
Cũng là “Buồn Vui đời linh “nhưng Hữu Thời..thực..hơn Hữu Hạnh!
*Hoa Nguyen
Đọc
mãi vẫn thấy buồn ! Chiến tranh đã qua rất lâu , nhẩm lại mà cũng nửa
thế kỷ.. Những người lính năm xưa giờ đã và đang sắp xuống lỗ nhưng vẫn
còn nhớ như in cái cảm giác vô cùng khó chịu khi cơn đau của những vết
thương hành hạ, nhất là bị thương vào những ngày cuối cùng của đất
nước.. không bệnh viện không thuốc men, tự vật lộn với đau đớn, hoang
mang mà sống ! Thà đau một lần, tử trận mà hay.
--------------
Sáng ngày 23 tháng Chạp, đại đội tôi được 3 chiếc GMC chở qua Trà Ôn, quận giáp ranh Vĩnh Bình. Đoàn quân xa ngừng trên tỉnh lộ 54, thả chúng tôi xuống một con đường đất đỏ. Đại đội xuất phát từ đây, mục tiêu là một tiền đồn trong xã Vĩnh Xuân. Chúng tôi được lệnh đến thay thế cho một đại đội thuộc TĐ 467 đã ở đó 2 tháng qua. Đồn này gọi là đồn Vĩnh Tắc. Nhìn vào bản đồ, tôi biết phải đi bộ 15 cây số mới đến nơi. Càng vào trong, con đường càng hẹp dần, dân cư càng thưa thớt.
Chúng tôi, súng cầm tay, đi hai hàng dọc hai bên đường. Gần 1 giờ trưa, lính tráng mệt mỏi; đại đội trưởng cho anh em dừng lại để ăn cơm. Quan sát chung quanh, tôi thấy dường như từ đây vào trong không còn nhà dân nữa. Con kênh nhỏ trên bản đồ, bên phải con đường, đã thấy hiện ra, chảy từ phía ngoài vào trong, song song với con đường. Bên kia con kênh là cánh đồng khô, trơ gốc rạ. Bên trái con đường là rừng thưa xen với trảng trống. Rất xa, ở cuối tầm mắt, có vài mái nhà tranh.
Ăn trưa xong, chúng tôi lại di chuyển. Nhơn và tôi giục lính đi thưa ra và nhanh lên, vì sợ trời tối. Lưng áo dính nhớp. Chúng tôi quệt mồ hôi trên mặt, tiếp tục đi. Nẻo đường vắng ngắt tạo cảm giác bất an. Anh Trường liên lạc được đơn vị bạn. Tôi nghe trên máy tiếng nói của đại đội trưởng bạn cho hay họ đang chuẩn bị xuất phát. Đã 2 giờ trưa, chúng tôi còn phải lội thêm 6 cây số nữa. Vẫn không nhìn thấy người dân nào trên đường. Gần 4 giờ chiều, tôi thấy phía trước có toán quân đi ra. Đoàn quân tiến đến gần chúng tôi, rõ dần. Từ khi ra trường, mỗi lần đi đâu, tôi đều mong gặp các đơn vị bạn trên đường. Đi ngang một đoàn quân, tôi luôn nhìn kỹ, xem có gặp người bạn cùng khoá nào không. Khóa tôi có 56 anh về TK Vĩnh Long, đa số về các tiểu đoàn, một ít về đại đội biệt lập hoặc các phân chi khu. Hơn một năm qua, tôi biết được một số tổn thất của khóa. Có Nguyễn Văn Thanh, cùng tiểu đoàn với tôi, tử trận sau 2 tháng ra trường, có Tô Văn Sơn bên TĐ 463, mà tôi gặp một lần tại bến phà Cái Tư, Chương Thiện, cũng đã hy sinh. Lần này cũng vậy, tôi nhìn từng người lính đang tiến đến gần. Vì chúng tôi đi hai bên đường, nên quân bạn đi ngang qua chúng tôi ở giữa. Tôi mừng rỡ trông thấy Đinh Ngọc Quyết, cùng trung đội với tôi trong Thủ Đức. Quyết cũng trông thấy tôi, mắt nó sáng lên. Chúng tôi bắt tay nhau, hỏi thăm. Quyết là con trai Bắc di cư, da ngăm đen, hiền lành. Hơn một năm lặn lội, trông nó chắc đậm thêm, rất phong trần, đã là đại đội phó. Quyết dặn tôi: “Đi uống cà phê, coi chừng bị bắn tỉa nhé!”. Quyết bảo đã có hai lính của đại đội nó chết vì bị bắn sẻ khi ra ngoài. Chúng tôi chia tay, tiếp tục đi, mỗi thằng một hướng. Anh Trường cũng dừng lại dăm phút để nhận “bàn giao”, đúng hơn là “bắt tay” với đại đội trưởng bạn, một trung úy. Thật ra, ngay giờ này, tiền đồn đó đang bỏ trống, chờ chúng tôi vào.
Nắng chiều tắt dần khi tôi nhìn thấy phía trước mặt có một mái lá. Tôi đoán đó là quán cà phê mà Quyết nhắc đến. Vậy là sắp tới rồi, chỉ còn khoảng 500 mét nữa. Đi ngang qua căn nhà duy nhất đó, ai cũng nhìn vào. Một cô gái khoảng 15 tuổi ngồi trên chiếc giường tre, nhìn ra. Vài ba cái ghế đẩu cũ, một cái bàn tre, trên có tủ thuốc lá, mấy chai nước ngọt và ly cốc. Phía sau quán là con kênh. Có lẽ đây là nơi “vui chơi” duy nhất của chúng tôi trong những ngày ở đây.
Đi thêm 200 mét, bên trái có một tiền đồn nhỏ trên một lũng rộng, khô ráo. Có 2 ụ gác chắn bằng bao cát, dăm ba hố cá nhân rải rác. Trung đội của An được giao trấn giữ chốt này. An, khóa 1/74, mới về tiểu đoàn từ tháng 11, nắm trung đội 2 thay tôi. Sau 29 ngày dưỡng thương ở Saigon, trở về đơn vị, tôi nắm lại trung đội vũ khí nặng. Chúng tôi tiếp tục đi, bên phải là dòng kênh, trên bờ có vài bụi lau sậy và mấy vuông cỏ, bên trái là bãi hoang, xa phía trong, có nhiều lùm cây, đã xẫm màu. Buổi chiều xuống nhanh. Đã hơn 5 giờ chiều khi chúng tôi đến nơi. Trung đội của Hiền được lệnh di chuyển qua bên kia con kênh để giữ một chốt nhỏ có sẵn hầm hố phòng thủ. Vào bên trong, chúng tôi nhìn ngó chung quanh, quan sát lại vị trí tiền đồn. Mặt trái trống trải, cuối tầm mắt là cái quán lá. Mặt trước nhìn ra con đường, một xe jeep hư hỏng, tàn tích của một trận đánh, bên kia là bãi hoang khá thoáng. Mặt sau là dòng kênh, có một chiếc xuồng do đại đội bạn để lại. Hai mặt này không nguy hiểm; vì vậy, chúng tôi đặt cây đại liên chĩa vào mặt phải có mấy lùm cây rậm cách xa khoảng 100m và đặt súng cối tại ụ súng có sẵn được che 3 phía bằng bao cát. Việc đầu tiên phải làm trước khi đêm xuống là cho gài mìn claymore và lựu đạn để phòng thủ, ở mặt phải, nơi có nhiều bụi cây khá rậm. Việc kế tiếp là gọi chi khu Trà Ôn báo tin chúng tôi đến nơi. Phải lắp antenna 7 đoạn. Ngày mai chúng tôi sẽ cung cấp các hỏa tập tiên liệu, để pháo binh diện địa có thể yểm trợ khi cần.
Đại đội trường ở căn hầm chỉ huy, đặt máy truyền tin ở đó. Nhơn và tôi chia nhau giữ 2 mặt: Nhơn lo bên phải và mặt sau có con kênh; tôi lo mặt trước và bên trái. Chúng tôi dành căn nhà tường gạch ở giữa để chứa nồi niêu, lương thực và đạn dược.
Vậy là tạm “an cư”. Sau cả ngày đi bộ, chúng tôi mệt quá, ngủ thiếp đi trong những căn hầm lạ, sau khi đã chia phiên gác cho lính.
Sáng hôm sau, đại đội trưởng họp anh em lại để dặn dò, lính không nên ra khỏi đồn trong lúc này, không được đi uống cà phê. Chúng tôi dành cả ngày xem lại các hầm hố, công sự; tất cả còn xử dụng được. Chúng tôi cũng thu dọn rác do đại đội bạn để lại. Anh Trường cũng gọi các trung đội, dặn dò. Đại đội trưởng hứa sẽ cho lính ra ngoài sau khi đã thám sát quanh vùng. Hai ngày kế tiếp, chúng tôi chỉ nằm trong hầm, nghe nhạc thời trang phát ra từ 2 cái radio của lính. Đến ngày thứ năm, lính được phép mang súng, đi từng tổ 3 người đến quán cà phê, để mua nước đá, mỗi lần nửa tiếng. Sáng ngày thứ sáu, Nhơn, tôi, cùng 3 người lính cũng đi ra đó uống cà phê. Cô bé chủ quán dễ nhìn, ăn nói nhỏ nhẹ. Cô bảo cô ở đây cùng mẹ, bà đã chèo ghe đi chợ ngoài tỉnh lộ. Giữa chốn đồng không mông quạnh, sự hiện hữu của cái quán và cô bé trở nên đặc biệt, bất ngờ như một món quà. Chúng tôi ngồi, chậm rãi uống từng ngụm cà phê vừa nhạt vừa chát, một cách nhàn nhã. Ngày thứ bảy, Nhơn và tôi, mang theo 4 người lính, đi thám sát chung quanh. Chúng tôi đi về phía khu vườn thấp thoáng một mái nhà thờ nhỏ. Tôi nhớ trong quán lá của cô gái, có ảnh Chúa treo trên cột. Đây là một xóm đạo, gọi là giáo xứ La Ghì, nhưng không còn một mái nhà nào, không còn một giáo dân nào ở lại, ngoại trừ cô gái và bà mẹ.
Đến gần ngôi nhà thờ, chúng tôi dừng lại, quan sát. Mặt tiền nhà thờ bị hư hại nặng, cánh cửa đổ sập, nằm chắn ngang lối vào, mái nhà trống hoác, tường chi chít lỗ đạn. Có một tấm bảng treo trên khung cửa ghi dòng chữ bằng sơn “Đề nghị quân đội hai bên tôn trọng giáo đường”.
Vì quân đội hai bên không tôn trọng giáo đường nên cha xứ đã bỏ đi, cùng với những giáo dân của ông.
Chúng tôi thận trọng bước vào bên trong. Bàn thờ vẫn còn nguyên vẹn. Nhơn và tôi, dù ngoại đạo, cũng quỳ xuống, nhìn lên tượng Chúa. Tôi đoán, cũng như tôi, Nhơn đang cầu xin sự bình an cho mình và mọi người, xin hòa bình thực sự cho quê hương. Cầu xin như vậy kể cũng cao xa, nhưng để hy vọng. Cầu nguyện xong, chúng tôi bước ra ngoài. Tôi ngoái đầu nhìn lại. Cảnh một ngôi nhà thờ đổ nát bao giờ cũng gây xúc động. Chợt nhớ mấy câu thơ đã thuộc từ hồi nhỏ:
“Lâu quá không về thăm xóm đạo
Từ ngày binh lửa cháy quê hương
Khói bom che lấp chân trời cũ
Che cả người thương nóc giáo đường…”
Từ ngày binh lửa cháy quê hương
Khói bom che lấp chân trời cũ
Che cả người thương nóc giáo đường…”
Ngôi giáo đường đã đổ nát trong cơn binh lửa; hẳn một người con gái áo tím đã đi theo chồng. Tôi bâng khuâng nhớ lại giai điệu của bài hát phổ từ những câu thơ rất giàu tình cảm. Lời thơ vẫn hay nhưng tình thơ đã không còn gợi lên xúc cảm thuở nào. Tác giả của bài thơ, một người thân phía bên kia, đã cầm đầu đoàn biểu tình “ký giả đi ăn mày” hồi năm ngoái ở thủ đô, cùng với nhiều nhà báo nằm vùng khác.
Ra ngoài vườn, tôi thấy Bé, người lính đi theo tôi, cầm trên tay mấy nhánh mai rừng. Bé nói: “Mang về đồn chưng, cúng giao thừa, ông thầy”. Hôm nay là chiều 30.
Về đến đồn, vừa lúc Ông Địa, viên thượng sĩ thường vụ đại đội, cùng 2 người lính, chuyển supply đến bằng ghe máy, đang cặp bờ kênh phía sau. Lính mang đồ tiếp tế lên bờ. Chúng tôi có nếp, thịt heo, bánh mứt, thuốc lá, bia, 3 con gà, 3 chai rượu, 1 tờ báo và một ít đạn dược. Đồ tiếp tế được chia cho 3 trung đội.
Buổi chiều, Nhơn cặm cụi lựa ra những viên đạn lửa, để bắn lên trời mừng giao thừa. Tôi lấy mấy dây đạn M60 xếp thành dòng chữ Mừng Xuân 1975 treo trên bờ đất phía ngoài, cạnh cổng chính. Xong việc, tôi rủ 2 người lính đi uống cà phê. Buổi chiều cuối năm bao giờ cũng khiến lòng người nao nao, dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào. Chúng tôi ngồi trong quán gần một tiếng, chỉ uống cà phê, hút thuốc lá, và nhìn ngó vẫn vơ. Rời quán ra về, chúng tôi mở khóa an toàn các khẩu súng đã lên đạn. Lúc đó khoảng 4 giờ chiều. Đoạn đường chỉ có 500 mét. Đi được chừng 200 mét thì…Chéo ! Chéo ! Chéo ! Từng viên AK, từ bên trái, tỉa vào chúng tôi ! Nằm xuống đất, bắn mấy tràng liên thanh trả lại, vào các lùm cây. Bò hỏa lực, được một đoạn, mệt; chúng tôi vùng dậy và chạy thật nhanh về đồn. Trong khi chúng tôi chạy, chúng lại bắn tiếp. Từng tràng đạn đuổi theo chúng tôi. Đầu đạn, như những mũi tên, cắm phập vào mặt cỏ dưới chân. Chúng tôi cắm cổ chạy. Tôi nghĩ thầm…Chẳng lẽ lại chết vào chiều 30 ?
Chúng tôi ngồi trong hầm của anh Trường, uống trà, hút thuốc, tán gẫu, đợi giao thừa. Đúng nửa đêm, Nhơn lấy M16, bắn hết số đạn lửa lên trời, về 4 hướng. Trong đêm tối, từng lằn đạn bay vọt lên không trung, nối tiếp nhau, như pháo bông. Tôi ra ụ súng cối, bảo xạ thủ bắn 3 quả soi sáng tiền đồn. Anh Trường đứng giữa sân, thắp nhang, cầu nguyện. Xong, chúng tôi vào hầm, mỗi người uống mấy chung rượu. Lính cũng uống trong hầm của họ.Tôi và Bé ra chốt gác bên trái, mở radio, nghe nhạc xuân. Đêm giao thừa của chúng tôi trôi qua bình an.
Nhưng địch không muốn như vậy. Sáng mùng 1, anh Trường, Nhơn và tôi đi thăm 2 trung đội. Tại mỗi chốt, chúng tôi uống trà, ăn mứt và ở lại nửa tiếng. Trở về, anh Trường lại ra ngoài lộ, thắp hương, cúng vái Trời Đất. Gần giờ ngọ, khi lính đang bày con gà luộc, cơm nếp, rượu…ở giữa sân đồn để cúng, các cây nhang chưa tàn thì…“Tắc tắc ! Cùm cùm !”. Địch bắn đại liên vào đồn. Tiếng đạn 12 ly 8 nổ vang. Lính dáo dác chạy vào hầm trú ẩn. Tôi về hầm của mình, chụp nón sắt lên đầu, ngồi mọp xuống…Cát bụi bay mù mịt. Bức tường ở nhà giữa trúng đạn, tiếng vỡ ầm ầm…Gạch rơi tung tóe. VC từ lùm cây bên kia bãi đất, hạ nòng đại liên phòng không, bắn từng tràng vào đồn, một mục tiêu cố định lồ lộ. Chúng tôi không làm gì được ngoài việc gọi xin pháo binh chi khu bắn dập vào các lùm cây đó, cách chúng tôi 300m. Tiếng đạn 105mm đi nhanh; tôi đếm đủ 3 quả. Rồi im. Đại liên của địch cũng ngưng. Chúng tôi ra ngoài, nhìn cảnh đổ vỡ. Mâm cúng ngã xuống đất, xôi, rượu, con gà luộc nằm lăn lóc, dính đầy bụi cát…Lính tức tối văng tục: “Đ.m ! Tết cũng không để yên!”. Chín, hỏa đầu vụ của đại đội trưởng, đứng trên lô cốt cao nhất, dùng tay làm loa, hét: “Đ.m mày Việt Cộng!” “Đ.m mày Việt Cộng!” Nỗi căm giận được trút bỏ, không bằng những viên đạn, mà bằng lời chửi rũa.
Trưa mùng 2 và mùng 3 cũng vậy. Cứ đúng 12 giờ, chúng lại nã 12 ly 8 vào đồn. Lại ẩn núp, lại đổ vỡ, lại gọi pháo binh bắn trả. Chúng tôi nghĩ chúng chỉ bắn quấy rối. Nếu muốn đánh, chúng sẽ đánh ban đêm, bằng tiền pháo hậu xung, và dùng đặc công xâm nhập. Đó là chuyện đáng ngại nhất. Với quân số ít ỏi và hỏa lực kém, chúng tôi sẽ chỉ cầm cự, rồi xin phi pháo yểm trợ. Ở đây, không thể trông chờ tiếp viện, vì đường xa. Nếu đánh, mục tiêu của địch là tiêu diệt chúng tôi, chứ không phải chiếm giữ, vì đâu còn nhà cửa và dân chúng nữa.
Mấy ngày tiếp theo, địch để chúng tôi yên. Chắc chúng chỉ muốn gửi cho chúng tôi mấy viên kẹo 12 ly 8 làm “quà Tết”. Hết Tết, chúng không gửi “quà” nữa.
Hôm nay đã là mùng 10. Ngày mai, tôi sẽ về hậu cứ báo tình hình và xin vật liệu để sửa chữa những hư hại. Sắp tới, sẽ có thêm một chuyến supply với đồ tiếp tế. Tôi cũng cần đổi chứng chỉ tại ngũ đã quá hạn từ lâu.
Sáng sớm, Hiếu, trung đội phó vũ khí nặng của tôi, chèo ghe đưa tôi ra tỉnh lộ. Nhơn đã cho lính đi mở đường một đoạn. Ngồi trên ghe, trôi đi chầm chậm, nhìn khoảng trời rộng, hít thở không khí buổi sáng, tôi cảm thấy thoải mái. Hiếu cao hứng hát to một khúc tình ca. “…Nẻo đường cũ giăng đầy mưa, khuất mù lối khiến nên tình đành lỡ…".
Vậy là tôi đã trải qua cái Tết lính năm thứ 3…Tôi nghĩ ngợi vu vơ. Rồi nhớ người phụ nữ bên kia sông Hậu, đã thương tôi, trong sự chịu đựng.
Nẻo đường cũ ấy, giờ này trời có giăng mưa?
Nguyễn Hữu Thời
20/10/2020
(Viết muộn)
-------------
Con sông Cái Vồn vắt ngang qua quốc lộ 4 ở xã Mỹ Thuận, quận Bình Minh, Vĩnh Long, một đầu chảy ra sông Hậu, một đầu xuôi về Sa Đéc. Hậu cứ tiểu đoàn tôi đặt dưới chân cầu Cái Vồn, sát quốc lộ, chỉ cách bắc Cần Thơ 3 cây số. Từ đây, càng đi thuyền vào phía trong, con sông càng hẹp lại, chảy ngang qua Tầm Vu thì không còn gọi là sông mà là kênh; đi xa hơn nữa con kênh rẽ thành 2 nhánh gọi là rạch, được dân địa phương đặt cho những cái tên rất tượng hình: Rạch Súc, Rạch Sậy. Đến đây thì không còn vườn tược, chỉ có lau sậy hoang vu, bạt ngàn. Nhìn trên bản đồ, chỉ thấy một màu xanh lá của rừng thưa. Cũng không thấy những chấm đen nhỏ li ti biểu thị của nhà cửa, dân cư. Đây là vùng đất không có “xôi”, mà chỉ có “đậu”, mất an ninh. Tiếp tục đi lên hướng Tây Bắc chừng 2 cây số sẽ gặp lại làng xóm. Đó là xã Mỹ Hòa, thuộc Sa Đéc.
Bình Minh là quận tương đối an ninh, mặc dù xa Tiểu Khu nhưng rất gần Quân Khu, ở bờ bên kia sông Hậu. Quận lỵ trù phú với những dãy phố nhỏ kề bên các vườn cây ăn trái xum xuê. Các con kênh, rạch mang lại nguồn thủy sản dồi dào. Đôi khi, bom đạn có làm xáo động những mặt nước yên tĩnh, nhưng sau đó, tôm cá lại trở về, sinh sôi nảy nở. Trên các bờ đất màu mỡ, rau dại mọc tràn lan cũng là một nguồn thực phẩm tươi tốt. Lính địa phương là những người rất giỏi đánh bắt tôm, cá, lươn, cua, ếch, rắn, chuột. Họ cũng giỏi phân biệt các loại rau mọc ngoài đồng. Được ở cùng họ nghĩa là được ăn những món đồng quê ngon miệng. Để bắt cá, họ dùng các cành cây khô, nhỏ, đan lại thành một cái lồng mà họ gọi là “lờ”; rồi họ đặt các cái “lờ” đó xuống nước, sát bờ kênh; hôm sau, chỉ việc trở lại, lấy lên, để trên bờ, sẽ thấy tôm cá rơi xuống lộp độp. Thế là có dư thức ăn, còn phơi khô dự trữ nữa. Khi đóng đồn thì sướng như thế. Ngược lại, có những hôm phải lội cả ngày, chỉ được dừng chân mười lăm phút để ăn cơm nắm với muối hột. Lúc đó cũng chẳng có gì phàn nàn.
Sau Tết, tiểu đoàn tôi đặt tiền phương tại đồn Tầm Vu. Đại đội 1 được ở chung với bộ chỉ huy để có đủ quân số tổ chức phòng thủ. Đại đội 2 của tr/úy Linh trấn đóng 2 đồn: Rạch Súc và Rạch Sậy ở sâu bên trong. Đại đội 3 đóng gần bến phà, còn đại đôi 4 giữ an ninh quốc lộ ngược về phía cầu Ba Càng, nơi có cái đồn nhỏ tôi trú đóng khi mới ra trường, nhận một trung đội chỉ có…8 người lính, nơi mà nhìn qua bên kia là trường tiểu học Song Phú, đã bị Việt Cộng pháo kích giết nhiều học sinh và cô giáo. Bây giờ, tôi đang ở một tiền đồn khác, lớn hơn. Hơn một năm đã qua, một lần đổ máu, tôi “học khôn” được chút đỉnh trong cái nghề nghiệp bất đắc dĩ của mình. Hơn tháng nay, tôi được rút về bộ chỉ huy bằng tờ quyết định bổ nhiệm trong đó ghi chức vụ mới của tôi, đầy đủ và thật dài, là: sĩ quan phụ tá hành quân không trợ, nghĩa là phó ban 3 phụ trách không trợ, gọi tắt là sĩ quan không trợ. Ban hành quân chỉ có 4 người: trung úy Bình, sĩ quan hành quân, chỉ huy trực tiếp của tôi, tôi, trung sĩ Hầu, thư ký hành quân, và binh nhất Hiếu, mang máy. Tôi hiểu nhiệm vụ mới của mình khá nặng nề: lên tần số không-lục, liên lạc với phi công để chấm điểm, xác nhận mục tiêu địch cho Không Quân tiêu diệt. Tôi chưa có kinh nghiệm gì về công việc này, chỉ biết chấm tọa độ và xác định điểm đứng mà tôi đã học ở Trường Bộ Binh; nhưng tôi biết mình phải xác định mục tiêu từ tầm mắt của phi công, bằng cách chỉ hướng theo giờ đồng hồ và mô tả mục tiêu theo địa hình dưới đất. Sẽ nhiều thử thách đây.
Hơn tháng nay, chúng tôi quá rãnh rỗi. Chỉ gác vào ban đêm, còn ban ngày không có việc làm, lính xin đi bắt cá, hay tụ tập trong hầm chơi bài tứ sắc. Mỗi ngày, đại đội 1 cho 2 tổ, mỗi tổ 6 người đi ra ngoài tuần tiểu trong phạm vi 1 cây số rồi trở về. Ban đêm, cũng có 2 tổ đi ra ngoài nằm “điểm”, đến nay đều vô sự. Nhưng, chúng tôi biết địch đang ẩn náu quanh đây. Có hôm chúng tôi nhìn thấy cờ “giải phóng” treo trên các trụ vó đánh cá và trước các căn nhà hoang. Tôi đã dùng súng colt bắn tơi tả một trong các lá cờ đó.
Địch chưa xuất hiện. Cho đến khuya nay.
2 giờ rưỡi sáng, tôi đang mơ màng thì nghe tiếng anh Bình gọi to: “Thời! Dậy! Dậy! Đến ngay hầm Alfa!”.Tôi ngồi dậy, ra ngoài, múc gáo nước rửa mặt, rồi đi nhanh về phía hầm chỉ huy. Vào bên trong, tôi thấy Alfa ngồi trên giường, nghe máy, nét mặt căng thẳng. Chung quanh ông, đã có các sĩ quan khác: Tr/ úy Bình, Th/úy Long, sĩ quan tình báo, th/úy Trường, đại đội trưởng đại đội 1 và Nhơn, đã lên thiếu úy, đại đội phó. Giữa đêm tối yên ắng, từ máy truyền tin, tiếng súng lớn, nhỏ phát ra chát chúa, cùng với tiếng la của hiệu thính viên, mà tôi đoán là từ hậu cứ. Tôi nghe tiếng nổ của pháo, súng nhỏ và lựu đạn, rồi tiếng kêu trong máy: “Chết rồi, Alfa ơi! Tụi nó pháo trúng rồi”. Alfa hét to: “Gọi Chi Khu, xin ứng cứu ngay, gọi chưa?”, rồi ông hỏi:“Có tr/úy Khánh ở đó không?”. Tôi dõng tai, cố nghe cho được tiếng nói trong máy, nhưng chỉ nghe vài lời sau cùng, yếu ớt: “Tụi nó vào rồi Alfa ơi !”, rồi im bặt. Alfa đứng lên, thất vọng; rồi ông ra lệnh: “Bình, gọi đại đội 2 bảo chuẩn bị hành quân ra hậu cứ, bây giờ là 2g45; phải xuất phát lúc 4 giờ sáng. Ở đây, gọi lính dậy, nấu cơm mang theo, chúng ta xuất phát lúc 6 giờ, khi đại đội 2 đi ngang qua đây”, rồi ông tiếp: “Tôi sẽ gọi Tiểu Khu, xin Pháo Binh và Không Quân yểm trợ”.
Mọi người về hầm của mình, cho lính chuẩn bị. Tôi báo cho Hầu biết tình hình và bảo nấu cơm mang theo, sẽ xuất phát sớm. Tôi cũng gói ghém ba lô của mình.
Trời sáng dần. Chúng tôi trở lại hầm chỉ huy và biết đại đôi 2 sắp hành quân ngang qua, ở phía bờ bên kia. Tôi nghe tiếng của tr/úy Linh nhẹ nhàng trên máy, nhắc nhỡ các trung đội. Tiếng xè xè của máy truyền tin khuấy động buổi bình minh đang đến. Alfa gọi hậu cứ nhiều lần nhưng không được trả lời.
Chúng tôi rời tiền cứ lúc 6 giờ sáng.
Đại đội 1 đi đầu, Nhơn cùng 2 trung đội đi chếch vào phía trong, còn anh Trường dẫn 2 trung đội đi phía ngoài dọc bờ kênh, bộ chỉ chỉ huy tiểu đoàn đi sát ngay phía sau. Ba mươi phút di chuyển theo con đường quen thuộc, không có động tĩnh gì. Gần 7 giờ sáng, súng nổ. Việt Cộng đào công sự chiến đấu ngay trong các khu vườn, chúng núp bên dưới các con mương bắn vào toán lính đi đầu của đại đôi 1. Tôi nghe tiếng hét của Nhơn: “Đ.m ! Tản ra ! Bắn ! Bắn !” Chúng tôi khựng lại. Một loạt AK cùng tiếng B40 hòa với tiếng chát chúa của M16 nổ vang ở đầu đoàn quân chúng tôi. Alfa hét to: “Trường! Cố nhổ mấy cái chốt đó, xác định vị trí địch, tôi cho súng cối và đại liên lên yểm trợ”. Anh Trường báo địch ở ngay phía trước mặt, chếch bên trong, cách khoảng 100 mét. Liền sau những loạt AK khô khốc hướng về phía chúng tôi, tôi thấy những ánh lửa nháng lên ngay trước mặt. Alfa bảo tổ đại liên M60 lên tăng cường cho toán quân đi đầu, rồi ông chỉ xạ thủ súng cối vị trí đặt súng. Chúng tôi rót cối 60mm về phía địch. Tôi cũng nghe tiếng tạch tạch của M60 và tiếng “ầm” của M72 do Nhơn bắn. Mười phút sau, tiếng súng địch im. Tôi nghe anh Trường hỏi Nhơn có “đục” lên được không. Nhơn báo hạ được một “chuột” nhưng có 2 khinh binh bị thương, cần được cáng về phía sau để băng bó.
Chúng tôi tiếp tục di chuyển thì địch nổ súng trở lại. Lính tìm chỗ ẩn núp, bắn trả. Lẫn trong màu lá, loáng thoáng các bóng áo nylon xanh dương chạy qua lại cách chúng tôi chừng 70m. Chúng tôi chờ địch xung phong. Hai bên bắn qua lại gần nửa tiếng. Tôi nghe thấy cả tiếng M16 và M79 của đại đội 2 từ bờ bên kia bắn sang yểm trợ cho đại đội 1. Căn cứ vào hỏa lực, chúng tôi ước tính lực lượng địch tương đương với chúng tôi, khoảng 2 đại đội. Chưa nghe thấy súng lớn của địch. Có lẽ, chỉ huy địch đang ở trong ngôi nhà tường cũ màu trắng ẩn mình sau các cây mít lớn chếch bên trái chúng tôi, vì tôi thấy từ đây các ánh lửa lóe ra nhiều nhất. Alfa thúc giục nã súng cối vào đó nhưng địch đáp trả bằng B40 và AK. Khoảng 8 giờ tôi nghe tiếng máy bay trực thăng. Tôi bảo Hiếu chuyển sang tần số không-lục và đưa combinet cho tôi. Lúc này, anh Bình vẫn theo sát Alfa để điều động các cánh quân, còn tôi sẽ “nói chuyện” với Không Quân. Tôi nhìn lên và thấy 3 chiếc UH-1. Một người xưng danh là “Đại Nhân” đang gọi tôi. Tôi biết đây là sếp lớn ngồi trên chiếc chỉ huy. “Đại Nhân” cất tiếng oang oang: “Các em có nghe được “qua” không, cho điểm chính xác để 2 cây đũa thần thanh toán mục tiêu cho các em”. Tôi đáp: “Đại Nhân, đây Mỹ Hạnh 1”. Liền đó, tôi nghe tiếng một phi công: “Tôi đang ở ngay bên trên bạn, cùng hướng tiến của bạn; xin xác nhận mục tiêu”. Tôi đáp: “Mục tiêu ở ngay hướng 10 giờ của bạn, căn nhà tường màu trắng, cách chúng tôi 100 mét”.“OK, tôi thấy rồi, tôi đánh đây!” Hai chiếc trực thăng bay chậm lại, hơi nghiêng một chút, rồi những trái hỏa tiễn phóng ra, lao thằng xuống căn nhà, chui vào các ô cửa. Tiếng nổ to và gọn. Tôi thấy những cột khói bốc lên. Thật chính xác. Tôi thầm cảm phục các phi công. Tôi xác nhận: “Rất chính xác, cảm ơn bạn”. Hai chiếc trực thăng bay tới phía trước, đảo một vòng rồi quay trở lại, hạ thấp cao độ. Phi công hỏi tôi: “Chúng tôi còn minigun, bạn cho biết cần đánh vào đâu”. Tôi bảo đợi tôi 1 phút. Tôi trở lại tần số nội bộ gọi Nhơn, hỏi mục tiêu cần đánh. Nhơn báo mục tiêu bằng tọa độ 6 số, chếch bên phải của Nhơn, cách xa khoảng 100 mét. Tôi bảo Nhơn: “Mày cho con cái núp sâu, trực thăng bắn đại liên đó!” Nhơn là huynh trưởng của tôi, khóa 8b/72 khăn xanh, rất cứng cáp, đi hành quân bao giờ cũng mang một M16 và một M72; chúng tôi thân nhau nên gọi nhau mày-tao. Tôi trở lại tần số không-lục báo cho phi công. Hai chiếc UH-1 bay vòng ra xa, rổi trở lại, thân máy bay nghiêng về một bên. Từng tràng 12 ly 7 bắn ra với tốc độ khủng khiếp, tiếng rú như bò rống. Sau hỏa lực của trực thăng, không còn nghe tiếng súng địch nữa. 3 chiếc trực thăng bay lên cao, tôi lại nghe tiếng của “Đại Nhân”: “Đẹp lắm! Thôi, qua rời vùng nhé, qua đi uống cà phê một chút, sẽ cho 2 cây đũa thần trở lại với các em, nếu cần” (?)
Trận đánh tạm lắng. Chúng tôi lấy bi đông ra uống nước. Alfa gọi Chi Khu xin tản thương. Ông đến bên tôi, cười hỏi: “Mệt không Thời?”. Tôi đáp: “Khỏe, Alfa, nhờ có Không Quân”. Alfa hỏi: “Có biết Đại Nhân là ai không? Không đợi tôi đáp, ông nói: “Đại tá tham mưu trưởng quân đoàn đó!”. Chúng tôi bố trí tại chỗ, đợi tản thương. Đúng lúc này, Hầu đến gần tôi, báo: “Trung sĩ Hải trúng đạn, sắp chết rồi !”. Hầu chỉ về phía một ngôi nhà lá cũ, tường đất vỡ nát, mái lá rách bươm. Tôi theo Hầu đi đến đó. Ra phía sau nhà, tôi nhìn thấy Hải nằm ngữa trên đất, rên rỉ. Hải đang thoi thóp vì trúng một viên đạn. Tôi ngồi xuống, cầm tay Hải. Tôi không thấy máu nhưng có một lỗ thủng nhỏ ngay ngực Hải. Đầu đạn không xuyên qua được lớp áo giáp dày, còn kẹt lại trong phổi, khiến Hải không thở được. Hải cứ khò khè và liên tục gọi: “Mẹ ơi, Mẹ ơi!” Tiếng kêu của Hải làm tôi như tê liệt. Tôi hỏi Hầu: “Y tá đã làm gì chưa?” Hầu buồn bã: “Giang có tiêm một mũi thuốc khỏe”. Theo cấp số, mỗi tiểu đoàn Tổng Trừ Bị có một bác sĩ, mỗi tiểu đoàn Bộ Binh hay Địa Phương Quân có một sĩ quan trợ y; nhưng thực tế, chúng tôi chẳng có gì cả, ngoài một hai y tá chỉ biết băng bó, chích thuốc giảm đau mà họ gọi là thuốc “khỏe”? Tôi cảm nhận trọn vẹn nỗi cay đắng của cuộc đời. Chúng tôi phải chứng kiến giây phút hấp hối của đồng đội mà không làm gì được. Ai trong chúng tôi cũng có thể bị như Hải, bất cứ lúc nào. Một phút sau, Hải lại mở mắt, thều thào: “Bây giờ, “nó” từ từ lạnh dần, lên tới bụng rồi”. “Mẹ ơi” là tiếng nói cuối cùng của Hải. Tôi đứng dậy, ngữa mặt nhìn lên. Bầu trời vẫn xanh, quá cao.
Xuồng máy tản thương đến. Mặc dù trên bờ còn đánh nhau nhưng đi thuyền dưới sông tương đối an toàn, vã lại, đây là phương tiện duy nhất. Lính khiêng xác Hải, đã bọc trong poncho, và đưa 2 khinh binh bị thương xuống thuyền. Chúng tôi lại di chuyển. Tôi nghe tiếng anh Linh từ bờ bên kia báo vô sự. Alfa nói: “Bấy lâu nay, thằng Linh chống mũi chịu xào cho tiểu đoàn, hôm nay nó xứng đáng hưởng nhàn”. Chúng tôi tiếp tục đi, súng cầm tay. Địch có thể chặn đánh chúng tôi ở ngay phía trước. Quả nhiên, đi được khoảng nửa tiếng, chưa tới Trà Kiết, địch lại núp đâu đó, nổ súng vào cạnh sườn chúng tôi, lần này đạn tiểu liên rải ngay vào vị trí của bộ chỉ huy. Tôi kéo Hiếu chạy đến một gốc cây to. Đạn rít quanh người tôi, cắm phập phập vào các thân cây. Lính trung đội vũ khí nặng nhào xuống bờ kênh, đặt súng đại liên bắn trả. Alfa tức giận ra mặt, chỉ vị trí đặt súng cối hướng vào những lùm cây phía bên phải, trước mặt chúng tôi chừng 50 mét. Lần này, chính tiểu đoàn trưởng bỏ từng viên đạn cối vào nòng. Đạn cầu vòng rót từng trái về phía trước. Chừng 10 phút sau, lại im lặng. Tôi đoán địch chỉ bắn quấy rối để làm chậm bước tiến của chúng tôi.
Chúng tôi tiếp tục đi. Ngang qua một lùm cây, tôi thấy xác 2 tên địch nằm tênh hênh. Tôi bước đến gần nhìn vào 2 xác chết. Các sợi dây nịch màu vàng xiết chặt quanh bụng; chúng chưa kịp kéo xác đồng bọn đi. Tôi nghĩ có thể 2 tên này bị trúng miểng đạn súng cối.
Alfa cho dừng quân.
Chúng tôi vội vã ăn bữa trưa, với gạo sấy và cơm nắm do lính nấu hồi khuya. Tôi nhắc Hầu ghi nhật ký hành quân. Ngồi dựa lưng vào một gốc cây lớn, tôi đốt điếu thuốc, nhìn ngó vẩn vơ. Dọc theo con kênh ở đoạn này, chỉ có vài mái nhà tranh xơ xác, tường đất nứt nẻ. Phụ nữ và trẻ em đã bỏ đi, để lại một vài người già. Những khu vườn không được chăm sóc đã héo khô, trơ cành, khẳng khiu như người bệnh. Tôi cố giương mắt nhìn chung quanh để ngăn cơn buồn ngủ. Lại nhớ đến cảnh chết của Hải và 2 tên lính “giải phóng”. Hai tên địch còn quá trẻ, khoảng 18 tuổi, mặc đồng phục nylon dầu màu xanh dương, mũ tai bèo. Quân phục như vậy thì không phải là du kích, cũng không phải quân chính quy từ miền Bắc vốn mặc ka ki Nam Định và đội nón cối Trung Cộng. Hai tên này hẳn thuộc một đơn vị địa phương. Chúng tôi được biết ở vùng này có lực lượng cấp trung đoàn của địch đang ẩn náu và hoạt động mạnh quanh các ấp xôi đậu. Trong những phúc trình hay báo cáo của các đơn vị ta, bao giờ quân địch cũng được gọi bằng một cái tên chung là Cộng Sản Xâm Lược (CSXL). Tôi thấy cái tên này chỉ đúng với các lực lượng xuất phát từ miền Bắc xâm nhập vào Nam, còn gọi 2 tên lính địch đã bỏ xác kia là CSXL e rằng không đúng; chúng là người địa phương, đi lính địa phương, và hoạt động ở địa phương, chứ có “xâm lược” ai đâu? Tôi thấy mình lại suy nghĩ lẩn thẩn. Dù gọi chúng cách nào thì chúng cũng khủng bố dân lành, pháo kích vào trường tiểu học, tấn công các xã ấp, thị trấn…cũng như tấn công và giết chúng tôi, như đã giết Hải, và cũng bị chúng tôi giết trả lại. Chiến tranh là nghiệt ngã; nhưng chúng tôi luôn tránh không làm tổn thương dân lành. Cái chết của người lính bên này là chiến công của bên kia, và ngược lại; nhưng cái chết của dân, nếu không phải là tội ác của một bên, phải được xem là niềm đau chung của dân tộc. Cái chết của Hải cũng là chuyện bình thường, nhưng tôi biết nó sẽ còn ám ảnh tôi thêm một thời gian nữa, vì quá bi thương. Tôi biết nhà Hải ở Tân Bình, Saigon, khu giáo xứ Lạc Quang, một xóm đạo. Hải còn độc thân nên trong những phút hấp hối, Hải cứ mở to mắt và liên tục gọi mẹ. Hai tên Việt Cộng kia, đã bị nhồi sọ bởi chủ nghĩa tam vô mà trước tiên là vô gia đình, trong phút lâm chung, có gọi mẹ không? Tôi nghĩ là có, vì họ vẫn là con người.
Hơn thế nữa, họ còn là đồng bào của tôi.
(1/10/2020- Viết muộn)
------------
Nguyễn Hữu Thời
TRONG CUÔC ĐAO BINH
Bút ký Chương 10
THÊ THẢM MỘT HẬU CỨ
Gần 4 giờ chiều, đại đội 2 của trung úy Linh chỉ còn cách hậu cứ 100 mét. Tôi nghe tiếng của anh trên tần số nội bộ, vẫn từ tốn, nhỏ nhẹ như bao giờ. Từ trưa, sau khi trực thăng rời vùng, tôi không còn ở trên tần số không-lục nữa. Alfa ra lệnh cho th/úy Trường giục quân nhanh chóng theo kịp đại đội 2. Alfa dặn cả hai đại đội cẩn thận xem có gì khả nghi không trước khi vào hậu cứ. Anh Bình gọi đại đội 746, trinh sát chi khu, hỏi tình hình các chốt. Đại đội trưởng 746 báo vô sự, các chốt vẫn còn ở vị trí. Từ sáng sớm hôm qua, Trinh Sát 746 đã cho rải các chốt xa một cây số dọc hai bờ con rạch Trà Kiết để trinh sát và giữ an ninh. Tôi có một người bạn cùng khóa là Phan Tiến Bình ở đại đội này. Tôi gặp Bình trong bệnh viện Nguyễn Trung Trực khi cả hai nằm ở đây tháng 10 năm ngoái. Không biết bây giờ Bình còn ở đơn vị này không. Đời lính có những thay đổi không biết trước được.
Nghe tin an ninh dọc đoạn đường còn lại là tốt, Alfa giục chúng tôi tiến nhanh hơn nữa.
Tháng ba, ngày dài, nắng chiều rất gắt. Mồ hôi ướt đẫm lưng áo. Chúng tôi tiếp tục đi. Suốt buổi sáng, từ Tầm Vu trở ra, chúng tôi không nhìn thấy người dân nào. Đa số dân cư đã bỏ đi vì chiến sự. Tôi mong không có thường dân nào bị tổn thương giữa lằn đạn giao tranh. Bây giờ, ra tới Trà Kiết, vườn tược xanh hơn vì dân còn ở lại, mà tôi cũng không nhìn thấy ai; chắc họ biết có cuộc hành quân nên phải nấp trong hầm trú ẩn. Tôi mừng vì từ xế trưa đến giờ đã không phải nổ thêm phát súng nào. Từ đây ra quốc lộ còn non 3 cây số. Chúng tôi giục nhau tiến nhanh; muốn về đến hậu cứ thật lẹ để xem ra sao, vì đã mất liên lạc từ khuya đêm qua.
Mười lăm phút sau, tr/úy Linh báo đã vào được bên trong hậu cứ và không còn địch ở đó. Chỉ huy hậu cứ, tr/úy Khánh lên máy, nói chuyện với Alfa, báo cáo tổn thất của hậu cứ: 7 chêt, trong đó có th/úy Trần Văn Kinh, đại đội phó đại đội chỉ huy, 6 bị thương nặng nhẹ đã được chuyển đi các bệnh viện. Chúng tôi tiếp tục đi nhanh, trong ánh mắt rụt rè, sợ hãi của vài người dân từ trong các cửa sổ.
Gần 5 giờ, chúng tôi ra đến quốc lộ. Thoảng trong gió chiều, một mùi tử khí nồng nặc. Alfa dẫn đầu đoàn quân đi vào hậu cứ bằng cổng chính, anh Trường cho bố trí lính rải rác ở bên ngoài. Tr/ úy Khánh và tr/ úy Linh đứng ngay thềm văn phòng tiểu đoàn đón Alfa. Nghe Tr/ úy Khánh báo cáo tình hình xong, tiểu đoàn trưởng đi vòng chung quanh quan sát; anh Bình và tôi theo sau. Phòng máy truyền tin đổ sụp, máy móc, dây nhợ cháy xém, rơi lủng lẳng. Cửa phòng tiểu đoàn trưởng bị cháy, bức tường ngoài nghiêng đổ. Mái ngói văn phòng ban quản trị bị đạn pháo phá thủng một lỗ to, ánh mặt trời xuyên qua sáng rõ, bàn ghế, điện thoại, máy đánh chữ, giấy tờ tung tóe…Ở sân sau, cột antenna dù gãy đôi, các lớp bao cát quanh ụ súng cối 81 ngã nghiêng…Chúng tôi ra ngoài sân bên. Có vẻ như kho tiếp liệu không hư hỏng nhiều, nhưng dãy nhà vãng lại bị cháy, vài tấm tôn bị tốc mái, nằm bừa bộn trên sân. Tại chân bức tường văn phòng, một cảnh đau lòng: 6 xác chết lính nằm lăn lóc, có xác nằm chồng lên nhau, trương lên và bốc mùi không chịu nỗi. Tôi thấy nét mặt Alfa đanh lại, ông mím môi, nhìn các tử thi. Tôi không biết tên những người lính này, nhưng đến gần tôi nhận ra vài khuôn mặt. Đây là lần thứ hai trong đời tôi ngửi cái mùi ghê tởm bốc ra từ xác người chết đang phân hủy. Tôi chỉ có thể nói rằng nó tởm lợm gấp 100 lần mùi chuột chết. Đặc biệt, dưới ánh nắng và gió, nó tỏa ra, lan xa đến 50 mét. Lần đầu tôi biết đến cái mùi khó quên này là khi vào Nghĩa Trang Quân Đội để tiễn Hòa, một người bạn hàng xóm, trung sĩ Nhảy Dù, tử trận Hạ Lào năm 1970. Chiều nay, tôi lại nghe “nó”…bốc lên, từ thân xác những đồng đội của mình, những người mà mới hôm qua vẫn còn cười nói, về ngày được nghỉ phép, thăm vợ con, cha mẹ…Quan sát xong hậu cứ, chúng tôi theo Alfa trở ra sân trước. Tr/ úy Khánh đứng nói chuyện gì đó với tr/ úy Linh và th/úy Trường. Nét mặt giận dữ, tr/ úy Khánh lớn tiếng: “Có đứa rất buồn thấy tao còn sống, nó muốn thằng chết là tao, chứ không phải thằng Kinh đâu” (!?).
Không biết “đứa” đó là ai? Chúng tôi không hiểu gì cả. Tôi được biết, khuya đêm qua, địch đã dùng cối 82mm pháo vào hậu cứ trước, song song với hỏa lực súng nhỏ của một đại đội địa phương bắn vào các chòi gác từ những lùm cây và nhà dân bên kia đường; sau đó, chúng cho một tiểu đội đặc công, xâm nhâp vào bên trong, dùng lựu đạn để tiêu diệt lính đang trực đêm. Táo tợn thật ! Địch đã điều nghiên kỷ lưỡng đia hình, quân số, các vọng gác, thói quen của lính…rồi tấn công bất ngờ, gây cho ta thiệt hại nặng nề, rồi rút nhanh trong đêm tối. Địch cũng chu đáo bố trí các chốt dọc đường để đánh chặn quân cứu viện của tiểu đoàn. Alfa thấy tình hình không ổn, ông bảo: “Thôi, Khánh lập tường trình lên Tiểu Khu; rồi xin Chi Khu yểm trợ vật liệu để sửa chữa gấp phòng truyền tin, dựng lại cột antenna; cả mái nhà văn phòng”; ông quay sang ra lệnh cho th/úy Trường và tr/úy Linh: “Đại đội 1 rải quân trở lại 2 bờ dọc theo Trà Kiết, đại đội 2 rải quân dài xuống bến bắc làm an ninh quốc lộ cho xe cộ lưu thông. Tôi về thăm nhà một chút; bộ chỉ huy tạm sẽ đặt ở nhà tôi, sẽ gọi cho Tiểu Khu”. Nói xong, ông cùng người lính mang máy truyền tin quay nhanh ra đường, 2 anh lính cần vụ lẽo đẽo theo sau. Nhà ông ở bên kia cầu.
Quốc lộ được giải tỏa. Những chiếc xe đò, xe tải, xe du lịch, xe lôi, nối đuôi nhau nằm chờ trên đường suốt ngày nay, bây giờ lần lượt lăn bánh. Hành khách trên các xe đò xức dầu, bịt mũi lại khi xe chạy ngang hậu cứ. Trên đường, lính và dân tụ tập hỏi tin nhau. Trong đám đông xôn xao, tôi trông thấy Thi, đôi mắt mở to nhìn một bà già đầu trùm khăn kiểu miền Bắc đang tất tả đi về phía nó. Thi kêu lớn: “Má ! Má !” . Bà già chạy đến, ôm chầm lấy Thi, mếu máo: “Tao thấy mày còn sống, tao mừng quá!”
“Tao thấy mày còn sống, tao mừng quá!” Có câu nói nào đơn giản hơn thể hiện tình thương và nỗi vui mừng của một bà mẹ tìm thấy con trai mình sống sót sau một trận đánh ? Bà cụ đưa tay sờ khắp mặt mũi Thi, như muốn kiểm tra để chắc chắn rằng đây là Thi, còn nguyên vẹn. Bà thút thít khóc. Thi đứng yên, bối rối, muốn vỗ về mẹ mà không biết làm sao. Vài người lính vây quanh hai mẹ con, nhìn ngó. Tôi bước lại, quát: “ Đi chỗ khác để hai mẹ con nói chuyện !”. Đám lính tản ra. Tôi cũng quay đi, lòng rưng rưng. Đã lâu rồi, tôi không có một người mẹ, để đi tìm tôi, để mừng tôi sống sót.
Tôi bước qua cầu Cái Vồn, đi về phía ngã 3 Trần Văn Soái và gặp một số sĩ quan tiểu đoàn ở đó. Nhơn đang trừng mắt, dùng bá súng M16 đánh túi bụi vào chân một người lính vì cứ lải nhải xin được về thăm nhà. Dường như trong đổ nát và cảnh chết của đồng đội, chúng tôi dễ nổi nóng. Tr/ úy Linh bảo anh em cùng đi đến nhà quàn Chi Khu để chào anh Kinh. Chúng tôi gồm tr/ úy Bình, th/úy Lạc, th/úy Long, th/úy Trường, th/ úy Nhơn và tôi, theo tr/ úy Linh đi bộ xuống Chi Khu, chỉ cách đó 1 cây số. Chúng tôi thắp hương, chào linh cửu anh Kinh, cố trung úy, người huynh trưởng khóa 4/72, người đại đội phó đầu tiên khi tôi mới ra trường được chỉ định về đại đội 1/469 ĐP của tr/ úy Huệ, một chỉ huy lạnh lùng xuất thân khóa 1/68 nay đã chuyển qua SĐ 21. Nội chiều nay, th/úy Long và th/úy Lạc, cùng khóa với anh Kinh, sẽ cùng người nhà của anh đưa anh về quê ở Sa Đéc.
Chúng tôi trở về hậu cứ khi lính chung sự chi khu đang chuyển các tử thi về bệnh xá để tẩn liệm. Vài thân nhân đi theo trên GMC. Đứng bên đường, nhìn lính chung sự khiêng các xác chết lên xe hồng thập tự, tôi nghẹt thờ vì mùi tử khí và tiếng gào khóc thảm thiết của thân nhân những người chết. Vài người vợ, mặt mũi bơ phờ, tóc tai rũ rượi, ngồi bệt trên mặt đường, vật vả. Không còn can đảm nhìn thêm một phút nào nữa; tôi lại quay gót, lững thững đi lên cầu, về phía quán cà phê gần ngã 3. Tôi cần những điếu thuốc, và một chút men. Nắng chiều sắp tắt.
Khuya, chúng tôi trải chiếu ngồi giữa mặt cầu, lại uống rượu. Buồn. Cứ sau mỗi lượt rượu, anh Linh lại đổ một chung riêng, cho anh Kinh. Giữa đêm tối, chúng tôi vừa uống rượu vừa nói chuyện nho nhỏ. Ai cũng lo âu và xuống tinh thần sau khi đọc báo sáng nay và biết tin hôm qua Trường Võ Bị đã di tản. Nỗi thất vọng khiến cho cả người tôi, đã lừ đừ vì uống quá nhiều, gần như rã rượi. Tuy là trừ bị nhưng tôi cũng thích ngôi trường này. Tôi có một người bạn ở quận Tư là Minh đang theo học trên đó, khóa 29, chắc đang năm thứ ba. Tôi vẫn nghĩ Trường Võ Bị là biểu tượng cho uy danh và niềm tự hào của quân lực. Dalat và Trường Võ Bị chưa bị tấn công, tại sao lại di tản? Theo tôi, mất trường Võ Bị cũng như mất một nửa quân đội, một nửa đất nước. Tôi không biết Minh ra sao. Phải chăng Dalat đã lọt vào tay địch?
Đêm tàn, tất cả chúng tôi đều thấm mệt. Tr/úy Khánh sai lính trải thêm chiếu và kéo kẽm gai hai phía đầu cầu. Anh Linh nhắc lính canh gác cẩn thận. Tối nay, trừ anh Bình về nhà ở ngay trong quận, đám sĩ quan còn lại là chúng tôi không có chỗ nào khác để qua đêm, đành phải ngủ trên cầu. Lính của đại đội chỉ huy cần ít nhất một ngày để xịt nước rửa sạch và sát trùng sân hậu cứ. Họ cũng sẽ mất vài ngày để dựng lại những đổ nát. Vừa ngã lưng xuống, có người đã thiếp đi. Gió sông thổi nhẹ. Tôi gối đầu trên ba lô, ngửa mặt nhìn bầu trời tháng Ba đầy sao. Những ý nghĩ xa xăm chờn vờn trong cái đầu còn tỉnh táo nhưng men rượu thì đã thấm rất sâu vào cơ thể khiến cả người tôi lâng lâng. Rồi tôi chợt nhớ hôm nay là sinh nhật của mình.
Tôi vừa đúng 22 tuổi. Cũng được một bữa rượu suông; mà lòng chất ngất ưu phiền.
Nguyễn Hữu Thời
21/9/2020 (Viết muộn)
------------
Comments:
* Camvu Lethanh
Gio nhìn lại
Không hiểu sao mình không là tử sĩ trong cuộc đao binh này
* Nguyễn Hữu Thời
Camvu Lethanh
Đúng rồi; có rất nhiều lúc, tôi và bạn bè tôi đã nghĩ thế. Một bạn cùng
khoá, tiền sát Pháo Bình SĐ9 cũng nói với tôi” Nhiểu khi nghĩ giá mà
mình chết trận như nhiều anh em lại hay, còn hơn là phải sống đến già để
chết bệnh”
* Nguyễn Hữu Thời
Lê Đức Thành Cảm Ơn chiến hữu đã chia sẻ.
* Trịnh Minh Châu
Đôi
khi trong cuộc sống hôm nay Tôi gặp chuyện buồn không giải toả được ,
tôi nghĩ phải chi tay DK " cắc bùm " tôi khi bị bắt trên chiến trường
thì ...có Kết cuộc buồn nhưng...rồi sẽ qua đi .
* Nguyễn Hữu Thời
Trịnh Minh Châu
Tôi thông cảm với anh. Sau cuộc chiến, mà người lính bị đày đọa, trả
thù… chỉ vì thuộc về bên thua cuộc… thì quả thật là một sai lầm rất lớn…
chỉ gây thêm oán thù, nghiệt ngã… mà nạn nhân nhiều lúc không sống nỗi,
chỉ tiếc sao hồi đó không hy sinh cho rồi…
* Trịnh Minh Châu
HT viết Bút ký rất hay , sống động . Tôi ngưỡng mộ .
* Nguyễn Thị Ngọc Mai
Người
phụ nữ bên kia sông Hậu có phải là Chuẩn Úy phu nhân ko anh? Cô gái và
bà mẹ trong quán cafe liệu có phải là VC ko ?.các anh thật là nhân hậu
với địch. Chuyện xãy ra đã 1/2 thế kỷ mà anh nhớ rõ từng chi tiết ,thật
là ngưỡng mộ.chúc anh và gia đình vui đón tết nồng ấm ngọt ngào hạnh
phúc
* Nguyễn Hữu Thời
Nguyễn Thị Ngọc Mai
Người phụ nữ bên kia sông Hậu và tôi đã mất liên lạc từ sau 1975. Nàng
là nhân vật trong hầu hết những bài thơ của tôi sau này. Cô gái và bà mẹ
trong quán lá có thể đã là liên lạc viên của VC nhưng chúng tôi bất
chấp. Cảm ơn em gái hậu phương đã đọc kỷ. Khỏe luôn nhé!
* Nguyễn Thị Ngọc Mai
Nguyễn Hữu Thời
vậy là từ giờ đến tết ko được đọc bút ký của anh ,cũng buồn ,nguòi con
gái bên kia sông Hậu chắc là đẹp lắm ,(1 giai nhân )nên diễm phúc đuọc 1
Chuẩn Úy viết thành thơ. Anh có thể cho em được đọc thơ ko ạ ?
* Nguyễn Hữu Thời
Nguyễn Thị Ngọc Mai
Có thể search trong fb của tôi các bài gần đây: Nhớ buổi chiều chia tay
trên bến bắc Cần Thơ, Khi trở lại Hậu Giang, Chút lạnh tàn năm…
* Hoa Nguyen
Nguyễn Hữu Thời
TRONG CUỘC ĐAO BINH
Bút ký Chương 11
SỰ CHỜ ĐỢI TRỐNG KHÔNG
Không
biết nói sao, những cái tết của mình ngoài mặt trận, có buồn có vui! Có
thể trước đây mình chưa hề hối tiếc, nhưng bây giờ ngẩm lại, mình hối
tiếc thật vì đã đánh mất đi một cách vô cùng chóng vánh đến độ bàng
hoàng. Tết này mình cũng ăn tết ở biên giới thuộc Tỉnh Kiến Tường ! Lúc
nào cũng súng đạn bên mình kể cả khi ngủ..
---------------
Nguyễn Hữu Thời
TRONG CUỘC ĐAO BINH
Bút ký Chương 11
SỰ CHỜ ĐỢI TRỐNG KHÔNG
Trong lực lượng Địa Phương Quân, có những tiểu đoàn chuyên đóng đồn, làm nhiệm vụ phòng thủ diện địa; có những tiểu đoàn chuyên lưu động, làm nhiệm vụ tảo thanh, yểm trợ hoặc giải tỏa. Nhiều tiểu đoàn lưu động không có hậu cứ để trở về; sau một cuộc hành quân, phải rải quân dọc quốc lộ để vừa nghỉ ngơi vừa giữ an ninh, chờ cuộc hành quân kế tiếp. Tiểu đoàn tôi vừa đóng đồn vừa lưu động. Tôi không thích đóng đồn mãi; chán lắm! Tôi muốn đi cho biết đó đây…mà đi thì thường…đổ máu, không đụng địch cũng mìn bẫy…!
Mười ngày nay, chúng tôi- bộ chỉ huy tiểu đoàn- hầu như không đi đâu cả. Các đại đội được rải đều vào các tiền đồn, ở xã Mỹ Thuận, Tân Quới, Tân Lược, chi khu Ba Càng, Tam Bình, đến tận xã Vĩnh Xuân, Trà Ôn. Là sĩ quan không trợ, tôi không có lính, cũng đỡ mệt, nhưng đôi lúc cũng chán vì thất nghiệp! Suốt ngày lẫn quẫn ở hậu cứ. Buổi sáng ra phố quận, uống cà phê, đọc báo; chiều đi nhậu với một người bạn trong một quán vắng nào đó dọc quốc lộ hoặc tham dự một chầu nhậu tập thể trong xóm. Dạo này, chúng tôi thường uống Rivalet hoặc Beehive. Có khi, cả đám sĩ quan mượn xe Jeep của Alfa chạy xuống một quán bia ôm gần bến bắc. Uống…uống và tiêu tiền cho…gái. Nhậu…nhậu đến say luôn! Ăn chơi riết kiểu đó chẳng mấy chốc ai cũng cạn túi. Đúng là “nhàn cư vi…”
Đầu tháng 4, chúng tôi có tiểu đoàn phó mới, đại úy Ninh (khóa 17 Thủ Đức). Bravo này rất hiền, có lẽ từ một đơn vị văn phòng chuyển đến. Anh Bình bảo tôi, Hầu và Hiếu đi theo Bravo; còn anh đi theo Alfa. Nghĩa là nếu hành quân, thì tôi theo cánh quân đi đầu gồm 2 đại đội do tiểu đoàn phó chỉ huy; còn anh Bình theo Alfa chỉ huy cánh quân đi sau gồm 2 đại đội còn lại. Không có lệnh hành quân, chúng tôi cứ lêu lỏng, chờ đợi. Những ngày chờ đợi trống không; chờ đợi cái trống không. Mỗi sáng thức dậy, lại nghe tin thêm một thành phố nữa bỏ ngỏ. Tin tức chiến sự mù mờ một cách đáng ngại. Cuộc rút quân khỏi cao nguyên đã là một thất bại thê thảm. Tiếp theo là sự sụp đổ của những thành phố khác, liên tiếp nhau, như những con cờ domino. Bạn bè tôi, rất nhiều những người bạn cùng khóa của tôi có mặt trong những cuộc lui quân đó, của các sư đoàn 23, 22, 1, 2, 3, của các đơn vị Biệt Động Quân. Đáng lo nhất là mấy đứa bạn ở các tiểu khu; lính địa phương thì ở lại địa phương của họ, lãnh thổ mất, đơn vị tan rã, họ về với gia đình…Còn các sĩ quan cấp bậc nhỏ nhất như những người bạn cùng khóa của tôi, chúng nó ra sao? Liệu có thoát đi được không, trên đường dài rừng sâu núi thẳm, trong cơn hỗn loạn, hỗn quan hỗn quân?
Nghĩ lại, tôi thấy mình gặp may khi ghi tên chọn đơn vị thuộc quân khu đồng bằng sông Cửu Long. Một phần do tôi đậu hạng khá (bình thứ) nên có nhiều chọn lựa, một phần do tôi thích những tỉnh lẻ miền Tây. Vĩnh Long, tôi gắn tên mình vào đây, để chiến đấu, để sống hoặc chết...Thành phố nhỏ, công viên bờ sông Cổ Chiên thoáng mát, bungalow, khách sạn Công Quán, mấy quán cà phê yên tĩnh, âm nhạc và tiếng hát khe khẻ từ máy magne…Rồi Vĩnh Bình, ao Bà Om, những mái chùa Miên cong cong, con đường nào cũng hai hàng cổ thụ xanh đậm bóng mát...Buổi sáng đầu Xuân 1974, sương mù xuống thấp giăng mờ những nẻo phố, tôi thong thả đi bộ đến ty kinh tế tỉnh, gặp anh tôi, rồi hai anh em cùng một người bạn đi ăn sáng, cơm tấm, nước đá me…Và Sóc Trăng, hồ Tịnh Tâm ngay bến xe, con đường Hai Bà Trưng chạy dài qua thị xã, từng vòng quay xe đạp và những tà áo trắng tan trường…Còn Vị Thanh, thành phố chiến tranh tội nghiệp, dân chúng lam lũ và lính lấm lem đất phèn…và Cần Thơ, cầu Đôi Mới, đại lộ mang 2 tên: Trần Hưng Đạo ở đầu này và Nguyễn Viết Thanh ở đầu kia, con đường Gia Long dọc bờ sông, buổi tối hò hẹn, quán café Family, bến Ninh Kiều, bánh cống và rượu nếp than… Những kỷ niệm làm bâng khuâng, ray rứt không biết đến bao giờ.
Những ngày này, việc làm duy nhất của tôi, là vào một buổi chiều, tôi đang nằm đọc sách trên chiếc giường nhà binh trong căn phòng vãng lai (chỗ ngủ của tôi ban đêm bây giờ) thì có Không Quân gọi tôi. Người lính trực máy truyền tin tìm tôi, đưa cho tôi ống liên hợp. Tôi nói “Mỹ Hạnh 1 nghe”, thì phi công của một chiếc A37, trên đường trở về căn cứ Trà Nóc, hỏi tôi liệu anh có thể thả quả bom còn dư trên một tọa độ thuộc xã Mỹ Thuận, nằm sâu phía trong giữa Rạch Sậy và Mỹ Hòa được không. Tôi bảo anh chờ tôi xem lại. Tôi xem lại bản đồ và nhìn thấy tọa độ mà anh muốn tống khứ quả bom là một vùng lau sậy cách cái đồn mà đại đội 4 của tiểu đoàn tôi đang đóng khoảng 1 cây số. Vùng này trên bản đồ và trên thực địa không có dân cư, nên tôi xác nhận O.K.
Vậy mà, đêm nằm, tôi nghĩ…nếu quả bom đó gây ra thiệt hại gì cho quân bạn hay người dân, vì một lầm lẫn, thì…thế nào An Ninh Quân Đội cũng sẽ đi tìm tôi ngay. Rất may đã không có chuyện như vậy. Nhà binh mệt như thế đó.
Rãnh rỗi với những ngày trống không, tôi đi chơi loanh quanh. Hầu, thư ký hành quân, thay vì nấu ăn ở hậu cứ, thường mời tôi về nhà anh, ở xóm trong cũng thuộc xã Mỹ Thuận, để ăn cơm trưa. Hầu có cô vợ mới cưới, nên anh Bình bảo tôi thông cảm mỗi khi tìm không thấy anh ta ở hậu cứ. Anh Bình cũng rủ tôi về nhà anh chơi, ở bên kia sông. Phu nhân của anh, một cô giáo dạy ở trường trung học Bình Minh, đẹp và rất hiền. Ở đơn vị cũng như ở nhà, anh Bình ít nói, nhỏ nhẹ, thường bị các trung úy khác “ăn hiếp”, dù anh là sĩ quan hành quân, có function cao hơn đại đội trưởng.
Khoảng gần giữa tháng, Nhì, lính ban quản trị, trao cho tôi một bức điện tín, bên trong ghi: Má mất, em về nhà gấp! Điện tín của anh ba tôi, đang làm việc ở Ngân Hàng Quốc Gia (Anh được biệt phái về nhiệm sở dân sự từ Bộ Tổng Tham Mưu).
Tôi biết đây là điện tín giả vì mẹ của chúng tôi đã mất từ rất lâu rồi (Trong quân đội có cái trò này). Trong tình hình bi đát của đất nước, anh tôi muốn tôi xin phép về nhà, không biết để làm gì? Nhì nhìn tôi, nói “Chuẩn úy muốn đi phép, cứ gặp Alfa”. Tôi nhét bức điện vào túi áo, không nói gì. Tôi biết dù tôi có xin phép, Alfa cũng không cho, lúc này.
Sáng hôm sau, tôi xin phép anh Bình cho tôi qua Cần Thơ thăm hai ông anh, đi về trong ngày.
Tôi vào phi trường 31. Tại cổng căn cứ, chỗ tiếp tân, tôi thấy rất đông thân nhân lính tụ tập hỏi tin người thân. Đó là người nhà của những quân nhân sư đoàn 1 KQ. Các phi đoàn của sư đoàn KQ này đã di tản về đây.
Tôi gặp anh Lý. Hai anh em vào câu lạc bộ uống nước. Anh Lý và anh Lưu bên căn cứ hải quân Bình Thủy đều nhận được một điện tín giống như bức điện của tôi. Dĩ nhiên, không ai được đi phép cả. Anh Lý lo âu nói: “Cắm trại 100%, không được ra ngoài phố ngủ như trước nữa, mỗi nhân viên được phát một khẩu M16, nón sắt, để chuẩn bị chiến đấu”. Anh cũng cho hay mấy ngày qua, nhiều giao thông hào đã được đào thêm chung quanh căn cứ. Không khí căng thẳng. Các phi đạo chật cứng phi cơ các nơi di tản về. Việc hạ và cất cánh khó khăn, nhiên liệu được dè xẻn đến mức tối đa.
Từ giã anh Lý, tôi đón xe lôi xuống Bình Thủy thăm anh Lưu ở căn cứ Hải Quân. Căn cứ Hải Quân có vẻ bình lặng, không khẩn trương như bên Không Quân. Anh Lưu hỏi tôi có xin phép được không; tôi lắc đầu. Anh cũng như tôi, lo âu vì thời cuộc, chỉ biết chờ đợi. Chúng tôi nói chuyện chẳng đâu vào đâu. Anh bảo tôi ở lại ăn cơm căn cứ luôn, khỏi phải ra phố. Vào phòng ăn, tôi gặp lại viên thượng sĩ già dễ thương, người rất niềm nở và cứ lặp lại câu nói, như lần trước “Hôm nay có đơn vị bạn đến thăm”. Ăn cơm trưa xong, tôi từ giã anh Lưu. Tôi lững thững đi bộ trên lề đường rộng lớn, lòng vắng như bãi hoang. Tôi thực sự không biết nên nghĩ gì, làm gì. Đi được một đoạn khá xa, tôi dừng chân, ngoắc một chiếc xe lôi.
Xe lôi thả tôi xuống bến phà lúc 3 giờ chiều.
Có vẻ như tại chốt kiểm soát ngay đầu dốc lên xuống phà, số cảnh sát và quân cảnh được tăng cường nhiều hơn. Sự kiểm tra được thực hiện kỹ lưỡng hơn. Vài người lính bị giữ lại vì thiếu giấy tờ. Tôi chậm rải đi qua chốt kiểm soát. Như những lần khác, quân cảnh nhìn tôi, tôi nhìn lại họ. Thấy phù hiệu và cấp bậc của tôi, họ giơ tay chào và không hỏi gì. Họ biết đơn vị tôi ở bên kia sông. Họ biết tôi đi phép “miệng”.
Chờ phà cặp bờ, tôi đứng thẩn thờ, nhìn lại thành phố. Một nỗi phân vân ở trong lòng. Nghĩ đến cuộc chiến, những người thân… và...người phụ nữ nơi góc trời kia, tôi thoáng buồn.
Tôi đang được bình yên, nhưng…Có phải tôi sắp mất tất cả ? Nghĩ đến thôi đã nghe như dao cắt. Bây giờ, tôi còn đang đứng đây. Những chiếc phà vẫn chầm chậm qua lại nối liền hai bờ. Giây phút sắp tới sẽ khác. Tôi sẽ xuống phà, quay lưng về phía một bờ có em. Tôi không dám ngó lại, chỉ đưa mắt nhìn lên. Bầu trời u ám, hồn tôi chùng xuống như mây chiều.
Phải chăng khi phà sang đến bờ bên kia là tôi đã từ giã một khung trời cũ và những con đường của một quá khứ phôi pha kỷ niệm?
Phải chăng tôi đang khốn khổ bỏ rơi em khi đất nước nghiêng ngã đang bỏ rơi tôi, một người lính bất lực?
Hiện giờ, phòng tuyến của chúng tôi đã lùi về tận Phan Rang. Rồi đây không biết sẽ ra sao? Bức điện tín của anh tôi, giục chúng tôi trở về nhà, vẫn còn nằm trong túi. Tôi biết chắc mình không thể nào, không bao giờ đào ngũ; chuyện này lạ quá. Tôi cũng chẳng còn lòng dạ nào đi thăm em, để nhìn nhau, rồi lại ra đi, một hướng nào khác mù mịt lối về.
(Viết muộn 28/2/2021)
Nguyễn Hữu Thời
---------------
No comments:
Post a Comment