Hôm trước khi ra sân bay về nước, Đại diện CSVN có ngõ lời mời người đối tác phía Mỹ một buổi cơm tối thân mật tại một nhà hàng Tàu trong vùng Virginia. Nhà hàng này nổi tiếng với món Vịt Bắc Kinh và có rất nhiều Tổng thống Mỹ ghé qua ăn và chụp hình lưu niệm.
- Ông cũng khéo chọn lựa chứ? Mỹ gặp Việt trong nhà hàng Trung Quốc?
Đại diện CSVN cười và giải thích:
- Nhà hàng này có chủ là người Đài Loan. Cứ xem như kẻ thù của kẻ thù là bạn.
Đại diện Mỹ buột miệng ra một câu tiếng Việt:
- Thế ra là nhà hàng của “Thế lực THÙ (của) ĐỊCH” à?
Đại diện CSVN phá lên cười:
- Gớm. Ông cũng rành tiếng Việt đấy chứ?
- Tôi học tiếng Việt ở Mỹ, học tiếng lóng tiếng láy ở Sài Gòn khi còn làm tùy viên văn hóa bên đó trước năm 1975. Sau này vẫn theo dõi thời sự và trao đổi trên Facebook. Chúng ta có thể thảo luận bằng tiếng Việt để khỏi mất thì giờ. Ông muốn gặp tôi lần cuối chắc là có câu hỏi gì cho tôi?
Đại diện CSVN vào thẳng vấn đề:
- Hai vòng đàm phán qua ông đã kết luận chúng tôi không thể có Liên minh Quân sự với Mỹ vì Trung Quốc sẽ cản trở. Chúng tôi không có đủ ngân sách để mua vũ khí tự túc. Xem ra giải pháp quân sự lúc này với Trung Quốc không khả thi. Thế thì giải pháp pháp lý, ông nghĩ có khả thi hay không? Ý tôi muốn nói rằng đưa Trung Quốc ra Tòa án Quốc tế để kiện nhưPhilipines đang làm thì có khả thi không?
- Cơ hội rất ít, thưa ông. Và các ông nên cân nhắc cẩn thận về các bằng chứng trình trước tòa. Vì nếu tòa phán quyết các ông THUA thì con đường tương lại còn gian nan hơn nữa. Phán quyết mới nhất của tòa cấp quốc tế xem ra là bản án tử hình cho các ông tại Biển Đông. Khi ấy các ông bị đẩy ra bên lề mọi tranh chấp sau này của các nước trong vùng đối với Biển Đông.
- Nhưng nếu chúng tôi liên kết kiện với Phi hay các nước khác?
- Tôi cũng nhận thấy các ông đang có hướng này. Khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ghé thăm Phi hôm qua. Nhưng khả năng Phi liên kết với ông trong vụ kiện rất thấp vì khi Phi kiện các ông không ủng hộ. Bây giờ các ông tham gia với BẰNG CHỨNG BẤT LỢI hơn thì dĩ nhiên Phi khó chấp nhận.
- Chúng tôi có đầy đủ các bằng chứng THUẬN LỢI từ thời Thực dân Pháp đến Việt Nam Cộng Hòa rằng Việt Nam có đã xác định chủ quyền trên hai quần đảo này liên tục cả trăm năm cơ mà. Sao ông lại nói BẤT LỢI?
- Các ông đang trưng dẫn bằng chứng của những chế độ đã qua mà không hề có bằng chứng xác nhận chủ quyền cấp quốc tế từ chế độ của các ông. Xem ra khó thuyết phục tòa án. Các ông có thể trưng dẫn hình ảnh thời thơ ấu trong một căn nhà, những câu chuyện tuổi thơ ở đó, trong khi người ta trình ra GIẤY BÁN NHÀ của bố các ông, thì dĩ nhiên tòa án không thể cho các ông vào nhà được.
- Ý ông muốn nói đến Công Hàm Phạm văn Đồng năm 1958?
- Đúng. Các ông biết Công Hàm này đã lâu nhưng có nhiều bằng chứng cho thấy các ông cố NÉ TRÁNH nó. Trong khi ngược lại gần đây Trung Quốc lại trưng công hàm này ra trước quốc tế. Xem ra họ có nắm đàng cán về vụ này!
Đại diện CSVN cười sặc sụa:
- Công hàm đó KHÔNG CÓ HIỆU LỰC ông ơi. Phạm văn Đồng dù có nói thẳng là “giao Trường Sa và Hoàng Sa cho Trung Quốc” thì cũng không có hiệu lực. Đó chỉ là ĐÒN NGOẠI GIAO KHÔN NGOAN của chúng tôi để nhận viện trợ từ Trung Quốc mà đánh Mỹ. Năm 1958 chúng tôi không có chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa.
Chờ cho người đại diện CSVN cười xong, uống một ngụm nước, thì đại diện Mỹ mới từ tốn lên tiếng:
- Đối với luật pháp Tây Phương chúng tôi thì chúng tôi phân biệt rất rõ sự tách biệt giữa “khế ước buôn bán” và “chủ quyền”.
- Ý ông nói là các ông có thể bán những gì các ông không có cơ à. Thật là HOANG ĐƯỜNG và TRẺ CON.
- Chuyện có thật ông à. Khế ước buôn bán là giao kết giữa hai hay nhiều bên về chuyển nhượng một cái gì đó nó có thể trong hiện tại hay trong tương lai để đổi lấy giá trị tiền bạc hay vật chất có thể giao hôm nay hay giao vào một thời điểm trong tương lai. Như vậy vào năm 1958 các ông hứa bán một cái gì đó các ông không có ngay lúc đó, và lời hứa sẽ giao hàng ngay khi các ông có. Vấn đề là phía Trung Quốc tin như vậy và ủng hộ các ông biến điều đó thành hiện thực. Đổi lại họ cung cấp viện trợ cho các ông gần cả tỉ đô la về vật chất và con người để tiến hành chiến tranh chống chúng tôi. Năm 1958 các ông không có CHỦ QUYỀN nhưng các ông đã làm KHẾ ƯƠC, thì khi các ông có chủ quyền các ông phải thực hiện khế ước buôn bán đó.
- Thế các ông có trường hợp buôn bán kiểu đó trong thực tế không?
- Có chứ ông. Trong sở hữu chứng khoán, thị trường thế giới có cái gọi là “future options”. Ông không dám mua chứng khoán đó vì ông sợ thua lổ, ông có thể trả tiền với LỜI HỨA sẽ mua và công ty đó phải giao “chủ quyền” chứng khoán đó cho ông trước thời điểm nào đó, dù nó lên hay xuống thấp hơn giá trị ông trả. Rồi ông cần tiền ông vẫn có thể bán LỜI HỨA đó cho người khác và cứ thế cho đến khi thời điểm hứa đó đến thì người cuối cùng phải THỰC HIỆN. Cái đó là buôn bán thứ ông không có chủ quyền.
Đại diện CSVN nghiêm mặt lại biện hộ:
- Nhưng ông không đọc thấy trong ngôn từ Thủ Tướng Phạm văn Đồng rất KHÔN NGOAN không hề đề cập để chuyện “giao chủ quyền” như cái ví dụ mà ông nêu. Ông ta chỉ nói: “Có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển”
- Các ông đã có lịch sử CÔNG NHẬN công hàm này. Đó là vào năm 1974 khi Trung Quốc tấn công Hoàng Sa thuộc chủ quyền VNCH. Các ông đã “tôn trọng hải phận của Trung Quốc trong mọi quan hệ trên mặt biển” nên các ông hoàn toàn để mặc cho Trung Quốc hành động chiếm chủ quyền … TƯƠNG LAI của các ông. Thế thì sao các ông có thể biện minh trước tòa rằng một văn bản không hiệu lực lại được tôn trọng?
- Chúng tôi cũng như các ông thôi. Hạm đội 7 các ông nằm đó đâu có động tĩnh gì!
- Hoa Kỳ bị ràng buộc bỡi Thông cáo chung Thượng Hải với Trung Quốc và Hiệp định Paris, phải rút quân và trả lại quyền tự quyết cho VNCH.
Đại diện Mỹ ngừng một lát rồi nói tiếp:
- Tôi xem công hàm Phạm văn Đồng nhiều lần và phải công nhận vào thời điểm năm 1958, ông Đồng hay ai đó soạn cho ông Đồng ký công hàm này là “khôn liền” ngay lúc đó mà không có “khôn lâu”.
- Ý ông là?
- Ngôn từ trong công hàm này vào năm 1958 rất là KHÔN NGOAN. Vì các ông BÁN VỊT TRỜI mà thu được gần cả tỉ đô la viện trợ của Trung Quốc cho một món hàng tương lai không biết có chiếm được hay không. Ví như một người muốn đi cướp nhà người khác không có súng, không có tiền, đi hứa với thằng cướp khác: “Khi nào tao cướp được nhà đó thì tao tôn trọng quyền của mày được trồng rau ở sân sau”. Khi cướp được thì phải thực hiện lời hứa đó.
Đại diện CSVN mỉa mai:
- Nếu “khôn lâu” như ông trong trường hợp đã lỡ ký LỜI HỨA đó thì ông phải làm sao?
- Nếu tôi là các ông mà tôi bắt buộc phải viết công hàm đó để có viện trợ thì tôi vẫn viết như thế …
- Huề tiền!
- Tôi vẫn nhận gần cả tỉ đô la để đánh Hoa Kỳ và kéo nó đến bàn Hội Nghị Paris năm 1973 để nó phải rút quân …
Đại diện CSVN phá liên cười:
- Ông khôi hài quá, thế mà lại dạy “ngoại luộc trứng”
Đại diện Mỹ vẫn từ tốn nói tiếp:
- CSVN ký công hàm Phạm văn Đồng là khôn liền ngay năm 1958, nhưng ai đó quyết định xé hiệp định Paris chiếm Miền Nam năm 1975 là ĐẠI NGU để Trung Quốc nó ị trước. Chiếm Miền Nam là biến công hàm đó thành hiện thực và đối diện gần 1 tỉ đô la nợ Trung Quốc, là từ bỏ 4 đến 6 tỉ đô la bồi thường chiến tranh của Hoa Kỳ. Việt Nam bỏ cơ hội thành một nước Đức và nước Nhật sau thế chiến thứ hai.
Đại diện CSVN hết kiên nhẫn ngắt lời:
- Ông có khiếu kể chuyện cổ tích. Xin phép trở lại trọng tâm. Thế thì có giải pháp nào cho chúng tôi trong bế tắc này không?
Đại diện Mỹ nhìn quanh rồi pha trò:
- Có tình báo Hoa Nam Cục ở đây không?
Rồi, ông nói tiếp:
- Theo tôi thì các ông phải tuân thủ công hàm Phạm văn Đồng vì 1974 các ông đã tuân thủ thì hôm nay phải tuân thủ để yên cho Trung Quốc đặt giàn khoan.
- Không còn cách nào hết sao?
- Chỉ còn cách mà tôi đã nói với các ông hôm đầu tiên.
- Cách gì ông nhắc lại đi.
- Một cách vô cùng giản dị, không cần viện trợ của Hoa Kỳ, chẳng cần ủng hộ của thế giới, mà lại đoàn kết, hòa hợp hòa giải với mọi thành phần người Việt trong và ngoài nước và quan trọng là vô hiệu hóa công hàm Phạm văn Đồng.
- Làm cách nào?
- Đổi lại tên nước thành Việt Nam Cộng Hòa.
- Lấy lại tên Sài Gòn và dời thủ đô về đó.
- Lấy CỜ VÀNG làm quốc kỳ. Có như thế thì trước diễn đàn thế giới, VNCH chỉ VẮNG MẶT 39 năm chứ KHÔNG CHẾT.
Đại diện CSVN vuốt mồ hôi lạnh trên trán:
- Chỉ đơn giản thế thôi sao?
Vịt Bắc Kinh trên bàn đã NGUỘI LẠNH, lớp mỡ trắng đã bắt đầu đóng viền quanh dĩa vì không ai còn đoái hoài đến nó.
Đại diện Mỹ vỗ vai đại diện CSVN nói một câu tiếng Anh:
- All road lead to Rome (Đường nào cũng về La Mã). Hãy trả cho Ceazar những gì của Ceazar. Các ông chỉ có một ĐƯỜNG BINH. Cầm bài chi lâu cho nó … ƯỚT.
HTA
Chờ chúng đã hơn nửa thế kỷ rồi, chỉ dài cổ ra như cổ cò mà thôi. Chi bằng vật cổ chúng xuống, toàn dân Việt Nam đứng lên thành lập Chánh Phủ Đệ III Việt Nam Cộng Hòa, xóa bỏ tất cả những gì đảng và nhà nước việt cộng ký kết với bất cứ ai.
Đường binh nầy là chắc ăn nhứt, phải vậy không bà con cô bác ?
Việt Nam Cộng Hòa,
lối thoát của Hoàng Sa và dân tộc
Trước 1958, Trung Cộng không có một quan điểm rõ ràng nào về lãnh hải. Nhà văn Trung QuốcWei Wen-han nghiên cứu về lãnh hải nhắc lại cho đến tháng Sáu 1957 Trung Cộng vẫn chưa có một xác định nào về hải phận và thềm lục địa thuộc về Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Tháng 12 năm 1957, Nam Dương tuyên bố mở rộng lãnh hải từ 3 hải lý theo truyền thống mà hầu hết các quốc gia áp dụng sang 12 hải lý và được tính từ điểm ngoài cùng của các đảo thuộc lãnh thổ Nam Dương. Vì Nam Dương là quốc gia quần đảo, nếu tính như vậy, một vùng biển rộng lớn của vùng Nam Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương đều thuộc quyền kiểm soát của Nam Dương. Anh, Hòa Lan và nhiều quốc gia khác cùng lên tiếng phản đối. Trung Cộng chụp lấy thời cơ binh vực Nam Dương và ngày 4 tháng 9 năm 1958 công bố riêng một Bản tuyên bố về lãnh hải của Trung Quốc (Declaration on China's Territorial Sea) với các điểm chính như mọi người đều biết: “Bề rộng của lãnh hải Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa sẽ là 12 hải lý” và “áp dụng tương tự đối với Đài Loan và các đảo chung quanh, Quần đảo Bành Hồ (Penghu), Quần đảo Trung Sa (Tungsha), Quần đảo Tây Sa (Hsisha), Quần đảo Chungsha, Quần đảo Nansha (Nam Sa), và các đảo khác thuộc Trung Quốc”.
Công tâm mà nói, bản tuyên bố của Trung Cộng trong thời điểm đó nhắm vào Mỹ đang bảo vệ các tàu hàng Đài Loan trong các vùng đảo Kim Môn, Mã Tổ, Bành Hồ hơn là các nước Đông Nam Á. Người soạn thảo bản tuyên bố của Trung Cộng áp dụng phương pháp tính lãnh hải của Nam Dương và có tầm nhìn Đại Hán nên đã đưa các đảo Tây Sa (Hsisha) tức Hoàng Sa và Nam Sa (Nansha) tức Trường Sa trong vùng biển Đông vào. Chính phủ Mỹ tức khắc bác bỏ bản tuyên bố của Trung Cộng và các chiến hạm Mỹ vẫn tiếp tục bảo vệ an ninh cho các tàu hàng Đài Loan trong vùng 3 hải lý của đảo Kim Môn, Bành Hồ chung quanh Đài Loan. Trung Cộng không dám bắn. Bộ quốc phòng Mỹ đã lên kế hoạch tấn công Trung Cộng bằng bom nguyên tử. Để giữ thể diện, Bành Đức Hoài tuyên bố ngưng bắn vào Kim Môn nếu tàu chiến Mỹ ngưng bảo vệ tàu hàng Đài Loan. Mỹ chẳng những không đáp lại đòi hỏi của Trung Cộng mà còn gởi Ngoại trưởng Mỹ John Foster Dulles thăm Đài Loan để bàn kế hoạch phòng thủ Đài Loan lâu dài.
Hai lý do Trần Duy Hải dùng để bác bỏ công hàm Phạm Văn Đồng
- Thứ nhất. Công hàm Phạm Văn Đồng “hoàn toàn không đề cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”.
Không giống thái độ của các nước Mỹ, Anh, Hòa Lan, CSVN tự nguyện đưa cổ vào tròng. Không có một văn bản nào cho thấy Trung Cộng áp lực Việt Nam phải đồng ý với bản tuyên bố lãnh hải của Trung Cộng. Không có tài liệu nào cho thấy Trung Cộng đe dọa nếu CSVN không ủng hộ sẽ đưa quân sang “dạy cho một bài học” hay cắt đứt viện trợ. Thời điểm năm 1958 vấn đề chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa chưa phải là mối bận tâm hàng đầu của Trung Cộng, tuy nhiên những người soạn thảo bản công bố chủ quyền biển của Trung Cộng đã biết phòng xa. CSVN thì không. Nếu sự kiện được trình lên toàn án quốc tế, không một quan tòa nào sơ đẳng đến mức đánh giá hai văn bản một cách độc lập với nhau.
Phân tích để thấy, lãnh đạo CSVN trong lúc phủ nhận giá trị của công hàm Phạm Văn Đồng trước dư luận quốc tế, cũng đồng thời thừa nhận trước nhân dân Việt Nam công hàm Phạm Văn Đồng là công hàm bán nước.
- Lý do thứ hai cũng do Trần Duy Hải đưa ra “Hoàng Sa và Trường Sa cũng phù hợp với thực tế lúc đó hai quần đảo này nằm dưới vĩ tuyến 17 thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa”.
Phản bác của nhà nghiên cứu Trung Quốc
Ngô Viễn Phú, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Pháp luật Việt Nam và từng du học tại Việt Nam đã bác bỏ các luận điểm của CSVN. Ngô Viễn Phú cho rằng “Ở thời điểm đó, trên trường quốc tế, một số quốc gia có quan hệ tốt với miền Bắc, trong đó có Trung Quốc, đều thừa nhận miền Bắc là đại diện hợp pháp duy nhất cho Việt Nam; và phía Trung Quốc, vào ngày 18 tháng 1 năm 1950, thể theo đề nghị của chính quyền miền Bắc, đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với miền Bắc, hai bên cùng cử đại sứ (tới Hà Nội và Bắc Kinh).”
Đàn anh Cộng Sản Trung Quốc công nhận đàn em CSVN là chuyện đương nhiên và thể theo lời yêu cầu của CSVN chứ không phải của VNCH. Quan hệ ngoại giao giữa hai nước thay đổi theo từng thời kỳ. Singapore là một nước nhỏ nhưng mãi đến 1990 mới công nhận Trung Cộng. Liên Xô là một nước lớn nhưng Mỹ bắt chờ 16 năm sau cách mạng CS Nga mới công nhận Liên Xô. Thời điểm 1933 Nhật bắt đầu bành trướng ở phương Đông nên Mỹ cần làm dịu căng thẳng ở phương Tây, nếu không Tổng thống Franklin Roosevelt còn cô lập Liên Xô thêm nhiều năm nữa.
Việc “Trung Quốc, đều thừa nhận miền Bắc là đại diện hợp pháp duy nhất cho Việt Nam”cũng chỉ giá trị giữa miền Bắc CS và Trung Cộng không ảnh hưởng gì với quốc tế và không liên hệ gì đến nước thứ ba, trong trường hợp này là VNCH. Trung Cộng có quyền công nhận miền Bắc Cộng Sản và không công nhận VNCH về mặt ngoại giao nhưng vẫn phải thừa nhận VNCH là một quốc gia độc lập được quốc tế và các quốc gia tham dự hội nghị Geneva, trong đó có Trung Cộng tham dự và ký kết.
Trong khi phản bác Ngô Viễn Phú lại cũng dựa trên lý luận CSVN đã xâm lược VNCH và không có quyền “thừa kế” lãnh thổ của nước bị chiếm: “Nếu theo quan điểm đã nhắc đến ở trên của các học giả Việt Nam thì, miền Bắc là “bên thứ ba ở ngoài không liên quan”, như vậy, sẽ có nghĩa là thừa nhận địa vị hợp pháp của chính quyền miền Nam, và thế thì, những cái gọi là “bù nhìn” hay “chính quyền ngụy” chỉ là cách gọi càn, và việc “giải phóng miền Nam” của chính quyền miền Bắc chính là hành động xâm lược. Theo nguyên tắc của luật quốc tế, bên xâm lược không có quyền “kế thừa” lãnh thổ và tất cả các quyền lợi của bên bị xâm lược, thế thì, chính quyền Việt Nam hiện nay, vốn là kế tục của chính quyền miền Bắc trước đây, sẽ không có quyền lấy tư cách người kế thừa của chính quyền miền Nam để mà đưa yêu cầu về lãnh thổ đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa.”
Về mặt công pháp quốc tế cũng như cả lãnh đạo CSVN lẫn phe phản bác lý luận của CSVN đều công nhận rằng chủ nhân thật sự của Hoàng Sa vẫn là VNCH. Do đó, điều kiện tiên quyết, chọn lựa duy nhất và con đường thích hợp nhất không chỉ để giải quyết tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa với Trung Công mà mở đường cho tự do, dân chủ và thịnh vượng là tập trung vào công cuộc phục hưng VNCH.
Lối thoát VNCH
Đọc tới đây, một số độc giả có thể sẽ dừng lại vì cho người viết không tưởng, hư cấu hay chủ trương đi lại một vết xe đổ. Không. Phục hưng VNCH không phải là đi lùi vào quá khứ mà hướng tới tương lai, không phải lập lại mà thăng tiến cao hơn. VNCH không phải là vết nhăn trên trán của thế hệ cha chú đã qua mà là hành trang và ước vọng của tuổi trẻ ngày nay. Chủ nghĩa CS mới thật sự là lạc hậu và việc cáo chung của chủ nghĩa này chỉ là vấn đề thời gian. Thác nước Niagara không thể nào chảy ngược. Không phải người viết, phần đông độc giả mà ngay cả các lãnh đạo CSVN cũng không thể chối cãi sự thật đó. Chủ nghĩa CS còn kéo dài ở Á Châu cho đến hôm nay là nhờ họ biết núp bóng sau tấm bình phong chống thực dân đế quốc. Tấm bình phong do họ dựng lên đang rã mục. Năm 1954 tại miền Bắc, nhiều người thật sự tin rằng đảng CS và dân tộc Việt Nam là một, như nước với sữa, như máu với thịt, hay như Hồ Chí Minh nói “đảng là con nòi của dân tộc”. Năm 1975, khi đối diện với miền Nam từ lối sống đến phương tiện hoàn toàn khác với những gì bộ máy tuyên truyền CS đã thêu dệt nhiều người bắt đầu nhận ra đảng đã lợi dụng máu xương của những người ngã xuống vì khát vọng hòa bình, vì mơ ước đoàn viên, vì cơm no áo ấm chỉ để CS hóa toàn đất nước. Và hôm nay, 2014, đông đảo nhân dân Việt Nam đã hiểu rõ cơ chế độc tài là trở lực duy nhất trên con đường dẫn đến một Việt Nam tự do, dân chủ, văn minh. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ toàn diện và triệt để tại Việt Nam chỉ là vấn đề thời gian.
Và khi đó, thể chế nào khác sẽ thay thế chế độ CS nếu không phải là thể chế cộng hòa? Thực tế chính trị rất hiển nhiên đó đang là một khải hoàn ca tại hầu hết các quốc gia cựu Cộng Sản như Cộng hòa Czech, Cộng hòa Hungary, Cộng hòa Ba Lan, Cộng hòa Lithuania, Cộng hòa Estonia, Cộng hòa Mông Cổ v.v... Tiến trình dân chủ hóa diễn ra nhanh hay chậm tùy theo điều kiện của mỗi nước nhưng là hướng phát triển của văn minh nhân loại trong thời đại này.
Giá trị của VNCH
Trong suốt 60 năm từ 1954, bộ máy tuyên truyền của đảng đã không ngừng vẽ trong nhận thức của bao nhiêu thế hệ Việt Nam một VNCH chẳng khác gì một con ma, ghê sợ, hung dữ và tội lỗi nhất trong thế gian này. Suốt 60 năm qua, VNCH là hiện thân của thứ tội ác. Trong nhận thức không chỉ tuổi trẻ Việt Nam sinh sau 1975 mà ngay cả các tầng lớp cán bộ, đảng viên, nhà văn, nhà thơ đều được dạy để biết VNCH có ba đặc điểm lớn là “tham nhũng”, “trấn áp” và “ôm chân đế quốc Mỹ”.
Trong tiểu luận “Khám nghiệm một hồn ma” trên Talawas 8 năm trước người viết đã có dịp phân tích thể chế cộng hòa tại miền Nam. Xin trích một phần bài viết đó ở đây để chia sẻ với các độc giả chưa đọc.
Miền Nam trước 1975 có tham nhũng không? Chẳng những có mà còn vô cùng trầm trọng.
Miền Nam có đàn áp biểu tình, đối lập không? Có, không chỉ đàn áp một lần mà nhiều lần, không chỉ một năm mà nhiều năm.
Miền Nam trước 1975 có sống bám vào viện trợ Mỹ không? Có, không chỉ 300 triệu dollars “viện trợ đặc biệt” như nhiều người hay nhắc mà nhiều tỉ đô la.
Vâng, tất cả điều đó đều có. Chế độ cộng hòa tại miền Nam Việt Nam ra đời và lớn lên trong một hoàn cảnh chiến tranh tàn khốc, trong đó các nguyên tắc dân chủ đã trở thành con dao hai lưỡi. Chính con dao dân chủ hai lưỡi đó đã đâm vào thân thể của chế độ cộng hòa hàng trăm vết thương đau đớn từ ngày mới ra đời cho đến gục xuống trong tức tưởi. Miền Nam có tất cả sắc thái của một xã hội dân chủ đang từng bước đi lên. Dân chủ không phải là lô độc đắc giúp một người trở nên giàu sang trong một sớm một chiều mà là quá trình tích lũy vốn liếng từ những chắt chiu của mẹ, tần tảo của cha, thăng trầm và thử thách của cả dân tộc.
Ngay cả những quốc gia tiên tiến như Pháp, Mỹ, Nam Hàn cũng phải bước qua con đường đầy máu nhuộm để có được nền dân chủ như hôm nay. VNCH cũng vậy. Miền Nam có đàn áp chính trị nhưng cũng có đấu tranh chính trị, có ông quan tham nhũng nhưng cũng có nhiều phong trào chống tham nhũng hoạt động công khai, có ông tướng lạm quyền nhưng cũng có ông tướng trong sạch, có nghị gà nghị gật nhưng cũng có những chính khách, dân biểu, nghị sĩ đối lập chân chính. Như một viên ngọc nằm trong lòng lớp rong rêu của vỏ con trai, trên tất cả, giá trị đích thực của VNCH không nằm trong tham nhũng, trấn áp và đồng đô la Mỹ mà nằm trong Hiến pháp VNCH đặt nền tảng trên một thể chế dân chủ do dân và vì dân.
Lời mở đầu của Hiến pháp 1967 do chủ tịch Quốc hội Lập hiến Phan Khắc Sửu ký ngày 18 tháng 3 năm 1967, xác định Việt Nam là một chế độ cộng hòa “Dân chủ độc lập, thống nhất, lãnh thổ bất khả phân, chủ quyền thuộc về toàn dân” phát xuất từ “Ý thức rằng sau bao năm ngoại thuộc, kế đến lãnh thổ qua phân, độc tài và chiến tranh, dân tộc Việt Nam phải lãnh lấy sứ mạng lịch sử, tiếp nối ý chí tự cường, đồng thời đón nhận những tư tưởng tiến bộ để thiết lập một chánh thể cộng hòa của dân, do dân và vì dân, nhằm mục đích đoàn kết dân tộc, thống nhất lãnh thổ, bảo đảm Độc lập Tự do Dân chủ trong công bằng, bác ái cho các thế hệ hiện tại và mai sau.”
Ngoài phần mở đầu hùng hồn nêu trên, chuyên chở trong suốt 9 chương và 117 điều của Hiến pháp 1967 là nền tảng của chế độ cộng hòa, qua đó, quyền lãnh đạo đất nước như chỉ rõ trong điều 3, được phân quyền rõ rệt: ”Ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp phải được phân nhiệm và phân quyền rõ rệt. Sự hoạt động của ba cơ quan công quyền phải được phối hợp và điều hòa để thực hiện trật tự xã hội và thịnh vượng chung trên căn bản Tự do, Dân chủ và Công bằng xã hội”.
Phục hưng VNCH không có nghĩa là phục hưng chính quyền miền Nam. Chính thể không đồng nghĩa với một chính quyền và do đó không sống hay chết theo một chính quyền. Giá trị của VNCH được xây bằng xương máu của bao nhiêu người và ngày nay đã vượt qua khỏi vĩ tuyến 17 để trở thành ước vọng chung cho cả dân tộc. Sau 39 năm, VNCH như một mạch nước chảy ngầm trong rặng núi, đau đớn, vất vả, khó khăn nhưng không bao giờ ngừng chảy. Nếu ai cho tôi khoác lác hãy gác qua bên mặc cảm Bắc Nam, định kiến xã hội, khuynh hướng chính trị, đảng phái, tôn giáo, tả khuynh, hữu khuynh, thù hận riêng tư và thậm chí che luôn bốn chữ Việt Nam Cộng hòa trên trang đầu của Hiến pháp VNCH mà chỉ đọc một cách nghiêm chỉnh nội dung thôi, tôi tin người đọc dù Nam hay Bắc, dù trong hay ngoài nước, sẽ công nhận đó chính là mục tiêu mà dân tộc Việt Nam cần phải đạt đến. Công nhận các giá trị được đề ra trong hiến pháp VNCH không có nghĩa là đầu hàng, chiêu hồi. Không. Không ai có quyền chiêu hồi ai hay kêu gọi ai đầu hàng. Đây là cuộc chiến mới, cuộc chiến giữa dân tộc và phản dân tộc, giữa cộng hòa và cộng sản, giữa tự do và độc tài, giữa nhân bản và toàn trị. Mỗi người Việt sẽ chọn một chỗ đứng cho chính mình phù hợp với quyền lợi bản thân, gia đình, con cháu và sự sống còn của dân tộc.
Hiến pháp VNCH có thể chưa hoàn chỉnh nhưng là một văn kiện tham khảo cần thiết để kiến tạo một Việt Nam dân chủ cường thịnh. Hạt giống do Phan Chu Trinh, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh và rất nhiều nhà cách mạng miền Nam khác gieo xuống hàng thế kỷ trước đã mọc và lớn lên trong mưa bão. Hạt giống dân chủ khơi mầm tại miền Nam cũng không chỉ bắt đầu sau khi đất nước bị chia đôi 1954 mà đã có từ hàng trăm năm trước.
Lợi dụng chính sách Nam kỳ tự trị của thực dân, các nhà cách mạng tại miền Nam có cơ hội học hỏi và áp dụng phương pháp đấu tranh nghị trường, tiếp cận các tư tưởng dân chủ Tây phương, mở mang dân trí làm nền tảng cho chế độ cộng hòa sau này. Đó không phải là sản phẩm của Tây hay Mỹ mà là vốn quý của dân tộc đã được đổi bằng máu, mồ hôi, nước mắt của nhiều người. Đó không phải là tài sản của riêng miền Nam mà của tất cả những người Việt cùng ôm ấp một ước mơ dân chủ. Những ai biết gạt bỏ định kiến Bắc Nam, tháo gỡ lớp màn “căm thù Mỹ Ngụy” ra khỏi nhận thức, sẽ thấy đó chính là hành trang cần thiết cho nỗ lực mưu cầu một xã hội công bằng và tốt đẹp hơn cho các thế hệ mai sau. Không cần phải tìm giải pháp từ Miến Điện, Nam Phi, Ai Cập, Libya hay tìm chân lý ở Anh, ở Mỹ mà ngay ở đây, giữa lòng đất nước Việt Nam.
Phục hưng VNCH không có nghĩa là phủ nhận công lao của những người đã hy sinh trong chiến tranh chống thực dân Pháp. Như kẻ viết bài này đã nhấn mạnh nhiều lần, cuộc chiến chống thực dân Pháp là cuộc chiến chính nghĩa. Đó là cuộc đấu tranh đầy gian khổ nhưng rất anh hùng của một dân tộc bị nô lệ đã đứng lên chống lại một thực dân tàn bạo. Việc tham gia vào đảng phái, kể cả việc tham gia vào đảng Cộng sản của một số người Việt Nam trong thời kỳ chống Pháp, chủ yếu là để được tổ chức hóa nhằm mục đích hợp đồng chiến đấu, đạt đến chiến thắng dễ dàng hơn. Những người Việt yêu nước thời đó chọn lựa đảng phái như chọn một chiếc phao để đưa dân tộc sang bờ độc lập nhưng đối với đảng CS chiếc phao lại chính là dân tộc.
Nhiều người yêu nước chọn tham gia vào đảng CS nhưng bản thân đảng CS như một tổ chức chính trị dựa trên ý thức hệ CS chưa bao giờ là một đảng yêu nước. Những nông dân hiền hòa chất phác, những công nhân đầu tắt mặt tối làm sao biết được con đường họ đi không dẫn đến độc lập, tự do, hạnh phúc mà dẫn đến nghèo nàn, lạc hậu, độc tài và làm sao biết được chiếc phao họ bám cũng là chiếc bẫy buộc chặt chẳng những cuộc đời họ mà còn gây hệ lụy cho cả dân tộc đến ngày nay. Dù sao, người yêu nước bằng tình yêu trong sáng, không đánh thuê, đánh mướn cho một chủ nghĩa, một ý thức hệ ngoại lai vong bản hay cho một quyền lợi đế quốc nào sẽ không bao giờ chết, không bao giờ bị lãng quên. Lịch sử sẽ đánh giá, tổ quốc sẽ ghi công họ một cách công bằng.
Phục hưng VNCH không có nghĩa là tái thực thi hiệp định Paris. Dân tộc Việt Nam là một thực thể thống nhất và tất cả các hòa ước Patenôtre, hiệp định Geneva hay hiệp định Paris đều là những chiếc còng của thực dân và đế quốc áp đặt lên đầu lên cổ dân tộc Việt Nam trong giai đoạn Việt Nam yếu kém và phân hóa. Trước 1975, trong đáy lòng của bất cứ một người Việt yêu nước nào cũng mong một ngày dân tộc Việt Nam từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau sẽ được đoàn viên trong tự do, dân chủ và thịnh vượng. Tuy nhiên, ngoài trừ lãnh đạo CSVN chủ trương CS hóa toàn cõi Việt Nam bằng súng đạn của Nga, Tàu, không ai muốn đoàn viên phải trả bằng giá của nhiều triệu sinh mạng người dân vô tội, đốt cháy một phần đất nước, để lại một gia tài nghèo nàn lạc hậu cho con cháu. Hôm nay, dù không tự mình chọn lựa, dân tộc Việt Nam cũng đã là một và không có một thế lực nào làm Việt Nam phân ly lần nữa.
Lịch sử Việt Nam như một dòng sông, có khi cuồn cuộn lúc âm thầm, có chỗ sâu chỗ cạn nhưng chưa bao giờ ngưng chảy. Đó là sự thật. Khoảng thời gian từ khi Mã Viện, danh tướng nhà Đông Hán, đánh bại Hai Bà Trưng (năm 43) đến khi Lý Nam Đế đánh bại quân Lương Vũ Đế và dựng nước Vạn Xuân (năm 543) là tròn 500 năm. Biết bao nhiêu lớp người đã sinh ra và chết đi trong suốt 5 thế kỷ sống trong bóng tối nô lệ nhưng sức sống Việt Nam vẫn tồn tại và lớn lên. Việt Nam là một trong số rất ít quốc gia trên thế giới trong đó người dân gọi nhau bằng hai tiếng đồng bào thân thương và trìu mến. Đối mặt với một kẻ thù đông hơn nhiều và mạnh hơn nhiều, chưa bao giờ sức mạnh tổng hợp của 90 triệu người Việt trong nước và 3 triệu người Việt ở hải ngoại cần thiết như hôm nay. Đảng CS có 3 triệu đảng viên nhưng đa số trong số 3 triệu người này trong thực tế cũng chỉ là nạn nhân của một tập đoàn lãnh đạo đảng tham quyền và bán nước. Chỉ có sức mạnh toàn dân tộc phát triển trên cơ chế dân chủ tự do mới mong thắng được Trung Cộng và mọi kẻ thù có âm mưu xâm lược Việt Nam. Tổ tiên Việt Nam đã làm được rồi các thế hệ Việt Nam ngày nay cũng sẽ làm được.
Người viết biết rằng, đối với một số người Việt đã bị bộ máy tuyên truyền đầu độc quá lâu và các bạn trẻ bị nhào nặn hoàn toàn trong hệ thống giáo dục một chiều CS, để có một nhận thức đúng về lịch sử là một quá trình đấu tranh tư tưởng khó khăn.
Nếu vậy, tạm gác qua chuyện thế kỷ trước mà hãy nhìn thẳng vào thực tế đất nước sau 39 năm vẫn là một nước lạc hậu về mọi mặt từ kinh tế, chính trị, quốc phòng và đời sống. Việt Nam còn thua xa những nước ở châu Phi như Ghana, Sierra Leone, Namibia vì những quốc gia đó còn nghèo nhưng hãnh diện vì chính phủ họ do nhân dân họ bầu lên. Nếu vậy, tạm gác qua chuyện thế kỷ trước mà hãy nhìn vào cách giải quyết tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa với Trung Cộng của lãnh đạo CSVN. Ngoài những lời phản đối đọc như kinh nhật tụng họ không có và cũng không thể có một chọn lựa dứt khoát nào chỉ vì quyền lợi trước mắt của một nhóm người lãnh đạo được đặt lên trên quyền lợi lâu dài của đất nước. Như người viết đã trình bày trong bài trước, rồi mai đây, sau trận đánh ghen HD-981, lãnh đạo CSVN lại lên đường sang Bắc Kinh triều cống, lại 16 chữ vàng, lại ca ngợi tình đồng chí, nghĩa anh em thắm thiết. Cơn hờn giận giữa hai đảng CS theo thời gian có thể sẽ nguôi ngoai nhưng trên các vùng biên giới, trong lòng biển Việt Nam, máu của ngư dân Việt Nam, của người lính biển Việt Nam sẽ không ngừng chảy. Thảm trạng xã hội Việt Nam hôm nay, những lạc hậu kinh tế hôm nay, những yếu kém về quốc phòng hôm nay, những cô đơn trong bang giao quốc tế hôm nay là những câu trả lời cho những ai còn do dự, còn một chút tin tưởng nào đó ở lãnh đạo đảng CSVN.
Sau hải chiến Hoàng Sa đầy hy sinh xương máu, VNCH lần nữa lại được lịch sử giao trọng trách đòi lại Hoàng Sa, Trường Sa trong tay Trung Cộng. Cuộc tranh đấu mới sẽ khó khăn nhưng là con đường đúng nhất của dân tộc trong cùng hướng phát triển của nhân loại. Giống như hầu hết các nước cựu CS ở Đông Âu và khối Liên Xô, thể chế Cộng Hòa là chọn lựa đương nhiên và dứt khoát. Các quốc gia sẽ bình đẳng trước công pháp quốc tế. Những khẩu hiệu tuyên truyền rất sến như “16 chữ vàng”, “hữu nghị Việt Trung” sẽ bị chôn sâu theo xác của ý thức hệ CS. Dân tộc Việt Nam sẽ vượt qua những khó khăn để phát triển thành một quốc gia hiện đại về cả kinh tế lẫn quốc phòng. Các nhà lãnh đạo VNCH trong cuộc đấu tranh mới trên mặt trận ngoại giao sẽ hành xử xứng đáng với tư cách của một cấp lãnh đạo chính danh, thay mặt cho một nước VNCH thống nhất, dân chủ, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và chắc chắn sẽ được sự ủng hộ của đại đa số con người yêu chuộng tự do, hòa bình trên thế giới. Giành lại Hoàng Sa và bảo vệ Trường Sa là một cuộc tranh đấu gian nan, gai góc, bị chi phối bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, nhưng chính nghĩa và chân lý cuối cùng sẽ thắng.
- Việt Nam sẽ hoàn toàn thay đổi, rũ bỏ cái áo khóac cộng sản, trở thành một nước Cộng Hòa theo thể chế Tự Do. Góp sức vào việc bảo vệ nền hòa bình và tiến bộ của thế giới.
- Quanh co dối trá tiếp nối gian dối, CSVN đẩy dân tộc vào vòng nô lệ thuần phục Trung cộng. Đất nườc hoàn toàn tan hoang tê liệt. Khi đó, cuộc chiến cứu nước lại sẽ bắt đầu. Bởi vì:
Chuyện Trung cộng lấn chiếm biển đông đang là một đề tài nóng ở trong vùng. Diễn đàn quốc tế, nhiều lãnh đạo trên thế giới tỏ ra bực bội và bất bình về cảnh lấy thịt đè người của Trung cộng. Sự lên tiếng này rồi sẽ ra sao? Theo tôi, nếu không có một động thái thay đổi hoàn toàn, tích cực từ phía Việt Nam, câu chuyện Biển Đông cũng sẽ dừng lại ở vị trí, thế giới tây phương và các nước thuộc vùng Đông Nam Á theo thông lệ ngoại giao mà tuyên bố dăm ba câu nẩy lửa cho qua chuyện, không một nước nào nhảy vào đổ vỏ ốc. Bởi lẽ, họ cũng không mất phần lợi nhuận nếu Trung cộng nuốt trửng biển, đất của Việt Nam! Cách riêng với Hoa kỳ, sẽ chẳng bao giờ có được một sự can thiệp cần thiết bằng quân sự. Hoa kỳ có luật pháp của họ, chẳng một ai có thể vượt qua luật pháp của Hoa Kỷ để ký một Hiệp Ước về quân sự, về an ninh với một nước cộng sản không tôn trọng Nhân quyến và luật pháp quốc tế như tập đoàn CSVN. Theo tinh thần này, Hoa Kỳ sẽ đưa ra những lý luận cứng rắn của họ nhưng với cái nhìn của họ. Nó hoàn toàn khác với cái nhìn và ước mơ của tập đoàn cộng sản tại VN đòi bắt cá hai tay. Nói rõ ràng hơn, Hoa Kỳ dường như đang thúc hối một chương trình hoàn toàn từ bỏ Trung cộng từ phía Việt Nam?.
Trong khi đó, vì quyền lợi và an ninh của nước mình, Nhật Bản cũng muốn lôi kéo Việt Nam vào thế liên minh quân sự với họ để chống Trung cộng. Tuy nhiên, thế liên mình này có thể sẽ dừng lại ở vị trí những lời tuyên bố mở ngõ, mời chào. Nó không thể đi đến hành động thực tế. Bởi lẽ, hệ Liên Minh này, nếu có, nó phải được đặt trên một tiền đề Việt Nam phải là một quốc gia Cộng Hoà, không cộng sản. Sẽ không bao giờ có thế liên minh giữa một Nhật Bản, đồng minh quân sự của Hoa Kỳ, ký kết liên minh quân sự với một Việt Nam cộng sản để chống lại một nước cộng sản khác. Chuyến đi Á Châu của TT Obama đã cho thấy thái độ dứt khoát của họ trong cách nhìn về biển đông. Chỉ lên tiếng, không có hành động. Phần các quốc gia khối Asia chỉ là cái trống.
2. Từ phía người dân Việt Nam
Ngày nay không còn một người Việt Nam nào mà khôg biết tên, không biết mặt cái nguyên nhân đưa đến những hậu qủa tai họa cho Việt Nam. Đó là tập đoàn cộng sản Hồ chí Minh. Một tập đoàn đã làm suy thoái tiềm lực quốc gia, một tập đoàn đã làm cho dân ta ra bạc nhược, hèn nhát và ích kỷ trong hơn 70 năm qua. Một tập đoàn không đi chung bước đi với cộng đồng dân tộc, trái lại, chỉ vì quyền lợi của cá nhân và của đảng cộng sản, họ đã tàn sát sinh linh Việt Nam và chỉ biết cúi đầu thờ kẻ thù bắc phương bàng cái búa và cái liềm theo biểu tượng của họ. Búa thì đã đập chết nhiều người rồi, Còn cái liềm thì chưa từng ngơi nghỉ. Nó luôn kề xát vào cổ nguời dân Việt và không ngừng kéo qua kéo lại cho vết thương ở đó luôn rỉ máu, để người dân ăn không ngon, ngủ không yên và luôn sợ hãi cái liềm sẽ cứa sâu thêm vào cổ họng của mình. Đây chính là một tập đoàn tàn ác mà Bình Ngô đại Cáo đã nhắc đến là:
‘Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời” ( Bình Ngô Đại Cáo)
Gần đây, dư luận từ trong ra ngoài, xem ra đều có chung một đáp án rõ ràng là. Phải triệt hạ cộng sản trước khi cùng nhau chống ngoại xâm từ phương bắc. Không tận diệt được tập doàn CS thì không thể nói đến chuyện chống ngoại xâm. Nghĩa là, người dân Việt Nam không bao giò chống xâm lăng từ phương bắc theo cái định chế của HCM và tập đoàn cộng sản nêu ra. Bởi họ đã biết rõ một điều. Sau chiến dịch biên giới 1979 , người lình vì quê hương chết không có chỗ chôn thây, nhưng kẻ cưóp nước thì được xây đài, đúc tượng trong những nghĩa trang mang tên liệt sỹ Trung Quốc và quan chức nhà nước cúng tế hàng năm! Kế đến là những chuyến bay đưa quan cán thay nhau đi chầu Trung cộng với những bằng khen, với những cái hôn thắm thiết tình hữu nghị và những hàng chữ rẻ tiền, viễn vông . Rồi đằng sau những chuyến đi ấy là nhà tù ở trong nước càng ngày càng có nhiều ngưòi lên tiếng bảo vệ Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt nam!
Theo đó, với những ngươi Việt Nam yêu nước tự đáy lòng mình đều biết rằng, cuộc hải chiến của Viêt Nam với Trung cộng vào năm 1974 là bước đi truyền thống của dân tộc, là ngọn lửa thiêng không bao giời tắt trong lòng họ. Ước mong của họ là ngươi người từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mâu được sống trong Tự Do. Họ không thách đố, nhưng xem ra, cuộc biến động ở Biển Đông này chính là một cơ hội để giúp họ hoàn thành giấc mơ giải phóng dân tộc ra khỏi gông cùm của cộng sản. Để từ Bắc chí Nam, xóa đi tất cả những hiệp thưong hiệp định chia ắt, bị áp đặt, như những cái thòng lòng treo vào cổ dân tộc Việt từ hơn một trăm năm qua. Để từ đây một nhà Việt Nam thống nhất theo thể chế Cộng Hòa, Tự Do, Dân Chủ, Độc Lập, Pháp Quyền được thiết lập. Với thể chế này chắc chắn sẽ là nguồn hồi sinh cho dân tộc Việt Nam sau gần một thế kỷ dưới ách nô lệ của cộng sản.
3. Về phía nhà cầm quyền CS tại Hà Nội.
Đến nay, xem ra nhà cầm quyến CS tại Hà Nội vẫn chủ quan cho rằng họ có thể thủ thắng, đứng vững theo đường lối gian dối cố hữu của CS. Họ không hề nhận biết là đã rơi vào tình thế cô đơn, tuyệt vọng. Ngó ra ngoài, không có một đồng minh, chỉ có một đồng chí duy nhất. Khốn thay, đồng chí ấy đang vả vào mặt những kẻ qùy gối trước mặt chúng. Ở trong nước, không có được năm ba người dân, đúng nghĩa là người dân Việt Nam yêu nước ủng hộ. Kết quả, trên dưới đều hoang mang, hốt hoảng. Họ nhìn đâu cũng chỉ thấy kẻ thù. Tất cả đều chống lại đường lối yêu nước là yêu xã hội đạo tặc của nhà nước.
Sở dĩ cộng sàn VN lâm vào thảm cảnh này là vì cộng đồng thế giói đã nhân diện chính xác về bộ mặt của chế độ “ cộng sản là gian dối, và tạo ra gian dối” ( thủ tướng Mirkell, Đức). Trong khi đó, bản thân của họ không làm được một điều gì khá hơn để phản chứng. Trái lại, vẫn chỉ quanh co dối trá, Bằng chứng là: Cái công hàm của Phạm văn Đồng là nguyên cớ để TC xâm lấn biển đông, không một người Việt Nam nào không biết. Riêng tập đoàn CSVN lại không dám nhận lấy cái sai lầm nghiêm trọng của bản văn này. Lúc trước (1974) thì họ vổ tay reo khi TC chiếm Trường Sa từ tay của Việt Nam Cộng Hòa. Tưởng rằng vì tình hữu nghị, vì mối tình thắm thiết xã hội chủ nghĩa, TC chiếm và giữ hộ cho mình, sau khi lấy được miền nam thì họ sẽ trao trả cho miền bắc theo mật ước. Cho đến năm 1988, trận chiến Gạc Ma, mất nốt những gì chưa mất, họ cũng không mở được mắt ra. Nay đến cái giàn khoan TC kéo vào trong lòng biền VN thì họ lại loanh quanh, tráo trở đưa ra lời giải thích hết sức nông cạn và trẻ con theo kiểu của Trần Duy Hải, phó chủ nhiệm Ủy Ban Biên Giới Quốc Gia, lập luận để chạy tội là: Công hàm của Phạm văn Đồng” Hoàn toàn kihông đề cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:”
Quả thật, khó tìm ra một lời giái thích trẻ con và ấu trĩ như thế. Bởi vì, trước khi viết cái công hàm khoảng hai tuần lễ, vào ngày 4 tháng 9 1958 Chu ân Lai, thủ tướng TC đã tự công bố cái gọi là chủ quyền trên biển và trên đảo (Declaration on China’s Territorial Sea) của họ như sau: “ Bề rộng của lãnh hải Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa sẽ là 12 hải lý và áp dụng tương tự đối với Đài Loan và các đảo chung quanh quần đảo Bành Hổ, quần đảo Trung Sa (Tungsha), Quần đảo Tây Sa (Hsisha), quần đảo Chungsha, quần đảo Nam Sa (Nansha) và các đảo thuộc Trung Quốc”. Trong lúc chẳng có một nước nào ngó ngàng đến lời công bố này thì Phạm văn Đồng nhân danh thủ tướng của nhà nước VNDCCH, gởi công hàm cho Chu ân Lai trong đó có đoạn chính là “ ghi nhận và tán thành bản tuyên bố” ( của Chu ân Lai). Bản văn này tuy không có đề cập đến hai chữ Hoàng Sa và Trương Sa, nhưng “Ghi nhân và tán thành” bản văn có ghi rõ chữ Hoàng Sa và Trường Sa do Chu ân Lai viết thì có phải là công nhận Trường Sa, Nam Sa, Hoàng Sa là của Trung cộng hay không? Một đứa trẻ học chưa hết tiểu học, đọc xong hai đoạn văn cũng hiễu rõ ràng như thế, nhưng tiếc rằng, phó chủ nhiệm biên giới của nhà nước Việt cộng thì lại học chưa tới.
Ấy là chưa kể đến điểm thứ hai của lời giải thích này là chính họ đã xác nhận Trường Sa và Hoàng Sa thuộc Việt Nam Cộng Hòa theo hiệp định 1954. Như thế, chỉ có Việt Nam Cộng Hoà mới có đủ thẩm quyền, tư cách để giải quyết vấn đề Trường Sa, Hoàng Sa. Từ đó cho thấy, bản văn của Phạm văn Đồng là một thứ văn tự bán lén đất của nhà người khác cho kẻ trộm đạo. Nên việc họ bắt giam, kết án những Việt Khang, Điếu Cày, Tạ phong Tần và nhiều ngưồi yêu nước khác công khai bảo vệ đất đảo Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam chỉ là hành động của kẻ bán nước, không có đạo lý. Rõ rảng, họ càng giải thích thì cái thòng lọng càng xiết chặt vào cổ họng của họ. Muốn lạy Tây cũng không được, mà quay về chầu phương bắc thì lại phải chấp nhận thêm nhiều điều kiện khó khăn hơn. CSVN xem ra không còn lối thoát, ngoại trừ một cách là tự giải tán để cứu lấy mình.
Một câu hỏi có nhiều người hỏi là: Liệu Trung cộng có mở chiến dịch quân sự vào VN hay không? Vời những sự kiện có sẵn như hôm nay, tôi cho rằng chuyên này không có nhiều khả năng xảy ra. Bởi vì, từ nhiều năm trờ lại đây, tất cả các cấp tướng của QD nhân dân và Công An CS đã lần lượt được gởi sang Trung cộng để học tập. Họ học gì, tập gì không ai biết, nhưng có điều gần như chắc chắn nó phải có điều kiện đi kèm khi họ đưọc cấp pháp bằng tốt nghiệp và hẳn nhiên, TC không dạy họ cách tách ra khỏi vòng tay TC. Theo đó, với một danh sách dài, gồm hầu hết tên tuổi, chức vụ, đơn vị của các tướng lãnh quân đội cũng như bên công an của Việt cộng nằm trong tay. Cộng thêm danh sách bên hành chánh, bên đảng luôn cúi đầu tận hông như TTSang, Np Trọng, NT Dũng , thì Trung Cộng mở cuộc chiến quân sự làm gì cho nó gây thêm phiền toài. Trước đã chẳng có lợi ích gì, còn chính thức gây thù oán với nhân dân Việt Nam, giúp họ có cơ hội tiêu diệt tập đoàn cộng sản mà TC đã cố công gầy dựng mấy chục năm qua. Theo đó, khả năng một cuộc chiến lớn là không thể xảy ra, Tuy nhiên không loại trừ khả nằng có những trận kiểu đuổi gà, đập vịt ở biên giới. Hai bên tập trung quân làm như một sống một chết. Nhưng kết quả chỉ là pháo vào rừng hoang, hoặc có cảnh lạc đạn gây thương vong. Rồi cuối chuyện đuổi gà, đập vịt này là tính toán cho một hội nghị song phương được mở ra.
Ngày mở ra hội nghị cũng là ngày kết thúc những thắng lợi hoàn toàn về phía Trung cộng. Đất, biển được khoanh vùng. Việt Nam mất bao nhiêu đất, bao nhiêu biển không ai hay, chỉ có một thông báo chung chung cho cái tình hữu nghị đới đời viễn vông do TC khua chiêng đánh trống với thế giời. Phần cái lưỡi bò ở trên Biển Đông thì đã được Nguyễn tấn Dũng chấp hành, treo ở trong văn phòng của chính phủ từ lâu rồi, cứ thế mà thi hành. Nếu cần, làm thêm một cái công ty ma để cho cái giàn khoan kia là đơn vị trúng thầu là hết chuyện. Phần nhân sự, những kẻ lãnh đạo sẽ lần lượt được Trung cộng phát cho sợi giây như vòng hoa đeo vào cổ. Từ đây, nối nghiệp nhau làm thái thú. Riêng những tên gọi như Hoàng Sa, Trường sa thì sẽ được nhà nước CS giải quyết theo sách lược đã được viên tiến sỹ tên Nguyễn Quang Ngọc, Viện Trưởng Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Đại Học Quốc Gia Hà Nội, trong một buổi hội thảo về Vấn đề chủ quyền của VN ở Hoàng Sa và Trường Sa, Y đã phát như sau: “Không nên đưa vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa ra Tòa án Quốc Tế, hay Liên Hiệp Quốc…. Còn việc đòi lại và bảo vệ chủ quyền như thế nào thì không nên nôn nóng, để đến trăm năm hoặc nghìn năm sau con cháu chúng ta đòi lại vẫn được!” Quả là không hổ danh những tiến sỹ giấy của thời đại chuột!
5. Việt Nam về đâu?
Điều người ta lo sợ nhất là cục diện biển đông, vụ cái giàn khoan bằng cách này hay cách khác từ từ chìm lắng xuống. Trong nước không còn những cuộc biểu tình của dân chúng phản đối Trung cộng xâm lựơc biển đông. Rồi sau cái bề mặt trong lặng lẽ, CSVN ồ ạt cấp giấy nhập cảnh cho từng đoàn từng lũ công nhân cũng như thường dâ Trung cộng xâm nhập vào nội địa Việt Nam. Thành phần này dần đần chiếm hết công ăn việc làm của người trong nước. Những kẻ thân TC, biết nói tiếng Hoa dần dần nắm hết những chức vụ, cũng như những cơ sở trọng yếu của đất nước. Trước là làm ruồng, rỗng hết mọi phần trên đất nước, sau là làm tê liệt đời sống kinh tế của quốc dân để triệt tiêu Việt Nam. Theo đó, chúng ta có thể nhìn thấy hai hướng đi và đến cho câu hỏi trên là:
- Thứ nhất. Nếu tập thể cộng sản còn nắm quyền và dối trá như hiện nay, vẫn coi người dân chống Trung cộng, chống độc tài tàn bạo CS như những kẻ thù thì câu chuyện của Crimea hay Tân Cương sẽ lập lại trên phần đất Việt Nam không có gì lạ. Gặp trường hợp này, dù không muốn, người Việt Nam đành phải chấp nhận thế cờ. Để cho nó mất rồi sẽ được.?
- Thứ hai. Thay đổi, hoàn toàn thay đổi. Việt Nam thành lập nền Cộng Hoà, Củng cố lại sức mạnh Dân Tộc. Dốc toàn lực để bảo vệ non sông.
Như thế, căn bản của tập thể CS là những thân chuối trong rừng chuối mục nát, nên không ai đặt niềm tin vào những người cộng sản. Nói cách khác, người cộng sản không bao giờ tạo được niềm tin nơi công chúng. Theo đó, nếu muốn tái tạo niềm tin trong lòng ngưòi để củng cố sức mạnh của dân tộc, ngõ hầu bảo vệ và xây dựng đất nước, điều kiện tiên quyết là phải xoá bỏ hoàn toàn cơ cấu của chế độ CS. Phải phá bỏ nó bằng một trong ba phương thức sau:
a. Thứ nhất, phương cách tự giải trừ.
Phía cộng sản phải nhận thức được rằng: Tư tưởng CS không tạo được niềm tin và thành tín với dân tộc. Không đủ khả năng đứng chung với dân tộc, nên họ phải dựa vào chủ nhân Tàu để mà sống còn. Đăy không phải là một đánh giá mới mẻ về CS. Tuy nhiên, nhiều người tự ái vì bị tiêm nhiễm bởi cái lối truyên truyền nhồi sọ của CS, cho rằng ngưòi viết, không viết đúng sự thật, nên dễ bất bình chống đối, bất phục. Nhưng không ai trách họ. Bởi vì đường của dân tộc, lịch sử của đất nước là câu chuyện không phải là mưòi năm, 50 năm mà là nghìn năm. Chế độ cộng sản không thể tồn tại mãi, CS có cạo sửa lịch sử, thì lịch sử chân chính vẫn tồn tại với non sông và đất nước. Anh hùng và kẻ bán nước hại dân cũng đều tồn tại trong lịch sử, nhưng ở trong hai khung hình khác nhau. Một bên được tôn thờ với khói nhang. Một bên bị nguyền rủa, tru di. Gobachev còn mà Lênin cũng còn! Đó là lẽ thường mà cũng là công đạo của trời đất vậy.
Nếu trong bối cảnh hôm nay, sau những vấp váp, những sai lầm. Họ đứng dậy, quay về với dân tộc, tựa vào sức mạnh của toàn dân, để tự trút bỏ sự sợ hải bắc phương và cùng toàn dân viết lại trang sử mới bằng cách:
- Nhân danh đảng CS và nhà nước CHXHCNVN, chính thức gởi công hàm đồng cấp đến nhà nước TC, thông báo việc hủy bỏ công hàm của Phạm văn Đồng ký vào ngày 14-9-1958 là vì sai nhầm trong nhận thức và sai nhầm chính trị.
- Tuyên bố thành lập nền Cộng Hòa. Giải tán mọi cơ chế của đảng cộng sản, kể cả quốc hội và những trưòng sở liên hệ của nó từ trung ương đến địa phương.
- Để đảm bảo cho đời sống an ninh, giữ gìn tính mạng của nhân dân và sinh hoạt đối nội, đối ngoại không bị rơi vào khủng họảng, giữ lại toàn bộ hệ thống chính quyền hiện tại cho đến khi có thể có tổng tuyển cử bầu nguyên thủ quốc gia. Tuy nhiên, khi thành hình một chính phủ Cộng Hòa, họ phải mời được những nhân sự thích hợp như KHG Dương Nguyệt Ánh, Đ/t Việt, Đ/h Hùng, TS Đinh Việt. TC Cù huy Hà Vũ, Ls Nguyễn văn Đài, LS Lê thị Công Nhân, Ls Trưong công Định, LS Lê quốc Quân… tham chính. Đưa họ vào nắm giữ những trọng nhiệm trong Ngoại Giao, Tư Pháp, Quân đội, Nội Vụ và Thông tin, Giáo Dục để tạo niềm tin cho dân chúng và cho thế giới.
- Xóa bỏ toàn bộ những văn bản và những hình thức kìm chế, bóp nghẹt tôn giáo, Đồng thời trả lại các cơ sở giáo dục thuộc các tôn giáo mà nhà nước CS đã chiếm đoạt trước đây. Xin nhớ, những cơ sở này chính là nguồn phục hưng lại đời sống luân lý, và đạo đức của xã hội đã bị băng hoại trong hơn 70 năm qua. Đặc biệt, nên vận động mọi cách để đưa một nhân vật nổi danh trên đường đi tìm Công Lý, Sự Thật và cũng là người đối kháng rất mạnh mẽ cái gian dối của chế độc CS là TGM Kiệt trở lại Hà Nội, sau khi vị TGM hiện nay về hưu. Sự hiện diện của Ông trong vị thế này có thể được coi là sự triển nở của nền Công Lý trên đất Việt. Chấm dứt ngay lập tức tất ả những dự án gọi là quy hoạch giải phóng mặt bằng để gây ra thêm thảm hoạ cho ngưòi dân…
Bất lợi: Rất khó tìm được sự cộng tác chặt chẽ với những thành phần nhân sự kể ra ở trên. Đã thế, rất dễ xảy ra tình trạng sâu xé phe cánh trong thượng tầng của đảng CS. Phe nắm hành chánh không muốn thua thiệt phe nắm đảng và ngưọc lại, phe nắm đảng không muốn trắng tay! Phương án này xem ra là đơn giản. Nói thì dễ, chuyện thực hành khó khả thi.
b. Thứ hai. Môt cuộc Chỉnh Lý.
- Lực lượng có thể chỉ là một tập hợp nhỏ trong quân đội, công an, và một số viên chức hành chánh. Họ đủ can đảm nhập cuộc, đứng lên làm cuộc chỉnh lý, nắm quyền và mau chóng thực hiện những điểm nêu lên ở trong phương thức trên.
Lợi và bất lợi. Khởi đầu của phuơng án này sẽ là rất khó khăn, vì ít có ai trong những ngưòi đang có ít nhiều thế lực dám mạo hiểm. Tuy nhiên khi tiến hành nó sẽ nhanh như chớp ngang đầu, bởi hàng hàng lớp lớp dân chúng cuồn cuộn nổi dậy cùng với họ giật sập chế độ cộng sản. Bước dầu có nhiều nguy hiểm, tuy nhiên cuộc kháng cự của CS sẽ là không quá mạnh. Một phần lo chạy lấy thân, một phần vì không còn thiết tha gì với chế độ. Một phần ẩn thân chờ thời để ít nhất có thể bảo đảm được quyền lợi của bản thân và gia đình. Đặc biệt, trong phương án này có nhiều thuận lợi để kết hợp với những thành phần trong phương thức một trong việc điều hành đất nước. Bước đi chuyển biến dễ dàng hơn và cuộc tái lập đem lại sự ổn định cũng mau hơn.
c. Thứ ba, làm cuộc tổng nổi dậy.Với tình thế của VN hôm, từ thủ trong cho đến giặc ngoại, buộc chúng ta phải dự trù cho một cuộc tổng nổi dậy để cứu nguy đất nươc. Phương thức này có thể song hành với phương thức thứ hai. Đây là một phương án nghiêm chỉnh cần phải được đặt ra để thực hiện hơn là câu chuyện xuông. Tuy nhiên, vấn đề quan yếu nhất chính là vấn đề nhân sự có khả năng thu hút sức mạnh quần chúng để làm cuộc nổi dậy.
Hiện nay các tổ chức dân sự, đảng phái chính trị ở trong nước và ở hải ngoại không có một tổ chức nào khả dĩ áp ứng được yêu tố nhân sự đầu não. Tuy nhiên có những nhân sự, không thuộc đảng phái nào, nhưng với cái nhìn chung của rất rất nhiều người am tường về thời cuộc thì đều nhìn nhận rằng, những nhân sự này khả dĩ đáp ứng được nhu cầu nhân sự lãnh đạo, không phải chỉ làm động lực cho một cuộc chuyển dời. Nhưng còn tạo được một thế đứng vững vàng đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của dân chúng và sự ủng hộ của thế giới. Đó chính là những người tôi nhắc đến ở phương thức một. Đây là một tập hợp có thể được gọi là ưu tú của thế hệ hôm nay. Bởi vì, người xa quê thì luôn khao khát được phục vụ cho hạnh phúc của dân tộc mình. Ngươi ỏ bên trong thì đạp trên sợ hãi, chấp nhận hy sinh bản thân để vào ngục cứu quốc. Tất cả là những điểm son đáng qúy. Nếu họ thành một tập hợp, một ủy ban, hay một Chính Phủ Lưu Vong để đáp ứng với tình thế và mưu cầu hạnh phúc cho người dân thì đây là một giải pháp ưu tiên, cần phải có để:.
- Tiếp nối truyền thống dân tộc theo tình thần của Việt Nam Cộng Hòa. Cương quyết giải thể chế độ cộng sản trên toàn cõi Việt nam.
- Phủ nhận hoàn toàn tư cách và bản văn của PVĐ liên quan đến những phần đất và biển đảo ở dưới vĩ tuyến 17 theo hiệp định genève 1954. Phản đối TC đã mưu đồ quân sự để chiếm đoạt HS Trường Sa của Việt Nam. Cương quyết đòi buộc TC phải rút khỏi Hoảng Sa và Trường Sa bằng những luật lệ, pháp lý quốc tế .
- Ủng hộ những cuộc biểu tình ôn hòa dòi Tư Do, Công Lý, tôn trọng Nhân Quyền và quyền tư hữu tại Việt Nam. Sẵn sàng liên kết với những người cộng sản biết quay về với dân tộc để cùng chung xây dựng lại đất nước…
Thời gian. Đây là lúc thuận tiện nhất để một CPLV ra đời. Bởi vì khi những biến động lắng xuống, sự ra đời của họ mất hẳn yếu tố thời gian. Không gây được tiếng vang và dễ chết lần mòn theo thời gian sau đó. Kế đến, tập thể cộng sản ngày nay như là vườn chuối đang tự hủy rữa mục. Khi có một chính Phủ Lưu Vong đầy triễn vọng và hữu hiệu ra đời, triệt buộc cộng sản Việt Nam phải đi vào thế cờ tự xâu xé nhau và đi đến hủy diệt, tan rã. Lý do, không ai cầu chết. Tất cả đều cầu sống, cầu lợi, cầu quyền và cơ hội!
Bất lợi. Sự ngại ngùng, lưỡng lự không dám dứt khoát của những nhân vật này để có sự bắt đầu cũng là một trở ngại lớn. Nếu họ tự thắng trong cuộc kết hợp thì đó chính là dấu chỉ của sự thành công mai sau. Trường hợp lẻ loi chỉ có một phía, một vài ngưòi thì sức mạnh không phải tụt giảm đi một nửa mà là không thể tạo ra được tiếng nói cần thiết để tạo thành sức mạnh. Chiếc đũa lẻ loi ấy chắc chắn sẽ bị bẻ gẫy! Đã thế, còn tạo cơ hội cho những kẻ cơ hội chủ nghĩa trương cờ đánh trống làm lỡ một cơ hội tạo nên lịch sử mới cho quê hương. Đây là phương án quyết liệt, tối ưu. Có thể có hao tổn sinh lực. Nó đòi hỏi nỗ lực và lòng can đảm của tât cả mọi người, là giải pháp không thể chờ đợi.
Tóm lại, muốn củng cố sức mạnh dân tộc và dồn toàn lực để cứu quốc, buộc chúng ta phải thực hiện được một trong ba phương thức trên càng sớm càng tốt. Đây là một giải pháp duy nhất đem đến ổn định cho Việt Nam và biển đông trong tương lai.
Tuy nhiên, nếu chúng ta và thế giới tự do mong chờ giải pháp này để đem đến ổn định cho Biển Đông, thì TC sẽ là quốc gia duy nhất không muốn có sự thay đổi như thế ở Việt Nam. Trái lại, họ chỉ muốn bảo vệ chế độ CS và áp đặt mọi phe phái trong chế độ này ngồi vào bàn hội nghị song phương với họ trong cuộc biển động. Theo đó, họ sẽ gia tăng tối đa việc trấn áp các phe phái mang tinh thần Việt Nam trong chủ trương thoát ách Tàu. Nhưng nếu những đột biến này xảy ra, khả năng Trung cộng đổ quân vào Việt Nam để cứu nguy cho CS là khó xảy ra. Bởi vì khi đó thay vì giúp CSVN, TC lại tạo cho toàn dân Việt Nam khí thế chông xâm lăng. Với khí thế ấy, TC không thể nào hưởng được cái lợi trên phần đất ấy trái lại sẽ là thảm họa cho Trung cộng. Bởi vì chính trong lòng nội địa của TC cũng đang chờ thời cơ để tự phá vỡ gọng kìm của cộng sản. Mỗi thế lực của một tình bang đều có nhiều khả năng phân chia thành một nưóc riêng biệt như Hàn, Sở.
Triệu, Ngô, Tề, Tần, Tấn xưa kia. Với cách nhìn này, tôi cho là TC không liều mình dấn thân vào tranh chấp với cuộc thay dổi ờ VN. Nhưng sẽ tím cách ảnh hưởng lên nó. Theo đó, nếu cuộc thay đỗi đã thành hình, thì TC không thể tham dự vào tranh chấp và việc Việt Nam bảo vệ trọn vẹn bờ cõi, bao gồm cả Trường Sa và Hoàng Sa càng có nhiều cơ hội để thực hiện.
Bảo Giang.
5-6-2014
Từ khi thành lập tới nay, đảng CSVN đã gây không biết bao nhiêu tội ác đối với dân tộc, và đã có những quyết định hết sức sai lầm trong việc bảo vệ và xây dựng đất nước. Hiện nay, những quyết định sai lầm ấy đã dẫn toàn bộ dân tộc Việt Nam đến sát bờ vực thẳm.
Từ ngày đảng CSVN nắm quyền lãnh đạo đất nước, đất nước càng ngày càng càng tụt hậu, và dân tộc Việt càng ngày càng lầm than, đau khổ. Tội ác của CSVN gây ra cho dân tộc đã được nói đến quá nhiều trên các phương tiện truyền thông. Nào là chiến dịch cải cách ruông đất, nào là đánh tư sản mại bản, nào là xua quân miền Bắc vào đánh chiếm miền Nam gây nên cuộc nội chiến khiến hàng triệu thanh niên chết cách oan uổng, đồng thời biến cả hai miền Bắc Nam thành hoả ngục! Nào là bắt các quân cán chính miền Nam vào những trại tù cải tạo! Nào là khiến hàng chục ngàn người chết ngoài biển trong rừng vì đi tìm tự do, vì thấy không thể sống nổi dưới chế độ bạo tàn phi nhân của đảng CSVN! ...!!! Tội ác của CSVN không sao kể hết được!
Những quyết định sai lầm của đảng CSVN không phải là ít. Sai lầm lớn nhất chính là muốn độc quyền cai trị vô thời hạn trên dân tộc Việt Nam. Sai lầm này chính là đầu mối gây ra biết bao nhiêu tội ác kể trên và dẫn đến vô số những quyết định sai lầm nghiêm trọng khác. Chỉ vì muốn “muôn đời trường trị” và chủ trương sẵn sàng dùng tất cả mọi phương tiện miễn sao đạt được mục đích ấy, bất chấp phải dùng những thủ đoạn xấu xa, độc ác hay đê tiện; Chỉ vì muốn “độc quyền trường trị” mà CSVN sẵn sàng bán cả đất nước cho kẻ thù của dân tộc, bất chấp dân tộc rơi vào vòng nô lệ ngoại bang hay tụt hậu nhất thế giới; Chỉ vì tham vọng ấy mà CSVN đã gây nên biết bao tai hoạ cho đất nước.
Chính vì đặt quyền lợi của đảng lên trên quyền lợi dân tộc, mà CSVN trở nên vô cùng lanh lợi và quỷ quyệt trong việc bảo vệ đảng, nhưng lại hết sức ngu xuẩn và sai lầm trong việc bảo vệ và xây dựng đất nước.
Hiện nay, dư luận đang sôi sục lên vì nhiều bản tin trên mạng Internet nói đến mật ước Thành Đô được ký kết trong một mật nghị cấp cao giữa hai đảng cộng sản Trung Quốc và Việt Nam tại Thành Đô tỉnh Tứ Xuyên các ngày 3-4/9/1990. Tin này đã được tiết lộ từ hai thập niên qua dưới danh nghĩa tài liệu “tối mật” nhưng vì không thể kiểm chứng được nên không được coi là một sự kiện đáng tin cậy. Nhưng mới đây, Wikileak vừa “bật mí” rằng mật ước này là một trong 3100 bức điện thư lưu trữ tại Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Điều này khiến dư luận lại sôi sục lên!
Một trong những nội dung quan trọng của mật ước này là đảng
Sự việc Trung cộng đưa giàn khoan dầu HD-981 vào hải phận vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ngày 1-5-2014 vừa qua khiến người dân trong nước nhận ra rõ ràng hơn bao giờ hết nguy cơ mất nước đã gần kề. Nếu cứ tiếp tục tình trạng như hiện nay, không có gì thay đổi, thì Việt Nam khó lòng thoát khỏi tình trạng trở thành một tỉnh của Trung cộng.
Vấn đề là liệu có gì thay đổi để kéo Việt Nam ra khỏi tình trạng nguy hiểm “ngàn cân treo sợi tóc” hiện nay không? Sự thay đổi tùy thuộc rất nhiều vào đảng CSVN là tập đoàn đang nắm toàn quyền quyết định trong tay. Điều mọi người hết sức lo ngại là liệu đảng CSVN có đủ thiện chí, đủ khôn ngoan và đủ khả năng để lèo lái con thuyền Việt Nam một cách hữu hiệu ra khỏi tình trạng nguy hiểm hiện nay không? − Kinh nghiệm về khả năng lãnh đạo đất nước của đảng CSVN có thể làm chúng ta thất vọng.
Đất nước hiện nay đã bị CSVN đưa đến bờ vực thẳm; tình trạng nguy hiểm bị mất nước vào tay Tầu cộng hiện nay tựa “ngàn cân treo sợi tóc”. Nếu CSVN đã có vô số những quyết định sai lầm nghiêm trọng trước đây thì chúng ta không thể hy vọng được CSVN lại có thể sáng suốt trong tình trạng hết sức khó khăn hiện nay. Bản chất cố hữu của đảng CSVN là chỉ nghĩ đến quyền lợi của đảng, và coi rất nhẹ quyền lợi của cả dân tộc. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến mọi quyết định sai lầm cũng như mọi tội ác tầy trời của đảng CSVN. Vì thế, chừng nào đảng CSVN còn giữ bản chất này thì không bao giờ đảng có thể có được những quyết định sáng suốt để cứu nguy dân tộc, để dẫn đất nước đi lên, cũng như không bao giờ đảng có thể ngừng gây tội ác đối với dân tộc.
Hiện nay, trước tình trạng vô cùng nguy hiểm của đất nước, cũng là nguy hiểm cho cả đảng CSVN (vì “mất nước là mất tất cả”), thì chắc chắn ưu tiên số một của đảng chính là cứu đảng; còn dân tộc có thể nhờ đó mà thoát khỏi họa mất nước thì chỉ là dạng “ăn theo” mà thôi.
Kinh nghiệm về cách xử sự tráo trở của đảng CSVN trước đây đối với Nga Tầu chắc chắn khiến Hoa Kỳ không bao giờ lại tin tưởng vào thiện chí và khả năng trung thành của đảng CSVN. Khi cần sự giúp đỡ của Nga, Tầu để đánh thắng Miền Nam Việt Nam thì CSVN o bế cả Nga lẫn Tầu, đồng thời chửi Mỹ thậm tệ. Đến khi chiếm được Miền Nam thì CSVN bám lấy Nga và tìm cách “đá đít” Tầu, có lẽ để quịt nợ ân nghĩa Tầu đã giúp đủ mọi phương diện để CSVN chiếm được Miền Nam. Thời điểm này CSVN coi Tầu là thù địch trực tiếp và nguy hiểm nhất. Sự thù địch này được ghi trong hiến pháp 1980 ([1]) và cả trong điều lệ đảng CSVN.
Đến khi Nga và Khối Cộng sản Đông Âu sụp đổ, CSVN lại sẵn sàng liếm lại bãi nước bọt đã nhổ ra để nhận lại Tầu Cộng làm bạn và làm quan thầy bảo trợ cho tham vọng “độc quyền trường trị Việt Nam” của mình. Đương nhiên Tầu cộng không bao giờ lại tin thứ đàn em phản phúc và tráo trở như vậy. Vì thế quan hệ giữa CSVN và Trung cộng chắc chắn không phải là thứ tình bạn chân thật, mà chỉ tương tự như hai tên điếm hay hai tên côn đồ lợi dụng lẫn nhau và đương nhiên phần thua thiệt vẫn là phía CSVN.
Biết rõ CSVN chỉ muốn mình bảo trợ cho tham vọng “độc quyền trường trị Việt Nam” của chúng, Trung cộng lợi dụng điều này để ép buộc CSVN đủ mọi điều. CSVN đành phải “bấm bụng” chịu thua thiệt đủ mọi bề, sẵn sàng ký những mật ước nhượng đất, nhượng biển cho Trung cộng, dành quyền ưu tiên cho Trung cộng trong nhiều lãnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... Khi đi với Trung cộng thì CSVN chửi Mỹ như kẻ thù.
Sau khi chiếm Hoàng Sa, Trường Sa cùng nhiều vùng biển và đất liền của Việt Nam, bây giờ Trung cộng đã dồn CSVN đến đường cùng khi ngang ngược xâm phạm chủ quyền Việt Nam một cách trắng trợn và nghiêm trọng bằng việc đưa giàn khoan dầu HD-981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Tới nước này, một phần trong Bộ Chính trị CSVN mới mở được mắt để nhận ra nguy cơ mất nước đã đến trước mắt và đương nhiên sẽ mất đảng, nên mới bắt đầu cầu cứu Mỹ. Phần còn lại trong Bộ Chính trị vẫn chưa tỉnh ngộ, vẫn còn muốn bám lấy Trung cộng như một người bạn tốt. Nhưng bây giờ mới bắt đầu cầu cứu Mỹ thì đúng là “nước đến chân mới nhảy”.
Dân Mỹ đâu phải là dân ngu để không nhận ra tính phản phúc của đảng CSVN. Nó đã phản Nga, phản Tầu, thì lẽ nào nó lại chịu trung thành với mình? Vả lại, một nước chủ trương tự do dân chủ như Mỹ làm sao lại chấp nhận hy sinh nhân lực, tài lực để cứu sống một chế độ độc tài sắt máu và phản phúc cố hữu đang lâm bước đường cùng như CSVN?
CSVN đang bị dồn vào bước đường cùng, mà cách giải quyết duy nhất là từ bỏ tham vọng “độc quyền trường trị” của mình. Chính tham vọng này đã biến CSVN trở thành tội đồ của dân tộc, gây nên biết bao nhiêu tội ác tầy trời và trở thành ngu xuẩn tột độ trong việc bảo vệ và phát triển đất nước với bao quyết định sai lầm.
Đây là lúc CSVN nên “đoái công chuộc tội”. Hãy từ bỏ quyền lực và trao quyền lại cho toàn dân để toàn dân bầu chọn ra cá nhân hoặc tập thể có tài có đức, có đủ khả năng lãnh đạo đất nước, dẫn đưa đất nước ra khỏi tình trạng nguy hiểm sẵn sàng lao xuống vực thẳm hiện nay. Chỉ có thể chế dân chủ mới bầu ra được người có khả năng lãnh đạo đất nước và mới kêu gọi được các cường quốc trên thế giới cứu giúp đất nước thoát khỏi nanh vuốt của Trung cộng.
Nếu CSVN không sẵn sàng từ bỏ tham vọng “độc quyền trường trị”, thì Việt Nam chỉ có một con đường duy nhất để tồn tại là toàn dân Việt Nam phải nổi dậy dẹp bỏ chế độ Cộng sản. Không còn con đường nào khác!
Tóm lại, để cứu được đất nước, chỉ còn một phương cách: CSVN phải
- từ bỏ quyền lực, hoặc
- tự nguyện từ bỏ, hoặc
- sẽ bị toàn dân lật đổ!
Nguyễn Chính Kết
Gần đây, trong dịp ông Điếu cầy được hay bị trục xuất sang Mỹ, dư luận ồn ào quanh việc ông ta không chịu cầm lá cờ vàng mà người ta đã trao cho ông. Kẻ công kích, người bênh vực, tất cả chú trọng vào một nhân vật, mà thực ra cá nhân ông ta, chả có gì là quan trọng. Hãy bàn về vận mệnh Việt Nam.
Việt Nam đang đi vào con đường diệt vong !!
Mật ước Thành Đô không thể bị tiết lộ một cách tình cờ.
Có cả một kế hoạch đem nó ra ánh sáng.
Dĩ nhiên người ta đã dự trù sự công kích lúc ban đầu. Nhưng với thời gian, dần dần người Việt Nam sẽ làm quen với sự hiện diện của nó, không còn ngỡ ngàng như trước nữa. Nên nhớ chính quyền Hà Nội vẫn lửng lơ con cá vàng, không hề có một tiếng nói chính thức nào cải chính hay bác bỏ những tin đồn liên quan tới Mật Ước này.
Nếu như đến thời điểm nào đó, năm 2020 chẳng hạn, Bắc Kinh và Hà Nội cùng công bố quyết định Việt Nam trở thành một quận lỵ của Trung Quốc, là ván đã đóng thuyền. Khi đó, chúng ta sẽ như Tân Cương, Tây Tạng, hết đường cục cựa, và các tòa án quốc tế, các tòa án về Biển, sẽ không còn một lý do nào can thiệp vào chuyện này nữa, vì nó đã trở thành việc nội bộ, của một quốc gia có tên CHINA !!!
Năm nay là năm 2014, nghĩa là chỉ còn vỏn vẹn ít năm nữa mà thôi.
Đảng Cộng Sản Việt Nam, một đảng hoàn toàn bị thống trị, chi phối bởi đảng CS Trung Cộng, chỉ là một công cụ để thi hành kế hoạch này. Chúng ta phải bỏ hẳn cái ảo tưởng là sẽ có nhiều người yêu nước trong Đảng CS Việt Nam bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam.
Tôi đã cùng một luật sư tên tuổi tại Montréal thảo luận nhiều lần về vấn đề này. Theo người luật sư này, thì trong tình hình hiện tại, người Việt Nam chỉ trông cậy vào Lá Cờ Vàng, trên căn bản luật pháp, nghĩa là chúng ta chỉ dùng lý trí 100%, (không dùng tình cảm, ủng hộ hay không ủng hộ).
Đây là một biểu tượng của một Quốc Gia được Quốc Tế công nhận, hiện diện tại Miền Nam, mang tên Việt Nam Cộng Hòa.
Việt Nam Cộng Hòa không ký một văn kiện nào về Trường Sa, Hoàng Sa với Bắc Kinh.
Việt Nam Cộng Hòa không liên quan gì đến Mật Ước Thành Đô.
Năm 1975, với súng đạn, Miền Bắc bức tử VNCH. Việc thống nhất Việt Nam hoàn toàn không do một cuộc Trưng Cầu Dân Ý nào, cho nên, người Miền Nam , công dân của VNCH, trong và ngoài nước, có thể phản đối trên căn bản luật pháp về những gì liên quan đến Hoàng Sa, Trường Sa nói riêng, và lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa nói chung.
Bởi vậy cho nên, người Việt Nam nào yêu nước, muốn bảo vệ Việt Nam bằng Pháp Lý (Tránh cho trong tương lai,các thế hệ sau, phải làm những cuộc nổi dậy đẫm máu), không còn một lựa chọn nào khác, là cùng nhau đứng dưới Lá Cờ Vàng, dù thích hay không thích lá cờ này, vì lý do này hay lý do khác. Hãy hồi phục lại một tập thể các công dân của Việt Nam Cộng Hòa.
Tổ Quốc Trên Hết
Xin gửi đến những nhà ái quốc Việt Nam câu nói trên, để mọi người suy nghĩ.
Tổ Quốc chúng ta đang lâm nguy.
Xin mọi người nhớ rõ điều này và dẹp bỏ tất cả những tỵ hiềm cá nhân, chọn lá cờ vàng.
Tôi xin nói rõ lại, là việc lựa chọn này hoàn toàn là lý trí chứ không nhất thiết vì tình cảm. Chúng ta không còn giải pháp nào khác.
TRẦN MỘNG LÂM