Sunday, March 8, 2015

• Những Người Lính Bị Bỏ Rơi - Mũ Xanh Phạm Văn Tiền

Những Người Lính Bị Bỏ Rơi
Mũ Xanh Phạm Văn Tiền


Có lẽ do tình thầy trò sắp chia tay nhau nên khi thoáng trông thấy Khương là bao nhiêu kỷ niệm cũ hiện ra làm tôi cảm động, nhớ về những gian nan từng trải qua cùng anh em.

Thuận An
Xem thêm: 



Gia Đẳng, Quảng Trị ngày 7/3/1975. Hôm nay là ngày bàn giao chức vụ. Trung Đội Trưởng Quân y TĐ.9/TQLC giữa tôi và người mới đến thay thế là Bác Sĩ Thị Khi chúng tôi bước ra khỏi hầm trú ẩn thì đã thấy Trung Sĩ Khương, y tá trưởng tiểu đoàn cùng 21 quân y tá xếp một hàng ngang, súng M16 trên vai, nón sắt áo giáp, mặt nạ chống hơi độc, túi cứu thương, quân phục chỉnh tề sẵn sàng chờ lệnh.

Có lẽ do tình thầy trò sắp chia tay nhau nên khi thoáng trông thấy Khương là bao nhiêu kỷ niệm cũ hiện ra làm tôi cảm động, nhớ về những gian nan từng trải qua cùng anh em. Có những lần tiểu đoàn đụng nặng, cả trung đội Quân Y phải thức suốt đêm để cứu chữa thương binh, thầy trò chúng tôi tận dụng tất cả những gì đã học hỏi được để cấp cứu, cố mang họ ra khỏi bàn tay của tử thần rồi sáng sớm hôm sau chúng tôi bồn chồn lo lắng chờ đợi trực thăng tải thương đến. Có lần Khương đã nhanh tay giúp tôi cứu một thương binh mà tôi không bao giờ quên:

“Anh TQLC phía trước, cách tôi chừng 15m, bị trúng đạn đang lăn lộn, tôi ngập ngừng bò về phía nạn nhân thì nhiều tiếng súng tiếp theo khiến tôi điếng hồn toát mồ hôi toan quay trở lại, thì hai ba TQLC khác từ phía sau bò vượt qua tôi, họ loay hoay chưa biết làm gì để cứu đồng đội bị thương. Tôi cảm thấy hổ thẹn vì sự nhút nhát của mình nên quyết định tiếp tục bò nhanh đến bên các anh. Anh thương binh đang thở đứt quãng, máu miệng và mũi đang phun ra kèm theo vài cái răng. Viên đạn trúng má phải xuyên qua má trái, máu chảy vào trong miệng khiến anh không thở được, tôi biết phải làm gì thật nhanh để cứu sống anh, tôi với tay lên túi cứu thương đang đeo trên vai để lấy dao mổ thì ..thất kinh, túi cứu thương đã bị bắn nát! Đang bối rối thì một bàn tay vỗ vai, tôi quay đầu lại thì y tá Khương đưa ra con dao mổ, tôi vội giật con dao trong tay Khương và nói nhanh:

- “ống thở”.

Tay tôi sờ cổ nạn nhân để tìm vị trí mổ, khi dao mổ vừa rút ra khỏi cổ anh lính thì Khương nhét ngay cái ống thở vào vết mổ, cả tôi và Khương cùng mừng nhìn sắc mặt người thương binh đang đổi từ tím sang hồng”.

Tiếng hô “NGHIÊM” của Trung Sĩ Khương làm tôi trở về hiện tại, tôi cho anh em thao diễn nghỉ, tôi đã định nói thật nhiều về trách nhiệm và bổn phận của người y tá ngoài mặt trận, nhưng khi nhìn những khuôn mặt rắn rỏi thân yêu, những cánh tay lực lưỡng xâm hai chữ “Sát Cộng”, lòng tôi bỗng bùi ngùi xúc động. Đã hai năm rồi chúng tôi chia ngọt xẻ bùi cùng cay đắng với nhau, nay là lúc tôi ra đi để nhường chỗ cho người y sĩ khác, sự chia tay này không dễ dàng như tôi tưởng. Tôi nghẹn ngào căn dặn anh em như một người anh cả trong gia đình:

_ “Bây giờ tình thế rất nghiêm trọng, Cộng quân có thể mở những trận đánh quyết định bất cứ lúc nào, tôi mong anh em đoàn kết bảo vệ lẫn nhau và giúp đỡ bác sĩ Thi hoàn thành nhiệm vụ”.

Sau khi bắt tay và an ủi từng người đệ tử cũ và chào ông bác sĩ mới, tôi lên ban 3 tiểu đoàn để chào từ giã các sĩ quan tham mưu và gọi máy C25 để từ biệt bốn ông đại đội trưởng. Lại một màn giã từ đầy cảm động, tôi đã sống với Đ.9/TQLC ngót hai năm, tình chiến hữu đã đổi thành tình huynh đệ, tôi không muốn rời khỏi tiểu đoàn trong tình thế nóng bỏng này. Bỗng một quyết định đến với tôi mà cho đến giờ phút này tôi cũng không biết đúng hay sai, lý doTĐ.9/TQLC bấy giờ đang trực thuộc LĐ.258/TQLC đóng tại Mỹ Thủy, Quảng Trị, nếu tôi về Đại Đội Quân Y/LĐ258 thì tôi vẫn có thể săn sóc thương binh của TĐ.9 khi trận chiến xảy ra, tôi liền mượn máy Tiểu Đoàn 9 gọi cho Tiểu Đoàn Quân Y của SĐ/TQLC tại Hương Điền để trình bày quyết định này.

May thay TĐT Y Sĩ Trung Tá Nguyễn Văn Thế hiểu được nhu cầu cần thiết trên tuyến đầu nên chấp thuận tăng phái tôi cho Đ QY/LĐ 258 trong vòng hai tuần lễ.

Con đường từ bãi biển Gia Đẳng đến bãi biển Mỹ Thủy là một chi nhánh của Hương Lộ 555, đây là một HL tuyệt đẹp, một bên là cát trắng biển xanh bao la, một bên là những đồi dương liễu nên thơ, và hương lộ này cũng đã đi vào văn học lịch sử thế giới bởi nhà văn thân Cộng người Pháp quốc tịch Mỹ tên Bernard Fall.

Năm 1953 Bernard Fall đã đi theo đoàn quân viễn chinh Pháp hành quân trên HL.555 và đã chứng kiến đoàn quân này bị Trung Đoàn 95 Việt Minh đánh bại. Về nước, Bernard viết cuốn sách “Street Without Joy” trong đó anh ta đã thần thánh hóa TĐ.95/VM, đây là một cuốn sách rất nổi tiếng, được dịch ra nhiếu thứ tiếng và đã biến Bernard thành một đại văn hào.

Năm 1966, Bernard Fall trở lại Việt Nam để đi theo cuộc hành quân của TĐ.1 và TĐ.2/TQLC, đổ bộ tại Gia Đẳng, tiến quân đọc theo HL.555 lên phía Bắc, dồn Trung Đoàn 95 VC (Tr.Đoàn 95 VM dưới thời VNCH được gọi là Tr.đoàn 95 VC) tới bờ sông Vĩnh Định, Bích La Thôn và tiêu diệt trung đoàn này dưới con mắt đau buồn của Bernard. Sau khi chứng kiến Tr Đ.95VC bị hai Tiểu Đoàn 1&2/TQLC dìm xuống lòng sông Vĩnh Định, Bernard Fall đã đi theo quân đội Mỹ hành quân trên HL555, nhưng quân đội Mỹ đã không bảo vệ anh như TQLC/VN mà anh ta đã không tiếc lời nguyền rủa và rồi Bernard đã đạp phải mìn bẫy của TRĐ. 95/VC còn sót lại và chết trên “Street Without Joy” của anh ta!

Nói đến HL555 mà không nói về Bích La Thôn thì quả là một sự thiếu sót, đây là một thôn làng xinh đẹp nằm bên bờ ngã ba sông Vĩnh Định, một con sông đẹp không kém gì sông Hương, nơi đây có một chiếc cầu thơ mộng mà dân địa phương gọi là cầu Ba-Bến. Tục truyền rằng cách nay hơn 200 năm, có một vị chúa Nguyễn đầy lòng nhân từ, trước khi qua đời ông đã ra lệnh thả tất cả các cung nữ của ông về Bích La Thôn để họ làm lại cuộc đời, không biết vì ảnh hưởng di truyền hay vì phong thủy hữu tình mà những người con gái của Bích La Thôn đều có một sắc đẹp lạ lùng, khác hẳn với các giai nhân những vùng khác của đất nước, ở đây họ sống mộc mạc nhưng vẫn giữ những tập tục của Hoàng Cung Huế. Bởi vậy tại miền Trung có câu tục ngữ: “Cau Vỹ Dạ, gái Bích La”. Đang mải nghĩ về anh văn sĩ người Pháp ngây thơ và lãng mạn, về những người đẹp Bích La Thôn thì xe đã đến Mỹ Thủy và rẽ vào BCH/LĐ.258/TQLC.

Mỹ Thủy, Quảng Trị.. Ngày 08/3/1975 đến 18/3/1975.
Đèo Phước Tường, Huế.. Ngày 18/3/1975 đến 25/3/1975.
Đại đội QY/LĐ.258/TQLC có 3 y sĩ, ông ĐT là một người sống khắc khổ và chịu đựng, hai người y sĩ phụ tá là BS Nhi, anh là y sĩ bệnh viện Lê Hữu Sanh, vì phạm kỷ luật nên bị đày ra LĐ 258, sau 30/4/75 anh được giữ chức vụ quan trọng trong ngành y tế tại Saigon, vì anh có thân nhân làm lớn trong MTGPMN. Người kia là BS Duy, anh là ngôi sao đang lên của Quân Y TQLC, khi còn lội theo tiểu đoàn anh đã được gắn ADBT và được báo Sóng Thần của SĐ/TQLC khen, nhưng không ngờ anh lại là một tên tình báo của VC, và gần đây anh đã giải ngũ với cấp bậc trung tá tình báo CSBV. Vì đại đội quân y đã đủ y sĩ nên tôi chỉ làm những công việc lặt vặt coi như để chờ!

Ngày 11/3/1975, đài BBC loan tin Ban-Mê-Thuột bị thất thủ, tôi vội lên Ban Ba Lữ Đoàn để biết thêm tin tức thì gặp Trung Tá Huỳnh Văn Lượm, một vi. TĐT cũ của tôi và lúc này tôi mới biết ông đang là LĐP/LĐ.258, (LĐTr. là Đại Tá Nguyễn Năng Bảo), chúng tôi vui mừng chào hỏi nhau rồi anh Lượm mời tôi ăn cơm tối cùng với Đại Úy Quận Ban 2 LĐ. Trong bữa cơm anh buồn bực nói:
- “Cái 'chiến lược' đem lực lượng tổng trừ bị căng ra để giữ đất không khá được, trong khi VC chúng tụ quân đánh ta chỗ này chỗ khác. Đất mất mà quân còn thì ta chiếm lại mấy hồi, còn quân mất thì làm sao giữ đất?”.

Tôi hỏi ông liệu có một trận đánh quyết định tại QKI thì ông trầm ngâm:
- “Quân CSBV bây giờ không mạnh bằng năm 1972, vì những quân tinh nhuệ của chúng đã bị ta giết gần hết rồi, bây giờ chúng thay thế bằng đám thanh niên mới thiếu kinh nghiệm tác chiến, chúng biết QĐ.I/QKI có 4 sư đoàn thiện chiến, vũ khí đạn được tích trữ đầy đủ, dù có đánh nhau một hai năm cũng chưa hết, vì thế chúng sẽ không mở một trận đánh quyết định tại Quân Khu I mà chỉ bám sát, đợi lúc ta rút quân có sơ hở thì mới đánh”.

Sự tiên đoán của Trung Tá Lữ Đoàn Phó LĐ.258/TQLC khá chính xác, vì cho tới ngày 29/3/1973 khi QĐ.I rút khỏi Đà Nẵng, đã không có một trận đánh lớn nào xẩy ra.

Ngày 16/3/1975 Lữ Đoàn 369/TQLC, trong đó có TĐ.9 rời Quảng Trị di chuyển về Đại Lộc, Thượng Đức để thay thế LĐ.3 Nhẩy Dù. Tôi chưa kịp xin đổi về TĐQY thì ngày 18/3/1975, LĐ.258/TQLC cũng được lệnh di chuyển từ Mỹ Thủy đến đèo Phước Tường để thay thế cho LĐ.2 ND, thế là tôi có mặt trên đèo và đã nghe đã thấy tất cả những gì xẩy ra sau đó trên QL1, vì đèo Phước Tường nằm trên QL1, phía Nam Huế và phía Bắc đèo Hải Vân.

Theo lệnh hành quân thì LĐ.258/TQLC có nhiệm vụ:
  • 1. Bảo vệ trục giao thông trên QL1 để LĐ.147/TQLC, SĐ.1/BB, LĐ.14BĐQ, Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh, các TĐ Pháo Binh và các đơn vị khác của QĐ.I Tiền Phương đang chiến đấu tại Quảng Trị, Huế rút về Đà Nẵng.
  • 2. Làm lực lượng ngăn cản các đơn vị truy kích của CSBV sau khi các đơn vị kể trên rút an toàn về Đà Nẵng.
  • 3. Cùng bảo vệ QL1 từ Huế đến đèo Hải Vân còn có Liên Đoàn 15/BĐQ từ phái Bắc đèo Phước Tường đến phía Nam Huế và LĐ 468/TQLC từ phía Nam sông Truồi đến đèo Hải Vân.
Từ ngày 19/3/1975 đến ngày 23/3/1975, dân chúng Quảng Trị, Huế đổ về Đà Nẵng, họ dùng đủ mọi phương tiện, từ xe hơi, xe ba bánh, xe đạp và cả đi bộ nữa, dòng người kinh hoàng sơ. VC đã chen chúc nhau trên QL1 ngày cũng như đêm, nhiều người quá mệt mỏi ngã gục trên đường liền bị xe sau cán qua! QĐ. I đã không làm bất cứ một cái gì để giúp đỡ họ, chẳng thấy một ông lớn nào lên đài phát thanh hay bay trên trời để hướng dẫn hoặc trấn an dân chúng! Dân đi thì đặc công, du kích VC cũng giả dạng tỵ nạn đi theo, không thấy QĐ.I có biện pháp nào để thanh lọc chúng. Tôi tự hỏi đã có bao nhiêu tiểu đoàn đặc công VC lọt vào Đà Nẵng một cách hợp pháp?

Ngày 23/3/75, dòng người tỵ nạn đột nhiên chấm dứt, một số người bị thương vì đạn AK của VC được mang đến cho chúng tôi điều trị. Theo lời kể lại của các nạn nhân thì một toán VC đã lập một cái chốt gần cầu Nong, xả súng bắn vào đoàn người di tản để ngăn chặn lưu thông trên đoạn đường này.

Tối 23/3/75, đài phát thanh VC loan báo chúng đã “diệt gọn” LĐ.258 và LĐ15 BDQ và chúng đang kiểm soát QL1 từ đèo Phước Tường cho đến Huế (?)

Sáng ngày 24/3/75, tôi đi theo xe cứu thương để cấp cứu một anh Tr/Sĩ BĐQ, anh bị trúng đạn vào vai phải, gặp tôi anh nói:

- “Thiệt tức muốn chết được ông thầy, tôi canh tụi nó từ chiều hôm qua, ai ngờ nó làm tôi trước, vì nó có súng gắn ống nhắm, nếu tôi có cây 75 ly thì hốt trọn ổ tụi nó rồi”.

Tôi an ủi rồi băng bó cho anh thương binh xong rồi sai y tá đưa anh về đèo Phước Tường để khâu lại vết thương. Anh Tr/Uy BĐQ có vẻ lo lắng cho đệ tử nhưng tôi bảo anh an tâm, vì vết thương của tr/sĩ không nguy hiểm, nhân tiện tôi hỏi anh về tình hình tại cầu Nong thì anh cho biết:

_ “Vẫn yên tĩnh, ngoại trừ cái chốt bắn sẻ cản trở lưu thông, chặn đồng bào di tản, tôi đang chờ trung đội súng nặng đến tăng cường để dẹp cái chốt này.”

Đoạn QL1 từ cầu Nong đến chân đèo Hải Vân là con đường huyết mạch và duy nhất để tiếp tế tiếp viện và rút quân cho các đơn vị phía Bắc, mất đoạn đường này có nghĩa là các đơn vị đang chiến đấu tại Quảng Trị và Huế sẽ bị cô lập. Tối hôm trước, 23/3/75 VC đã loan tin láo khoét là chiếm được đoạn đường này với mục đích làm hoang mang tinh thần chiến đấu của các đơn vị này, vậy mà QĐ.I đã không cải chính để trấn an tinh thần binh sĩ!

Từ ngày 19/3/75, quân CSBV đã bám sát LĐ.258, tiền sát viên của chúng trà trộn vào dân tỵ nạn đến gần quân ta nên chúng điều chỉnh pháo binh rất chính xác, đã có vài trái 130 ly rơi vào sân trực thăng phía sau Đ/QY. Lữ đoàn cho mở những cuộc hành quân đẩy lui địch về phía Tây cách QL1 ba, bốn km. Đ/QY Lữ Đoàn dựng một cái lều lớn trên bãi trực thăng để làm trạm cứu thương, tôi được chỉ định làm việc tại đây.

Trưa ngày 24/3/75, địch bắt đầu pháo nhiều hơn, chúng pháo từ hai ba vị trí khác nhau ở phía Tây, đạn rơi chung quanh vị trí Lữ Đoàn rồi kéo từ từ lại gần, cường độ khoảng ba bốn trái một phút. Chiều 24/3/75 tôi nghe nhiều tiếng súng lớn nhỏ từ phía cầu Nong dội về, tôi biết BĐQ đang tấn công nhổ cái chốt bắn sẻ. Một lúc sau y tá mang về cho tôi hai thương binh BĐQ, cả hai anh đều bị bắn bên vai phải (có lẽ tên bắn sẻ là tay mơ, quên điều chỉnh độ đạt của khẩu súng nên hắn nhắm đầu mà cả ba nạn nhân lại bị trúng vai phải) và các anh cho biết tên bắn sẻ đã bị hạ, bọn còn lại bỏ chạy vào rừng phía Tây, BĐQ đã nhổ xong cái chốt trên cầu Nong, địch không còn, như vậy QL1 đã an toàn trở lại từ chiều ngày 24/3/75.

Khoảng 6 giờ chiều ngày 24/3/75, thương binh từ mọi nơi được mang về trạm cứu thương Lữ Đoàn càng lúc càng nhiều. Có đủ loại thương tích, những vết thương nhẹ thì lấy miểng đạn ra rồi khâu vá tại chỗ, nặng thì phải làm những phẫu thuật cấp cứu đặc biệt. Có nhiều vết thương đứt động mạch, khi mở băng ra thì máu phun có vòi lên mặt chúng tôi, nhưng đó là chuyện nhỏ, chúng tôi phải cột động mạch và tĩnh mạch thật nhanh, nếu chậm trễ thì thương binh mất nhiều máu nguy hiểm.

Vì lều cứu thương ở trên một vị trí trống trải lại không có bao cát che chắn xung quanh nên tôi đành cho đặt cáng thương binh dưới đất và chúng tôi cấp cứu họ trong tư thế ngồi.

Khi màn đêm xuống, vì tránh để lộ vị trí nên chúng tôi phải làm việc trong ánh đèn bấm để chích thuốc, truyền nước biển, khâu vá vết thương, điền phiếu tản thương cho gần 50 thương binh gồm TQLC và BĐQ. Khoảng 8 giờ tối, địch bắt đầu tấn công bằng bộ binh vào vòng đai phòng thủ của LĐ, từng tràng M16 xen với tiếng AK47, tiếng lựu đạn, B40, M72, tiếng súng cối, pháo binh đi và đến tạo nên một điệp khúc của tử thần, vài trái 130 ly chạm nổ rơi ngay sân trực thăng, cách lều cứu thương hơn hai chục thước, miểng đạn xuyên qua vải lều, bay trên đầu chúng tôi, cũng may là chúng tôi ngồi làm việc nên không ai bị thương.

Lúc 2 giờ sáng 25/3/1975, tôi nhận được một thương binh là thiếu úy TQLC khá lì, anh bị bắn vào vai trái, sau khi y tá lau sạch, tôi chích thuốc tê vào xung quanh vết thương rồi dùng kim chọc vào theo chiều sâu vết thương, tôi định được vị trí của miểng đạn, vì biết chung quanh miểng đạn không có mạch máu và dây thần kinh nào quan trọng nên tôi dùng kẹp mổ thọc vào vết thương để kẹp lấy mảnh đạn, với sự giúp đỡ của y tá, tôi dùng dao mổ cắt những sợi thịt vướng vào cạnh của miểng đạn rồi lựa thế kéo nó ra. Mảnh đạn lớn hơn đốt ngón tay, tôi gói cẩn thận tặng lại anh để sau này “thiếu úy tặng cho người yêu” (lưu ý: đây chỉ là một lối mổ dã chiến ngoài mặt trận, các bạn sinh viên y khoa nếu có đọc đoạn này xin đừng làm như tôi).

Khi tôi khâu lại vết mổ cho thiếu úy vừa xong, anh ta không tỏ ra đau đớn hay mệt nhọc gì mà hỏi ngay:

_ “Bác sĩ cho tôi trở lại đơn vị được chưa?”
_ “Cần phải dưỡng thương cho vết mổ kín miệng, ông về đơn vị rồi nhiễm trùng, xưng mủ, đứt chỉ khâu lúc đó ông quay trở lại càng vất vả cho chúng tôi thêm. Nhưng sao thiếu úy lại mong trở lại chiến đấu ngay vậy?”

Anh vui miệng kể cho tôi nghe chi tiết của trận đánh rồi kết luận:
_ “Quân chính quy CSBV bây giờ không thiện chiến như năm 1972, bọn này ngờ nghệch chỉ biết dàn hàng ngang xông tớ’i như lũ say thuốc nên lính mình quạt chúng thật đã tay, khi thấy vài đồng bọn ngã xuống là chúng đi thụt lùi. Những dịp này mà không có mặt ở đơn vị để đòi nợ chúng thì thật uổng”.

Khoảng 3 giờ sáng ngày 25/3/75, địch quân bị đẩy lui và bỏ chạy về phía Tây QL1, pháo binh địch ngưng bắn, nhưng pháo ta vẫn bắn truy đuổi. Khoảng 4 giờ sáng 25/3/1975, Tr/ Tá Lượm đến thăm trạm cứu thương, ông hài lòng khi thấy tất cả thương binh đều đã được cứu chữa và ở trong tình trạng ổn định để sẵn sàng tản thương, sau đó ông kéo rôi ra khỏi lều cứu thương và nói nhỏ:
_ “Mình sẽ bỏ nơi đây để rút về Đà Nẵng trong vòng một giờ nữa”!

Tôi kinh ngạc hỏi:
_ “Lệnh của ai vậy thưa trung tá?”.

Ông nói:
_ “Đích thân Tướng Ngô Quang Trưởng ra lệnh và ông cho lệnh Thiếu Tướng Bùi Thế Lân phải thi hành vì TQLC mình đang tăng phái cho QĐ. I”.

Tôi thắc mắc:
_ “Vậy thì số phận Lữ Đoàn 147/TQLC và các đơn vị ở phía Bắc sẽ ra sao một khi mình bỏ vị trí trọng yếu này?”.

Trung Tá Lượm thở dài như không muốn nghe tôi hỏi, rồi ông buồn rầu nói:
_ “Giờ này tôi không thể cho anh biết được, tôi đâu muốn bỏ chỗ này, mình dư sức giữ nó thêm vài tuần nữa mà, nhưng lệnh quân đội thì mình phải thi hành”.

Chợt thấy bác sĩ Duy bước ra khỏi hầm trú ẩn, Tr/Tá Lượm nói:
_ “Đại Úy Quận Ban 2 LĐ vừa cho tôi biết vài điều về ông BS mới, những điều tôi vừa nói với BS, chỉ một mình BS biết thôi”.

Thấy ông gọi tôi bằng BS nên tôi biết đây là chuyện hệ trọng nên vội đáp:
_ “Tôi hiểu ý Trung Tá”.

Tôi đau đớn suy nghĩ, anh em chúng tôi đã đổ xương máu để giữ cứ điểm này, chúng tôi đang chiến thắng, xác địch quân vẫn chưa lạnh, tiếng súng truy đuổi địch vẫn đang nổ ròn rã, chúng tôi chưa kịp thưởng thức vị ngọt chiến thắng thì đã bị nếm vị cay chua của chiến bại! Bất giác tôi cảm thấy cay mắt, và vì không muốn tỏ ra yếu đuối trước mặt cấp chỉ huy, tôi vội đưa tay chào Trung Tá Lượm, ông bắt tay tôi thật lâu và thật chặt, đôi mắt ông thật buồn và long lanh ngấn lệ dưới ánh sáng hỏa châu, ông cúi đầu đi chậm chạp về phía BCH/Lữ Đoàn.

Thật không ngờ đây là lần cuối cùng tôi gặp ông, sau 30/4/75 ông đi tù và đã bị Việt cộng sát hại bằng cách đẩy ông vào chảo nước sôi, vì ông đã ví chúng như những cái máy phát thanh, vắn nút “on” lên thì đứa nào cũng nói một giọng điệu. Xin vĩnh biệt Tr/Tá Huỳnh Văn Lượm, vị TĐT giầu kinh nghiệm và tài giỏi của tôi.

Tôi trở lại trạm cứu thương, phân loại thương binh và phân chia nhiệm vụ cho các y tá, sau đó trở về hầm trú ẩn và tôi mới thấy mệt mỏi, căng thẳng. Đây không phải là lần đầu tiên tôi thức trắng đêm để cứu chữa thương binh, lúc còn lội theo TĐ.9/TQLC, tôi đã làm việc này nhiều lần, nhưng là làm việc trong công sự chắc chắn, được đệ tử bảo vệ và tiếp sức bằng những ca café sữa nóng, điếu thuốc thơm và sau trận đánh, khi thương binh đã được tản thương, thầy trò tôi cùng các sĩ quan tham mưu tiểu đoàn quây quân bên ấm trà điếu thuốc, luận bàn về những kinh nghiệm. Nghĩ lại trận đánh vừa qua, có lẽ thương binh, các y tá và tôi là những người phơi mình dưới pháo địch, không hầm trú ẩn, không bao cát bảo vệ, cũng may là tất cả chúng tôi được bình yên. Tôi tự nhủ nếu sau này tôi làm cấp chỉ huy thì sẽ không bao giờ phạm vào những thiếu sót này.

Trong hơn một tuần lễ có mặt tại Phước Tường, tôi có cảm tưởng như QĐ. I đã quên chúng tôi! Từ việc QĐ đã bỏ rơi đám người di tản, không lập các trạm y tế và an ninh trên QL1 để giúp đỡ những người kiệt sức và thanh lọc những toán đặc công VC, không cải chính tin vịt do VC tung ra để trấn an binh sĩ, không có một ông lớn nào tới thị sát chiến trường, không có một máy bay nào bay trên vùng trời này và nay ra lệnh bỏ đoạn đường này, khúc xương cổ của QĐ.1, đây có phải là một bản án tử hình cho QĐI.Tiền Phương?

Sáng 25/3/1975 lúc 5 giờ, bác sĩ đại đội trưởng ĐQY đi họp về và chính thức thông báo lệnh bỏ Phước Tường, tôi được chỉ định đi bộ với một thành phần của BCH/LĐ, BS ĐT và BS Duy thì đi bằng GMC cùng với thương binh, còn bác sĩ Nhi thì đã rời Lữ Đoàn từ hồi nào không ai biết!

Tôi chạy về hầm trú ẩn, ăn vội mấy muỗng cơm gạo sấy còn lại từ hôm trước, đổ đầy hai bi-đông nước, đeo dây ba chạc, kiểm soát lại khẩu súng ngắn, nạp một viên vào nòng rồi khóa an toàn, ba-lô, nón sắt, áo giáp, túi cứu thương, tôi xuống đồi và sát nhập vào toán TQLC đang di chuyển trên QL1. Con đường này tôi đã đi lại nhiều lần, hôm nay là lần cuồi cùng nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi bộ trên đó, thật là một kỷ niệm khó quên.

Qua khỏi đỉnh đèo thì một cảnh thiên nhiên hùng vĩ hiện ra trước mắt tôi: nền trời xanh nhạt điểm thêm mấy sợi mây trắng hồng của buổi bình minh, hai ngọn đồi Bạch Mã màu xanh đậm sừng sững phía Tây QL1. Dưới chân đồi, uốn éo giữa những mảng ruộng màu xanh lá mạ trải dài tới tận chân trời là sông Truồi. Sông Truồi nhận phụ lưu của sông Đá Bạc, nước chẩy đôi dòng phản chiếu ánh bình minh như môt dải lụa trắng. Phía Đông QL1 biển xanh bát ngát, sóng gọi rì rào, lác đác dưới chân đèo một vài thôn xóm vẫn còn ngủ say bên lũy tre xanh. Trong cái yên lặng của buổi chớm bình minh, một vài tiếng gà gáy sáng vọng về. Với phong thủy như vậy chẳng trách miền Trung có nhiều nhân tài, thiên thần cũng lắm mà ác quỷ cũng nhiều và những giai nhân tuyệt sắc làm nghiêng thành đổ nước.

Đại đội bảo vê. BCH/LĐ dàn đội hình tác chiến, tiền vệ hậu vệ và nhất là hai cánh phải trái đi sâu vào hai bên đường, những sĩ quan tham mưu và binh lính LĐ đi ở giữa. Chẳng mấy chốc chúng tôi đã đến cầu Truồi, cây cầu xinh đẹp này đã bị đơn vị canh giữ phá hủy sáng nay khiến gây trở ngại không ít cho những toán quân đi sau.

Tôi lội qua sông Truồi, nước chỉ đến đầu gối và trong như lọc, qua khỏi cầu Truồi chừng vài km, tôi gặp Thiếu Tá Trần Quang Duật, TĐP/TĐ.16/TQLC, anh đang ngồi trên mũi xe jeep, để đầu trần, nón sắt bên hông, tay cầm bản đồ, tay kia cầm ống liên hợp máy C25, đang liên lạc với ai đó ở xa . Khi cuộc điện đàm đã xong, vì là bạn cùng lớp thời trung học Chu Văn An nên tôi đến bên Duật hỏi:

_ “Duật, mày làm gì ở đây mà để đầu trần không sợ bể “gáo dừa” sao?”
_ “Tao đang chờ tụi mày”.
Rồi anh chỉ tay về phía rừng dưới chân đồi Bạch Mã nói tiếp:
_ “Cho ăn kẹo tụi nó cũng không dám bắn, lính cánh B* của tao đang phục ở trong đó, cũng mong tụi nó xuất hiện để hốt gọn, nhưng hình như tụi “con nít” này cố tránh TQLC mà chỉ bám theo đuôi, nhiều lúc tức thấy mẹ”. (* mỗi TĐ TQLC có quân số từ 700-1000 và thường chia làm hai cánh khi đi hành quân, cánh A theo Tiểu Đội Trưởng, cánh B đi theo TĐP).

Duật móc bao thuốc Capstan đầu lọc đưa tôi một diếu, hai đứa hút thuốc, nhả khói gói bay về hướng Bắc, chúng tôi nhìn theo, bất giác tôi hỏi Duật:
_ “Mày nghĩ Lữ Đoàn 147/TQLC rồi sẽ ra sao, lui về bằng đường nào?”

Duật cười nhạt:
_ “Tao làm sao biết được mưu cao của mấy ông tướng trong quân đội, nhưng tao nghĩ LĐ.147 sẽ gặp ngàn vạn khó khăn, nếu không có Không Quân, Hải Quân và Pháo Binh yểm trợ thì sẽ có thể từ chết tới bị thương”!

Tôi chán nản vứt thuốc đang hút dở xuống, lấy gót bốt-đờ-sô di di, nói:
_ “Thôi tao đi, mày ở lại, cẩn thận”.

Nhưng rồi Duật gọi giật tôi lại như muốn nói thêm điều gì, tay đưa khăn:
_ “Trông mày như thương binh, lau những vết máu trên mặt và cổ đi”.
_ “Máu thương binh tao không muốn lau, đang đánh mà bắt phải lui thì tao sợ còn phải lau nước mắt nữa kìa”.

Khoảng 6 giờ chiều 25/3/1975, chúng tôi đến chân đèo Hải Vân, đây là điểm hẹn của LĐ.258 và lúc này tôi cũng được biết LĐ.15BĐQ ở phía Bắc đèo Phước Tường cũng đã rút quân an toàn phía sau chúng tôi. Vì còn phải chờ những toán quân sau nên tôi vào quán nước bên đường gọi một xị rượu đế để giải sầu, trong lúc đang uống, tôi chợt thấy một thương binh TQLC chống nạng đứng cô đơn bên kia đường, tôi nghĩ đến Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, một thi sĩ nổi danh đời nhà Nguyễn và là chú của vua Tự Đức, khoảng 150 năm về trước, ông đã có mặt tại nơi đây và nhìn thấy một người lính của cụ. Nguyễn Tri Phương bị thương khi đánh nhau với quân Pháp tại Đà Nẵng, đang chống gậy khấp khểnh vượt đèo Hải Vân để về Huế, ông đã xuất khẩu làm một bài thơ tuyệt tác để lại cho hậu thế:

Tàn Tốt:
Loạn thi tùng ý bạt thân hoàn.
Nhất lĩnh đơn y chiếu huyết ban.
Ỷ trượng độc cô sơn tửu điếm.
Tự ngôn sinh nhập Hải Vân Quan.

Tạm dịch:
Tàn Binh:
Lê chiếc thân tàn vượt đèo cao.
Một mảnh chiến y thắm máu đào.
Chống gậy cô đơn bên quán núi.
Thầm hẹn ngày về Hải Vân Quan.


Tôi mời anh thương binh bên kia đường vào quán, khi anh ngồi vào bàn cùng uống rượu với tôi thì mới biết anh thuộc TĐ.1/TQLC và là một trong những thương binh tôi cấp cứu tối hôm qua.

Khoảng 7 giờ tối 25/3, quân số Lữ Đoàn đã tập trung đầy đủ, tôi được chỉ định mang các thương binh về Tổng Y Viện Duy Tân Đà Nẵng. Thương binh được chở trên 2 chiếc GMC, có một trung đội TQLC đi theo bảo vệ, một điều ngạc nhiên là anh trung đội trưởng lại chính là thiếu úy bị thương mà tôi mới mổ lấy đạn ra lúc 2 giờ sáng hôm nay (25/3). Tôi thắc mắc về sự lì này thì anh đáp:

_ “Nhằm gì vết mổ đó BS, tôi bị thương tay trái còn tay phải vẫn bắn được mà”.

Tôi biết anh bị thương khá nặng cần phải tĩnh dưỡng hơn tuần lễ nên ngay sau khi mổ xong anh đòi trở lại đơn vị nhưng tôi đã không cho, nào ngờ anh cãi lệnh bác sĩ điều trị và chuồn về đơn vị để tiếp tục chiến đấu. Xin khâm phục tinh thần chiến đấu của anh em TQLC.

Tôi thầm nghĩ Trung Tá Huỳnh Văn Lượm đã quá cẩn thận khi cho cả một trung đội bảo vệ thương binh và tôi, nhưng tôi đã lầm, khi gần đến thành phố, tôi đã thấy khói lửa bốc lên. Khi vào trong thành phố thì cảnh tượng tết Mậu Thân tái xuất hiện trước mắt tôi, nhà cháy, xe dân sự cháy, xe nhà binh cháy, thỉnh thoảng những tiếng nổ lớn phát ra từ những đám cháy làm ngọn lửa phụt lên cao.

Dưới lòng đường, trên hè phố, từng toán năm bẩy tên, đủ mọi sắc phục, cầm súng hướng lên trời bắn những loạt đạn vu vợ Trong ánh lửa tôi nhìn thấy những cái nhìn căm thù trong mắt chúng, những cặp mắt quen thuộc của bọn đặc công hay du kích khi trước bị chúng tôi tóm cổ trói lại, nay chúng chưa bắn chúng tôi vì chúng biết chắc chắn sẽ gục ngay bởi trung đội TQLC hộ tống. Cám ơn đại bàng Huỳnh Văn Lượm đã biết lo xa cho sinh mạng của thuộc cấp.

Thành phố này đang chết! Không bóng người dân, không cảnh sát, không quân cảnh, giờ này họ ở đâu? Đi thêm vài cây số nữa, một cảnh thương tâm hiện ra, những người dân tỵ nạn Trị-Thiên nheo nhóc nằm ngồi đầy hai bên đường, không chăn, không chiếu, chỉ còn những cặp mắt đã cạn khô nước dương lên nhìn chúng tôi!

Năm 1972, mùa Hè Đỏ Lửa tôi đã có mặt tại QKI, trong Liên Đoàn 71 QY, tình trạng ban đầu cũng như vậy, nhưng từ khi Tướng Ngô Quang Trưởng ra nhậm chức TLQK, ông đã ra lệnh cho lực lượng an ninh, cảnh sát bắt nhốt tất cả những tên giả dạng thường dân, sinh viên học sinh để sách động quần chúng, ông ra lệnh sử bắn những tên du kích, đặc công cải trang làm lính giã ngũ để phá rối cướp bóc. Ông cho lập các trại tạm trú để dân tỵ nạn có nơi che mưa nắng, có cơm ăn áo mặc, có bác sĩ săn sóc sức khỏe, vì vậy tình hình mau chóng yên tĩnh trở lại và các binh sĩ yên tâm, tiếp tục chiến đấu mang lại chiến thắng vẻ vang cho QKI. Nhưng giờ này, 25/3/1975, ông và các phụ tá của ông ở đâu? Tại sao không làm những việc cần thiết đó như các ông đã làm năm 1972. Trong lúc binh sĩ vẫn vững tay súng ngoài mặt trận mà quý ông để hậu phương tang thương như thế thì còn đâu tinh thần chiến đấu của anh em chúng tôi!

Chúng tôi đến TYV Duy Tân lúc 9 giờ đêm, cổng chính của TYV không có đèn và cũng không có lính gác, tuy nhiên phòng nhận bệnh còn có ánh đèn, nhìn kỹ tôi thấy mấy quân y tá đang cặm cụi làm việc. Tại đây, trong ánh đèn vàng tại cửa phòng nhận bệnh, tôi gặp Y Sĩ Thiếu Tá Phạm Văn Lương, một niên trưởng nổi tiếng của chúng tôi, anh hiện là trưởng khu giải phẫu của TYV, nhưng vì đa số các y sĩ đã bỏ đi nên anh phải đảm trách thêm công tác nhận bệnh, anh hứa sẽ săn sóc cho thương binh của tôi. Khi tôi tỏ ý bất bình về các y sĩ bỏ đi, anh Lương nói:
_ “Không thể trách họ được, họ là những y sĩ bệnh viện, không một tấc sắt trong tay, không có binh sĩ bảo vệ như y sĩ tiền tuyến, thành phố bây giờ đầy đặc công VC và giặc cướp, QĐI thì chẳng có quân lệnh gì để đối phó nên các y sĩ họ.”

Anh bỏ ngang câu nói “ho…” rồi chợt vui trở lại với tôi:
_ “TQLC các cậu đã về, tôi tin tưởng tình hình sẽ khá hơn”.

Nghe anh nói tôi bỗng thấy một nỗi buồn và cô đơn dâng lên, trong thế trận có tính cách chiến lược này, sự thắng bại không nằm trong tay của những người lính ngoài mặt trận, quanh năm chỉ có gạo sấy với cá khô mục như chúng tôi mà ở trong ý chí quyết chiến quyết thắng của những ông tướng ngồi trong phòng có gắn máy lạnh tại QKI, Bộ TTM và Dinh Độc Lập. Những sự việc tôi đã quan sát từ một tuần lễ nay cho phép tôi tiên đoán sự sụp đổ của QKI, bất giác hai hàng nước mắt rơi trên má, vị mặn và tanh của máu và nước mắt kéo tôi về thực tế, tôi đứng nghiêm, đưa tay chào vị Y Sĩ quân đội đúng nghĩa và từ giã ANH để trở về với đồng đội mà không ngờ đây là lần đầu và cũng là lần cuối cùng tôi gặp ANH, niên trưởng Y Sĩ Thiếu Tá Phạm Văn Lương! Vì sau khi CSBV vào Đà Nẵng, chúng đuổi các thương binh ra khỏi TYV, bắt các y sĩ vào trại tù cải tạo và anh Lương đã tự sát để phản đối chính sách tù đầy dã man vô nhân đạo của chúng!

Khi công tác tải thương hoàn tất vào lúc 9 giờ 30 đêm, qua máy C25, tôi nhận được lệnh của Tiểu Đoàn QY/TQLC phải trình diện TĐ ngay lập tức. Tôi đến BCH/SĐ/TQLC đang đóng tại căn cứ Non Nước vào lúc 10 giờ đêm. Căn cứ được phòng thủ cẩn thận, đèn đuốc sáng rực, BCH/ TĐ/QY nằm trong một cái hangar lớn sau cổng chính phía tay phải, tại đây tôi gặp hầu hết các Y Sĩ của bệnh viện Lê Hữu Sanh, Thủ Đức, họ cho biết vì SĐ không có phương tiện chở thương binh về Thủ Đức nên họ phải ra đây để điều trị tại chỗ, tôi nhìn vào trong hangar, có đến năm sáu trăm giường bệnh đầy thương binh! Tôi đến trình diện Y Sĩ Trung Tá Nguyễn Văn Thế, TĐT/TĐQY sau đó.

Ngay sau khi tôi đứng nghiêm chào TĐT thì anh Thế chưa chào lại mà chăm chú nhìn tôi từ đầu tới chân, vẻ mặt đầy lo lắng rồi anh hỏi:
_ “Toa bị thương hả, sao máu đầy người thế này?”
_ “Không, đấy là máu thương binh nhưng tôi chưa kịp thay quân phục”.

Y Sĩ Trung Tá không chào lại theo lối nhà binh mà anh nắm tay tôi thật chặt, tay kia để lên vai tôi vỗ nhè nhẹ, tôi cảm nhận được tấm lòng đầy tình đồng đội, tình anh em của người chỉ huy, nó có sức mạnh hơn ngàn lời nói hay huy chương lúc này, anh chỉ cái ghế đối diện, khi cả hai cùng ngồi, anh mệt mỏi nói:

_ “Hiện giờ Lữ Đoàn 147/TQLC đang kẹt tại bãi biển Thuận An, vì HQ không vào đón, ngày mai SĐ sẽ mở một cuộc hành quân về phía Bắc đèo Hải Vân để tiếp cứu anh em mình, nhiệm vụ của toa là chỉ huy một toán quân y tá TQLC và 5 xe cứu thương do Liên Đoàn 71QY tăng phái, mọi tiếp liệu và lương thực thì Đại Úy Sanh, sĩ quan tiếp liệu đã lo xong”.

Tôi nhận lệnh của anh Thế với tâm trạng hoang mang, nửa mừng nửa lo. Hoang mang vì mới sáng nhận lệnh rút lui của ông tướng TL QK, bây giờ lại nhận lệnh của ông Tướng khác tiến trở lại, không biết chuyện gì đã xẩy ra trong nội bộ của các ông! Nhưng rồi tôi vui vì được tham dự một cuộc hành quân giải cứu chính anh em mình, nhưng cũng hơi lo, vì tôi biết địa thế phiá Bắc đèo Hải Vân rất hiểm trở, đơn vị tấn công sẽ gặp nhiều thiệt hại, không biết một mình tôi có cáng đáng nổi nhiệm vụ được giao phó hay không?

Đà Nẵng ngày 26 và 27 tháng 3 năm 1975.

Lúc 6 giờ sáng ngày 26/3/1975, toán y tá TQLC đã sẵn sàng trình diện, tôi kiểm soát y cụ cứu thương, thuốc men, lương thực, nón sắt, áo giáp, mặt nạ chống hơi độc v.v.. tất cả trong tình trạng hoàn hảo, riêng vũ khí cá nhân M16 thì thiếu bảo trì, tôi cho anh em 15 phút để lau chùi súng ống. Trong cuộc chiến tàn bạo này, quân y tá và y sĩ là một trong những mục tiêu ưu tiên của những tên VC bắn sẻ, y sĩ thuộc binh chủng TQLC có số lượng tử vong ngoài mặt trận cao nhất trong các quân binh chủng QLVNCH, vì vậy tôi muốn súng cá nhân của họ phải trong tình trạng sẵn sàng, không hẳn là để tác chiến mà mục đích chính là tự vệ và yểm trợ cho nhau trong khi thi hành nhiệm vụ cứu thương. Sau đó tôi chia anh em ra làm 3 toán có nhiệm vụ rõ ràng: Toán thâu lượm thương, toán cấp cứu, toán tải thương. Tôi cũng yêu cầu đại Úy Sanh trang bị nón sắt áo giáp cho các tài xế của 5 xe tải thương. Tải thương trên đường đèo mà tài xế bị thương thì sẽ gây ra những hậu quả không lường.

Đến 6 giờ 30 sáng 26/3/75 tôi báo cáo lên TĐQY là chúng tôi đã sẵn sàng, tôi được lệnh chờ tại chỗ, tới 11 giờ thì lệnh hành quân được hủy bỏ mà tôi không biết lý do, nhưng toán quân y của tôi thì được lệnh ra bến thương cảng Đà Nẵng để đón Lữ đoàn 147/TQLC.

Khoảng 12 giờ, tôi thấy hai chiếc tàu “há mồm” cập bến, hai chiếc tàu này chở một trung đoàn thuộc SĐ.2/BB từ Chu Lai về Đà Nẵng, quân số của họ chỉ còn lại chừng ba đến bốn trăm người, quân phục nhầu nát, khi đi qua cầu tầu, một số anh vứt súng M16 của họ xuống biển! Đi sau cùng là hai thiếu tá bị thương nơi đầu, họ dìu nhau xuống cầu tầu, tôi và đệ tử giúp hai ông một tay và đề nghị cấp cứu cho họ nhưng cả hai ông cám ơn vì phải di chuyển ngay với binh sĩ của họ. Khâm phục trước thái độ huynh đệ chi binh này, tôi chào hai ông và chúc bình an. Nghe tôi chúc, một trong hai ông đưa tay bắt và như muốn thanh minh:

_ “Đã đánh đấm gì đâu, đang đi hành quân thì có lệnh rút, mà lệnh rút không rõ ràng nên anh em chúng tôi rất bực mình”.

Vào lúc 2 giờ chiều thì một chiếc LCU từ từ cập bến, khi bửng tàu mở ra, tôi rất mừng vì thấy màu áo rằn ri quen thuộc, đi đầu là mấy anh em khiêng xác của 3 tử sĩ, xác họ được gói kỹ trong những chiếc poncho, một trong 3 xác này là Thiếu Tá Nguyễn Trí Nam TĐP/TĐ.4/ TQLC, sau đó là Đại Tá Nguyễn Thế Lương LĐT/LĐ 147, ông bị thương ở chân, mặc dù được các quân y tá dìu xuống cầu tàu nhưng ông di chuyển rất khó khăn và đau đớn. Theo sau LĐT là bác sĩ Rậu, bác sĩ Khoa và toán y tá cùng khoảng 100 thương binh. Cuối cùng là khoảng hai trăm quân nhân thuộc các tiểu đoàn TQLC hiện đang bị kẹt lại tại bãi biển Thuận An. Tôi nhanh chóng phân loại các thương binh rồi ra lệnh mang họ lên đoàn xe tải thương để về căn cứ Non Nước. Theo Bác Sĩ Bùi Văn Rậu ĐT/QY/LĐ.147 thì ông dược sĩ Lữ Đoàn và 4 ông y sĩ TĐ được ghi nhận là mất tích tại Thuận An. Buổi chiều, sau khi tải thương xong, tôi hỏi thăm tình hình, BS Khoa nói vắn tắt:

*_ “Khi TQLC ra đến bãi biển Thuận An vào lúc 10 giờ sáng ngày 25/3/1975 thì được lệnh dừng quân để tàu Hải Quân vào đón, nhưng chờ đến 6 giờ chiều mà không có một chiếc tầu nào vào, LĐ 147 phải dàn đội hình phòng thủ để tiếp tục chờ tầu HQ thì VC tấn công, loạt đạn đầu tiên có 4 TQLC tử thương, anh em mang xác họ đến ĐQY, nhưng sau đó thì súng nổ khắp nơi, bị thương và tử thương rất nhiều nên chết ở đâu thì chôn ở đó. Sáng ngày 26/3/1975 khoảng hơn 8 giờ khi một chiếc LCU vào đón thương binh và BCH/LĐ thi 4 tử sĩ được mang lên tàu, nhưng xác của Đ/Úy Tô Thanh Chiêu ĐT/TĐ.4 bị rơi xuống biển nên chỉ cỏn 3.”

Tôi được giao nhiệm vụ săn sóc 20 thương binh thuộc LĐ. 147, trong đó có một chuẩn úy mới ra trường, trước kia anh là giáo sư trung học, anh bị bắn vào đùi, vết thương không nặng lắm, sau khi lau chùi băng bó xong tôi ngồi lại nghe anh kể chi tiết cuộc rút quân của LĐ.147/TQLC, sau đó anh phẫn uất vừa khóc vừa nói:

_ “Bác sĩ biết không, cả một lữ đoàn bị lùa vào cái rọ, một bãi cát trống, tứ bề là nước mênh mông, không có lối thoát, không có địa thế ẩn núp, làm bia cho CSBV bắn, như bị trói tay dẫn ra pháp trường cát, mà người đưa LĐ.147 này ra pháp trường cát lại những vị chỉ huy cao cấp của Quân Đội! Họ thuộc phe nào?”

Nhận thấy thương binh này quá xúc động và phẫn uất, dù chỉ là cấp chỉ huy trung đội, nhưng đã có một cái nhìn và nhận xét khá chính xác và chân thật, tôi vỗ vai anh an ủi và nói y tá chích cho anh một mũi thuốc an thần để anh nghỉ ngơi.

Sáng 27/3/1975, tin tòan bộ lực lượng QĐ.I Tiền Phương dưới quyền chỉ huy của Tướng Lâm Quang Thi* bị tan rã, trong đó có LĐ.147/TQLC, như một tiếng sét ngang tai, thoạt đầu không ai tin, vẫn cho rằng CSBV tung ra như đã từng rêu rao trên đài phát thanh tối 23/3 là chúng đã “diệt gọn LĐ.258 ngụy” để làm lung lay tinh thần chúng tôi.

Không thể được, bởi vì lực lượng QĐ.I/TP gồm những đơn vị thiện chiến của QLVNCH đó là: SĐ.1/BB gồm có 4 trung đoàn và Đại Đội Hắc Báo, một sư đoàn nổi danh đã bảo vệ vùng hỏa tuyến và luôn luôn chiến thắng. Đó là Lữ Đoàn 147/TQLC với 4 tiểu đoàn tác chiến tinh nhuệ cùng với Pháo Binh và Đ Viễn Thám, một đạo quân chưa bao giờ biết lui. Đó là LĐ.1 Thiết Kỵ với chiến xa M48 tối tân đã từng gây kinh hoàng cho 8 SĐ/CSBV năm 1972. Đó là LĐ/BĐQ chỉ biết “sát Cộng” và còn bao tiểu đoàn pháo binh nặng nhẹ cùng các đơn vi. Địa Phương Quân và Nghĩa Quân v.v..

Cỏn về vũ khí đạn dược ư? Chỉ riêng kho đạn pháo binh tiền phương của TQLC cũng đã có 100.000 trái đại bác 105 lỵ
Với một lực lượng như trên, giữ vững tay súng và y chí từ trên xuống dưới, cộng thêm hỏa lực yểm trợ của SĐ.1KQ và Hải Pháo vùng I Duyên Hải thì CSBV sẽ không thể làm gì được họ. Khi chúng tôi nhận được lệnh bỏ QL1, đoạn đường Huế-Đà Nẵng thì chúng tôi đã tiên đoán được các lực lượng tiền phương QĐ.I sẽ gặp muôn bàn khó khăn và nguy hiểm, gần như họ bị dồn vào tuyệt lộ! Nhưng không lý do gì khiến chỉ trong 2 ngày mà lực lượng Tiền Phương bị tan rã! Nhưng tin tức dồn dập đưa về, bắt chúng tôi phải tin và đó đúng là sự thật!

Chúng tôi đau đớn cho đồng đội, tức giận và nghi ngờ khả năng của các cấp chỉ huy của QĐ.I, của bô. TTM, của Dinh Độc Lập, không biết vì nguyên nhân nào, vì bị áp lực nào hay vì quyền lợi và mạng sống bản nhân, phe nhóm mà họ nỡ bỏ rơi để quân CSBV tàn sát một đạo quân tinh nhuệ đã, đang hy sinh để bảo vệ đất nước?

Bây giờ thì đến thân phận chúng tôi, không biết rồi sẽ ra sao? Chúng tôi chỉ còn biết trông cậy vào nhau, những đồng đội của binh chủng TQLC.

Chiều ngày 27/3/1975, tôi lên TTHQ/SĐ để tìm hiểu thêm tin tức thì gặp Thiếu Tá Trần Vệ, một bạn cũ, hiện anh là trung tâm trưởng TTHQ, anh buồn rầu cho biết QĐ.I TP của Tướng Lâm Quang Thi* đã thực sự tan vỡ, mấy hôm nay rồi không nhận được lệnh gì từ trên QĐ, và khi có việc gấp anh phải đích thân lên QĐ thì chẳng còn thấy ai ở trên đó nữa! Ngoài ra tin cho biết Quảng Nam, Quảng Ngãi đã “thất thủ” (?) vì SĐ.2/BB đã được lệnh rút khỏi nơi này mặc dù chưa bi. CSBV tấn công, cuộc rút quân đã xảy ra trong hỗn loạn!

Như vậy cho đến 27/3/1975, lãnh thổ QKI chỉ còn thành phố Đà Nẵng! Tôi chán nản lo lắng, quay trở lại TĐQY.
Quảng Trị, Huế ngày 24,25,26,27/3/1975.
Trong khoảng thời gian trên, tôi đã có mặt tại đèo Phước Tường, trên QL1, đèo Hải Vân và Đà Nẵng, nhờ vậy mà tôi biết những điều như sau:

  • 1.Lệnh bỏ đèo Phước Tường và QL1 Bắc đèo Hải Vân do đích thân Tướng TL/QKI Ngô Quang Trưởng ra lệnh lúc 4 giờ sáng ngày 25/3/1975
  • 2. QL1 từ cầu Nong, phía Nam Huế đến đèo Hải Vân trong những ngày 24 và 25 tháng 3/1975 vẫn an toàn để rút quân, ngày 25/3/1975, LĐ.258/TQLC và LĐ.15/BĐQ rút quân trên đoạn đường này đã hoàn toàn yên tĩnh, không một viên đạn lớn nhỏ nào bắn về phía chúng tôi. Tháng 4/2009, tôi đến thăm Đại Tá Nguyễn Năng Bảo, LĐT/LĐ.258, là người có trọng trách bảo vệ đoạn đường này, ông khẳng định: _ “Đoạn QL1 này cho đến ngày 25/3/75 vẫn sử dụng đươc”.
Gần đây, tôi được đọc một điện thư của Đại Úy Nguyễn Quang Đan, chánh văn phòng của TT/TL/SĐTQLC, gửi cho một niên trưởng, nguyên văn như sau:

“Thưa niên trưởng. Một buổi sáng tháng 3/75, tôi quên ngày rồi, tôi đọc lệnh hành quân từ Tướng Thi gửi xuống, tôi trình ngay lên Thiếu Tướng Tư Lệnh và xin ông đọc ngay. Đọc xong, ông: “đ..m..thế này thì chết lính tao rồi!”. Đó là cái lệnh mà Đại Tá Trí đã ghi lại lệnh rút lui của Tướng Thị Sau đó Thiếu Tướng Tư Lệnh đi liên lạc với Đại Tá Trí tại TTHQ/SĐ. Ngày hôm sau, tôi lấy trực thăng bay ra Thuận An đưa tận tay lá thư của TT Lân cho Đ/Tá Lương, kèm theo lời dặn của TT/TL/ SĐTQLC: “Tìm ra quốc lộ 1 mà đi”. Nhưng tiếc thay, Đại Tá Lương lại đi theo HQ cho dễ dàng ..và oan khiên, nhiều người lại đổ lên đầu ông TT/TLTQLC!!! Niên trưởng cũng biết lúc đó mình đã biệt phái LĐ.147 cho Tiền Phương QĐI, Tướng Lân không được phép điều động LĐ.147 mà phải đưa tôi lên đèo Hải Vân để liên lạc với các NT 20 thôi. Chuyện còn dài, tôi sẽ kể sau với NT. Kính chào NT. Đan”.
Ngoài ra, cũng theo nguồn tin này, Thiếu Tướng Bùi Thế Lân đã gửi Đại Tá Quế TMT/SĐTQLC qua BTL/HQ vùng I DH để đôn đốc HQ đón LĐ.147 trong trường hợp Đại Tá Lương LĐT/LĐ.147 vì lý do nào đó phải rút quân bằng HQ.
  • 3. Nếu Tướng Ngô Quang Trưởng không cho lệnh rút lực lượng bảo vệ đoạn đường QL1 này và Tướng Tiền Phương Lâm Quang Thi quyết định dùng QL1 để hành quân lui binh thì các ông đã đem về Đà Nẵng toàn bộ lực lượng Tiền Phương, bảo toàn LLTP thì cuộc chiến QKI đã không bi đát như đã xảy ra.
Với con mắt của một người lính chiến, dù là lính chuyên môn, chúng tôi tin tưởng lui binh theo QL1 sẽ bảo toàn được lực lượng tiền phương. Tại sao? Tuy cuộc hành quân lui binh bao giờ cũng khó khăn hơn hành quân tấn công, nhưng trong trường hợp này, QL1 vẫn nẳm trong tay ta và được bảo vệ bởi những đơn vị tinh nhuệ, địa thế dọc theo QL1 từ Huế đến đèo Hải Vân quá quen thuộc với mọi cấp quân cán chính vùng I. Khởi đi Từ Dạ Lê, nơi có BTL/SĐ.1/BB và TTHL/SĐ, qua Phú Bài, Nong, Truồi, Lăng Cô, Hải Vân, Đà Nẵng.

Ngoài ra, các đơn vị yểm trợ hỏa lực như Pháo Binh, Không Quân, Hải Quân vẫn còn đầy đủ, nhất là Hải Pháo, di động dọc theo bờ biển thì có một xạ trường lý tưởng hơn bất cứ chiến trường nào khác. Một yếu tố quan trọng nữa là áp lực địch chưa có gì. Và giả dụ chúng có 2 hay 3 sư đoàn bám theo truy kích thì vẫn không làm gì được với đoàn quân tinh nhuệ của QĐ.ITP, và chính trong giai đoạn này chúng mới là mồi ngon, là bia hứng đạn của những anh hùng Không Quân SĐ.1/KQ, những anh hùng Hải Pháo của HQ vùng I. Với tất cả những yếu tố đó, dù là kinh nghiệm của một người lính, chúng tôi cũng thấy dùng QL1 làm trục lui binh là hợp lý là khả thị QL1 không phải và không bao giờ có thể giống như Liên Tỉnh Lộ 7 của QKII được.

Vậy tại sao Tướng Tư Lệnh Tiền Phương QĐ.I Lâm Quang Thi lại quyết định chọn lui binh bằng HQ tại bãi biển Thuận An để toàn bộ lực lượng Tiền Phương QĐI của ông tan rã! Một vị tướng tiền phương tài ba có tất cả những lý do để ông chọn đường lối lui binh qua ngả Thuận An, xuôi Nam để về Đà Nẵng, mà yếu tố quyết định sống chết vẫn là cái CẦU PHAO tại cửa Tư Hiền.

Dĩ nhiên ông và các phụ tá của ông biết những yếu tố cần có để thiết lập cầu phao, đặc biệt là Công Binh và HQ. Vậy mà nó không có! Đó là điều chúng tôi không thể hiểu nổi nên mới tâm sự với những đồng đội của tôi đã sống sót từ bãi cát bờ biển Thuận An nhân dịp ông Tướng xuất bản cuốn “Hell In An Lộc”.

Trong hồi ký “Ngày Tháng Không Quên: 8/3/75-30/4/75″, Đại Tá Nguyễn Thành Trí TLP/SĐTQLC kiêm Tư Lệnh Lực Lượng Tây- Bắc Huế, sau khi họp với Trung Tướng Lâm Quang Thi, Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Điềm TL/SĐ.1BB, Đại Tá Lê Ngọc Hy TMT/TP, Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ TKT/Thừa Thiên cùng có nhận định khó bảo vệ được Huế nên Tướng Thi đề nghị rút quân khỏi Huế lên Tướng Trưởng như sau: “Lực lượng Tây-Bắc do tôi chỉ huy sẽ rút về Thuận An, sau đó di chuyển về cửa Tư Hiền. Tại đây Hải Quân và Công Binh QĐ.I sẽ phối hợp thiết lập cầu phao để các cánh quân vượt sông nhanh chóng và dễ dàng.

Lữ Đoàn 468/ TQLC từ đèo Hải Vân sẽ cử một đơn vị đến chiếm núi Vĩnh Phong để bảo vệ điểm vượt sông đồng thời làm thành phần tiếp đón SĐ.1/BB do Tường Điềm chỉ huy sẽ rút theo trục quốc lộ 1 và sẽ tập trung về điểm vượt sông song song với cánh quân TQLC. Tất cả các vật liệu nặng, pháo binh, chiến xa không thể di chuyển hay vượt sông được, đều phải được phá hủy tại chỗ.”.(TT2/TQLC, trang 538).

Sau đó thì Tướng Thi chỉ định Tướng Điềm và Đại Tá Hy bay trực thăng vào Đà Nẵng đệ trình kế hoạch rút quân khỏi Huế lên Tướng Trưởng, còn Đại Tá Nguyễn Thành Trí thì thông báo ngay cho các đơn vị trực thuộc biết để chuẩn bị tinh thần, tổ chức gọn gàng và sẵn sàng thi hành khi có lệnh. Ông viết tiếp:

_ “Khoảng 1730 giờ, Đại Tá Hy đáp trực thăng đến và trao cho tôi công điện mang tay. Ông nói thêm là công điện này xác nhận việc thi hành kế hoạch rút quân như đã bàn thảo khi trưa tại BCH Hải Quân. Tôi ra lệnh cho các đơn vị sẽ bắt đầu thi hành kế hoạch như đã thông báo vào lúc 1800 giờ. Suốt đêm theo dõi tùng cánh quân rút về mà lòng se lại! Những người lính Mũ Xanh ấy đến giờ phút chót vẫn giữ vững tay súng, đẩy lui từng đợt xung phong của quân thù mưu toan lấn chiếm chia cắt. Chưa có vị trí nào bị mất trên hành lang sông Bồ hay Hiền Sĩ, Cổ Bị Địch chưa hề thực hiện nổi mộng cắt ngang An Lỗ để ngăn đôi Quảng Trị Huế. Nhưng giờ đây mọi người phải rút đi như những kẻ thua cuộc!”( TT2/TQLC trang 538).

Cùng với ĐạiTá Tư Lệnh Phó SĐTQLC, các tiểu đoàn trưởng thuộc quyền như Thiếu Tá Phạm Cang TĐT/TĐ.7, Thiếu Tá Phạm Văn Tiền TĐT/TĐ.5, các Đại Đội Trưởng, Trung Đội Trưởng như Cao Xuân Huy, Phan Văn Đuông, Toàn, Minh v.v.. đã ghi lại những đoạn đường chiến binh máu và nước mắt của các anh trong giai đoạn bị bắt buộc phải rút quân này.

Các Tiểu Đoàn 3,4,5/TQLC, TĐ.2PB, Đại Đội Viễn Thám đang ở thế thượng phong đối đầu với các trung đoàn CSBV tại Quảng Trị thì nhận được lệnh rút quân hỏa tốc về cửa Thuận An lúc 6 giờ chiều ngày 24/3/1975! Họ đoạn chiến với địch, rút ra QL1. Trở ngại thứ nhất là rút quân hỏa tốc trên đoạn đường dài hơn 30 km, không có phương tiện chuyên chở nên vũ khí nặng và lương thực phải phá hủy tại chỗ, chỉ còn đem theo vũ khí cá nhân! Trở ngại thứ hai là khi tới bến phà Tân Mỹ, những phà chở quân đã bị kéo sang bên kia bờ phá Tam Giang và bị phá hủy! Các chiến đỉnh của HQ và LCM của Quân Vận cũng đã bỏ đi! Tại đây một số anh em TQLC phải bỏ tiền túi thuê ghe go. của dân để qua phá. Riêng TĐ.7/TQLC đóng tại Hương Điền, gần với Thuận An nên quân số và vũ khí được bảo toàn. Lúc 8 giờ sáng ngày 25/3/1975, tất cả lực lượng TQLC thuộc LĐ.147 đã tập trung đầy đủ tại bãi biển Thuận An để chuẩn bị suôi Nam, đi về cửa Tư Hiền như lệnh của Tướng Tư Lệnh Tiền Phương.

Nhưng cuộc lui binh của LĐ.147/TQLC đã không thực hiện được vì 3 yếu tố “KHÔNG” sau đây:
- Không có cầu phao tại cửa Tư Hiền!
- Không có các giang đoàn và duyên đoàn bảo vệ bãi biển Thuận An.
- Không có KQ, HQ yểm trợ, tiếp viện và tiếp tế cho LĐ. 147/TQLC.

  • 1/-Không có cầu phao! Cầu phao bắc qua của Tư Hiền đã không được thực hiện như trong lệnh hành quân! Cầu phao này thuộc trách nhiệm của Công Binh QĐI và HQ. Không cầu phao làm sao đưa quân sang sông vượt cửa Tư Hiền! Thế là Lực Lượng Tiền Phương của Tướng Thi “chết đứng” trên bãi biển. Không rõ số phận các đơn vị khác ra sao nhưng vào lúc 10 giờ 30 sáng ngày 25/3/1975 thì LĐ.147/TQLC của Đ/Tá TQLC Nguyễn Thế Lương nhận được lệnh từ QĐ.1TP:
_ “Dừng quân trên bãi biển phía Nam cửa Thuận An để tàu HQ vào đón”.

Thời điểm 10.30 sáng 25/3/1975 tình hình còn yên tĩnh, LĐ. 147/TQLC dàn quân phòng thủ trật tự để chờ tàu. Ngoài khơi một tàu lớn bỏ neo, người từ trong bờ còn trông rõ chữ HQ 801, như vậy khoảng cách không xa, ngoài ra còn 5 chiếc LCM chạy vòng vòng còn TQLC trên bờ thì vẫn chờ, và chờ tới 5 giờ chiều mà vẫn không có tàu nào vào đón, và địch quân đã đến bao vây quân ta trên bãi cát!

Hơn 6 tiếng đồng hồ chờ đợi, nằm ôm súng ngắm tàu diễn hành và cũng là khoảng thời gian cần và đủ để địch đuổi kịp quân ta và dĩ nhiên bãi đáp đã mất an ninh.

Theo hồi ký “Can Trường Trong Chiến Bại”, Phó Đ Hồ Văn Kỳ Thoại, TLHQ vùng I Duyên Hải thì trong các ngày 24,25,26/3/1975, ông đã thành lập Liên Đoàn Đặc Nhiệm do Trung Tá Lê Thành Uyển chỉ huy. Liên Đoàn này gồm có 8 chiến hạm và 4 chiến đỉnh để bảo vệ vùng biển Thuận An. Ngoài ra tại đây ông còn có 4 LCU và 18 LCM8, cả hai là loại tàu đáy bẳng, có thể vào sát bờ (LCU chở được 400 quân, LCM8 chở được 200). Và xin nghe tướng Hồ Văn Kỳ Thoại giải thích lý do HQ không vào đón TQLC được trong ngày 25/3 như sau:

- “Vì sóng biển cấp 2, sóng cao từ 1/2 đến 1m và bờ biển có sóng ngầm”!

Rồi ông tiếp:
- “Khoảng chừng 100 quân nhân phải dùng phao và ghe nhỏ hoặc bơi ra và được các chiến đỉnh vớt”

Ông Tướng nói thì chúng tôi biết thế thôi! tuy nhiên cũng cám ơn Hải Quân là vào sáng ngày 26/3/1975 đã có một chiếc LCU vào đón được BCH/LĐ.147, tử sĩ và thương binh cùng một số TQLC. Rủi thay LCU này bị trúng hỏa tiễn AT3 của VC khiến một số tử thương và bị thương, trong đó có Đại Tá Lương bị thương vào chân, còn chiếc LCU thứ 2 thì bị mắc cạn và KHÔNG CÒN chiếc nào vào nữa. Cũng đúng thôi, theo lệnh hành quân, tầu vào bờ đã trễ hơn một ngày, dư thời gian cho CSBV nhắm AT3 và đủ mọi loại vũ khí vào TQLC và tàu HQ! “Chiến trường mỗi phút giá đáng ngàn sinh mạng đấy các ông ơi!”

Trong hồi ký “Can Trường Trong Chiến Bại”, PĐ Thoại không nói gì đến nỗ lực của HQ về việc thiết lập cầu phao tại cửa Tư Hiền trong ngày 24/3/1975, như Tướng Tư Lệnh TP đã nói trong lệnh hành quân mà ông chỉ nói đến nỗ lực này trong ngày 26/3/1975! Quá trễ rồi! Ngoài ra PĐ có đề cập đến một chi tiết khá lạ: trang 200 và 204 ông Tướng cho biết: Tướng Thi và bô. Tham Mưu của ông khoảng 100 người lên soái hạm HQ5 vào buổi trưa ngày 24/3/75, tại đây Tướng Thi ra lệnh cho Tr/Tá Uyển, chỉ huy liên đoàn đặc nhiệm, bằng tiếng Mỹ: “Go South”. Nhưng không được Tướng Thoại chấp Thuận. Lúc 4 giờ 20 chiều ngày 25/3/75, Tướng Thi lên HQ715 để về Đà Nẵng! Chúng tôi mong rằng chi tiết này không có thật, vì tôi tin rằng không có một ông Tướng nào có thể bỏ cả một đạo quân dưới quyền đang lâm nguy.

  • 2/Không có lực lượng bảo vệ bãi biển Thuận An! Bãi biện Thuận An có thể ví như một cù lao nổi lên trên mặt nước. Phía trước là biển Đông, phía sau là đầm Thủy Tú, đầm Hà Trung và Phá Tam Giang, phía Bắc là cửa Thuận An, phía Nam là cửa Tư Hiền, (hai cửa này là nơi thông thương giữa biển và các đầm kể trên, bề ngang của hai cửa này rộng trung bình từ 200m đến 500m.). Khu vực này theo Tướng Thoại thì được bảo vệ bởi 2 Giang Đoàn và 2 Duyên Đoàn vậy mà trong chiều ngày 25/3/75 quân CSBV ung dung, không tốn một viên đạn đã vượt qua đầm, qua sông để bao vây bãi biển Thuận An, nơi LĐ.147/
TQLC tập trung để HQ vào đón như lệnh của QĐITP lúc 10 giờ 30 sáng 25/3/1975! Lực lượng bảo vệ đã đi đâu? và theo lệnh của ai?
  • 3/Không có KQ, HQ yểm trợ và tiếp tế khi bị bao vây! Theo lệnh QĐ.I/TP lúc sáng ngày 25.3, LĐ.147/TQLC chờ tầu trên bãi cát, vì không có hai yếu tố 1 và 2 kể trên nên đã bi. CSBV đuổi kịp, bao vây và tấn công! VC chiếm các đồi cao với đầy đủ vũ khí nặng nhẹ, TQLC với súng cá nhân, họ nằm phơi mình trên bãi cát trống trải! Chuyện gì sẽ xẩy ra?
a/ Họ đã bị bỏ rơi trước mắt một lực lượng Hải Quân vùng I/Duyên Hải của Tướng Thoại vô cùng hùng hậu với hỏa lực Hải Pháo kinh hồn, những khẩu đại pháo đã không khai hỏa!

b/ Họ đã bị bỏ rơi khi trên trời có cả một SĐ1/KQ của Tướng Khánh với bao nhiêu phản lực xé gió, bao nhiêu trực thăng võ trang! Trực thăng nhiều đến độ không còn chỗ chứa phải di tản bớt về các phi trường phía Nam! Lính TQLC mơ thấy từng phi đoàn phản lực, hàng đàn trực thăng võ trang đến yểm trợ, tiêu diệt VC đang phơi mình trên đồi cát. Nhưng không, đó chỉ là giấc mơ còn thực tế là những đàn chim biển, những con hải âu bay lượn thảnh thơi, vô tình, vô tư kiểu “Sống chết mặc bay”!

LĐ.147/TQLC hoàn toàn bị bỏ rơi trên bãi biển, nước mênh mông mà không có một giọt nước để uống tương tự như có hỏa lực hùng hậu KQ, HQ mà phải đi lượm từng viên đạn M16 rơi trên bãi cát để tự vệ và tự tử! Sự thật là vậy đó thưa quý vi. Tư Lệnh Tiền Phương, TLKQ, TLHQ vùng I. Cho đến chiều ngày 26/3/1975, không còn đạn để tự vệ, họ đã “tiết kiệm” bằng cách chỉ dùng một trái lựu đạn M26 để mà tự sát tập thể! Và đã có nhiều cuộc tự sát tập thể như vậy! Ngoài khơi, trên cao làm sao quý vị nghe được những tiếng nổ này của M26! Sức cùng lực kiệt, tất cả những gì còn lại của LĐ.147/TQLC đã bi. CSBV bắt trói sớm hơn ! giống như Tổng Thống “một ngày” khi ông ra lệnh bàn giao QLVNCH cho CSBV! Những người lính TQLC đổ bao nhiêu xương máu và nước mắt nơi địa đầu giới tuyến, lính Tổng Trừ Bị bị sử dụng làm quân địa phương giữ đất cho QKI, thì vào lúc 3 giờ sáng ngày 27/3/1975 đã bị tan hàng một một cách đau đớn không vì địch quân mà vì chính những người... vắt chanh!

Sự tan rã Lực Lượng Tiền Phương QĐ.I nói chung và LĐ. 147/TQLC nói riêng là hậu quả tất yếu đưa đến QĐ.I phải bỏ Đà Nẵng vào sáng 29/3/1975.

Thưa Tướng Tư Lệnh Tiền Phương QĐI. Được biết trường đại học University of North Texas vừa xuất bản cuốn sách “Hell in An-Lộc” do chính ông viết bằng Anh Ngữ, cuốn sách nói về trận chiến An Lôc năm 1972. Tuy ông không chỉ huy hay có mặt tại chỗ, nhưng ông đã sưu tầm tất cả dữ kiện để viết “Hell in An Lộc”, để nói cho người Mỹ hiểu rõ về tinh thần chiến đấu anh dũng của Quân Đội VNCH không như một số truyền thông phản chiến đã có định kiến sai lạc bất lợi cho chúng ta về cuộc chiến này. Cuốn sách “Hell In An Lộc” được nói đến nhiều nhưng cá nhân chúng tôi không dám có ý kiến khi tôi chẳng biết gì về trận chiến ở đó cả, nhưng chúng tôi đã có mặt, đổ máu và nước mắt từ Quảng Trị, Huế và chỉ rời Đà Nẵng vào 8 giờ sáng ngày 29/3/1975 tại bãi biển NON NƯỚC nên chúng tôi mong ước Trung Tướng Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn I viết một cuốn sách về trận chiến do đích thân Trung Tướng chỉ huy, cuốn sách được viết bằng chữ quốc ngữ (Việt Nam) để những người lính chúng tôi, dù đã khuất hay sắp khuất đọc và biết được những khó khăn trong cuộc chiến tại đây đưa đến hậu quả cả một đoàn quân tinh nhuệ đứng khoanh tay, chịu trói!

Thưa Trung Tướng Tiền Phương. Với cái nhìn hạn hẹp của một người lính về tình hình và địa thế thì tôi cứ thắc mắc cho tới ngày nay rằng tại sao:

  • a/ Tư Lệnh không cho Lực Lượng Tiền Phương QĐ.I lui binh theo đường bộ, lấy QL.1 làm trục chính? Như tôi đã trình bày từ đầu bài viết này, những điểm quan trọng trên QL1 đều có quân ta trấn giữ và vẫn còn an ninh. Thiết tưởng không cần nêu lên những yếu tố khả thi khi rút theo QL1 và những vô kế khả thi khi đi ra biển mà những con tàu HQ không chịu vào bờ.
  • b/ Khi Tư Lệnh rút lui theo bờ biển hẳn là có lý do gây bất ngờ cho địch và tiết kiệm thời gian di chuyển cho quân ta vì có tàu Hải Quân yểm trợ. Nhưng cái bất ngờ nhất mà Tư Lệnh gặp phải, nguyên nhân chính gây đau thương cho thuộc cấp là cầu phao tại cửa Tư Hiền đã không có, không được Công Binh và HQ phối hợp thực hiện như trong lệnh hành quân! Lý do tại sao? Ai chịu trách nhiệm?
  • c/ Khi cầu phao ở cửa Tư Hiền không được thực hiện thì kế hoạch lui binh của Tư Lệnh thay đổi là Hải Quân vào đón Bộ Binh. Thật là nhanh chóng gọn gàng và chắc chắn thành công nếu như HQ thi hành kế hoạch. Nhưng HQ đã không tuân lệnh! Ở đây chúng tôi không dám thắc mắc với Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại Tư Lệnh HQ Vùng I, vì thực tế hay lý thuyết thì Tướng Thoại vẫn là thuộc cấp của Tư Lệnh QĐ. Vậy thì cái gì khiến Tư Lệnh không điều động được Hải Quân như kế hoạch đã định khiến gần 4000 quân thiện chiến đứng làm bia cho CSBV tập bắn hoặc làm mồi cho cá biển Đông?.
  • d/ Không Quân Việt Nam chiếm ưu thế tuyệt đối trong trận chiến này, SĐ.1 Không Quân của Tướng Khánh vẫn còn nguyên vẹn, hùng mạnh. Vậy mà không có bất cứ một phi vụ oanh tạc nào lên đầu địch quân. Một người lính như tôi còn biết hỏa lực KQ là yếu tố quyết định thành công cho lui binh, vậy thì thưa Tư Lệnh, những phản lực đã bay đi thả bom ở đâu? Những trực thăng bay đi đâu cho đến nỗi không có một chiếc để tải thương và tiếp tế cho đoàn quân đang phơi mình trên bãi biển.?
Mũ Xanh Nguyễn Thế Thụy, âm thoại viên của Tư Lệnh SĐ/ TQLC viết:
_ ” Đại Úy Nguyễn Quang Đan, chánh văn phòng L/SĐTQLC và tôi được lệnh dùng trực thăng của Tư Lệnh chở gạo sấy đề tiếp tế cho LĐ.147 tại bãi biển Thuận An. Chúng tôi cố nhét cho thật nhiều, nhưng chỉ một chiếc trực thăng như thế này thì phải bay bao nhiêu phi vụ để tiếp tế gạo cho gần 4000 người trong khi thời gian thì quá ít. Đến địa điểm, Đại Úy Đan và tôi đẩy những thùng gạo sấy xuống cho các anh em o? dưới rồi quay về gấp làm chuyến khác. Khi chuyến thứ 3 vừa xong, từ Thuận An bay về Non Nước thì phi công báo là trực thăng của Tướng Điềm TL/SĐ.1/BB bị nạn cần cấp cứu, họ xin ý kiến Đại Úy Đan và anh Đan đã OK, mặc dầu không phải nhiệm vụ. Trực thăng đổi hướng phải, rồi hướng Bắc, phát hiện trực thăng Tướng Điềm nằm gần QL1, phía Bắc Lăng Cô chừng 10 km. Khi chúng tôi vừa chạm đất thì phi hành đoàn, Tướng Điềm và một Thiếu tá chạy về phía chúng tôi và cũng là lúc VC từ bìa làng khai hỏa. Chuẩn Tướng Điềm chạy khập khiễng trên cát, chúng tôi đã chạy lại dìu ông lên trực thăng của Lạng Sơn và đưa họ về Đà Nẵng, rồi trực thăng đi đổ xăng và chấm dứt tiếp tế gạo sấy cho anh em”!

Sự thật nó là như thế đấy, bao nhiêu trực thăng đi đâu cả rồi thưa Tư Lệnh? Khốn nạn cho đến nỗi không còn một chiếc nào để tải thương và tiếp tế đạn đươc cho LĐ.147, tiếp tế cho anh em vài thùng gạo sấy để nhai thì phải dùng đến trực thăng chỉ huy của Tư Lệnh TQLC! Và rồi cũng chỉ còn một chiếc trực thăng duy nhất của TL/SĐTQLC đi cấp cứu TL/SĐ.1/BB! Chuyện tưởng đùa mà có thật!

Thưa Tư Lệnh Tiền Phương. Những thắc mắc nêu trên không phải của riêng cá nhân tôi mà của tất cả những quân sĩ dưới quyền chỉ huy của Tư Lệnh mà họ đã nằm lại vĩnh viễn ở “Bờ Biển Thuận An, Pháp Trường Cát”! Của những quân nhân dưới quyền chỉ huy của Tư Lệnh mà họ đã bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn để rồi những tên du kích VC mang dây kẽm gai đến cột chung họ lại với nhau! Tất cả chúng tôi mong ước được nghe Tư Lệnh giải thích hầu chia sẻ với Tư Lệnh những khó khăn mà Tư Lệnh gặp phải, cho dù những khó khăn đó đến từ bất cứ đâu.

Quan trọng hơn nữa là lời giải thích của Tư Lệnh sẽ trả lại uy tín và danh dự cho tất cả các cấp chỉ huy ngoài chiến trường, đánh tan tin đồn của những kẻ vô trách nhiệm ở hậu phương rằng cấp chỉ huy ngoài mặt trận đã bỏ lính!
Dầu sao đối với người Mỹ thì dù Tư Lệnh có giải thích hay không thì chuyện cũng đã thuộc về quá khứ, còn đối với các anh em cựu quân nhân chúng tôi thì vẫn cần và rất cần uy tín của Tư Lệnh nói riêng và các Tư Lệnh khác nói chung vì cuộc chiến cho Việt Nam Tự Do vẫn còn tiếp diễn, cuộc chiến còn thì chúng tôi vẫn cần những cấp chỉ huy có uy tín.

Thay cho lời kết:
Lúc 8 giờ tối ngày 28/3/1975, Trung Tướng Ngô Quang Trươ?ng, Tư Lệnh Quân Khu I, họp các đơn vị trưởng của QĐ.I tại BTL/Hải Quân Vùng I Duyên Hải; Tại đây, ông đã ra lệnh rút bỏ Quân Khu I bằng Hải Quân vào lúc 6 giờ sáng ngày 29/3/1975. Vì chỉ có 10 tiếng đồng hồ để chuẩn bị nên cuộc rút quân này đã diễn ra trong hỗn loạn và ..đẫm máu!

Như vậy, tính từ 6 giờ chiều ngày 24/3/1975, khi các đơn vi. TQLC bắt đầu rút khỏi Quảng Trị cho đến 6 giờ sáng ngày 29/3/1975 khi Trung Tướng Ngô Quang Trưởng bơi ra tàu Hải Quân từ Trung Tâm Hành Quân TQLC trong căn cứ Non Nươc Đà Nẵng, Quân Đoàn I đã bị tan rã trong vòng 4 ngày rưỡi!

Về việc rút quân này, lúc 6 giờ sáng ngày 29/3/1975, trươc khi bơi ra tàu Hải Quân, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đã nói với Đại Tá Nguyễn Thành Trí, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn TQLC một câu đáng để chúng ta và hậu thế suy ngẫm: “Coi như đây là một cuộc tự thoát”! (TT2/TQLC trang 548)
Bằng-Phong.

Tài liệu tham khảo:
1/TT2/TQLC.
2/ Can Trường Trong Chiến Bại của PĐ Hồ Văn Kỳ Thoại.
3/ Street without Joy và Last Reflections of a War của Bernard Fall.

Tướng Lâm Quang Thi trả lời:
Thân gời anh Phạm Vũ Bằng

Trong e-mail anh nói đã đọc quyển “Hai Mươi Lăm Năm Thế Kỷ” xuẩt bản năm 2005. (Tập hồi ký này là bản dịch quyển “The Twenty-Five Year Century” do Viện đại học University of North Texas xuất bản năm 2002, nghĩa là 7 năm trước khi viện đại học này xuất bản tác phẩm “Hell in An Loc.” Tôi nghĩ rằng anh đã viết bài “Những Người Lính Bị Bỏ Rơi” trước khi anh đọc quyển “Hai Mươi Lăm Năm Thế Kỷ” vì quyển sách này có một chương rất dài nói về sự sụp đổ VICT, và vì thế có thể giài đáp những thắc mắc về sự triệt thoái khỏi Huế và Đànẳng tháng 3, 1975.

Tuy nhiên, tôi vẫn trả lời vắn tắt sau đây những thắc mắc của các đồng đội của anh để anh phổ biến đến các anh em này.
Theo tôi thấy thì anh đã nêu lên những thắc mắc chánh sau đây:

a). tại sao không rút lui theo QL1;
b) tại sao không có cây cầu nổi bắt qua Cửa Tư Hiền và Hải Quân gập nhiều khó khăn để bốc LĐ147 TQLC phía nam Thuận An và
c) tại sao không có sự yểm trợ đầy đủ của Không Quân.

Về điểm thứ nhứt, trong quyên “25 Năm Thế Kỷ” (trang 476, 477), tôi đã có tường thuật rằng trong đêm 22 tháng 3, Trung Đoàn 101 của SĐ325 BV, sau nhiều đợt tấn công dữ dội, đã đánh bật TD60 BDQ ra khỏi đồi 500 kế cận phía tây QL1 và vì thế địch quân đã kiểm soát được hành lang Phú Lộc. Sau khi hay tin Đồi 500 đã rơi vào tay địch, tôi gọi Tướng Trưởng và yêu cầu ông chỉ thị LĐ258TQLC đóng phía bắc Đèo Hải Vân phối hợp với LĐ15BĐQ để phản công tái chiếm Đồi 500 và giải tỏa QL1. (Lúc bấy giờ SĐ1BB bung ra quá mỏng và không còn lực lượng trừ bị để phản công). Tướng Trưởng hứa sẽ nghiên cứu những gì có thể làm được, nhưng cuối cùng cuộc phản công, không rõ vì lý do gì, đã không được thực hiện. Và cũng vì vậy cho nên Của Tư Hiền và bải biển Thuận An là đường lui quân duy nhất còn lại.

Kế hoặch triệt thoái của tôi là SĐ1 sẽ di chuyển qua ngã Tư Hiền và LĐ147 sẽ được lực lượng đặc nhiệm HQ – do Saìgòn gởi ra tăng cường QĐI và gồm nhiều chiếc LST (Landing Ship, Tank) – bốc lên ở phía nam Thuận An. Tôi nhấn mạnh với Tướng Trưởng rằng sự triệt thoái SĐ1 chỉ có thể thực hiện với hai điều kiện: (1) một cây cầu nổi phải được bắc ngang Đầm Của Tư Hiền và (2) Núi Vĩnh Phong, cao điểm phía nam cửa Tư Hiền, phải do một đơn vi. TQLC chiếm đóng. Tướng Trưởng hỏi ý kiến của BTM của ông và họ cho là hai điều kiện này có thể thoả mãn được. Chiều ngày 23, Tướng Trưởng họp với Tướng Lân, TL.SĐTQLC, Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, TL.HQVICT, và trung tá chỉ huy trưởng Lữ Đoàn 10 Công Binh. Ông Thoại bảo đảm với Tướng Trưởng rằng ông sẽ cho đánh chìm một chiếc tàu HQ ở
giữa Cửa Tư Hiền để cho SĐ1 di qua và Tướng Lận cũng bảo đảm rằng ông sẽ cho chiếm đóng các cao điểm phía nam cửa Tư Hiền. Nhưng cuối cùng hai nhiệm vụ này cũng không được thực hiện, và điều này đã gây nhiều tổn thất cho các đơn vị rút quân qua ngã Tư Hiền.

Lâm Quang Thi
Mặc khác, rủi ro cho LĐ 147TQLC, các tàu LST của BTL.HQ tăng cường cho QĐI gặp rất nhiều khó khăn cặp bải để đón các anh em vì biển động, sóng to và các bãi biển cạn. Mặc dầu vậy, phần lớn anh em TQLC của LĐ147 đã được bốc về Đà Nẵng trong những ngày 24, 25 và 26 tháng Bạ

Về điểm LĐ147 TQLC không được KQ yểm trợ đầy đủ, dó cũng là hậu quả của việc Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ quân sự cho QLVNCH. Thật vậy, ngày 4 tháng Tư, 1974, Quốc Hội Hoa Kỳ, một lần nữa, cắt viện trợ quân sự cho Nam VN từ 1 tỉ MK xuống còn 750 triệu MK cho tài khóa 1974-1975. Nhưng trong số 750 triệu MK này, 300 triệu dành để trả lương cho nhân viên Văn Phòng Tùy Viên Quân Lực Hoa Kỳ ở Sàigòn. Một điểm đáng được lưu ý là Do Thái nhận được 2 tỷ rưỡi MK viện trợ quân sự trong trận chiến ba tuần Yom Kippur năm 1973. Nói khác đi, trong vòng một năm, NVN nhận được 21% của sự viện trơ. Do Thái nhận được trong vòng ba tuần lễ.

Trong lúc các đơn vị Lục Quân thiếu thốn trầm trọng về xe vận tải và đạn dược thì Không Quân cũng rất thiếu thốn về nhiên liệu và quân dụng thay thế; quân chũng này phải cho nằm ụ tổng số là 224 phi cơ đủ loại: chiến đấu cơ AD6, các phi cơ vận tải C47, và C113. Trong lúc năm 1972, KQ có thể di chuyển một trung đoàn từ Quân Khu này đến Quân Khu khác, năm 1975 KQ chỉ có thể di chuyển vào khoảng một tiểu đoàn mà thôi. Riêng tại VICT, trực thăng khiển dụng chỉ có thể chuyên chở một đại đội Bộ Binh cùng một lúc. Cũng vì thế cho nên không yểm cho các đơn vị chạm địch cũng bị hạn chế rất nhiều. Hơn nữa, trong lúc các đơn vị Bắc Đèo Hải Vân đang rút quân thì hai tỉnh cực nam của VICT đang bị tấn công nặng và có thể bị tràn ngập bất cứ lúc nào. Do đó không yểm của SĐ1 KQ ở Đà Nẵng, vốn đã bị hạn chế, còn phải được xử dụng để yểm trợ cho các đơn vị phía nam VCT.

Tôi hy vọng những chi tiết trên đây sẽ giài tỏa những thắc mắc của anh em TQLC. Trưóc khi chấm dứt, tôi có đôi lời nhắn nhủ với các chiến hữu. Nhân dịp này, tôi xin nhắc lại lời nói của Tướng Charles De Gaulle của Pháp trong kỳ Đệ II Thế Chiến. Sau khi rút tàn quân Pháp qua Anh Quốc để chờ ngày trở về giải phóng quê hương, Tướng De Gaulle tuyên bố một câu bất hủ: “Nous avons perdu une bataille, mais nous navons pas perdu la guerre” (Chúng ta đã thua một trận đánh, nhưng chúng ta chưa thua cuộc chiến tranh).

Chúng ta cũng vậy; chúng ta đã thua một trận đánh năm 1975, nhưng cuộc Chiến Tranh VN còn đang tiếp diễn duới mọi hình thức. CSVN hiện nay đang đứng trên bờ vực thẩm vì chúng đang phải đương đầu với những bế tắc không lối thoát trên phuơng diện kinh tế và chánh trị. Vì thế, nếu chúng ta tiếp tục xử dụng quyền lực kinh tế và chánh trị càng ngày càng tăng gia của Cộng Đồng VN Hải Ngoại để gây ảnh hưởng có lợi cho cuộc chiến đấu của chúng ta; nếu chúng ta tiếp tục khai thác các phưong tiện truyền thông hiện đại để khuyến khích và giúp đở người dân trong nước đứng lên đói quyền sống của mình; nếu chúng ta tiếp tục khuyến khích các thê hệ hậu duệ mạnh dạn dấn thân vào hệ thống chánh trị các xứ tạm dung để tiếng nói chúng ta càng ngày được lắng nghe, thì tôi tin chắc rằng cuộc Chiến Tranh VN Thứ Hai, cuộc chiến tranh để đem lại tự do, dân chủ, và nhân quyền cho quê hương VN, cuộc chiến tranh này nhứt định chúng ta sẽ thắng.

Lâm Quang Thi
ongvove.wordpress.com
http://www.haingoaiphiemdam.com/Bai-Post-Cuoi-Ngay-Nhung-nguoi-linh-bi-bo-roi-14666
======================

Lữ Đoàn 147: Từ một cuộc di tản chiến thuật 1975
https://ongvove.wordpress.com/2009/04/24/l%E1%BB%AF-doan-147-t%E1%BB%AB-m%E1%BB%99t-cu%E1%BB%99c-di-t%E1%BA%A3n-chi%E1%BA%BFn-thu%E1%BA%ADt-1975/ 

LTG: Bài viết này xin dành tặng các chiến hữu TQLC, những người vì nhiều lý do đã không hiện diện tại mặt trận phía Bắc vùng đất trách nhiệm của SĐ/TQLC vào những ngày cuối cùng tháng 3 năm 1975 buồn thảm. Tôi kể lại những gì mắt thấy tai nghe về những đau thương, mất mát, cay đắng, nghiệt ngã của cuộc lui binh lịch sử ngoài khả năng hiểu biết của một người lính mà sự khổ đau, thua thiệt chịu đựng quá nhiều, còn niềm hy vọng sống còn chỉ là điều hiếm mọn ít ỏi.

Đầu tháng 3 năm 1975, CS Bắc Việt dốc toàn lực lượng tấn công hầu cưỡng chiếm toàn bộ miền Nam. Bình Long, An Lộc thất thủ. Thị xã Ban Mê Thuộc sau đó cũng bị bỏ ngõ hoàn toàn với sự rút quân ồ ạc như nước vỡ bờ của Quân Đoàn 2 về Nha Trang và nhiều nơi khác. Trong khi đó phòng tuyến phòng thủ phía Bắc do SĐ/TQLC đảm trách vẫn còn là một vùng đất yên tĩnh trong sự cẩn thận, dè dặt chờ đợi lẫn nhau. Sau sự phối hợp nhịp nhàng của 2 SĐ tổng trừ bị thiện chiến nhất là Nhảy Dù và TQLC, với thế đánh gọng kìm liên tục từ 2 phía Đông Tây, đã buộc địch phải tháo chạy với nhiều tổn thất nặng nề, bằng chiến thắng t1i chiếm Cổ Thành Quảng Trị ngày 14-9-72. SĐ Nhảy Dù được điều động về mật trận Đức Dục, Quảng Nam.

SĐ/TQLC ở lại chịu trách nhiệm trên một tuyến khá rộng trải dài từ bờ biển Đông sang tận những mỏm núi tận cùng phía Tây thuộc dãi Trường Sơn, qua các vùng Mỹ Thủy, Long Quang, Bích La, Triệu Phong, Nam sông Thạch Hãn, Như Lệ, Tích Tường, La Vang, Động Ông Đô, Barbara, Anne, Cổ Bi, Hiền Sĩ, Thanh Tân, Lồ Ồ… Liên đoàn 911 và các đại đội biệt lập ĐPQ tiểu khu Quảng Trị được đặc dưới quyền điều động của BTL/SĐ/TQLC hành quân trong việc phòng thủ này.

Mặc dù là đơn vị được giao nhiệm vụ phòng thủ, nhưng SĐ/TQLC vẫn luôn chứng tỏ khả năng cơ động tấn cộng tận sào huyệt địch, như cuộc đổ bộ vượt sông Thạch Hãn của TĐ6/TQLC vào tháng 10 năm 72, cuộc hành quân thần tốc tái chiếm cửa Việt tah1ng 1 năm 1973 trước giờ ngưng bắn có hiệu lực của hiệp định Paris và đạc biệt Lữ Đoàn 258 TQLC đã hạ một tàu vận tải lớn tiếp tế địch đang mon men ngoài khơi bờ biển Mỹ Thủy tháng 6 năm 1973. Ngược lại, địch quân chưa có lần nào dám liều lĩnh tấn công vào các đơn vị TQLC. Có chăng chỉ là những hành động phá hoại lén lút, đặc công, giật mìn lẻ tẻ trên các trục lộ giao thông tiếp tế. Phải nói rằng đây là phòng tuyến phòng thủ vững chắc nhất, thưà sức ngăn chận mọi cuộc xâm lăng từ phương Bắc xuống của CS Bắc Việt.

Do tình hình xáo trộn chung của đất nước và vì nhu cầu đòi hỏi cấp bách của chiến trường lúc này, bộ TTM – QLVNCH đã quyết định điều động phân lớn các lục lượng TQLC về Nam gồm các LĐ-258, LĐ-369 và LĐ-486 vừa mới được thành lập. LĐ-147 do Đại Tá Nguyễn Thế Lương chỉ huy gồm các Tiểu đoàn 3, 4, 5, TĐ Pháo binh, 2 đại đội Viễn Thám và Tiểu đoàn 7/TQLC thuộc Lực Lượng Đặc Nhiệm Tango do Đại Tá Tư Lệnh Phó trực tiếp chỉ huy đang nằm sẵn trên các tuyến. Thay vào lỗ hỏng to lớn trên là 2 Liên Đoàn BĐQ với trang bị quân số thiếu hụt. Đây là khởi điểm cho tất cả sự bỏ ngỏ sau này ở mật trận Bắc Quảng Trị. Mãi đến chiều tối ngày 7/3/1975, địch bắt đầu mở cuộc tấn công đầu tiên thật mãnh liệt vào một trung đội tiền đồn tại đồi 51 thuộc căn cứ Tư Tưởng, hướng Tây Quốc Lộ 1, cây số 23. Đơn vị này được chỉ huy bởi Trung Úy Sàng ĐĐP/ĐĐ1 tiểu đoàn 4 TQLC đã chiến đấu thật can cường, đẩy lui nhiều đợt xung phong biển người của địch. Lần liên lạc sau cùng qua máy PRC-25 vào lúc 4 giờ sáng, anh đã yêu cầu pháo binh chụp thẳng trên đầu mình vì vị trí bị địch tràn ngập. Anh đã tử thương sau đó trong cuộc cận chiến bằng lựu đạn với kẻ thù.

Sáng sớm ngày 9/3/75, Thiếu Tá Trần Ngọc Toàn TĐT/TĐ4/TQLC điều động toàn bộ lực lượng còn lại, nhờ có sự yểm trợ thật chính xác của các phi vụ A-37 thuộc không lực vùng I chiến thuật, ta đã hoàn toàn làm chủ tình hình. Xác địch nằm ngổn ngang trong các bãi mìn của hàng rào phòng thủ, một số đồng bọn khác đang lẩn tránh trong các bụi rậm bị ta bắt sống. Cũng cùng trong đêm đó, tại một nơi khác, tiểu đoàn 121/ĐPQ Tiểu Khu Quảng Trị đã tóm nguyên trung đội địch khi chúng tìm cách tiến về hướng quận Hương Điền. Ngày 22/3/75, đoàn xe tiếp tế cuối cùng của đơn vị rời hậu trạm Máng Cá Huế vào vùng hành quân. Chúng tôi được biết hầu hết dân chúng đã di tản vào Đà Nẵng và hậu trạm cũng được BTL/SĐ mang tất cả trang thiết bị về cửa biển Thuận An chờ lệnh. Tôi chỉ thị cho các đại đội thu gọn lại các trang bị và phải gấp rút di tản các thương bệnh binh đi theo chuyến tiếp tế này. Ngày 23/3/75 vào lúc 3 giờ chiều, sau khi đồng loạt pháo kích dữ dội vào tất cả các vị trí, địch từ thượng lưu sông Bồ, xung phong tấn công vào các tuyến của ĐĐ2/TĐ5/TQLC. Vì quá bất ngờ và thiếu cảnh giác nên 2 Trung đội tận cùng cánh trái của đại đội này bị bung tuyến. Tôi liên lạc với Đại-úy Trần Văn Loan ĐĐT hãy cố gắng gom con cái lại và chỉnh đốn đội hình, đồng thời báo cáo tình hình này về BCH Lữ-đoàn. Đại Tá LĐT ra lệnh là phải bằng bất cứ giá nào cũng phải chiếm lại vị trí vừa mất. Chấp nhận mọi hy sinh thiệt hại, ĐĐ4 của Đại-úy Nguyễn Văn Hai được tăng cường và đã hoàn tất nhiệm vụ vào lúc 6 giờ sáng ngày 24/3/75.

Cũng trong thời gian này, hầu hết tất cả các đơn vị Biệt Động Quân, Địa Phương Quân tự động rã ngũ bỏ tuyến phòng thủ Bắc Quảng Trị kéo về Huế thật hỗn độn. Thị xã Quảng Trị coi như bị bỏ ngỏ hoàn toàn. Tiểu đoàn 4/TQLC được điều động về làm nút chặn tại phía Nam cầu An Lỗ. TĐ7/TQLC trấn dọc sông Mỹ Chánh từ cầu Viên Trình ra biển Đông, phòng tuyến cao nhất phiá Bắc của miền Nam.

Khoảng 4 giờ chiều cùng ngày, nhận dược lệnh về tham dự cuộc họp khẩn cấp tại BCH/LĐ. Đại-tá Lương, LĐT cho chúng tôi biết rõ tình hình tổng quát và nhiệm vụ phải thi hành đêm nay là một cuộc di tản chiến thuật cho tất cả các lực lượng về cửa biện Thuận An, vùng đất từ Bắc đèo Hải Vân trở ra rồi sẽ lọt vào tay địch…Cũng như thành phố Quảng Trị bị vất bỏ một cách vô tội vào sáng hôm nay khi mới chỉ có một vài loại pháo kích lẻ tẻ đâu đó. Thế là hết, còn gì đâu hào quang chiến thắng “Cờ bay, cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu vừa chiếm lại đêm qua bằng máu…” máu của hàng vạn đồng bào, máu của hàng vạn đồng bào, máu của chiến hữu nằm xuống cho vùng đất hồi sinh và ngay bây giờ, từ tối nay Huế cũng sẽ chịu chung số phận. Cố Đô đầy niềm kiêu hãnh tự hào dân tộc rồi sẽ bị nhuộm đỏ bởi lũ người khát máu CS. Hàng trăm nấm mồ chôn sống tập thể còn đó, máu xương mồ hôi nước mắt của bao chiến sĩ QLVNCH còn đây trong lời thề quyết tử bảo vệ cố đô Mậu Thân 1968. Còn đâu nữa những ngày tháng vàng son nhất của người lính chiến nơi tuyến đầu lửa đạn lúc nào cũng hùng dũng hiên ngang. Có nổi đau nào hơn niềm tủi nhục của người lính bại trận.

Việc cần thiết trước nhất là phải làm sao bảo đảm đuợc đơn vị rút lui một cách trọn vẹn, an toàn hầu đủ sức chịu đựng một cuộc dạ hành trên đoạn đường dài gần 30 km. Thiếu-tá Ngô Thành Hữu, Tiểu đoàn phó và Đại úy Gianh Văn Nhân, ban 3 đang chờ đợi tại BCH Tiều đoàn. Chúng tôi cùng đồng ý với nhau bằng một cuộc lui binh trong bí mật, bất ngờ. Tất cả vũ khí nặng, cồng kềnh như 90 ly, súng cối 81 ly, hỏa tiển TOW chống chiến xa, đạn dược và những trang bị nặng nề được lệnh phá hủy tại chỗ hay ném xuống dòng sông. Đại đội 1 của Đại úy Hồ Văn Chạnh đóng chốt từ xa được di chuyển trước, chúng tôi không xử dụng đoạn đường quen thuộc hàng ngày, phải băng qua một xóm nhỏ để đến cây số 17 cầu An Lỗ mà là dọc con đường sắt suôi Nam, rồi sau đó sẽ đổi hướng vế quốc lộ 1 khi các đại đội đã bám sát được với nhau. Đã có chừng cả trăm người lính đủ mọi binh chủng, không còn đơn vị đang tự tập vây quanh 4 chiến xa M48 nằm chơ vơ giữa lộ, nòng súng chĩa thẳng về hướng quân thù, bình thản cười nói vui vẻ như đang tham dự một cuộc dạ hành ngoài trời. Đến trường trung học Hương Trà nằm sát lề Đông quốc lộ, tiểu đoàn dừng lại để kiểm điểm quân số và củng cố lại đội hình. May mà trong tay chúng tôi còn 1 xe Jeep hành quân, cứ thế chạy lên, chạy xuống để “tha” những người lính bết bát, trể nải sau cùng. Điều tưởng như không ngờ, thế mà đã xảy ra một cách thật tội nghiệp cho trung đội Nghĩa Quân quận Hương Trà, tập họp và bị bỏ quên tại đây chờ lệnh thượng cấp từ mấy ngày nay. Người trung đội trường già đến xin tháp tùng cùng chúng tôi. Vài chiếc xe M41 nữa cũng bắt đầu nổ máy rầm rộ tiến giữa đoàn quân. Nhiều đám đông dân chúng hòa lẫn hoặc nối đuôi phía sau họ ra đi từ chợ Cạn, Hội Yên, Vân Trình, Hải Lăng, Mỹ Chánh… từ bgày hôm qua hay sớm hôm nay vì không còn gì để hy vọng vào sự bảo vệ của người lính chúng tôi. Tiếng khóc than vang vọng thấu trời xanh, họ, những kẻ bất hạnh, còn lại sau cùng đang lê lết từng bước một lần mò tìm “tự do” vì một cuộc chủ nghĩa CS bạo tàn. Vài cụ gìà chống gậy, các trẻ thơ vô tội kia rồi sẽ ra sao? Liệu có còn đủ súc hay phải kiệt hơi ngã qụy dọc đường.

Rời ngã ba An Hòa rẽ phải tiến về Huế, thành phố bỏ ngỏ tối tăm rải rác còn lại vài bóng bên đường. Nhiều vết lửa tung tóc lên bầu trời u tối do những trái sáng dược ném từ các toán lính tan hàng mất đơn vị chẳng biết phải làm gì. Súng vẫn nổ lẹt đẹt đó đây hòa lẫn tiếng chó tru vọng ra từ các căn nhà vắng chủ. Phú Văn Lâu vẫn nằm đây bên bờ sông Hương, nhưng còn đâu bóng dáng các con đò quen thuộc hàng ngày. Tiều đoàn bắt đầu tiến quân qua chiếc cầu đúc mới xây bên dưới bến bờ Nam dòng sông, rồi từ đó quẹo trái về Đông, hướng ra biển. Tôi cho xe dừng lại ở phía bên này cầu. chờ đợi cho hết người lính sau cùng. Cảm thấy khá an tâm và một chút hãnh diện về những binh sĩ thuộc quyền, tất cả đều can đảm, hy sinh chịu đựng và luôn tuân lệnh cấp chỉ huy ngay trong những giờ phút nguy hiểm nhất như lúc này. Tôi không nhớ là bao nhiêu lần mình đã nhân danh thẩm quyền để mà ra lệnh cho thuôc cấp xung phong vào chỗ chết. Với 12 năm trong cuộc đời binh nghiệp con số này chắc không ít lắm đâu? Dĩ nhiên là cấp chỉ huy nhỏ, tôi cũng chỉ là kẻ truyền và kiểm soát lệnh và cá nhân mình cũng bị xoay quanh trong các vòng lẩn quẩn ấy! Vài con gió mạnh thổi từ mặt biển vào, cũng nơi đây cây cầu, dòng sông một thời kỷ niệm, tôi bỗng cảm thấy luyến tiếc thèm khác tìm gặp lại một vài nơi chốn quen thuộc lần cuối may ra hình ảnh cũ để nhớ người xưa! Cho tài xế lùi xe lại tiến về hướng đại lộ Trần Hưng Đạo và dự định theo cầu Trường Tiền cũ qua sông. Đường trống vắng chẳng có một chiếc xe nào lai vãng, xa xa trong bóng tối chập chờn, lác đác vài bóng người. Tôi bắt đầu cảm thấy ớn lạnh. Bây giờ ngoài đơn vị TQLC ra, các đơn vị khác chẳng còn gì nữa để mà phân biệt lẫn nhau, qủa thật chẳng còn tình nghĩa gì ràng buộc, nếu có ai đó nổi hứng “bóp cò”.

Có lệnh cho tôi tiến về phía trước để gặp Đại Bàng Long Mỹ (Đại tá LĐT), ông giao cho một sấp bản đồ và thay đổi lộ trình về phía phà Tân Mỹ, đoạn đường từ đầu thôn Vỹ Dạ về cửa biển Thuân An không thể nào nhúc nhích nổi, nhiều dòng người di tản cùng các đơn vị tan hàng đổ về đây với không biết bao nhiêu xe cộ. Thượng sĩ Thương, thường vụ tiểu đoàn, chẳng biết từ đâu mang về vài két bia 33, có lẽ từ khách sạn Hương Giang bỏ trống? Anh nói với tôi:

– Nhậu đi Đại Bàng, đang buồn ngủ mà gặp chiếu manh.
– Thôi nhanh lên mà đi ông ơi! Non nước này mà còn nhậu với nhẹt.

Từ hướng quán cơm Âm Phủ, một người đàn ông già trạc 60 tuổi tìm đến phàn nàn về một số lính vào đập phá, lục lạo nhà của ông ta.
– Coi chừng việt cộng đó Đại Bàng.

Thử hỏi ai mà biết được ai trong thời buổi tranh tối, tranh sáng này, ngay cả toán lính đập phá kia – có điều tại sao trong hoàng cảnh như thế này mà ông ta là kẻ dửng dưng như vậy! Qua khỏi cầu Đập Đá một quãng nữa, bắt đầu tẽ phải vào con đường đất, thôn Vỹ Dạ chìm đấm trong màn đêm u tịch. đó đây leo lét nhiều ngọn đèn dầu từ khắp các miếu thờ, vết tích vàng son của một thời vua chúa. Chó càng lúc càng sủa vang bên những khu vường trống vắng, đoàn quân vẫn tiến đều. Đến khúc lộ bị hư, đành phải vất bỏ xe lại dọc đường.
– Phá hủy xe đi ông thầy.
– Không cần, mình đang di chuyển, không nên gây tiếng nổ.
Lẩm bẩm trong miệng, Liên, tài xế mò vào túi quần lấy ra con dao, cắt hết tất cả dây trong đầu máy xe và quăng bình điện vào một bụi rậm gần đó. Anh cũng không quên hốt thật nhiều cát bỏ vào bình xăng và nói:

– Ai ngu để cho lũ ác ôn xử dụng, mình không dùng, phá hư luôn…hì…hì…

Đến tờ mờ sáng thì toàn thể đơn vị đã có mặt bên này phá Tam Giang mêng mông, nềm vui rạng rỡ trên mặt mọi người. Phải mất thêm 3 tiếng đồng hồ nữa mới đến được bờ bên kia sát biển bằng một số “ghe gọ” của dân còn lại ở xóm chài. Từ lâu mới có một ngày nắng đẹp như hôm nay, bầu trời trong xanh với nhiều tia nắng long lanh chiếu vào mặt biển. Gió vi vu vừa để mơn trớn các con sóng vỗ ì ạch vào bờ. Không còn gì thích bằng ngồi đây, dưới bóng râm của hàng dương xanh thẩm, trên đồi cát, hướng mắt về đại dương bao la, nơi đó nhấp nhô nhiều con tàu như người tình mơn trớn hưá hẹn. Ăn vội ít cơm ở bao gạo xấy còn lại, trong chớp mắt chập chờn, tiếng la khóc, than van còn mãi ám ảnh trong trí tôi trên đường rút chạy sáng hôm nay. Cuộc đời khổ đến thế là cùng!

Tỉnh giấc khi có lệnh cho đơn vị chuẩn bị ra bải bốc để lên tàu. Đó là khoảng 2 giờ ngày 25/3/75. Cả Lữ Đoàn tập họp trên bãi các trắng xóa theo thứ tự sẵn sàng như một cuộc hành quân đổ bộ ngày nào. Đâu phải chỉ việc sắp hàng chờ lệnh lên tàu là xong, địch đã rượt theo ta đêm hôm qua, đã mò sát đít chúng tôi sáng hôm nay, địch đã có mặt bên kia bờ phà, địch đã trà trôn trong đoàn quân. Theo lệnh của mặt trời Papazulu nào đó (Tướng Lâm Quang Thi, TLP/QĐ1!!!), chiếc HQ-801 dành riêng cho TQLC đã chực sẵn cách bờ khoảng 50m. Nhưng đâu phải chỉ có chúng tôi cần sống, còn dân chúng, những người lính mất đơn vị hỗn lộn kia, họ cũng cần cứu vớt như chúng tôi, mà chẳng ai có kế hoạch gì riêng để giúp đỡ họ.

Trong cơn quẫn bách này, không ai cần nghĩ đến ai, chà đạp tranh giành nhau mà sống, mạnh được yếu thua, khi con rắn đã mất đầu chỉ còn lại cái đuôi tha hồ mà ngóc nguẩy. Như sức bật của cáo lò xo, tất cả ùa nhau mà ra tàu, người không biết lội ôm sát người biết bơi, ngụp lặn với tử thần trong sóng nước, vài chiếc xe M-113 lội nước ủi tới đè kên, tiếng rên la gào thét. Một sơn sóng nhồi lên, hai cơn sóng đập xuống, những cái đầu lô nhô, nhiều thân hình chìm lỉm, mất hút trong khi con tàu vẫn nổ máy đợi chờ. Địch đã vượt phá Tân Mỹ, đã có mặt ở cái miếu trên đồi cát đầu làng. Địch đã bắt sống một số lính trễ nải phía sau, địch bắt đầu pháo rải rác khắp nơi trên mặt biển.

Bãi bốc đã không còn an ninh mà trật tự cũng chẳng có. Con tàu đành bất lực rời bến. Để được an toàn hơn, Lữ Đoàn quyết định dời bãi bốc về hướng Nam và bằng đủ mọi cách phải tách rơi đám đông hỗn loạn kia hầu dễ dàng đối phó với tình hình mới. Dọc theo mé nước đầy rẫy xác người, những bộ mặt nhợt nhạt, bất động, ngừng thở theo cơn sóng biển dập vùi, có lạ, có quen. Người dể nhận ra nhất là Đại úy Ân, ĐĐT/ĐPQ Tiểu khu Quảng Trị.

Chúng tôi đã di tản chiến thuật bằng con đường máu ở mặt trận Hạ Lào 1971, đã rời bỏ Đông Hà, Quảng Trị dọc đại lộ kinh hoàng mùa hè đỏ lửa năm 1972. Với sự nguy hiểm cùng cực nhưng tinh thần đâu có quá tuyệt vọng như bây giờ vì dù sao cũng còn chút gì để hy vọng ở đoàn quân tiếp tế phiá sau. Còn ở đây rơi vào tình thế vô cùng tuyệt vọng. Cả nguyên LĐ có hơn 3000 quân, tiến thoái lưỡng nan trong cái túi càn khôn chỉ vỏn vẹn 4 km 2, đang gìơ lưng chịu trận.

Tàu chiến Hải Quân QLVNCH vẫn trương cờ lảng vảng ngoài khơi, nhưng các khẩu đại bác đâu rồi?! Niềm hy vọng mong manh còn nhen nhóm là sẽ được tàu vào đón, nhưng sẽ ưu tiên theo thứ tự nào? Đơn vị nào sẽ phải nằm lại chịu trận và làm vật hy sinh sau cùng? Bóng chiều bắt đầu trải dài trên bãi cát trắng xóa mênh mông để báo hiệu màn đêm buôn xuống. Lữ Đoàn quyết định rải quân phòng thủ. TĐ4 và 7 phụ trách mặt trận Tây, TĐ3 phía Nam, TĐ5 chúng tôi phía Bắc. Đại uý Tô Thanh Chiêu, ĐĐT/ĐĐ2 và Thiếu tá Nguyễn Trí Nam TĐP/TĐ4/TQLC đã hy sinh trong giờ phút thứ 25 này cùng một loạt đạn của tên du kích hèn mhát bắn lén trong khi làm nhiệm vụ điều động quân rải tuyến. Điều đáng thương tâm nhất là hai người vừa mới lập gia đình và cả hai bà vợ đang mang thai. Cái chết thật quái ác, tình cờ bởi bàn tay oan nghiệt của tạo hóa. định mệnh! Tin từ BCH/LĐ cho biết là tàu sẽ vào đón đêm nay hay trễ nhất là sáng sớm ngày mai theo thứ tự như sau: BCH/LĐ, TĐ2PB, TĐ4, TĐ3, TĐ5, TĐ7…Đúng theo sự suy nghĩ dự đoán của chúng tôi, lẽ dĩ nhiên các đơn vị tan hàng hay bị sứt mẻ không còn khả năng chiến đấu thì ưu tiên mang họ đi càn sớm càng tốt để không làm vướng bận các đơn vị còn lại. Nhưng cả BCH/LĐ đi hết thì ai sẽ là người chỉ huy chúng tôi. Điều này thật cần thiết và quan trọng nhất. Cái thứ tự di chuyển mà không một binh thư nào viết ra hoặc chúng tôi chưa hề áp dụng trước đây.

Qua ánh trăng mờ ảo, dòng người bị bỏ lại ban chiều đang ồ ạt kéo về tuyến phòng thủ. Không còn cách gì hơn là phải chận họ lại nằm sát phòng tuyến trong tầm bảo vệ hỏa lực để khỏi làm xáo trộn cho sự điều động chỉ huy của quân bạn bên trong. Súng vẫn nổ đều khắp nơi và chẳng có con tàu nào cập bến. Trăng vẫn lên ca, khuya dần. Cùng lúc, vài tốp người xé lẻ, hèn nhát tách bến rã ngũ ra khơi.

Rạng sáng ngày 26/3/75, khi ánh bình minh vừa ló dạng ở phương Đông thì con tàu cùng thủy thủ đoàn cũng bắt đầu tiếp tục nhiệm vụ, ủi thẳng vào bờ theo sự điều động của BCH. Đã có chuẩn bị sắp xếp từ trước, nên việc di chuyển lần này tương đối trật tự hơn. Ưu tiên vẫn là BCH/LĐ và các thương phế binh từ các đơn vị mang đến. Địch thừa thắng xông lên cố ra sức đánh vào đầu chúng tôi những đòn thù chí tử. Đây là điều nghiệt ngã nhất của chiến tranh, có vay có trả. Chúng tôi đã diệt gọn nguyên trung đoàn 48 địch một cách không thương tiếc khi quét sạch chúng ra khỏi hang cuối cùng tại cổ thành Quảng Trị. Những vòng sắt oan nghiệt của đoàn chiến xa M48 và M41 đã nghiền nát vô số lính CS Bắc Việt, sinh Bắc tử Nam, qua các dãy địa đạo ngầm trong hầm khi tấn công tiến vào cửa Việt. Pháo địch cùng lúc càng mãnh liệt hơn và chiếc tàu nằm chình ình giữa biển khơi vẫn là mục tiêu tốt nhất để chúng điều chỉnh tác xạ ngắn, dài… Một cục lửa, hai cục lửa, rồi quá nhiều cục lửa của loại hỏa tiễn tầm nhiệt AT3 rải rác đó đây. Có cái rớt ngay dòng người di tản ngụp lặn theo sóng nước. Có cái trúng thẳng vào thân tàu. Con tàu chòng trành nhổ neo tách bến. Để bớt căn thẳng, tôi chui ra khỏi hố trú ẩn làm một vùng quanh tuyến. Những vệt sáng của lằn đạn đạo thẳng cùng nhiều quả đạn pháo kích đan chéo nhau vi vút trong gió biển. Các khẩu súng cối 60 ly và phóng lựu M79 của ta đáp lễ cầm chừng, không khả năng nhiều lắm nhưng cũng để chứng minh rằng “vẫn đang có ta đây“.

Dọc theo mé nước sát biển, thầy trò Thiếu tá Võ Đằng Phương, TĐT/TĐ2/PB/TQLC, Đại uý Lê Tự Hào cùng một vài người lính đang gấp rút xử dụng các mũ sắt của mình để cào cào moi hố. Họ là những người sau cùng bị sót lại khi hầu hết đơn vị mình đã được lên tàu.

– 207 đây 416 gọi. Anh ở lại take care con cái.
– Vâng! Nhận rõ 416!

207 là biệt hiệu của Thiếu tá Phạm Cang TĐT/TĐ7/TQLC, người thâm niên và giỏi nhất trong đoàn bạn tôi. Còn 416 là danh xưng của Trung tá Nguyễn Đằng Tống LĐP/LĐ147.

Nắng chiều nhạt dần, sóng biển rì rào và bờ cát lại trống vắng đến lạnh lùng, không còn một bóng người lai vãng, họ đang chiến đấu ở tuyến đầu, họ tránh núp đạn dưới hố sâu, họ hối tiếc, thèm thuồng về một con tàu khác. Các đại đội lại thêm một số bị thương, lại thêm vài người chết nữa. Đạn dược, lương thực cạn dần trong khi chúng tôi cố hết sức giữ vững tinh thần binh sĩ bằng cách liên lạc máy thường xuyên với các đại đội. Cảm giác bị vất bỏ bắt đầu nhen nhúm trong ý nghĩ mình, nhưng tôi vẫn chưa dám tin rằng điều này có thật, vì nếu như vậy thì còn thể thống gì đến quân đội và tổ quốc mà biết bao người đã hết lòng yêu thương và phục vụ. Mò mẫm vào cuốn đặc lệnh truyền tin, tôi vận máy qua tần số BTL/SĐ đang ở đâu trên đèo Hải Vân, với trạm liên lạc chuyển tiếp giữa Huế và Đà Nẵng. Người tiếp tôi là Đ/U Đan, tùy viên tư lệnh:

– Đại Dương, cho tôi xin gặp Lạng Sơn (biệt danh của Thiếu tướng Bùi Thế Lân, tư lệnh SĐ/TQLC).
– Lạng Sơn đang bận lắm. Có gì ông anh nói, tôi sẽ chuyển.
– Nhờ Đại Dương trình với Lạng Sơn cho chúng tôi lệnh kế tiếp.
– Ở đây cũng đang lu bù lắm, không ai có thể giúp gì được cho ông anh. Tốt hơn hết là self-service. Good luck ông anh!

Mặt mày tối tâm, xây xẫm, thất vọng, tôi ném ống liên hợp xuống cát…self service… có nghĩa là tự lực cánh sinh, tùy cơ ứng biến, có thể là mạnh ai náy lo, có thể là tan hàng!

Khoảng quá xế trưa, mặt trời Papazulu lại xuất hiện bằng một giọng thật đanh thép, ông ra lệnh cho một chiếc HQ khác, bằng bất cứ giá nào cũng phải bốc tiếp chùng tôi. Con tàu lại tách sóng hướng thẳng vào bờ phiá Bắc tuyến phòng thủ chừng 200m. Lần này, TĐ4 sẽ lên tàu dưới sự sắp xếp chỉ huy của Thiếu tá Đinh Long Thành, tân TĐT của đơn vị này. Bất kể là đơn vị nào, bất cứ là ưu tiên cho ai, thật nhiều đám người từ mọi hướng đổ ập về đây tràn xuống như thác lũ.

Con tàu quá tải tròng trành trên mặt nước, chân vịt ngưng quay nằm bất động vì máy đã hỏng rồi. Lại thêm một đêm nữa rồi sẽ đến với tình thế mỗi lúc một tồi tệ hơn. Phải quyết định ngay bây giờ, nhưng giải quyết bằng cách nào đây? Tôi gọi HS1 Lê Hồng Quảng Nam, người cận vệ thân tín nhất đến, sau khi đã cạo nhẫn bộ râu quai nón của mình, chính nhờ nó mà tôi đã ăn nên làm ra trong đời binh nghiệp và được giấy phép của bộ TTM cấp hẳn hòi với lý do: “uy tín cấp chỉ huy”.

– Anh chuẩn bị cho tôi một ít nước uống và vài gạo sấy để phòng thân.

Nam do dự mếu máo:
– Ông thầy đừng bỏ tụi em, có gì cho tụi em theo với. Thuận, Thành hai hiệu thính viên cũng òa lên khóc.
– Yên trí, thầy trò mình sẽ sống chết có nhau mà.

Đầu óc tôi cứ mãi bị ám ảnh bởi lời đề nghị của Đ/U Đan là ông anh nên “self service”. Nhưng chuyện này cũng có 5, 7 cách khác nhau. Hãy tìm một vài người lính thật khỏe mạnh, bơi nhà nghề, mà phải là dân chuyên đi biển ở Nha Trang hay Phan Thiết, mò vào nhà dân hay dọc theo mé nưóc, tìm sẵn một chiếc ghọ thật tốt, chuẩn bị sẵn sàng, thừa nước đục thả câu sẽ cùng bỏ trốn như loài chuột. Nhưng cũng chẳng phải dễ dàng lắm đâu! Chúng tôi sẽ bị bắn chết bởi đồng đội trước khi nạp mình cho bầy cá mập, hay là tuyên bố hoạch toẹt rõ ràng, đơn vị tan hàng, mạnh ai nấy lo, đâu phải lỗi ở mình. Điều này quá tráo trở và trắng trợn, chẳng còn tình nghĩa gì. Nếu còn sống làm sao dám nhìn lại mặt nhau như Hai Chồn, Pake, Loan Mắt Nhung, Chanh Trọc, Ba Ngành, các ĐĐT lương đen lì lợm, nhậu rượu như uống nước mà đánh giặc rất chí tình. Tôi liên lạc máy với Thiếu Tá Cang TĐT/TĐ7 cùng Thiếu Tá Sử TĐT/TĐ3, chúng tôi cùng đồng ý với nhau là chẳng còn cách nào khác hơn, mở đuờng máu xuôi Nam về cửa biển Tư Hiền còn nước, còn tát.

Nói là mở đường máu chứ thực ra chỉ là cách thối thác cho một sự tan hàng, đường về bít bối, vì nếu có trầy da tróc vẩy đến nơi thì cũng chỉ là vùng trời mây nước mênh mông, ngồi đó chờ nộp thịt cho chằng. Di chuyển cũng theo thứ tự lớp lang, nhưng đội hình chẳng còn. Sức mòn, lực kiệt, súng cầm tay, tinh thần đã mất, đạn dược cũng không, cứ nhắm mắt nhắm mũi mà chạy 1,2,3,4… 1,2,3,4 “đường trường xa con chó nó tha con mèo…” càng xa địch bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Nhiều tiếng nổ chát chúa phía sau, của địch thì ít mà của ta thì nhiều. Những người lính bị thương không còn khả năng thep kịp đoàn quân, bò lết lại với nhau, bung chốt lựu đạn nổ để “thà chết vinh, còn hơn sống nhục”. Đứa con đầu của TĐ3 Sói Biển đang bị một đại đội du kích chận lại, phía trước ùa về, ở sau đựng tới, vô vọng, tuyệt vọng, chưa bao giờ tôi cảm thấy thèm sự sống bằng lúc này, miệng luôn luôn lẩm bẩm xin Phật Trời giá hộ “cùng tắc biến, biến tắc thông”.

Nhóm chúng tôi gồm 5 người tấp vào xóm dân chài, hy vọng sẽ được giúp đỡ bởi tình quân dân cá nước ngày nào, nhưng hiện tại quân đã tan thì tình cũng chẳng còn, mặc dầu đã cố gắng nài nỉ hết sức kể cả tiền bạc thuê mướn, nhưng họ đã từ chối thẳng thừng. Chủ ghe là gã trung niên lực lưỡng, mặt rỗ hoa mè chắc là VC nằm vùng hay du kích gì đó. Thôi thì “tam thập lục kế”, kê súng vào đầu là thượng sách nhất.

Đây là lần thứ hai tôi chạy giặc, lúc nhỏ vào lúc 5 tuổi theo mẹ trốn vào rẫy mỗi lần “mới sớm mai thằng Tây nó bố vào rừng ta quyết trốn”. Và bây giờ sau 26 năm khi đã trưởng thành trong quân ngũ… vẫn còn súng đạn trong tay cùng những chiến hữu bạn bè, tôi phải chạy trốn giặc cộng, thằng chủ nghe đang ngồi với tôi bây giờ là một tên VC chín rõ muời mươi, hắn phá máy cho ghe ngừng, hắn làm dấu chỉ điểm mỗi lần kề sát ghe địch. Nhân (B3), Ngọc (B2) đã làm thịt tại chổ, tôi ngăn không cho, chuyện gì rồi cũng phải tính đường về, nếu nhỡ thì sao!

Chỉ vỏn vẹn mấy ngày phù du mà bao điều biến đổi dồn dập bất ngờ, không biết số phận của tôi và bao nhiêu người khác nữa rồi sẽ ra sao khi ánh bình minh của một ngày mới xuất hiện, hy vọng sống còn chỉ là việc hiếm mọn nhỏ nhoi trong cái chết xảy đến mới là điều chắc chắn. Tờ mờ saág hôm sau, sau khi đã cạn hết nhiên liệu, chiếc ghe đành nằm chênh vênh trên mặt nước mênh mông vùng Tư Hiền, giữa rừng cờ giặc. Xa xa là những dãy núi chập chờn xanh thẳm của đỉnh đèo Hải Vân như réo gọi, mời mọc, thèm thuồng, tiếc rẻ. Và như số phận đã an bài, nhưng rồi cũng có lúc “chí tuy còn mong tiến bước mà sức không kham nổi đọan đường dài, sự nghiệp bao năm đeo đuổi thôi cũng đành gián đoạn từ đây… bởi đâu? do đâu? vì đâu?.

Giã từ vũ khí, ném súng xuống dòng sông định mệnh, ngồi chờ địch đến, đổi đời lịch sử sang trang. Chúng tôi bị trói tay lùa lên bờ. Chúng tôi bị “giải phóng” tất cả quần áo, đồng hồ, dây chuyền, đồ đạc. Một vài người bị dẫn đi xử bắn dã man. Chúng tôi bị xỉ vả, đấu tố làm tay sai cho đế quốc. Chúng tôi không còn là chúng tôi nữa, chỉ vì chúng tôi là chiến sĩ QLVNCH bảo vệ miền Nam tự do, bị bỏ rơi lại phía sau thề sống chết thủy chung và chiến đấu hết mình. Cuộc đời tù đầy của vài ngàn quân cũng bắt đầu từ cái ngày đáng nhớ ấy… 27/3/75 tại một địa danh nhỏ, hẻo lánh, quen thuộc: thôn Vĩnh Lộc, Thừa Thiên, Huế ngay trên tổ quốc thân yêu của chúng tôi.

Mũ Xanh Phạm Văn Tiền


Lữ Đoàn 147: Từ một cuộc di tản chiến thuật 1975

tqlc
LTG: Bài viết này xin dành tặng các chiến hữu TQLC, những người vì nhiều lý do đã không hiện diện tại mặt trận phía Bắc vùng đất trách nhiệm của SĐ/TQLC vào những ngày cuối cùng tháng 3 năm 1975 buồn thảm. Tôi kể lại những gì mắt thấy tai nghe về những đau thương, mất mát, cay đắng, nghiệt ngã của cuộc lui binh lịch sử ngoài khả năng hiểu biết của một người lính mà sự khổ đau, thua thiệt chịu đựng quá nhiều, còn niềm hy vọng sống còn chỉ là điều hiếm mọn ít oi.

thuyquanlucchien
Đầu tháng 3 năm 1975, CS Bắc Việt dốc toàn lực lượng tấn công hầu cưỡng chiếm toàn bộ miền Nam. Bình Long, An Lộc thất thủ. Thị xã Ban Mê Thuộc sau đó cũng bị bỏ ngõ hoàn toàn với sự rút quân ồ ạc như nước vỡ bờ của Quân Đoàn 2 về Nha Trang và nhiều nơi khác. Trong khi đó phòng tuyến phòng thủ phía Bắc do SĐ/TQLC đảm trách vẫn còn là một vùng đất yên tĩnh trong sự cẩn thận, dè dặt chờ đợi lẫn nhau. Sau sự phối hợp nhịp nhàng của 2 SĐ tổng trừ bị thiện chiến nhất là Nhảy Dù và TQLC, với thế đánh gọng kìm liên tục từ 2 phía Đông Tây, đã buộc địch phải tháo chạy với nhiều tổn thất nặng nề, bằng chiến thắng t1i chiếm Cổ Thành Quảng Trị ngày 14-9-72. SĐ Nhảy Dù được điều động về mật trận Đức Dục, Quảng Nam. SĐ/TQLC ở lại chịu trách nhiệm trên một tuyến khá rộng trải dài từ bờ biển Đông sang tận những mỏm núi tận cùng phía Tây thuộc dãi Trường Sơn, qua các vùng Mỹ Thủy, Long Quang, Bích La, Triệu Phong, Nam sông Thạch Hãn, Như Lệ, Tích Tường, La Vang, Động Ông Đô, Barbara, Anne, Cổ Bi, Hiền Sĩ, Thanh Tân, Lồ Ồ… Liên đoàn 911 và các đại đội biệt lập ĐPQ tiểu khu Quảng Trị được đặc dưới quyền điều động của BTL/SĐ/TQLC hành quân trong việc phòng thủ này. Mặc dù là đơn vị được giao nhiệm vụ phòng thủ, nhưng SĐ/TQLC vẫn luôn chứng tỏ khả năng cơ động tấn cộng tận sào huyệt địch, như cuộc đổ bộ vượt sông Thạch Hãn của TĐ6/TQLC vào tháng 10 năm 72, cuộc hành quân thần tốc tái chiếm cửa Việt tah1ng 1 năm 1973 trước giờ ngưng bắn có hiệu lực của hiệp định Paris và đạc biệt Lữ Đoàn 258 TQLC đã hạ một tàu vận tải lớn tiếp tế địch đang mon men ngoài khơi bờ biển Mỹ Thủy tháng 6 năm 1973. Ngược lại, địch quân chưa có lần nào dám liều lĩnh tấn công vào các đơn vị TQLC. Có chăng chỉ là những hành động phá hoại lén lút, đặc công, giật mìn lẻ tẻ trên các trục lộ giao thông tiếp tế. Phải nói rằng đây là phòng tuyến phòng thủ vững chắc nhất, thưà sức ngăn chận mọi cuộc xâm lăng từ phương Bắc xuống của CS Bắc Việt.

Do tình hình xáo trộn chung của đất nước và vì nhu cầu đòi hỏi cấp bách của chiến trường lúc này, bộ TTM – QLVNCH đã quyết định điều động phân lớn các lục lượng TQLC về Nam gồm các LĐ-258, LĐ-369 và LĐ-486 vừa mới được thành lập. LĐ-147 do Đại Tá Nguyễn Thế Lương chỉ huy gồm các Tiểu đoàn 3, 4, 5, TĐ Pháo binh, 2 đại đội Viễn Thám và Tiểu đoàn 7/TQLC thuộc Lực Lượng Đặc Nhiệm Tango do Đại Tá Tư Lệnh Phó trực tiếp chỉ huy đang nằm sẵn trên các tuyến. Thay vào lỗ hỏng to lớn trên là 2 Liên Đoàn BĐQ với trang bị quân số thiếu hụt. Đây là khởi điểm cho tất cả sự bỏ ngỏ sau này ở mật trận Bắc Quảng Trị. Mãi đến chiều tối ngày 7/3/1975, địch bắt đầu mở cuộc tấn công đầu tiên thật mãnh liệt vào một trung đội tiền đồn tại đồi 51 thuộc căn cứ Tư Tưởng, hướng Tây Quốc Lộ 1, cây số 23. Đơn vị này được chỉ huy bởi Trung Úy Sàng ĐĐP/ĐĐ1 tiểu đoàn 4 TQLC đã chiến đấu thật can cường, đẩy lui nhiều đợt xung phong biển người của địch. Lần liên lạc sau cùng qua máy PRC-25 vào lúc 4 giờ sáng, anh đã yêu cầu pháo binh chụp thẳng trên đầu mình vì vị trí bị địch tràn ngập. Anh đã tử thương sau đó trong cuộc cận chiến bằng lựu đạn với kẻ thù. Sáng sớm ngày 9/3/75, Thiếu Tá Trần Ngọc Toàn

175mm1

TĐT/TĐ4/TQLC điều động toàn bộ lực lượng còn lại, nhờ có sự yểm trợ thật chính xác của các phi vụ A-37 thuộc không lực vùng I chiến thuật, ta đã hoàn toàn làm chủ tình hình. Xác địch nằm ngổn ngang trong các bãi mìn của hàng rào phòng thủ, một số đồng bọn khác đang lẩn tránh trong các bụi rậm bị ta bắt sống. Cũng cùng trong đêm đó, tại một nơi khác, tiểu đoàn 121/ĐPQ Tiểu Khu Quảng Trị đã tóm nguyên trung đội địch khi chúng tìm cách tiến về hướng quận Hương Điền. Ngày 22/3/75, đoàn xe tiếp tế cuối cùng của đơn vị rời hậu trạm Máng Cá Huế vào vùng hành quân. Chúng tôi được biết hầu hết dân chúng đã di tản vào Đà Nẵng và hậu trạm cũng được BTL/SĐ mang tất cả trang thiết bị về cửa biển Thuận An chờ lệnh. Tôi chỉ thị cho các đại đội thu gọn lại các trang bị và phải gấp rút di tản các thương bệnh binh đi theo chuyến tiếp tế này. Ngày 23/3/75 vào lúc 3 giờ chiều, sau khi đồng loạt pháo kích dữ dội vào tất cả các vị trí, địch từ thượng lưu sông Bồ, xung phong tấn công vào các tuyến của ĐĐ2/TĐ5/TQLC. Vì quá bất ngờ và thiếu cảnh giác nên 2 Trung đội tận cùng cánh trái của đại đội này bị bung tuyến. Tôi liên lạc với Đại-úy Trần Văn Loan ĐĐT hãy cố gắng gom con cái lại và chỉnh đốn đội hình, đồng thời báo cáo tình hình này về BCH Lữ-đoàn. Đại Tá LĐT ra lệnh là phải bằng bất cứ giá nào cũng phải chiếm lại vị trí vừa mất. Chấp nhận mọi hy sinh thiệt hại, ĐĐ4 của Đại-úy Nguyễn Văn Hai được tăng cường và đã hoàn tất nhiệm vụ vào lúc 6 giờ sáng ngày 24/3/75. Cũng trong thời gian này, hầu hết tất cả các đơn vị Biệt Động Quân, Địa Phương Quân tự động rã ngũ bỏ tuyến phòng thủ Bắc Quảng Trị kéo về Huế thật hỗn độn. Thị xã Quảng Trị coi như bị bỏ ngỏ hoàn toàn. Tiểu đoàn 4/TQLC được điều động về làm nút chặn tại phía Nam cầu An Lỗ. TĐ7/TQLC trấn dọc sông Mỹ Chánh từ cầu Viên Trình ra biển Đông, phòng tuyến cao nhất phiá Bắc của miền Nam.
tqlc1
Khoảng 4 giờ chiều cùng ngày, nhận dược lệnh về tham dự cuộc họp khẩn cấp tại BCH/LĐ. Đại-tá Lương, LĐT cho chúng tôi biết rõ tình hình tổng quát và nhiệm vụ phải thi hành đêm nay là một cuộc di tản chiến thuật cho tất cả các lực lượng về cửa biện Thuận An, vùng đất từ Bắc đèo Hải Vân trở ra rồi sẽ lọt vào tay địch…Cũng như thành phố Quảng Trị bị vất bỏ một cách vô tội vào sáng hôm nay khi mới chỉ có một vài loại pháo kích lẻ tẻ đâu đó. Thế là hết, còn gì đâu hào quang chiến thắng “Cờ bay, cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu vừa chiếm lại đêm qua bằng máu…” máu của hàng vạn đồng bào, máu của hàng vạn đồng bào, máu của chiến hữu nằm xuống cho vùng đất hồi sinh và ngay bây giờ, từ tối nay Huế cũng sẽ chịu chung số phận. Cố Đô đầy niềm kiêu hãnh tự hào dân tộc rồi sẽ bị nhuộm đỏ bởi lũ người khát máu CS. Hàng trăm nấm mồ chôn sống tập thể còn đó, máu xương mồ hôi nước mắt của bao chiến sĩ QLVNCH còn đây trong lời thề quyết tử bảo vệ cố đô Mậu Thân 1968. Còn đâu nữa những ngày tháng vàng son nhất của người lính chiến nơi tuyến đầu lửa đạn lúc nào cũng hùng dũng hiên ngang. Có nổi đau nào hơn niềm tủi nhục của người lính bại trận.

tqlc21
Việc cần thiết trước nhất là phải làm sao bảo đảm đuợc đơn vị rút lui một cách trọn vẹn, an toàn hầu đủ sức chịu đựng một cuộc dạ hành trên đoạn đường dài gần 30 km. Thiếu-tá Ngô Thành Hữu, Tiểu đoàn phó và Đại úy Gianh Văn Nhân, ban 3 đang chờ đợi tại BCH Tiều đoàn. Chúng tôi cùng đồng ý với nhau bằng một cuộc lui binh trong bí mật, bất ngờ. Tất cả vũ khí nặng, cồng kềnh như 90 ly, súng cối 81 ly, hỏa tiển TOW chống chiến xa, đạn dược và những trang bị nặng nề được lệnh phá hủy tại chỗ hay ném xuống dòng sông. Đại đội 1 của Đại úy Hồ Văn Chạnh đóng chốt từ xa được di chuyển trước, chúng tôi không xử dụng đoạn đường quen thuộc hàng ngày, phải băng qua một xóm nhỏ để đến cây số 17 cầu An Lỗ mà là dọc con đường sắt suôi Nam, rồi sau đó sẽ đổi hướng vế quốc lộ 1 khi các đại đội đã bám sát được với nhau. Đã có chừng cả trăm người lính đủ mọi binh chủng, không còn đơn vị đang tự tập vây quanh 4 chiến xa M48 nằm chơ vơ giữa lộ, nòng súng chĩa thẳng về hướng quân thù, bình thản cười nói vui vẻ như đang tham dự một cuộc dạ hành ngoài trời. Đến trường trung học Hương Trà nằm sát lề Đông quốc lộ, tiểu đoàn dừng lại để kiểm điểm quân số và củng cố lại đội hình. May mà trong tay chúng tôi còn 1 xe Jeep hành quân, cứ thế chạy lên, chạy xuống để “tha” những người lính bết bát, trể nải sau cùng. Điều tưởng như không ngờ, thế mà đã xảy ra một cách thật tội nghiệp cho trung đội Nghĩa Quân quận Hương Trà, tập họp và bị bỏ quên tại đây chờ lệnh thượng cấp từ mấy ngày nay. Người trung đội trường già đến xin tháp tùng cùng chúng tôi. Vài chiếc xe M41 nữa cũng bắt đầu nổ máy rầm rộ tiến giữa đoàn quân. Nhiều đám đông dân chúng hòa lẫn hoặc nối đuôi phía sau họ ra đi từ chợ Cạn, Hội Yên, Vân Trình, Hải Lăng, Mỹ Chánh… từ bgày hôm qua hay sớm hôm nay vì không còn gì để hy vọng vào sự bảo vệ của người lính chúng tôi. Tiếng khóc than vang vọng thấu trời xanh, họ, những kẻ bất hạnh, còn lại sau cùng đang lê lết từng bước một lần mò tìm “tự do” vì một cuộc chủ nghĩa CS bạo tàn. Vài cụ gìà chống gậy, các trẻ thơ vô tội kia rồi sẽ ra sao? Liệu có còn đủ súc hay phải kiệt hơi ngã qụy dọc đường.
Rời ngã ba An Hòa rẽ phải tiến về Huế, thành phố bỏ ngỏ tối tăm rải rác còn lại vài bóng bên đường. Nhiều vết lửa tung tóc lên bầu trời u tối do những trái sáng dược ném từ các toán lính tan hàng mất đơn vị chẳng biết phải làm gì. Súng vẫn nổ lẹt đẹt đó đây hòa lẫn tiếng chó tru vọng ra từ các căn nhà vắng chủ. Phú Văn Lâu vẫn nằm đây bên bờ sông Hương, nhưng còn đâu bóng dáng các con đò quen thuộc hàng ngày. Tiều đoàn bắt đầu tiến quân qua chiếc cầu đúc mới xây bên dưới bến bờ Nam dòng sông, rồi từ đó quẹo trái về Đông, hướng ra biển. Tôi cho xe dừng lại ở phía bên này cầu. chờ đợi cho hết người lính sau cùng. Cảm thấy khá an tâm và một chút hãnh diện về những binh sĩ thuộc quyền, tất cả đều can đảm, hy sinh chịu đựng và luôn tuân lệnh cấp chỉ huy ngay trong những giờ phút nguy hiểm nhất như lúc này. Tôi không nhớ là bao nhiêu lần mình đã nhân danh thẩm quyền để mà ra lệnh cho thuôc cấp xung phong vào chỗ chết. Với 12 năm trong cuộc đời binh nghiệp con số này chắc không ít lắm đâu? Dĩ nhiên là cấp chỉ huy nhỏ, tôi cũng chỉ là kẻ truyền và kiểm soát lệnh và cá nhân mình cũng bị xoay quanh trong các vòng lẩn quẩn ấy! Vài con gió mạnh thổi từ mặt biển vào, cũng nơi đây cây cầu, dòng sông một thời kỷ niệm, tôi bỗng cảm thấy luyến tiếc thèm khác tìm gặp lại một vài nơi chốn quen thuộc lần cuối may ra hình ảnh cũ để nhớ người xưa! Cho tài xế lùi xe lại tiến về hướng đại lộ Trần Hưng Đạo và dự định theo cầu Trường Tiền cũ qua sông. Đường trống vắng chẳng có một chiếc xe nào lai vãng, xa xa trong bóng tối chập chờn, lác đác vài bóng người. Tôi bắt đầu cảm thấy ớn lạnh. Bây giờ ngoài đơn vị TQLC ra, các đơn vị khác chẳng còn gì nữa để mà phân biệt lẫn nhau, qủa thật chẳng còn tình nghĩa gì ràng buộc, nếu có ai đó nổi hứng “bóp cò”.

Có lệnh cho tôi tiến về phía trước để gặp Đại Bàng Long Mỹ (Đại tá LĐT), ông giao cho một sấp bản đồ và thay đổi lộ trình về phía phà Tân Mỹ, đoạn đường từ đầu thôn Vỹ Dạ về cửa biển Thuân An không thể nào nhúc nhích nổi, nhiều dòng người di tản cùng các đơn vị tan hàng đổ về đây với không biết bao nhiêu xe cộ. Thượng sĩ Thương, thường vụ tiểu đoàn, chẳng biết từ đâu mang về vài két bia 33, có lẽ từ khách sạn Hương Giang bỏ trống? Anh nói với tôi:
– Nhậu đi Đại Bàng, đang buồn ngủ mà gặp chiếu manh.
– Thôi nhanh lên mà đi ông ơi! Non nước này mà còn nhậu với nhẹt.

tqlctanhang1
Từ hướng quán cơm Âm Phủ, một người đàn ông già trạc 60 tuổi tìm đến phàn nàn về một số lính vào đập phá, lục lạo nhà của ông ta.
– Coi chừng việt cộng đó Đại Bàng.

Thử hỏi ai mà biết được ai trong thời buổi tranh tối, tranh sáng này, ngay cả toán lính đập phá kia – có điều tại sao trong hoàng cảnh như thế này mà ông ta là kẻ dửng dưng như vậy! Qua khỏi cầu Đập Đá một quãng nữa, bắt đầu tẽ phải vào con đường đất, thôn Vỹ Dạ chìm đấm trong màn đêm u tịch. đó đây leo lét nhiều ngọn đèn dầu từ khắp các miếu thờ, vết tích vàng son của một thời vua chúa. Chó càng lúc càng sủa vang bên những khu vường trống vắng, đoàn quân vẫn tiến đều. Đến khúc lộ bị hư, đành phải vất bỏ xe lại dọc đường.
– Phá hủy xe đi ông thầy.
– Không cần, mình đang di chuyển, không nên gây tiếng nổ.

Lẩm bẩm trong miệng, Liên, tài xế mò vào túi quần lấy ra con dao, cắt hết tất cả dây trong đầu máy xe và quăng bình điện vào một bụi rậm gần đó. Anh cũng không quên hốt thật nhiều cát bỏ vào bình xăng và nói:
– Ai ngu để cho lũ ác ôn xử dụng, mình không dùng, phá hư luôn…hì…hì…

Đến tờ mờ sáng thì toàn thể đơn vị đã có mặt bên này phá Tam Giang mêng mông, nềm vui rạng rỡ trên mặt mọi người. Phải mất thêm 3 tiếng đồng hồ nữa mới đến được bờ bên kia sát biển bằng một số “ghe gọ” của dân còn lại ở xóm chài. Từ lâu mới có một ngày nắng đẹp như hôm nay, bầu trời trong xanh với nhiều tia nắng long lanh chiếu vào mặt biển. Gió vi vu vừa để mơn trớn các con sóng vỗ ì ạch vào bờ. Không còn gì thích bằng ngồi đây, dưới bóng râm của hàng dương xanh thẩm, trên đồi cát, hướng mắt về đại dương bao la, nơi đó nhấp nhô nhiều con tàu như người tình mơn trớn hưá hẹn. Ăn vội ít cơm ở bao gạo xấy còn lại, trong chớp mắt chập chờn, tiếng la khóc, than van còn mãi ám ảnh trong trí tôi trên đường rút chạy sáng hôm nay. Cuộc đời khổ đến thế là cùng! Tỉnh giấc khi có lệnh cho đơn vị chuẩn bị ra bải bốc để lên tàu. Đó là khoảng 2 giờ ngày 25/3/75. Cả Lữ Đoàn tập họp trên bãi các trắng xóa theo thứ tự sẵn sàng như một cuộc hành quân đổ bộ ngày nào. Đâu phải chỉ việc sắp hàng chờ lệnh lên tàu là xong, địch đã rượt theo ta đêm hôm qua, đã mò sát đít chúng tôi sáng hôm nay, địch đã có mặt bên kia bờ phà, địch đã trà trôn trong đòan quân. Theo lệnh của mặt trời Papazulu nào đó (Tướng Lâm Quang Thi, TLP/QĐ1!!!), chiếc HQ-801 dành riêng cho TQLC đã chực sẵn cách bờ khoảng 50m. Nhưng đâu phải chỉ có chúng tôi cần sống, còn dân chúng, những người lính mất đơn vị hỗn lộn kia, họ cũng cần cứu vớt như chúng tôi, mà chẳng ai có kế hoạch gì riêng để giúp đỡ họ. Trong cơn quẫn bách này, không ai cần nghĩ đến ai, chà đạp tranh dành nhau mà sống, mạnh được yếu thua, khi con rắn đã mất đầu chỉ còn lại cái đuôi tha hồ mà ngóc nguẩy. Như sức bật của cáo lò xo, tất cả ùa nhau mà ra tàu, người không biết lội ôm sát người biết bơi, ngụp lặn với tử thần trong sóng nước, vài chiếc xe M-113 lội nước ủi tới đè kên, tiếng rên la gào thét. Một sơn sóng nhồi lên, hai cơn sóng đập xuống, những cái đầu lô nhô, nhiều thân hình chìm lỉm, mất hút trong khi con tàu vẫn nổ máy đợi chờ. Địch đã vượt phá Tân Mỹ, đã có mặt ở cái miếu trên đồi cát đầu làng. Địch đã bắt sống một số lính trễ nải phía sau, địch bắt đầu pháo rải rác khắp nơi trên mặt biển.

Bãi bốc đã không còn an ninh mà trật tự cũng chẳng có. Con tàu đành bất lực rời bến. Để được an toàn hơn, Lữ Đoàn quyết định dời bãi bốc về hướng Nam và bằng đủ mọi cách phải tách rơi đám đông hỗn loạn kia hầu dễ dàng đối phó với tình hình mới. Dọc theo mé nước đầy rẫy xác người, những bộ mặt nhợt nhạt, bất động, ngừng thở theo cơn sóng biển dập vùi, có lạ, có quen. Người dể nhận ra nhất là Đại úy Ân, ĐĐT/ĐPQ Tiểu khu Quảng Trị.

Chúng tôi đã di tản chiến thuật bằng con đường máu ở mặt trận Hạ Lào 1971, đã rời bỏ Đông Hà, Quảng Trị dọc đại lộ kinh hoàng mùa hè đỏ lửa năm 1972. Với sự nguy hiểm cùng cực nhưng tinh thần đâu có quá tuyệt vọng như bây giờ vì dù sao cũng còn chút gì để hy vọng ở đoàn quân tiếp tế phiá sau. Còn ở đây rơi vào tình thế vô cùng tuyệt vọng. Cả nguyên LĐ có hơn 3000 quân, tiến thoái lưỡng nan trong cái túi càn khôn chỉ vỏn vẹn 4 km 2, đang gìơ lưng chịu trận. Tàu chiến Hải Quân QLVNCH vẫn trương cờ lảng vảng ngoài khơi, nhưng các khẩu đại bác đâu rồi?! Niềm hy vọng mong manh còn nhen nhóm là sẽ được tàu vào đón, nhưng sẽ ưu tiên theo thứ tự nào? Đơn vị nào sẽ phải nằm lại chịu trận và làm vật hy sinh sau cùng? Bóng chiều bắt đầu trải dài trên bãi cát trắng xóa mênh mông để báo hiệu màn đêm buôn xuống. Lữ Đoàn quyết định rải quân phòng thủ. TĐ4 và 7 phụ trách mặt trận Tây, TĐ3 phía Nam, TĐ5 chúng tôi phía Bắc. Đại uý Tô Thanh Chiêu, ĐĐT/ĐĐ2 và Thiếu tá Nguyễn Trí Nam TĐP/TĐ4/TQLC đã hy sinh trong giờ phút thứ 25 này cùng một loạt đạn của tên du kích hèn mhát bắn lén trong khi làm nhiệm vụ điều động quân rải tuyến. Điều đáng thương tâm nhất là hai người vừa mới lập gia đình và cả hai bà vợ đang mang thai. Cái chết thật quái ác, tình cờ bởi bàn tay oan nghiệt của tạo hóa. định mệnh! Tin từ BCH/LĐ cho biết là tàu sẽ vào đón đêm nay hay trễ nhất là sáng sớm ngày mai theo thứ tự như sau: BCH/LĐ, TĐ2PB, TĐ4, TĐ3, TĐ5, TĐ7…Đúng theo sự suy nghĩ dự đoán của chúng tôi, lẽ dĩ nhiên các đơn vị tan hàng hay bị sứt mẻ không còn khả năng chiến đấu thì ưu tiên mang họ đi càn sớm càng tốt để không làm vướng bận các đơn vị còn lại. Nhưng cả BCH/LĐ đi hết thì ai sẽ là người chỉ huy chúng tôi. Điều này thật cần thiết và quan trọng nhất. Cái thứ tự di chuyển mà không một binh thư nào viết ra hoặc chúng tôi chưa hề áp dụng trước đây.

di-tan2copy
Qua ánh trăng mờ ảo, dòng người bị bỏ lại ban chiều đang ồ ạt kéo về tuyến phòng thủ. Không còn cách gì hơn là phải chận họ lại nằm sát phòng tuyến trong tầm bảo vệ hỏa lực để khỏi làm xáo trộn cho sự điều động chỉ huy của quân bạn bên trong. Súng vẫn nổ đều khắp nơi và chẳng có con tàu nào cập bến. Trăng vẫn lên ca, khuya dần. Cùng lúc, vài tốp người xé lẻ, hèn nhát tách bến rã ngũ ra khơi.

Rạng sáng ngày 26/3/75, khi ánh bình minh vừa ló dạng ở phương Đông thì con tàu cùng thủy thủ đoàn cũng bắt đầu tiếp tục nhiệm vụ, ủi thẳng vào bờ theo sự điều động của BCH. Đã có chuẩn bị sắp xếp từ trước, nên việc di chuyển lần này tương đối trật tự hơn. Ưu tiên vẫn là BCH/LĐ và các thương phế binh từ các đơn vị mang đến. Địch thừa thắng xông lên cố ra sức đánh vào đầu chúng tôi những đòn thù chí tử. Đây là điều nghiệt ngã nhất của chiến tranh, có vay có trả. Chúng tôi đã diệt gọn nguyên trung đoàn 48 địch một cách không thương tiếc khi quét sạch chúng ra khỏi hang cuối cùng tại cổ thành Quảng Trị. Những vòng sắt oan nghiệt của đoàn chiến xa M48 và M41 đã nghiền nát vô số lính CS Bắc Việt, sinh Bắc tử Nam, qua các dãy địa đạo ngầm trong hầm khi tấn công tiến vào cửa Việt. Pháo địch cùng lúc càng mãnh liệt hơn và chiếc tàu nằm chình ình giữa biển khơi vẫn là mục tiêu tốt nhất để chúng điều chỉnh tác xạ ngắn, dài…Một cục lửa, hai cục lửa, rồi quá nhiều cục lửa của loại hỏa tiễn tầm nhiệt AT3 rải rác đó đây. Có cái rớt ngay dòng người di tản ngụp lặn theo sóng nước. Có cái trúng thẳng vào thân tàu. Con tàu chòng trành nhổ neo tách bến. Để bớt căn thẳng, tôi chui ra khỏi hố trú ẩn làm một vùng quanh tuyến. Những vệt sáng của lằn đạn đạo thẳng cùng nhiều quả đạn pháo kích đan chéo nhau vi vút trong gió biển. Các khẩu súng cối 60 ly và phóng lựu M79 của ta đáp lễ cầm chừng, không khả năng nhiều lắm nhưng cũng để chứng minh rằng “vẫn đang có ta đây“. Dọc theo mé nước sát biển, thầy trò Thiếu tá Võ Đằng Phương, TĐT/TĐ2/PB/TQLC, Đại uý Lê Tự Hào cùng một vài người lính đang gấp rút xử dụng các mũ sắt của mình để cào cào moi hố. Họ là những người sau cùng bị sót lại khi hầu hết đơn vị mình đã được lên tàu.
– 207 đây 416 gọi. Anh ở lại take care con cái.

di-tan3
– Vâng! Nhận rõ 416!

207 là biệt hiệu của Thiếu tá Phạm Cang TĐT/TĐ7/TQLC, người thâm niên và giỏi nhất trong đoàn bạn tôi. Còn 416 là danh xưng của Trung tá Nguyễn Đằng Tống LĐP/LĐ147.

Nắng chiều nhạt dần, sóng biển rì rào và bờ cát lại trống vắng đến lạnh lùng, không còn một bóng người lai vãng, họ đang chiến đấu ở tuyến đầu, họ tránh núp đạn dưới hố sâu, họ hối tiếc, thèm thuồng về một con tàu khác. Các đại đội lại thêm một số bị thương, lại thêm vài người chết nữa. Đạn dược, lương thực cạn dần trong khi chúng tôi cố hết sức giữ vững tinh thần binh sĩ bằng cách liên lạc máy thường xuyên với các đại đội. Cảm giác bị vất bỏ bắt đầu nhen nhúm trong ý nghĩ mình, nhưng tôi vẫn chưa dám tin rằng điều này có thật, vì nếu như vậy thì còn thể thống gì đến quân đội và tổ quốc mà biết bao người đã hết lòng yêu thương và phục vụ. Mò mẫm vào cuốn đặc lệnh truyền tin, tôi vận máy qua tần số BTL/SĐ đang ở đâu trên đèo Hải Vân, với trạm liên lạc chuyển tiếp giữa Huế và Đà Nẳng. Người tiếp tôi là Đ/U Đan, tùy viên tư lệnh:
– Đại Dương, cho tôi xin gặp Lạng Sơn (biệt danh của Thiếu tướng Bùi Thế Lân, tư lệnh SĐ/TQLC).
– Lạng Sơn đang bận lắm. Có gì ông anh nói, tôi sẽ chuyển.
– Nhờ Đại Dương trình với Lạng Sơn cho chúng tôi lệnh kế tiếp.
– Ở đây cũng đang lu bù lắm, không ai có thể giúp gì được cho ông anh. Tốt hơn hết là self-service. Good luck ông anh!

Mặt mày tối tâm, xây xẫm, thất vọng, tôi ném ống liên hợp xuống cát…self service…có nghĩa là tự lực cánh sinh, tùy cơ ứng biến, có thể là mạnh ai náy lo, có thể là tan hàng!
Khoảng quá xế trưa, mặt trời Papazulu lại xuất hiện bằng một giọng thật đanh thép, ông ra lệnh cho một chiếc HQ khác, bằng bất cứ giá nào cũng phải bốc tiếp chùng tôi. Con tàu lại tách sóng hướng thẳng vào bờ phiá Bắc tuyến phòng thủ chừng 200m. Lần này, TĐ4 sẽ lên tàu dưới sự sắp xếp chỉ huy của Thiếu tá Đinh Long Thành, tân TĐT của đơn vị này. Bất kể là đơn vị nào, bất cứ là ưu tiên cho ai, thật nhiều đám người từ mọi hướng đổ ập về đây tràn xuống như thác lũ. Con tàu quá tải tròng trành trên mặt nước, chân vịt ngưng quay nằm bất động vì máy đã hỏng rồi. Lại thêm một đêm nữa rồi sẽ đến với tình thế mỗi lúc một tồi tệ hơn. Phải quyết định ngay bây giờ, nhưng giải quyết bằng cách nào đây? Tôi gọi HS1 Lê Hồng Quảng Nam, người cận vệ thân tín nhất đến, sau khi đã cạo nhẫn bộ râu quai nón của mình, chính nhờ nó mà tôi đã ăn nên làm ra trong đời binh nghiệp và được giấy phép của bộ TTM cấp hẳn hòi với lý do: “uy tín cấp chỉ huy”.
– Anh chuẩn bị cho tôi một ít nước uống và vài gạo sấy để phòng thân.

Nam do dự mếu máo:
– Ông thầy đừng bỏ tụi em, có gì cho tụi em theo với. Thuận, Thành hai hiệu thính viên cũng oà lên khóc.
– Yên trí, thầy trò mình sẽ sống chết có nhau mà.
quando4
Đầu óc tôi cứ mãi bị ám ảnh bởi lời đề nghị của Đ/U Đan là ông anh nên “self service”. Nhưng chuyện này cũng có 5, 7 cách khác nhau. Hãy tìm một vài người lính thật khỏa mạnh, bơi nhà nghề, mà phải là dân chuyên đi biển ở Nha Trang hay Phan Thiết, mò vào nhà dân hay dọc theo mé nưóc, tìm sẵn một chiếc ghọ thật tốt, chuẩn bị sẵn sàng, thừa nước đục thả câu sẽ cùng bỏ trốn như loài chuột. Nhưng cũng chẳng phải dễ dàng lắm đâu! Chúng tôi sẽ bị bắn chết bởi đồng đội trước khi nạp mình cho bầy cá mập, hay là tuyên bố hoạch toẹt rõ ràng, đơn vị tan hàng, mạnh ai nấy lo, đâu phải lỗi ở mình. Điều này quá trắng trở và trắng trợn, chẳng còn tình nghĩa gì. Nếu còn sống làm sao dám nhìn lại mặt nhau như Hai Chồn, Pake, Loan Mắt Nhung, Chanh Trọc, Ba Ngành, các ĐĐT lương đen lì lợm, nhậu rượu như uống nước mà đánh giặc rất chí tình. Tôi liên lạc máy với Thiếu Tá Cang TĐT/TĐ7 cùng Thiếu Tá Sử TĐT/TĐ3, chúng tôi cùng đồng ý với nhau là chẳng còn cách nào khác hơn, mở đuờng máu xuôi Nam về cửa biển Tư Hiền còn nước, còn tát.

Nói là mở đường máu chứ thực ra chỉ là cách thối thác cho một sự tan hàng, đường về bít bối, vì nếu có trầy da tróc vẩy đến nơi thì cũng chỉ là vùng trời mây nước mênh mông, ngồi đó chờ nộp thịt cho chằng. Di chuyển cũng theo thứ tự lớp lang, nhưng đội hình chẳng còn. Sức mòn, lực kiệt, súng cầm tay, tinh thần đã mất, đạn dược cũng không, cứ nhắm mắt nhắm mũi mà chạy 1,2,3,4… 1,2,3,4 “đường trường xa con chó nó tha con mèo…” càng xa địch bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Nhiều tiếng nổ chát chúa phía sau, của địch thì ít mà của ta thì nhiều. Những người lính bị thương không còn khả năng thep kịp đòan quân, bò lết lại với nhau, bung chốt lựu đạn nổ để “thà chết vinh, còn hơn sống nhục”. Đứa con đầu của TĐ3 Sói Biển đang bị một đại đội du kích chận lại, phía trước ùa về, ở sau đung tới, vô vọng, tuyệt vọng, chưa bao giờ tôi cảm thấy thèm sự sống bằng lúc này, miệng luôn luôn lẩm bẩm xin Phật Trời giá hộ “cùng tắc biến, biến tắc thông”.

Nhóm chúng tôi gồm 5 người tấp vào xóm dân chài, hy vọng sẽ được giúp đỡ bởi tình quân dân cá nước ngày nào, nhưng hiện tại quân đã tan thì tình cũng chẳng còn, mặc dầu đã cố gắng nài nỉ hết sức kể cả tiền bạc thuê mướn, nhưng họ đã từ chối thẳng thừng. Chủ nghe là gã trung niên lực lưỡng, mặt rỗ hoa mè chắc là VC nằm vùng hay du kích gì đó. Thôi thì “tam thập lục kế”, kê súng vào đầu là thượng sách nhất. Đây là lần thứ hai tôi chạy giặc, lúc nhỏ vào lúc 5 tuổi theo mẹ trốn vào rẫy mỗi lần “mới sớm mai thằng Tây nó bố vào rừng ta quyết trốn”. Và bây giờ sau 26 năm khi đã trưởng thành trong quân ngũ… vẫn còn súng đạn trong tay cùng những chiến hữu bạn bè, tôi phải chạy trốn giặc cộng, thằng chủ nghe đang ngồi với tôi bây giờ là một tên VC chín rõ muời mươi, hắn phá máy cho ghe ngừng, hắn làm dấu chỉ điểm mỗi lần kề sát ghe địch. Nhân (B3), Ngọc (B2) đã làm thịt tại chổ, tôi ngăn không cho, chuyện gì rồi cũng phải tính đường về, nếu nhỡ thì sao!

Chỉ vỏn vẹn mấy ngày phù du mà bao điều biến đổi dồn dập bất ngờ, không biết số phận của tôi và bao nhiêu người khác nữa rồi sẽ ra sao khi ánh bình minh của một ngày mới xuất hiện, hy vọng sống còn chỉ là việc hiếm mọn nhỏ nhoi trong cái chết xảy đến mới là điều chắc chắn. Tờ mờ saág hôm sau, sau khi đã cạn hết nhiên liệu, chiếc ghe đành nằm chênh vênh trên mặt nước mênh mông vùng Tư Hiền, giữa rừng cờ giặc. Xa xa là những dãy núi chập chờn xanh thẳm của đỉnh đèo Hải Vân như réo gọi, mời mọc, thèm thuồng, tiếc rẻ. Và như số phận đã an bài, nhưng rồi cũng có lúc “chí tuy còn mong tiến bước mà sức không kham nổi đọan đường dài, sự nghiệp bao năm đeo đuổi thôi cũng đành gián đoạn từ đây… bởi đâu? do đâu? vì đâu?.

U1737385
Giã từ vũ khí, ném súng xuống dòng sông định mệnh, ngồi chờ địch đến, đổi đời lịch sử sang trang. Chúng tôi bị trói tay lùa lên bờ. Chúng tôi bị “giải phóng” tất cả quần áo, đồng hồ, dây chuyền, đồ đạc. Một vài người bị dẫn đi xử bắn dã man. Chúng tôi bị xỉ vả, đấu tố làm tay sai cho đế quốc. Chúng tôi không còn là chúng tôi nữa, chỉ vì chúng tôi là chiến sĩ QLVNCH bảo vệ miền Nam tự do, bị bỏ rơi lại phía sau thề sống chết thủy chung và chiến đấu hết mình. Cuộc đời tù đầy của vài ngàn quân cũng bắt đầu từ cái ngày đáng nhớ ấy…27/3/75 tại một địa danh nhỏ, hẻo lánh, quen thuộc: thôn Vĩnh Lộc, Thừa Thiên, Huế ngay trên tổ quốc thân yêu của chúng tôi.

Mũ Xanh Phạm Văn Tiền

8 comments:

duong tuan vu said...

• • • XÃ HỘI CHỦ NGHĨA THÚ VẬT ÂM BINH MAFIA CSVN ĐẢNG XÃ HỘI CỦA LOÀI CHÓ ĐEO MẶT NẠ NGƯỜI …TIN BẤT CỨ ĐIỀU GÌ TỪ CÁI NHÀ NƯỚC THÚ VẬT ÂM BINH MAFIA CSVN ĐẢNG NÀY LÀ TỰ SÁT Sai lầm nghiêm trọng của hoa kỳ là đã để cho những con chó đen MAFIA CS mở toang cánh cổng thiên đường tự do tư bản hoa kỳ cho hàng trăm ngàn tên âm binh mafia csvn đảng con đẻ tay sai mafia c strung cộng tràn vào ẩn phục ứng chờ ,cài cắm giăng bẩy câu mồi,thu hồn đoạt vía ,gieo truyền phát tán mạnh mẻ hạt giống đỏ ra toàn nước mỹ ,tạo dựng nên những đại gia đình âm binh mafia cs rúc rĩa gậm nhấm ,ăn luồn ăn sâu vào lục phủ ngủ tạng đất nước của nử thần tự do …lũng đoạn kinh tế khuynh đảo chính trị,ngấm ngầm lèo lái con thuyền tự do tư bản hoa kỳ vào quỷ đạo của chủ nghĩa cộng sản ,nếu nước mỹ không kịp thời thức tỉnh cực kỳ cảnh giác,để có biện pháp đề phòng hửu hiệu ,phát hiện kịp thời hành động thủ ác trong bóng tối ngấm ngầm thực hiện mưu đồ ..đê hèn và sâu độc của bọn mafia cs đen trung cộng và bọn âm binh mafia cs vn đảng con đẻ tay sai của chúng,thì chắc chắn trong tương lai gần chế độ tự do tư bản hoa kỳ sẻ gục chết mà vẩn chưa kịp hiểu …SỨC MẠNH ĐEN VÔ ĐỊCH ÂM BINH MA FIA CS ….là gì…?XÃ HỘI CHỦ NGHĨA THÚ VẬT ÂM BINH MAFIA CSVN ĐẢNG XÃ HỘI CỦA LOÀI CHÓ ĐEO MẶT NẠ NGƯỜI …TIN BẤT CỨ ĐIỀU GÌ TỪ CÁI NHÀ NƯỚC THÚ VẬT ÂM BINH MAFIA CSVN ĐẢNG NÀY LÀ TỰ SÁT Trong cái nhà nước súc vật âm binh mafia csvn đảng này , tất cả phải bò bốn chân truyền kiếp làm chó phục vụ cho mưu đồ sự nghiệp của đảng …trong cái xã hội của loài thú đeo mặt nạ người này ,tất cả những thành phần từ trí thức đến dân đen …ma cô đỉ điếm ..các tổ chức tôn giáo ..các tổ chức chính trị kêu gọi tự do dân chủ ..hay ngay cả những tổ chức chống cộng …đều đưoc đảng cấp giấy phép hoạt động , đều được quốc doanh hóa ..chúng là những cái mặt nạ không thể thiếu trong việc bảo đảm tôn trọng nhân quyền …tự do tín ngưởng …..quyền tự do ngôn luận ,như một xã hội bình thường của các quốc gia khác trước cái nhìn của công luận quốc tế ….và sự thật đằng sau những tấm mặt nạ này …không một ông sư hay linh mục ,nhà dân chủ kẻ chống cộng ,hay cả bọn trí thức ..đỉ điếm ma cô nào dám tự phát mà không có sự đạo diển dàn dựng điều hành và chỉ đạo chặc chẻ của bọn thú vật cộng sản đen …và nếu có một ai đó dám đi ngoài quỷ đạo đó thì cũng không thể nào sống sót được trong cái xã hội chủ nghĩa thú vật âm binh mafia csvn đảng này …..XÃ HỘI CHỦ NGHĨA THÚ VẬT ÂM BINH MAFIA CSVN ĐẢNG XÃ HỘI CỦA LOÀI CHÓ ĐEO MẶT NẠ NGƯỜI …TIN BẤT CỨ ĐIỀU GÌ TỪ CÁI NHÀ NƯỚC THÚ VẬT ÂM BINH MAFIA CSVN ĐẢNG NÀY LÀ TỰ SÁT Nước mỹ hãy cực kỳ cảnh giác lủ súc vật âm binh ma fia csvn đảng con đẻ tay sai mafia cs trung cộng …kịp thời phát hiện và ngăn chặn lủ âm binh mafia cs chui lòn ngấm ngầm hành động thủ ác rúc rĩagậm nhấm ruột gan lục phủ ngủ tạng của các bạn trong bóng tối ….đừng để đến khi các bạn hấp hối giãy chết mà vẩn chưa hiểu đưoqực sức mạnh đen súc vật âm binh mafia cs là gì …

duong tuan vu said...

-TỐ CÁO NHÀ NƯỚC XHCN THÚ VÂT ÂM BINH M FIA CSVN ĐẢNG XÃ HỘI CỦA LOÀI CHÓ ĐEO MẶT NẠ NGƯỜI …TIN BẤT CỨ ĐIỀU GÌ TỪ CÁI NHÀ NƯỚC SÚC VẬT ÂM BINH MA FIA CS VN ĐẢNG NÀY LÀ TỰ SÁT hãy cực kỳ cảnh giác lủ âm binh ma fia cộng sản với biệt tài bắt hồn nhân loại bằng những thủ đoạn vô cùng tinh vi và phức tạp với đội ngủ âm binh ma fia hùng hậu giàn trãi khắp.nơi lai vô ảnh khứ vô tung những con thú đeo mặt nạ người một loại rô bốt người được điều khiển từ xa …. âm thầm cùng nhau phối hợp chầu chực trong bóng tối cùng nhau hợp sức hành động cài cắm câu mồi giăng bẩy nam nữ nhân kế moi móc đời tư…xui khiến phạm tội khống chế bắt hồn đưa vào tổ chức trở thành một thành viên âm binh ma fia âm thầm bán linh hồn và thể xác cam tâm làm súc vật phục vụ cho đảng những con mồi chúng thường nhắm đến để bắt lấy linh hồn là giới cầm quyền lảnh đao cao cấp vợ con em của thành phần chúng xem là kẻ thù sử dụng họ làm ang ten tình báo về kinh tế chính trị v…v theo lệnh đảng ngấm ngầm âm thầm tiếp sức cho cộng sản tiêu diệt cha chồng người thân của chúng trong kế sách gậy ông đập lưng ông hay chính xác hơn theo như thằng lê duẩn đã phát biểu trong công cuộc giải phóng miền nam và thực hiện chính sách âm binh súc vật MA FIA HÓA hóa toàn bộ quân dân cán chính ngụy quân ngụy quyền sau giải phóng ngăn ngùa DẬP TẮT MỌI SỰ sự trổi dậy của vnch TRONG TRỨNG NƯỚC bằng lực lượng âm binh ma fia vợ con em của kẻ thù …DÙNG MỞ NÓ ĐỂ RÁN NÓ tiếp tục sự nghiệp gieo truyền lan tỏa hạt giống đỏ hạt giống của ác quỷ ra toàn cầu nhất là trong cộng đồng người việt hãi ngoại và người bản xứ HOA KỲ nhằm xây dựng những đại gia đình âm binh ma fia cộng sản ngấm ngầm mai phục ứng chờ thời cơ trổi dậy thực hiện mưu đồ sự nghiệp đại đồng vĩ đại của đảng … CỰC ĐỘ CẢNH GIÁC NHỮNG GÌ ĐẾN từNHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA THÚ VẬT MA FIA CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐẢNG DÙ LÀ GIỚI TRÍ THỨC HAY LÀ ĐÁM ĐỈ ĐIẾM MA CÔ ĐẦU ĐƯỜNG XÓ CHỢ….VỢ CON DIỆN HO.. NHỮNG CÔ DÂU TỘI NGHIÊP V..V VÀ V..V CHÚNG ĐƯỢC ĐƯA ĐẾN NHỮNG NƠI CẦN ĐẾN ..TỔ CHỨC LUÔN LUÔN ĐÓN CHỜ ………TẤT CẢ CHÚNG ĐỀU LÀ NHỮNG CON THÚ ĐEO MẶT NẠ NGƯỜI VỚI MUÔN VÀN TẤM MẶT NẠ ….TIN LỦ ÁC QUỶ MA FIA CỘNG SẢN LÀ TỰ SÁT nói rằng cộng sản ngu dân hóa để trị là chưa đúng.. phải nói chính xác là chính sách súc vật ma xó âm binh ma fia hóa toàn dân để trị vô cùng tàn bạo và man rợ của lủ thú vật ma fia cộng sản …chúng đã biến con dân thành nhũng con thú bò bốn chân đeo mặt nạ người bán cả linh hồn và thể xác hy sinh tất cả cho đảng trong nhũng đại gia đình ma fia cộng sản đảng chui rúc trong bóng tối đẻ bảo vệ và phát triển chủ nghĩa cộng sản ra toàn cầu … cũng vì bọn ma fia cộng sản đen này mà hiện nay đám thú vật ma fia cs … nhũng con rô bốt người được điều khiển từ xa đã lan tràn như nhũng xác sống gieo truyền hạt giồng đỏ rộng khắp năm châu mà nhất là đang phát triển mạnh mẻ tại đất nước của nữ thần tự do …nếu không kịp thời cảnh giác âm mưu sâu độc và đê hèn của lủ âm binh ma fia cộng sản ..lai vô ảnh khứ vô tung này thì một ngày không xa tượng nử thần tự do sẻ bị đạp đổ thay thế bằng tượng ông mao ông mác ông lê tay cầm búa liềm thống lỉnh nhân loại

duong tuan vu said...

Thằng thú vật vật ma fia csvn đảng nguyễn văn linh tay sai của lủ ma fia mèođen trung cộng tại sao nó mở mõm tru sủa xin đảng cởi trói cho giới văn nghệ sỉ mở rộng cửa chào đón chấp nhận nền văn minh phồn vinh của tư bản nhất là nước mỹ để khai Sáng thay đổi cảnh nghèo đói lạc hậu man rợ của chế độ cs đã tồn tại gần tám chục năm nay kể từ khi con cẩu họ hồ mang vác cái ách cs về đè đầu cởi cổ dân tộc vn này những người không hiểu và không biết gì là âm binh ma fia cs thì cứ tưởng là lủ thú vật ma fia cs vn đảng chúng cũng biết hối cải muốn đem tự do dân chủ thật sự cho dân tộc việt nhưng đối với những người biết rỏ hành tung của lũ súc vật này trong bong tối thì họ hiểu rất rỏ bộ mặt thật của những con thú đội lốt người này chúng là lủ ma fia cs lien kết chặc chẻ cấp nhà nước trong bong tối ngấm ngầm thực hiện giấc mơ đại đồng sự nghiệp vĩ đại chân lý bất di bất dịch của lủ tổ tiên mao mác lê stalin cha ông thằng hồ …vậy sự thật của cái gọi là mở rộng cửa chào đón luồng gió mới hòa mà không tan là gì …và cởi trói cho văn nghệ sỉ là như thế nào … là chúng chỉ cởi trói cho cái xác phàm còn linh hồn thì ma fia cs nó bắt trói chặt lấy .thì trí thức giới văn nghệ sỉ sau khi được đảng cởi trói cái xác phàm thu mất linh hồn thì họ đã trở thành một lủ thú vật không hơn không kém … không có linh hồn không còn trái tim chỉ biết ngoan ngoản bò bốn cẳng triệt để tuân phục theo mọi hiệu lệnh của chủ ….một nhà nước với chính sách súc vật âmbinh ma xó ma fia hóa dân tộc mình bién con dân thành lủ súc vật đeo vòng kim cô cam tâm làm chó chỉ biết bò bốn chân dâng hiến cả thể xác và linh hồn cho mưu đồ sự nghiệp vĩ đại của đảng thì hòa vào đâu nó đều lan tỏa ra màu đỏ màu của lủ xác sống{không có linh hồn} âm binh ma fia cs đến đấy Chỉ có những người sống trong tim óc ruột gan của lủ súc vật cộng sản vn ….sống giửa bầy thú đeo mặt nạ người của cái xã hội chủ nghĩa thú vật âm binh ma fia cs …tự do làm chó muôn năm này .. mới hiểu biết thế nào là chính sách súc vật âm binh MA FIA hóa con người để trị và phát triển chủ nghĩa cs ra toàn cầu CỦA LỦ THÚ VẬT MA FIA CSVN ĐẢNG …. Sau 75 cả một chế độ ngụy quân ngụy quyền và con em của họ bị cs súc vật âm binh ma fia hóa đén tận gốc..chúng đã biến họ thành những con thú đeo mặt nạ người …một loại người mà khi có lệnh của tổ chức thì ngay đến CẢ cha mẹ ÔNG BÀ anh chị em ruột thịt của chúng ,,,,chúng cũng sẳn sàng trói đầu giao nộp cho cộng sản như một con chó ….. …thì CHUYỆN những con thú đeo mặt nạ người tranh đấu cho tự do theo sự giật giây chỉ đạo của đảng với những màn kịch vô tiền khoáng hậu bịt mắt cả thế giới chứ không riêng gì người việt hãi ngoại ….tin bất cứ điều gì từ cái nhà nước ma fia csvn đảng này là tự sát ……..một hình thức giành quyền đấu tranh cho một nước vn tự do dân chủ thực sự từ tay của của những người vnch và hậu duệ của họ…. gạt ra ngoài và từ từ dập tắt tiêu diệt những tổ chức vnch chống cộng thực tâm vì một nền tự do dân chủ cho tổ quốc dân tộc vn…thay vào đó bằng một tập đoàn âm binh ma fia cộng sản đeo mặt nạ diển kịch đấu tranh cho tự do dân chủ .. âm thầm trong bóng tối gieo truyền hạt giống đỏ trong cộng đồng người việt có nguồn gốc vnch ….đến khi đạt được mục tiêu giành lấy nắm được hoàn toàn sự chỉ đạo điều hành tất cả mọi phong trào đấu tranh ở hãi ngoại …không còn thế lực nào khả dỉ đe dọa đến sự an nguy của cs vn nửa thì chúng lại hiện nguyên hình . những con ác quỷ cs đỏ …tin lủ súc vật âm binh ma fia csvn đảng là tự sát …. tự sát …. Cực kỳ cảnh giác lủ âm binh ma fia cs ….chúng là ác quỷ lủ ác thú đến từ địa ngục với muôn vàn tấm mặt nạ nhân nghĩa đạo lý nhân bản nhân hiền vv…. Với muôn vàn mưu sâu kế hiểm giăng mồi câu bẩy …. Được sự huấn luyện và điều hanh của lủ ma fia mèo đen trung cộng …..tin lủ súc vật âm binh ma fia cs châu á là tự sát

duong tuan vu said...

….thầy tu linh mục quan quyền nhà chính trị hay sinh viên hay bất cứ ai ..cũng dều là con người cũng hỉ nộ ái ố tham san si nằm trong lục dục thất tình bọn ác ma ma fia cs đã triệt để lợi dụng vào cái cốt lỏi này của con người sử dụng chiêu thức câu bẩy giăng mồi đưa kẻ bị câu vào tròng rồi khống chế quy nạp vào tổ chức để đời đời làm súc vật âm binh ma fia cs cho chúng sai khiến ..bất cư ai đều không thể thoát khỏi nanh vuốt một khi đả lọt vào tầm ngắm của bọn chung . tổ chức của bọn chúng ngày càng lớn mạnh cùng với các đám ma fi a chư hầu chúng âm thầm bành trướng khắp thế giới , ngấm ngầm ăn sâu vào lục phủ ngủ tạng của các nước như một căn bệnh ung thư di căn từ từ nếu không kịp thời chữa trị thì chỉ còn chờ một ngày nào đó sẻ lọt vào vòng tay của ác quỷ có hối cũng đả muộn… với những âm mưu đen tối ngấm ngấm tấn công khống chế toàn bộ thế giới bọn ác ma cùng vơí bọn đàn em tay sai đã tạo ra những con robot người điều khiển từ xa rồi tung ra khắp toàn cầu bằng các con đường kết hôn , di dân tỵ nạn vượt biên ; vợ con của diện HO vv.. chủ yếu xâm nhập vào nước mỹ có đến hàng trăm ngàn tên kế đến là nươc úc hàn quốc đài loan nhật bản vvv qua con đường kết hôn buôn nguoi, ty nan ..v..v.hình thức hoạt động ngấm ngầm luồn lách ăn sâu lan toả rộng khắp của bọn này, có thể phân chia ra ba nhóm gia đình mafia hoat động như sau………. 1./ma fia công tác về tài chính [ ban tay đen ] hoạt động trong các phi vu làm ăn phi pháp buôn lậu rửa tiền buôn người mãi dâm vv..nói chung tất cả mọi công việc miển là làm ra tiền bằng mọi thủ đoạn tội ác trên đời chúng đều không tư với vai trò đảm nhiệm về tài chính cho tổ chức hoạt động …. 2/ bon ma fia chuyên ngành lừa đảo [hoa hồng đen ] câu bẩy giăng mồi mồi chài gồm một lũ ma cô đỉ điếm trong đó có lực lượng chủ động là thành phần trong giới trẻ sinh viên học sinh bị lừa đảo gia nhập phục vụ cho tổ chức được huấn luyện tinh vi về nghệ thuật giăng bẩy câu mồi cùng các kỹ năng thiện nghệ trong chuyện phong the chuyên lừa đảo nhắm vào giới quan chức trong chính quyền sở tại dùng nam- nữ nhân kế tiền bạc giăng bẩy tình mua chuộc hối lộ khiến họ sa chân vào lổi lầm phạm tội sau đó khống chế ép buộc họ gia nhập phục vụ cho tổ chức mục đích nắm bắt thông tin trong các hệ thống tài chính chính trị khoa học của nước sở tại ‘…và nhắm vào em cháu vợ con của các thành phần bị chúng liệt kê vào danh sách kẻ thù.. nhất là đối với các gia đình có con em là sinh viên học sinh đi học xa nhà chúng du dỗ mồ chài vợ con của kẻ thù sa vào lầm lổi xui khiến phạm tội rồi khống chế gia nhập tổ chức một khi đả là thành viên của bon ác quỷ thì chỉ còn phần xác ,còn phần hồn thì do chủ nhân nắm giử, khống chế suốt đời ,tuyêt đối trung thành đến khi lập gia đình cũng trong sự sắp xếp của bọn chủ nhân, chúng mang tính kế thừa truyền kiếp từ đòi này sang đòi khác , phục vụ cho chủ nhân vô điều kiện ,dưới mọi hình thức chúng đuợc sử dụng dể giám sát cha anh của chúng ,phục vụ bán dâm mòi chài câu nhử những mục tiêu do tổ chức chỉ định , đóng góp tự nguyện tài chính cho tổ chức góp phần vào mục tiêu làm phân hoá tan rả những tổ chức kiều nhân chống đối tại hải ngoại và lủng đoạn chính trị của nước sở tại theo chiều hướng có lợi cho mục đích thâu tóm toàn thế giới về sau nay của chủ nhân ……

duong tuan vu said...

.3/ nghiệm vu của các thành phần ma fia trí thức chủ yếu công tác về mặt chinh trị nằm yên chờ thời ngấm ngầm che dấu bảo vệ và ủng hộ cho các thành phần khác trong tổ chức gây sức ép về các hoạt động trong chính tri hậu thuẩn cài cắm người của chúng vào các cơ quan công quyền kết hợp với các vị quan chức bị mua chuộc chúng lũng đoạn chính trị kinh tế của nước sở tại theo chiều hướng có lợi cho chủ nhân của chúng …với một bon người bị lấy mất trai tim, không còn lương tâm, lương tri không còn biết phân biệt phải trái đúng sai , tuyệt đối chấp hành lệnh của chủ nhân vô điều kiện , các gia đình ma fia này truyền kiếp từ đòi cha sang đời con, đời cháu ,mãi mãi phuc vụ cho bọn ác ma này để giử bí mật tuyệt đối ,hiện nay với tình hình phát triển công nghê cao tôi đang nghi vấn bọn này đang được hổ trợ mọt loại vủ khí bí mật công nghệ cực kỳ cao siêu ,có thể điều khiển con người từ xa mọi lúc nọi nơi thông qua tín hiêu não ,ở trung tâm điều khiển bi mật…. tóm lại chỉ vì một mục đích điên cuồng bọn chúng đả và đang biến con người thanh nhửng xác sống vô tri vô giác như những zoombi lay lan lan toả khăp địa càu chi biết nghe theo lệnh và phụcvụ trung thành tuyệt đối để tiến đến mục đích cuối cùng thu tóm năm châu năm giử quả đất trong tay đương đến vinh quang không còn xa sẽ đưa loài người lên dỉnh cao rừng rú của thời đai nguyên thuỷ sống bầy đàn trong sự chăm sóc và giám sát tận tình,không một kẻ nào có thể ra khỏi tầm tay chăn dắt của bọn ác ma ….thời đại đó sắp đen

duong tuan vu said...

Nhà nước cộng sản vn là một tổ chức ma fia …. Cựckỳ chặc chẻ từ trên xuống dưới trong mọi tầng lớp trong xã hội …. đén tận từng người dân một …. Một xã hội của loài thú đeo mặt nạ người ….một nhà nước âm binh ma fia cs vn đảng …. Tự do làm chó muôn năm …..tin bất cứ điều gì vào cái xã hội chủ nghĩa thú vật âm binh ma fia cs vn đảng này là tự sát…..TỰ SÁT trong xã hội mà con dân chỉ là một loại công cụ đặt biệt có nghiệm vụ hy sinh tất cả vì lý tưởng và để làm được điều đó ngoài tổ chúc nhà nước đơn thuần để điều hành xã hội nó còn một hệ điều hành dấu mặt thứ hai [ bong ma ] anh em sinh đôi với nó luôn luốn song hành với nhau như hình với bóng để làm những việc mà một xã hội bình thường không thể làm được hiểu đơn giản nó là một tổ chức nằm ngòai vòng kiểm soát của pháp luật không ai dám công nhận sự hiên hửu và chịu trách nhiệm về nó nhưng nhà nước đó luôn luôn dấu mạt đứng đàng sau chỉ đạo và bảo vệ nó mà pháp luật trong nước cũng không bao giờ dám đụng đến nó… NÓ thay mặt nhà cầm quyền điều hành tất cả mọi công dân trong nước bằng luật ma fia người dân một cổ hai tròng sống không còn con đường nào khác phải cam chịu số phận kiếp đời súc vật âm binh ma xó nôlệ cho bọn ác ma những côgái mới lớn kể cả các em sinh viên hoc sinh còn ngồi ghế nhà trường phải dâng hiến tuổi thanh xuân chịu sự sai khiến làm nôlệ tình dục ngoại giao giăng bẫy câu mồi các đối tác kinh tế hay moi móc tin tình báo từ các chính trị gia và du khách đủ mọi thành phần đến đất nước nầy có kẻ vì dính bẩy tình phải chịu sự lợi dụng của bọn nầy trong những mục tiêu chúng nhắm đến hay phải bị buộc gia nhập tổ chức để rồi suốt đời làm con vật cho chúng sai khiến và nhìn bọn trẻ nhan nhãn ngoài đương đầu tóc xanh đỏ xâm mình khắp người hay từ đám đỉ rạt đứng đường đến đám gà móng đỏ lủ ma cô trí thức chúng đều là những con ma xó di động là loại ma cô an ten chúng đang làm nghĩa vụ công dân của một đất nước ma fia còn lớp người trung niên và có tuổi cũng đã qua thời nghĩa vụ chẳng ai dám làm thế nào cho con cháu mai sau thoát được cảnh địa ngục trần gian nầy … còn chế độ này là còn nghĩa vụ ma quỷ ..có lẻ hiện nay quan trọng nhất là nghĩa vụ quôc tế theo lệnh và mưu đồ của quan thầy mafia cs trung cộng trong công cuộc tây tiến từ con ma xó trong nước khi xâm nhập ra các nước trên thế giới chúng là một loại xác sống lây lan trong cộng đồng người hãi ngoại hay đúng hơn là một thứ robot người được điều khiển từ xa với vai diển của đủ mọi thành phần trong xã hội đội quân của chúng ngày càng phát triển mảnh liệt và lớn mạnh trong cộng đồng các quốc gia tự do trên toàn thế giới cảnh giác đặc biệt với loại ma fia này nhất là con em vợ con của cácthành phần chống đối chúng tại hải ngoại là mục tiêu chính trong việc câu mồi lừa đảo bằng mọi thủ đoạn khiến con em quý vị sa vào lỗi lầm hay phạm tội để rồi chúng khống chế gia nhập vào tổ chức của chúng sống chết theo luật ma fia biến họ thành một loại súc vật vô hồn không còn trái tim chỉ biết vâng lệnh của bọn ác ma thủ đoạn chúng thường dùng là nam nữ nhân kế khi lừa được người nào chúng tiếp tục sử dung chính những người đó để tiép tục lừa bẩy kẻ khác.. ngày càng nhân rộng mạng lưới của chúng lên có thể gọi chúng là hoa hồng đen ..bàn tay đen hay là robot người được điều khiển từ xa hành tung của chung rất khó phát hiện dù có theo dõi kỷ càng thế nào đi nữa vì chúng được hổ trợ của công nghệ cao tối mật và cả một hệ thống tổ chức khổng lổ bưng bít bao che hổ trợ cho nhau…. cả thế giới đang bị mắc mưu sa bẩy lọt vào quỷ kế gian manh hiểm độc chúng hãy chung tay lột mặt nạ cái xã hội chủ nghĩa thú vật mang mặt nạ người này ngoài mặt nhân danh kêu gào yêu chuộng hoà bình công lý mà ngấm ngầm mưu đồ đen tối đứng đàng sau hổ trợ và nuôi dưỡng điêu hành và chỉ đạo trong bong tối vì mục tiêu và lý tưởng đại đồng tâm thần hoang tưởng của chúng …

duong tuan vu said...

Xã hội VN là con đẻ ….một bản sao chính xác của xã hội TQ trong cái xã hội mà người dân chỉ là một thứ công cụ hay là một phương tiện người ta lợi dụng để đat được mục đích cuối cùng con dân được hợp quần trong những tổ chức đen [ BÓNG MA ] trong vòng kềm toả chỉ đạo của một chuyên ngành đặt biệt không ai dám đụng vào kể cả pháp luật được kết thành một khối theo luật ma fia tuyệt đối trung thành với chủ nhân có thể ví cái xã hội đó như một tảng băng mà phần nổi là chính phủ của một nhà nước độc lập với phần chìm là một khối đen khổng lồ bao gồm. các tổ chức hoạt động ngấm ngầm trong bong tối để bảo vệ và giữ vững nhà nước đó cùng với thế lực đen [ bong ma ] của các nước anh em cs tiếp tục con đường giải phóng nhân loại tiến vào thế giới đại đồng … . Vào cuối thế kỷ 20 các nước cs … liên xô và đông âu lần lược bị sụp đổ chỉ còn lại TQ và vài ba nước chư hầu trước sự kiện nguy cơ bị tan rả dây chuyền nên TQ đã ráo riết cùng với bọn chư hầu tay sai phát triển các tổ chức ma fia ra rộng khắp thế giới bằng các con đường di dân kết hôn tỵ nan buôn người v..v … ngấm ngầm cài căm người vào các chức vụ quan trọng trong cơ quan công quyền của các nước hoạt động phi pháp lấy tài chính cho tổ chức hoạt động giăng mồi cài bẩy mua chuộc đủ mọi tầng lớp từ thấp đến cao nhằm thu lượm tin tức trong nội bộ hiện tình của các nước về kinh tế chính trị quân sự phục vụ cho ý đồ thâu tóm thế giới trong một tương lai gần và cuộc chiến ngầm của TQ cùng với đám đàn em chư hầu tay sai đã tỏ ra vô cùng hiệu quả trong kế hoạch và mưu đồ vô cùng sâu hiểm thâm độc với một lực lượng khổng lồ nhũng tổ chức hoạt động trong bóng tối với vô vàn bàn tay đen và hoa hồng đen trung thành tuyệt đối theo luật ma fia đã thực sự hửu dụng đem lại kết quả tuyệt vời trên mọi lĩnh vực với sức mạnh khủng khiếp của các thế lực ĐEN có thể khuynh loát chính tri kinh tế quân sự của một đất nước theo chiều hướng có lợi cho những kẻ dấu mặt đang âm thầm chỉ đạo trong bong tối VÀ NỘI VỤ trong nước bảo đảm chỉ có những thành phần tự do dân chủ cuội được dảng đạo diển dàn dựng cho phép diển kịch để lừa bịp che mắt thế giới… kể cả mọi hoạt động phi phàp buôn lậu mãi dâmv..v.. tất tần tật mọi thứ đều phải theo sự chỉ đạo phân công của KẺ ĐIỀÙ HÀNH đạo diển muốn xã hội yên ổn hay bán yên ổn hay bất cứ xã hội nào dưới hình thức gì miển che mắt được thế giới để chúng dể dàng tạo được vỏ bọc bên ngoài vô hại …thân thiện …yêu hòa bình ghét chiến tranh nhân bản trí đạo nhân hiền nhằm đánh lừa nhân loại khiến họ mất cảnh giác không mảy may nghi ngờ hiểm họa cs để chúng dể dàng ngấm ngầm rúc rỉa ăn luồn ăn sâu làm phân rả hoàn toàn tất cả thế lực thù địch ,… dưới chế độxã hội chủ nghĩa thú vật âm binh ma fia cs vn đang chỉ có những kẻ cam tâm làm súc vật cho chúng sai khiến mới được phép tồn tại để phục vụ chiến đấu không ngừng nghỉ cho lý tưởng và mưu đồ sự nghiệp đại đồng vĩ đại của bọn quan thầy tâm thần hoang tưởng mao mác lê chúng sẳn sang triệt hạ và tiêu diệt cứ ai dân tộc nào dất nước nào đi ngược lại mục tiêu và lý tưởng của bọn chúng không từ một thủ đoạn nham hiểm sâu độc và tàn ác nào chúng một lũ ác quỹ đội lốt người, cả nhân loại nên nhớ rằng CÓ CỘNG SẢN THÌ KHÔNG CÓ TỰ DO ,CÒN CỘNG SẢN THÌ KHÔNG BAO GIỜ CÓ HOÀ BÌNH ,TIN CỘNG SẢN LÀ TỰ SÁT ,NGHE THEO LỜI CỘNG SẢN LÀ TỰ NỘP MÌNH VÀO MIỆNG LANG SÓI CỌP BEO tất cả chúng ta hảy cùng chung tay góp sức cho một thế giới không cộng sản tất cả vì công lý tự do và quyền làm người được thực thi trên trái đất này

duong tuan vu said...

CẢNH BÁO …….quốc nội ,,,một con kiến cũng không thoát được mọi con mắt của lủ súc vật ma xó… âm binh mafia cs ,,,, và bọn súc vật âm binh mafia csvn đảng chó đeo mạt nạ người này đang được tổ chức tung ra tòan cầu để thực thi mưu đồ cực kì thâm độc sâu hiểm,,,,của bọn quan thầy mafia cs trung cộng ,,,,,nhất là nước mỹ ,,,chúng đang ngày đêm rúc rĩa gậm nhấm ngấm ngầm đục ruổng ăn luồng ăn sâu ăn hết lục phủ ngủ tạng của các bạn ,,,độc hại nhất là thành phần thường được chúng tự hào..lai vô ảnh khứ vô tung …..là lủ chó ẩn mình dấu mặt sau những tấm mặt nạ nhân hiền trí đạo ..v…v đang nằm yên chờ thời … ủng hộ điều hành toàn bộ các thành phần khác…. hoạt động ngầm trong bong tối ..dưới sự trực tiếp chỉ đạo cầm tay chỉ việc của lủ chó csvn và quan thay bắc kinh khi hửu sự ,, nếu không có biện pháp hữu hiệu ,phát hiện được những hành động thủ ác trong bóng tối của chúng thì e rằng tư bản tự do hoa kỳ ,một ngày không xa ,sẻ giãy chết mà vân chưa hiểu được sức mạnh đen vô địch âm binh mafia cs là gì ,,,,,,những người thù ghét khinh bỉ cái nhà nước súc vậtXHCN đem cả sinh mạng ra TỐ GIÁC BÈ LỦ SÚC VẬT NÀY…. nằm yên không nhuc nhich được ngay cả vào face book ,,,google ,,, đều bị xóa ngay tài khoản ,,,duy chỉ còn có thể duy nhất tố cáo lủ súc vật mafia cs vn thông qua trang mạng g+ này …… hãy cực kỳ cảnh giác chiêu trò khốn nạn bỉ ổi thường được sư dụng của bọn súc vật âm binh mafia csvn đảng cẩu nô chó tay sai tuyệt đối trung thành của bọn thú vật quan thầy mafia c s tàu ,,,,,,chúng giăng mồi câu bẫy … mua chuộc ...tình… tiền …khiến con mồi sa vào lỗi lầm hay phạm tội để rồi chúng khống chế gia nhập vào tổ chức của chúng sống chết theo luật ma fia biến họ thành một loại súc vật vô hồn không còn trái tim chỉ biết vâng lệnh của bọn ác ma thủ đoạn chúng thường dùng là nam nữ nhân kế khi lừa được người nào chúng tiếp tục sử dung chính những người đó để tiép tục lừa bẩy kẻ khác. cấy hạt giống súc vật vào bà mẹ vợ con em của kẻ thù ,,,,,biến họ thành chó đeo vòng kim cô bò bốn chân phục vụ cho mưu đồ sự nghiệp vĩ đại của bọn quan thầy mafia cs meo đen trung cộng ….hay chúng thường cấy chim mái vào bọn chim trống thù địch ….nằm yên dưới lớp vỏ mẹ hiền dâu thảo ……vào các nhân vật quyền chức .các nhà chính trị có tương lai …..các nhà tài phiệt ..v..v… vì thế chúng nắm bắt tất cả thông tin tuyệt mật nhạy cảm về quân sự kinh tế chính trị ..v..v của các nước sở tại một cách dể dáng thông qua lủ gà mái âmbinh mafia cs này ……. chúng sinh sôi nảy nở truyền kiếp tư đời này sang đời khác đến khi giòng giống ác quỷ nắm đa số thì chúng lại hiện nguyên hình bầy ác quỷ đỏ ..một khi chúng nắm thóp được lủ chóp bu và khi đám bậu sậu nhũng nhiểu bên dưới đủ lông đủ cánh …chúng sẻ bóp chết các thế lực yêu chuộng tư bản tự do, xoay chuyển sang XHCN một cách dể dàng ……….Dù có cố diển tả thế nào đi nửa các bạn cũng không thể nào hiểu hết ĐƯỢC mọi mưu đồ cực kỳ thâm độc cuả lủ súc vật chó đeo mặt nạ người này ,,duy chỉ nhắn nhủ cùng các bạn ,,,một câu ,,,,,,TIN BẤT CỨ ĐIỀU GÌ TỪ CÁI NHÀ NƯỚC XHCN THÚ VẬT Âm BINH MAFIA CS VN ĐẢNG NÀY LÀ TỰ SÁT ,,,,TỰ SÁT