Chiến đoàn 52 tại phòng tuyến ngã ba Dầu Giây
Sau hai ngày liên tục tấn công vào trung tâm thị xã Xuân Lộc, Cộng quân vẫn không chọc thủng được tuyến phòng ngự của trung đoàn 43/Sư đoàn 18 Bộ binh. Từ ngày 11/4/1975 đến ngày thứ năm 13/4/1975, cùng lúc với các trận pháo kích vào tỉnh lỵ Long Khánh, Cộng quân đã tung thêm 1 sư đoàn có bí số CT 7 (công trường 7) vào mặt trận tại ngã ba Dầu Giây.
Theo tài liệu của đại tướng Cao Văn Viên và một số tài liệu tổng hợp, tính đến ngày 11/4/1975, lực lượng Cộng quân tại mặt trận Xuân Lộc và khu vực phụ cận có 4 sư đoàn chính quy: 431, CT6 và CT7 thuộc Quân đoàn 4, F3 tân lập (trong số các sư đoàn chính quy của Cộng quân cũng có 1 sư đoàn mang tên là CT3-Sao Vàng) ; lực lượng yểm trợ có 1 sư đoàn pháo binh, 2 trung đoàn thiết giáp và khoảng 3 tiểu đoàn đặc công. Tổng chỉ huy lực lượng Cộng quân là Hoàng Cầm- thiếu tướng, tư lệnh quân đoàn 4 Cộng quân. Trong trận chiến Điện Biên Phủ (từ hạ tuần tháng 3/1954 đến 7/5/1954), Hoàng Cầm là trung đoàn trưởng chỉ huy một cánh quân đánh vào bộ chỉ huy của thiếu tướng De Castries.
* Trận biển người của CQ vào tuyến của tiểu đoàn 3/trung đoàn 52 BB
Tại khu vực vòng đai ngã ba Dầu Giây, ngày 12/4/1975, Cộng quân đồng loạt tấn công các chốt tiền đồn do tiểu đoàn 3/trung đoàn 52 Bộ binh phòng ngự tại những vị trí trọng yếu: núi Sóc Lu, đồn điền Bình Lộc, đồi 196 và cụm cao điểm phía Bắc của bộ chỉ huy Hành quân chiến đoàn 52 (trung đoàn 52 Bộ binh là nỗ lực chính). Trận chiến diễn ra ban ngày, Cộng quân tung liên tục các đợt tấn công cường tập để cố chiếm các cao điểm, từ đó khống chế trục giao thông để các đơn vị tăng viện của Cộng quân từ Cao nguyên đổ về có thể di chuyển theo Quốc lộ 20 vào Xuân Lộc nhanh hơn.
Tại khu vực vòng đai ngã ba Dầu Giây, ngày 12/4/1975, Cộng quân đồng loạt tấn công các chốt tiền đồn do tiểu đoàn 3/trung đoàn 52 Bộ binh phòng ngự tại những vị trí trọng yếu: núi Sóc Lu, đồn điền Bình Lộc, đồi 196 và cụm cao điểm phía Bắc của bộ chỉ huy Hành quân chiến đoàn 52 (trung đoàn 52 Bộ binh là nỗ lực chính). Trận chiến diễn ra ban ngày, Cộng quân tung liên tục các đợt tấn công cường tập để cố chiếm các cao điểm, từ đó khống chế trục giao thông để các đơn vị tăng viện của Cộng quân từ Cao nguyên đổ về có thể di chuyển theo Quốc lộ 20 vào Xuân Lộc nhanh hơn.
Suốt ngày 12/4/1975, các trận giao tranh ác liệt đã diễn ra giữa tiểu đoàn 3/52 và Cộng quân trên các triền núi và khu vực đồn điền Bình Lộc, cách ngã ba Dầu Giây 7 km về hướng Đông Bắc. Để yểm trợ cho cho đơn vị trú phòng, bộ Tư lệnh Hành quân chiến trường Xuân Lộc đã điều động phi đội phản lực cơ A 37 oanh tạc vào đội hình của Cộng quân, đồng thời bộ chỉ huy chiến đoàn đã điều động 1 chi đoàn chiến xa và hai pháo đội Pháo binh yểm trợ hỏa lực cho tiểu đoàn 3/52 để đơn vị có thể giữ được các vị trí phòng ngự. Mỗi trung đội của tiểu đoàn 3/52 đã phải đối đầu với cả hai, ba đại đội Cộng quân. Dù vậy, tinh thần quyết tử của người lính Sư đoàn 18 Bộ binh đã chận đứng được nhiều đợt xung phong thí mạng của đối phương. Sau những giờ kịch chiến, trước lực lượng địch quá đông với chiến thuật tấn công bằng biển người, nên đến đêm 12/4/1975, các vị trí phòng ngự của tiểu đoàn 3/52 đã bị địch tràn ngập. Dù thất thủ, tiểu đoàn 2/52 đã gây tổn thất nặng cho địch quân: hơn 500 Cộng quân bị loại ngoài vòng chiến.
Tiếp theo cuộc tấn công vào tiểu đoàn 3/52, ngày 13 tháng 4/1975, Cộng quân điều động 1 trung đoàn tiến về phía Nam của phòng tuyến chiến đoàn 52. Trung đoàn CQ này có nhiệm vụ tiến hành các cuộc tấn công triệt phá cụm phòng ngự của tiểu đoàn 1/trung đoàn 52 BB tại ngã ba Dầu Giây. Để yểm trợ cho cuộc tấn công bằng bộ binh, Cộng quân đã điều động các đơn vị pháo di chuyển theo liên tỉnh lộ 321, từ phía Nam đi lên, rồi bố trí pháo tại các cao điểm phía Tây Nam và Đông Nam Ngã Ba Dầu Giây, để pháo vào tuyến phòng thủ của các đơn vị thuộc chiến đoàn 52.
* 1 đại đội của tiểu đoàn 1/52 chống trả trận cường tập của CQ:
Theo sự phối trí của bộ chỉ huy chiến đoàn 52, tiểu đoàn 1/52 bố trí quân quanh ngã ba Dầu Giây, đại đội phòng thủ xa nhất án ngữ tại ấp Phan Bội Châu và dọc theo đường xe lửa, cách Dầu Giây 1 km, dọc theo Quốc lộ 20, kéo dài về hướng Nam. Tối 13 tháng 4/1975, sau trận mưa pháo kích hỏa tập hơn 1 giờ, Cộng quân tấn công biển người tràn ngập vào tuyến phòng ngự của đại đội thuộc tiểu đoàn 1/52 nói trên. Đơn vị trú phòng đã mở đường máu ra rút về tuyến sau. Tính đến 12 giờ đêm 13/4/1972, cụm tuyến phòng ngự của chiến đoàn 52 chỉ còn chiều dài khoảng 6 km, dọc theo Quốc lộ 20 (đường từ Long Khánh đi Đà Lạt).
Theo sự phối trí của bộ chỉ huy chiến đoàn 52, tiểu đoàn 1/52 bố trí quân quanh ngã ba Dầu Giây, đại đội phòng thủ xa nhất án ngữ tại ấp Phan Bội Châu và dọc theo đường xe lửa, cách Dầu Giây 1 km, dọc theo Quốc lộ 20, kéo dài về hướng Nam. Tối 13 tháng 4/1975, sau trận mưa pháo kích hỏa tập hơn 1 giờ, Cộng quân tấn công biển người tràn ngập vào tuyến phòng ngự của đại đội thuộc tiểu đoàn 1/52 nói trên. Đơn vị trú phòng đã mở đường máu ra rút về tuyến sau. Tính đến 12 giờ đêm 13/4/1972, cụm tuyến phòng ngự của chiến đoàn 52 chỉ còn chiều dài khoảng 6 km, dọc theo Quốc lộ 20 (đường từ Long Khánh đi Đà Lạt).
Sau 1 tuần lễ tử chiến với các sư đoàn CSBV, lực lượng chiến đoàn 52 còn khoảng 2 ngàn quân, gồm cả các đơn vị Địa phương quân Long Khánh từ Định Quán, Túc Trưng triệt thoái về. Về đơn vị Thiết giáp tăng cường, số chiến xa bị cháy và không sử dụng được chiếm gần 1/2. Các pháo đội 105 và 155 ly, tuy chưa bị trúng pháo của CQ, nhưng từ ngày 12/4/1975, số đạn được tiếp tế rất hạn chế. Các ưu tiên về yểm trợ hỏa lực, về phi pháo dồn cho mặt trận chính là trung tâm thị xã Xuân Lộc.
* Trận đánh đẫm máu tại ngã ba Dầu Giây vào chiều ngày 15/4/1975:
Chiều ngày 15 tháng 4/1972, bộ tư lệnh quân đoàn 4 CSBV điều động sư đoàn 341 tổng trừ bị phối hợp với 2 trung đoàn của CT7, 1 lữ đoàn chiến xa T 54, một số tiểu đoàn đặc công, tổng quân số khoảng 20 ngàn, đã đồng loạt tấn công cường tập vào tuyến phòng thủ trung tâm của chiến đoàn 52 tại ngã ba Dầu Giây. Sự tương quan về lực lượng quá chênh lệch, 1 người lính của chiến đoàn 52 phải chống trả với 10 Cộng quân, ngoài ra đối phương còn áp đảo về hỏa lực pháo binh.
Chiều ngày 15 tháng 4/1972, bộ tư lệnh quân đoàn 4 CSBV điều động sư đoàn 341 tổng trừ bị phối hợp với 2 trung đoàn của CT7, 1 lữ đoàn chiến xa T 54, một số tiểu đoàn đặc công, tổng quân số khoảng 20 ngàn, đã đồng loạt tấn công cường tập vào tuyến phòng thủ trung tâm của chiến đoàn 52 tại ngã ba Dầu Giây. Sự tương quan về lực lượng quá chênh lệch, 1 người lính của chiến đoàn 52 phải chống trả với 10 Cộng quân, ngoài ra đối phương còn áp đảo về hỏa lực pháo binh.
Trận chiến diễn ra thật khốc liệt ngay từ những giây phút đầu. Với chiến thuật sử dụng pháo để khống chế chiến trường, sau đó tung bộ binh tấn công bằng biển người có chiến xa yểm trợ, sau 3 giờ giao tranh đẫm máu, Cộng quân đã tràn ngập các cụm điểm phòng ngự của chiến đoàn 52, chia cắt sự liên hoàn trong phòng thủ của các đơn vị thuộc chiến đoàn này dọc theo Quốc lộ 1 và Quốc lộ 20. Một điều không may xảy ra cho chiến đoàn 52 là do trời tối, 4 chiến xa M 48 lại bị trúng đạn pháo kích của CQ, Không quân khó quan sát để thực hiện các phi vụ oanh kích, nên sự yểm trợ hỏa lực của Thiết giáp và Không quân cho các vị trí của chiến đoàn 52 gần như bị tê liệt.
Sau khi đã chia cắt lực lượng của chiến đoàn 52, Cộng quân tung đợt tấn công từ bốn phía để cố chiếm lĩnh trận địa. Trước áp lực mạnh và lối đánh thí mạng tàn bạo của đối phương, phòng tuyến ngã ba Dầu Giây bị vỡ, lực lượng của chiến đoàn còn khoảng 2 đại đội đã mở đường máu vượt thoái được. Dù chiếm được ngã ba Dầu Giây sau 6 giờ ác chiến, nhưng đến 1 giờ sáng, “đại quân” CSBV đã bị tổn thất nặng khi hai trái bom khổng lồ Daisy Cutter- gắn trên C-130 do 1 phi công VNCH điều khiển, được thả xuống khu tập trung quân của các sư đoàn chủ lực CSBV: Toàn bộ khu vực thị trấn Dầu Giây rung chuyển như một trận động đất lớn, đèn phụt tắt, làn sóng vô tuyến của CQ tức khắc im tiếng, bộ chỉ huy sư đoàn 341 và khoảng 7 ngàn quân CSBV bị tiêu diệt bởi hai quả bom này.
* Những trận đánh cuối cùng trong thị xã Xuân Lộc:
Trở lại với mặt trận ở thị xã Xuân Lộc, sau khi thất bại trong hai đợt tấn công đầu tiên vào tỉnh lỵ, Cộng quân chuyển sang tấn công vào hướng Nam và hướng Bắc vòng đai phòng thủ, đồng thời 1 cánh quân CSBV trở lại tấn công thị trấn, bất chấp thiệt hại nặng nề, địch cố xâm nhập vào khu trung tâm, nhưng Sư đoàn 18 Bộ binh đã nhanh chóng phản ứng, đánh bật Cộng quân, bắt sống 20 tù binh, bắn cháy hơn 10 chiến xa. Sau một loạt tấn công bất thành, cuối cùng Cộng quân tung ra đợt tấn công cường tập nhắm vào chiến đoàn 48 đang phòng ngự ở mạn Tây. Tại hướng này, Cộng quân đã điều động 3 trung đoàn bộ binh, với sự yểm trợ của chiến xa T 54, tấn công biển người vào cụm tuyến phòng thủ của các tiểu đoàn của trung đoàn 48 Bộ binh (lực lượng chính của chiến đoàn). Sau hai giờ tấn công thí quân, CQ đã chọc thủng tuyến phòng thủ của 1 tiểu đoàn của trung đoàn này, đồng thời chia cắt làm hai cụm tuyến còn lại. Liên lạc giữa bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh và trung đoàn 48 bị cắt đứt, mặc dầu hai tiểu đoàn của trung đoàn này vẫn còn liên lạc được với bộ Tư lệnh Sư đoàn.
Trở lại với mặt trận ở thị xã Xuân Lộc, sau khi thất bại trong hai đợt tấn công đầu tiên vào tỉnh lỵ, Cộng quân chuyển sang tấn công vào hướng Nam và hướng Bắc vòng đai phòng thủ, đồng thời 1 cánh quân CSBV trở lại tấn công thị trấn, bất chấp thiệt hại nặng nề, địch cố xâm nhập vào khu trung tâm, nhưng Sư đoàn 18 Bộ binh đã nhanh chóng phản ứng, đánh bật Cộng quân, bắt sống 20 tù binh, bắn cháy hơn 10 chiến xa. Sau một loạt tấn công bất thành, cuối cùng Cộng quân tung ra đợt tấn công cường tập nhắm vào chiến đoàn 48 đang phòng ngự ở mạn Tây. Tại hướng này, Cộng quân đã điều động 3 trung đoàn bộ binh, với sự yểm trợ của chiến xa T 54, tấn công biển người vào cụm tuyến phòng thủ của các tiểu đoàn của trung đoàn 48 Bộ binh (lực lượng chính của chiến đoàn). Sau hai giờ tấn công thí quân, CQ đã chọc thủng tuyến phòng thủ của 1 tiểu đoàn của trung đoàn này, đồng thời chia cắt làm hai cụm tuyến còn lại. Liên lạc giữa bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh và trung đoàn 48 bị cắt đứt, mặc dầu hai tiểu đoàn của trung đoàn này vẫn còn liên lạc được với bộ Tư lệnh Sư đoàn.
Dù các tuyến ngoại vi bị Cộng quân tràn ngập, nhưng tuyến phòng thủ
trung tâm vẫn đứng vững. Riêng về Cộng quân, sau khi bị thiệt hại nặng
về quân số, pháo binh và chiến xa, đối phương đã thay đổi kế hoạch để
tấn công vào Sài Gòn, do đó Xuân Lộc không còn là điểm nóng nữa. Trước
diễn biến mới của chiến trường, ngày 20 tháng 4/1975, bộ Tư lệnh Quân
đoàn 3 quyết định cho triệt thoái toàn bộ lực lượng Sư đoàn 18 Bộ binh
và các đơn vị tham chiến tại Xuân Lộc, tất cả rút ra khỏi thị xã theo
liên tỉnh lộ Hai. 6 giờ chiều cùng ngày, một thành phần của Sư đoàn 18
Bộ binh đã rút từ Long Lễ về Long Bình. Tại đây toàn Sư đoàn được nghỉ
dưỡng quân 3 ngày, sau đó được Quân đoàn 3 bố trí phòng thủ khu vực
Đông Nam Biên Hòa.
Sinh Tồn chuyển
No comments:
Post a Comment