Trong cuộc chiến tháng 4/1975, sau khi đánh chiếm các tỉnh ở Miền Trung và Cao nguyên, Cộng quân đã điều động 3 sư đoàn tổng trừ bị chủ lực để tiến hành cuộc tấn công vào Xuân Lộc, tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh. Từ ngày 9 đến ngày 20 tháng 4/1975, tại chiến trường này, Sư đoàn 18 Bộ binh, lực lượng Lữ đoàn 1 Nhảy Dù, Lữ đoàn 1 Thiết kỵ, Pháo binh...đã chận đứng được nhiều cuộc tấn công cường tập của Cộng quân. Trong phần cuối của loạt bài “Chiến trường Việt Nam 30 năm nhìn lại”, chúng tôi đã trình bày tổng quát về trận chiến tại An Lộc, nhưng do phạm vi bài viết phải lược trình sự kiện chiến trường tại nhiều mặt trận trong cùng một ngày, nên chỉ mới giới thiệu sơ lược một số trận đánh của Sư đoàn 18 Bộ binh. Trong loạt bài Đơn Vị & Chiến trường kỳ này, dựa vào một số tài liệu có giá trị về mặt quân sử, chúng tôi xin tường trình chi tiết về chiến tích của Sư đoàn 18 Bộ binh tại An Lộc và vòng đai tỉnh lỵ vào trung tuần tháng 4/1975:
* Sư đoàn 18 Bộ binh tại phòng tuyến Xuân Lộc:
Trước khi trận chiến tại Long Khánh bùng nổ, theo tài liệu của ông Hứa Yến Lến, cựu sĩ quan QL/VNCH, người đã đảm nhiệm chức vụ tham mưu trưởng Hành quân Sư đoàn 18 Bộ binh vào thời kỳ cuối cùng, lực lượng phòng ngự tại Xuân Lộc và khu vực ngã ba Dầu Giây gồm có: 3 trung đoàn thuộc Sư đoàn 18 Bộ binh, thiết đoàn 5 Kỵ Binh, 4 tiểu đoàn Pháo binh thuộc Sư đoàn 18 Bộ binh binh, tiểu đoàn 82 Biệt động quân, lực lượng Địa phương quân và Nghĩa quân tỉnh Long Khánh. Tất cả các đơn vị nói trên được chia thành 3 lực lượng đặc nhiệm:
Trước khi trận chiến tại Long Khánh bùng nổ, theo tài liệu của ông Hứa Yến Lến, cựu sĩ quan QL/VNCH, người đã đảm nhiệm chức vụ tham mưu trưởng Hành quân Sư đoàn 18 Bộ binh vào thời kỳ cuối cùng, lực lượng phòng ngự tại Xuân Lộc và khu vực ngã ba Dầu Giây gồm có: 3 trung đoàn thuộc Sư đoàn 18 Bộ binh, thiết đoàn 5 Kỵ Binh, 4 tiểu đoàn Pháo binh thuộc Sư đoàn 18 Bộ binh binh, tiểu đoàn 82 Biệt động quân, lực lượng Địa phương quân và Nghĩa quân tỉnh Long Khánh. Tất cả các đơn vị nói trên được chia thành 3 lực lượng đặc nhiệm:
- Lực lượng đặc nhiệm 43: do đại tá Lê Xuân Hiếu chỉ huy, gồm trung đoàn 43 Bộ binh gồm trung đoàn 43 (trừ tiểu đoàn 2/43), thiết đoàn 5 Kỵ Binh, tiểu đoàn 2/52, tiểu đoàn 82 Biệt động quân, lực lượng Địa phương quân và Nghĩa quân Long Khánh, trách nhiệm phòng thủ Xuân Lộc.
- Lực lượng đặc nhiệm 48: do trung tá Trần Minh Công chỉ huy, gồm trung đoàn 48 Bộ binh với tiểu đoàn Pháo binh yểm trợ cơ hữu, trách nhiệm hoạt động dọc theo Quốc lộ 1 đi ngang qua vòng đai tỉnh lỵ Long Khánh. (Sau ngày 12/4/1975, lực lượng đặc nhiệm 48 bàn giao nhiệm vụ cho lữ đoàn 1 Nhảy Dù và trở thành trừ bị cho Sư đoàn).
- Lực lượng đặc nhiệm 52: do đại tá Ngô Kỳ Dũng chỉ huy, gồm trung đoàn 52 Bộ binh (trừ tiểu đoàn 2/52), với tiểu đoàn Pháo binh và thành phần yểm trợ cơ hữu), trách nhiệm chận địch dọc Quốc lộ 20, khu vực ngã ba Dầu Giây.
Theo tài liệu của cựu đại tướng Cao Văn Viên, nguyên Tổng tham mưu trưởng QL/VNCH, thì lực lượng tăng phái cho Sư đoàn 18 Bộ binh còn có: trung đoàn 8 thuộc Sư đoàn 5 Bộ binh, thiết đoàn 3 Kỵ Binh (gồm hai chi đoàn M41 và M113, 1 chi đoàn M 48), 2 tiểu đoàn Biệt động quân, hai tiểu đoàn Pháo binh 105 và 155 ly, lữ đoàn 1 Nhảy Dù, liên đoàn 81 Biệt cách Nhảy Dù. Tất cả lực lượng cơ hữu của Sư đoàn 18 Bộ binh và các đơn vị tăng phái được chia thành 3 lực lượng đặc nhiệm mang số hiệu: 316, 318 và 322. (Tài liệu của cựu đại tướng Viên có nhiều điểm khác với tài liệu của ông Hứa Yến Lến, nguyên tham mưu trưởng Hành quân Sư đoàn 18 Bộ binh, nhất là về danh hiệu các đơn vị tham chiến và tăng phái).
Theo phân nhiệm của bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, chuẩn tướng Lê Minh Đảo, tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh là tư lệnh chiến trường Xuân Lộc. Bộ Tư lệnh hành quân đặt tại thị xã tỉnh lỵ. Lực lượng diện địa do đại tá Phạm Văn Phúc, tỉnh trưởng/tiểu khu trưởng Long Khánh trực tiếp chỉ huy, nhưng về phòng thủ, các đơn vị diện địa được phối trí theo kế hoạch của bộ Tư lệnh chiến trường Xuân Lộc. Nhiệm vụ của Sư đoàn 18 Bộ binh là tái chiếm Định Quán trên Quốc lộ 20, tái lập giao thông trên Quốc lộ 1 giữa Xuân Lộc và Bình Tuy, bảo vệ vòng đai phía Bắc của căn cứ tiếp vận Long Bình trên Quốc lộ 15 và căn cứ Không quân ở Biên Hòa.
* Ngày N và N+1 của Sư đoàn 18 BB tại chiến trường Xuân Lộc:
Trận chiến tại An Lộc đã khởi sự từ rạng sáng ngày 9 tháng 4/1972 nhưng ngay từ ngày 7/4/1975, Cộng quân đã điều động quân bao vây các ngõ vào Xuân Lộc. Tại ngã ba Dầu Giây, giao điểm của Quốc lộ 1 và Quốc lộ 20, các đơn vị của sư đoàn 341 và 3 CSBV đã tung quân đặt chướng ngại vật để cắt đứt giao thông giữa Xuân Lộc và Sài Gòn, pháo kích vào tuyến phòng của trung đoàn 52 Bộ binh. Tiếp đó, hai sư đoàn này cùng với sư đoàn 7 CSBV khởi động cuộc tấn Xuân Lộc. Cộng quân khai hỏa vào 5 giờ 30 sáng ngày 9/4/1975 bằng một trận mưa pháo vào khu vực tỉnh lỵ. Phần lớn đạn pháo của CQ rớt vào chợ, nhà thờ và khu dân cư, khiến cho nhiều dân lành bị thương, bị chết trong trận pháo kéo dài hai giờ liền.
Trận chiến tại An Lộc đã khởi sự từ rạng sáng ngày 9 tháng 4/1972 nhưng ngay từ ngày 7/4/1975, Cộng quân đã điều động quân bao vây các ngõ vào Xuân Lộc. Tại ngã ba Dầu Giây, giao điểm của Quốc lộ 1 và Quốc lộ 20, các đơn vị của sư đoàn 341 và 3 CSBV đã tung quân đặt chướng ngại vật để cắt đứt giao thông giữa Xuân Lộc và Sài Gòn, pháo kích vào tuyến phòng của trung đoàn 52 Bộ binh. Tiếp đó, hai sư đoàn này cùng với sư đoàn 7 CSBV khởi động cuộc tấn Xuân Lộc. Cộng quân khai hỏa vào 5 giờ 30 sáng ngày 9/4/1975 bằng một trận mưa pháo vào khu vực tỉnh lỵ. Phần lớn đạn pháo của CQ rớt vào chợ, nhà thờ và khu dân cư, khiến cho nhiều dân lành bị thương, bị chết trong trận pháo kéo dài hai giờ liền.
7 giờ 30 sáng cùng ngày, lực lượng bộ binh và chiến xa Cộng quân mở cuộc tấn công cường vào trung tâm thị xã Xuân Lộc và tuyến phòng ngự của trung đoàn 43 Bộ binh và 1 tiểu đoàn Địa phương quân của tiểu khu Long Khánh. Tại trung tâm thị xã, trận chiến xảy ra ngay tại nhà thờ Chánh tòa và giữa chợ Xuân Lộc. Đối phương sử dụng thiết giáp có bộ binh tùng thiết tấn công vào khu vực trung tâm tỉnh lỵ Long Khánh. Để đẩy lùi địch quân ra khỏi thị xã, bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 đã điều động lực lượng Dù và Biệt động quân trực thăng vận đến tăng viện, trận chiến trở nên dữ dội hơn.
Từ 7 giờ 30 sáng đến 5 giờ chiều cùng ngày, trung đoàn 43/Sư đoàn 18, lực lượng Địa phương quân và chiến đoàn tăng viện đã nỗ lực chận đứng các đợt tấn công của Cộng quân. 4 chiến xa của địch đã bị bắn cháy gần chợ Xuân Lộc. Đến 6 giờ chiều ngày 10/4/1975, các chốt cầm cự của Cộng quân trong tại thị xã Xuân Lộc, nhà thờ Chánh Tòa hoàn toàn bị đánh bật. Báo cáo sơ khởi của bộ Tư lệnh chiến trường An Lộc cho biết có 300 Cộng quân bị bỏ xác tại trận địa với trên 100 vũ khí đủ loại, 2 binh sĩ Cộng quân bị bắt sống. Tại các khu vực kế cận thị xã, trận chiến vẫn kéo dài đến 10 giờ đêm, do Cộng quân cố bám giữ một số vị trí đã đánh chiếm vào buổi sáng, nhưng cuối cùng, lực lượng tăng viện đã tung các đợt tấn công đêm nỗ lực giải tỏa áp lực của địch quân, 2 chiến xa T 54 của CQ bị hạ tại các vị trí này cùng 6 súng đại liên phòng không và một số súng cá nhân khác bị tịch thu.
Theo ghi nhận của một số cấp chỉ huy các đơn vị tham chiến, trận An Lộc trong ngày đầu tiên vô cùng khốc liệt, như nhận xét của Văn Tiến Dũng, đại tướng, tổng tham mưu trưởng quân đội CSBV trong một bài viết về cuộc chiến 30/4: “Mặt trận Xuân Lộc ác liệt và đẫm máu ngay từ những ngày đầu; các sư đoàn 6, 7 và 341 của ta (CSBV) đã phải tấn công trong thành phố nhiều lần nhưng gặp sức kháng cự mạnh của trung đoàn 43 của địch; các đơn vị Pháo binh của ta đã sử dụng nhiều hơn số đạn dự trù và xe bọc thép của ta bị hại nhiều”.
Trong trận tấn công vào Xuân Lộc, chiến thuật sử dụng pháo binh để khống chế chiến trường đã được Cộng quân vận dụng tối đa. Trong điều kiện chưa mở cuộc tấn công quy mô, chiến thuật “đánh nhanh rút nhanh” của đặc công Cộng quân đã được thực hiện trong nhiều trường hợp. Về mức độ pháo kích, tính từ 5 giờ 30 sáng ngày 9/4/1975 đến 6 giờ chiều cùng ngày, Cộng quân đã pháo kích khoảng 3 ngàn quả pháo đủ loại vào trung tâm thị xã. Tính trung bình, mỗi giờ thị xã này phải hứng chịu gần 250 quả pháo. Riêng trong giờ đầu tiên trước khi tung bộ binh và thiết giáp tấn công thị xã Xuân Lộc, Cộng quân đã pháo hơn 1 ngàn quả đạn vào thị xã.
Ngày 10 tháng 4/1975, Cộng quân mở trận tấn công thứ hai vào thị xã Xuân Lộc với nỗ lực chính là sư đoàn 6, sư đoàn 7 CSBV, 2 lữ đoàn chiến xa. Trận chiến khởi sự lúc 7 giờ sáng với trận pháo kích khoảng 1 ngàn quả đạn đủ loại. Pháo binh CQ vừa ngưng, lực lượng bộ binh và chiến xa Cộng quân đã tấn công từ bốn hướng: Đông, Tây, Nam, Bắc thị xã. Từ tòa Hành chánh tỉnh Long Khánh đến phi trường tỉnh lỵ, tại mỗi khu vực Cộng quân đều điều động lực lượng từ cấp trung đoàn trở lên, có chiến xa yểm trợ, tấn công vào các cụm tuyến phòng ngự của Sư đoàn 18 Bộ binh và lực lượng tăng phái.
Tại tuyến phòng ngự của trung đoàn 43 Bộ binh, Cộng quân đã tung nhiều đợt tấn công biển người để cố chọc thủng cụm phòng thủ của trung đoàn này. Dù bị áp đảo về quân số và về hỏa lực, nhưng hai tiểu đoàn 1/43 và 3/43 Bộ binh đã đánh trả quyết liệt, gây tổn thất nặng cho Cộng quân. Đến chiều ngày 10 tháng 4/1972, Cộng quân tung thêm đợt tấn công biển người cố tràn ngập chiến tuyến của trung đoàn 43 Bộ binh. Địch quân đã cắt tuyến chiến đấu của trung đoàn này thành những cụm nhỏ, nhưng người lính Sư đoàn 18 BB vẫn tiếp tục giữ trận địa, đẩy lùi các đợt tấn công của đối phương.
Tân Sơn Hòa chuyển
No comments:
Post a Comment