Showing posts with label • MẬU THÂN 1968. Show all posts
Showing posts with label • MẬU THÂN 1968. Show all posts

Wednesday, March 26, 2025

HUẾ VÀ TẾT MẬU THÂN 1968 - Nhu-Hanh Tonnu

HUẾ VÀ TẾT MẬU THÂN 1968
Nhu-Hanh Tonnu - fb Người Lính Già Tqlc

@**@ HUẾ VÀ TẾT MẬU THÂN 1968 – Những Kỷ Niệm Tuổi Thơ

 

Thursday, July 27, 2023

TRẦN MẬU THÂN 1968 - BÙI ANH TRINH

TRẦN MẬU THÂN 1968, (20) KẾT LUẬN VỀ TRẬN MẬU THÂN

BÙI ANH TRINH - fb Son H Cao
Kết quả sau 4 đợt tổng công kích
Một điều hết sức khôi hài đối với lịch sử là trong khi CIA đưa tin về Washington rằng quân VNCH đã thua đậm sau 4 trận “tổng công kích” Mậu Thân thì sự thực hoàn toàn ngược lại; tài liệu của Bộ Ngoại giao CSVN do Lưu Văn Lợi công bố :

Thursday, February 2, 2023

Vết Nhơ Quá Khứ - Huế 1968 - Nguyễn thị Thái Hoà

Vết Nhơ Quá Khứ - Huế 1968

Nguyễn thị Thái Hoà
Yến Ngọc Hải Âu

Tôi xin tường thuật lại chi tiết những cái chết đau thương của ông nội tôi, ba người anh, cùng một người bạn của họ, như là một nhân chứng còn sống sót sau tết Mậu Thân như là tiếng kêu oan cho gia đình tôi, cho linh hồn của những người thân trong gia đình, gia tộc tôi cách riêng, và cho những người dân Huế nói chung, 

Wednesday, January 25, 2023

TIẾNG KÊU TẾT MẬU THÂN - Nhã Ca

TIẾNG KÊU TẾT MẬU THÂN

Nhã Ca
Chuyện Xứ Xã Nghĩa

Hình như mỗi người đều có cuốn lịch riêng của mình, trong nhà hoặc trong đầu. Tôi biết mỗi tờ lịch có câu chuyện của nó, cả chuyện hôm qua, hôm nay, lẫn ngày mai. Câu chuyện của từng tờ lịch trong cuốn lịch chung được gọi là lịch sử. Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến dài nhất của lịch sử Hoa Kỳ trong thế kỷ 20. 

Sunday, January 22, 2023

Ta thấy gì về người Cộng sản? fb Người Miền Nam

Ta thấy gì về người Cộng sản?

fb Người Miền Nam

Trước hết, phải khẳng định rằng:

Cộng sản là một lũ lật lọng:
Tết Mậu Thân 1968, chúng tổ chức cái gọi là "Cuộc Tấn Công Và Nổi Dậy Xuân Mậu Thân". Sau khi thất bại toàn diện trên tất cả các mặt trận với hàng trăm ngàn quân phơi xác, Cộng sản nói rằng trận chiến đó là do "Mỹ Ngụy phá hoại ngày Tết của nhân dân ta" !

Saturday, January 21, 2023

TẾT MẬU THÂN (1968) TẠI BẮC BÌNH THUẬN – Cao Hoài Sơn

TẾT MẬU THÂN (1968) TẠI BẮC BÌNH THUẬN
Xuân An – Cao Hoài Sơn
Son H Cao

Xuân này nhớ xuân xưa, dân Nam ta, hậu duệ VNCH phải nhìn thấy cái tàn bạo của quân xâm lược +phỉ .
Tôi chợt nhớ về mùa Xuân Mậu Thân năm đó khi tôi đang còn học tại Phan Thiết, được vài ngày nghỉ nên về quê Chợ Lầu ăn tết. 

 --------------------------

Vết Nhơ Lịch Sử! Cố đô kinh hoàng - Mậu Thân 1968 - Bác sĩ Alje Vannema

Vết Nhơ Lịch Sử! Cố đô kinh hoàng - Mậu Thân 1968

Bác sĩ Alje Vannema
Yến Ngọc Hải Âu

Sớm tinh sương đã thấy quân Mặt Trận (Giải Phóng Miền Nam) hiện diện trong thành phố. Họ là những người lo mặt chính trị trong cuộc chiếm cứ. Ngày hôm trước, họ vào sổ gần hết mọi người, ghi tên, tuổi, phái tính. Họ quan tâm đặc biệt đối với phái nam, chia những người này ra thành nhiều nhóm: 

Thursday, January 19, 2023

Mùa Xuân Năm Ấy (Mậu Thân 1968) - Nguyễn Tâm An

Mùa Xuân Năm Ấy (Mậu Thân 1968)

Nguyễn Tâm An
Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa
Brian Vu
Thảm Sát Huế 1968 - Tony Nguyễn
Tết Mậu Thân 1968 - Làm Sao Mà Quên Được! - Hồ Diệu Thảo (fb Steven Lam)
--------------------

Tết Mậu Thân 1968 - Làm Sao Mà Quên Được! - Hồ Diệu Thảo (fb Steven Lam)

Tết Mậu Thân 1968

fb Steven Lam

Lại thêm một mùa xuân xa xứ, và thế là tồn đọng trong tôi hai mùa xuân không sao quên được. Hai dấu ấn xảy ra trong thời còn bé và thanh niên đã giúp tôi trưởng thành trong suy nghĩ rất nhiều như định hướng và thêm sức lực cho tôi trong những năm sau này.

Wednesday, January 18, 2023

Thảm Sát Huế 1968 - Tony Nguyễn

Nguyễn Tâm An 
Người Bắc Việt Nam cảm thấy gì về Thảm sát Huế đã xảy ra trong chiến tranh Việt Nam?
Vụ thảm sát Huế (Thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế, hay Thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế) là vụ hành quyết tập thể và giết người hàng loạt do Việt Cộng (VC) và Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) gây ra trong quá trình đánh chiếm, chiếm đóng quân sự và sau đó rút khỏi thành phố Huế trong Tết Mậu Thân, được coi là một trong những trận chiến dài nhất và đẫm máu nhất của Chiến tranh Việt Nam.
-----------------------------

Wednesday, February 25, 2015

• Hãy nói trước ngày chết - Trần Trung Đạo

Người “nhảy núi” nổi tiếng nhất là Hoàng Phủ Ngọc Tường
Trong lịch sử nhân loại, không có một chủ nghĩa nào tàn bạo hơn chủ nghĩa Cộng Sản. Từ khi Tuyên ngôn đảng cộng sản ra đời năm 1848 cho đến khi bức tường Bá Linh bị đập đổ vào 1989, khoảng gần 100 triệu người từ nhiều quốc gia đã bị giết. Hơn hai mươi năm qua, mặc dù ngọn lửa vô thần đã tắt trên phần lớn quả địa cầu, một góc trời phương đông lửa vẫn còn đỏ rực, nhà tù vẫn còn giam giữ nhiều người bất đồng với chế độ độc tài toàn trị và tự do vẫn là một bóng mây xa.

Thursday, January 16, 2014

• Biệt Động Quân - Tết Mậu-Thân Tại Sài Gòn - Vũ Đình Hiếu

Biệt Động Quân - Tết Mậu-Thân Tại Sài Gòn
by Vũ - Đình - Hiếu - Tram nguyen

Năm 1967, quân cộng sản bị tổn thất nặng sau những trận đánh lớn với quân đội VNCH và đồng-minh. Biết rằng không thể đương đầu với QLVNCH trong một trận chiến trực diện, Hà-Nội đã bí mật chuẩn bị cho một trận tấn công bất ngờ. Lợi dụng thời gian hưu chiến cho Tết Mậu- Thân 1968, quân CSBV / Việt cộng phát động chiến dịch Tổng công-kích / Tổng khởi-nghiã trên khắp miền nam Việt-Nam. Địch quân đã tấn công hoặc pháo kích vào 36 trong số 44 thành phố chính của miền nam, 5 thành phố lớn, và hầu hết các phi trường để trì hoãn các cuộc chuyển quân của QLVNCH và đồng minh.

Saturday, September 7, 2013

• KHE SANH - HAY KHE TỬ!?

KHE SANH - HAY KHE TỬ!?

Monday, July 8, 2013


Hoàng Thanh Trúc (Danlambao) - Trận chiến Khe Sanh 1968, pháo đài bay B52 của Mỹ đã phá tan chiến thuật “biển người” cổ lỗ sĩ của Võ nguyên Giáp. CS Bắc Việt: Khoảng 10.000-15.000 “sinh Bắc tử Nam” (B52 trải thảm).  Phía Mỹ 199, VNCH (miền Nam) 229 hy sinh. (Wikipedia) 

Bản chất vốn dĩ đặc trưng của tuyên truyền dối trá, nếu để ý, chúng ta sẽ thấy “nhà nước, đảng ta” rất nghiện “ăn mày dĩ vãng”, dù giá trị của thứ ăn mày nhiều khi ví như là “cơm thừa canh cặn” ,nhưng họ cứ tô son điểm phấn dán lên cái mác “sơn hào hải vị” để bịp bợm với nhân dân mình, những ai (chưa từng biết) vô tình nhẹ dạ cả tin.

Mới đây, theo VOV, Đêm 7/7/2013, tổ chức một chương trình giao lưu tại Quảng Trị nhân kỷ niệm cái gọi là: chiến thắng Khe Sanh. Với tiêu đề quái đản (dù bị đánh DẬP MẶT ngày đó) thì hôm nay vẫn cứ múi mặt gọi là:

“Khe Sanh 1968 - sức mạnh Việt Nam (!?)
“VOV” thông báo: Nhân kỷ niệm 45 năm Ngày Chiến thắng Khe Sanh, giải phóng Hướng Hóa, tối 7/7, tại Bảo tàng chiến thắng Sân bay Tà Cơn (xã Tân Hợp, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị) tổ chức chương trình “Khe Sanh 1968 - sức mạnh Việt Nam”. Tham gia cuộc giao lưu có đại diện lãnh đạo các Bộ, ngành Trung ương; tỉnh Quảng Trị, các tướng lĩnh, cựu chiến binh và đông đảo nhân dân và du khách.

Chương trình có sự tham gia của hơn 300 diễn viên chuyên nghiệp của Nhà hát Ca kịch Huế, lực lượng bộ đội địa phương và bà con các dân tộc Vân Kiều, Pa Cô ở miền tây Quảng Trị.

“...Thông qua cuộc giao lưu với các cựu chiến binh, những người trực tiếp tham gia chiến đấu kể lại những câu chuyện cảm động về tinh thần chiến đấu dũng cảm, ác liệt và mưu trí của quân và dân ta...” - (VOV) 

Mà trong trận đánh “Khe Sanh” này, chẳng tìm thấy một ai là “ta” trong nhân dân ở phía Nam vĩ tuyến 17 cùng chung chiến hào với họ trong trận chiến đó!?

Khởi đi từ ý đồ tập trung đánh và bao vây Khe Sanh nhằm thu hút 1 lực lượng lớn quân Mỹ và quân VNCH miền Nam VN tham chiến, Tướng Võ nguyên Giáp toan tính dùng “biển người” và pháo binh tạo một “Trận Điện Biên Phủ thứ 2” có thể thay đổi cuộc chiến Việt Nam. Đó cũng là mục đích nhằm “nghi binh” cho các hướng tiến công chính trong giai đoạn 2 của chiến dịch Tết Mậu Thân 1968, (sau giai đoạn I thiệt hại nặng trong giao thừa trước đó): kết quả CS Bắc Việt bị phá sản toàn bộ chiến dịch “Tết Mậu Thân” và trận Khe Sanh.

Sau này trong “lòng” nội bộ đảng CSVN đã nhìn nhận đó là sự thất bại của “Trái non bắt chín ép” và cả nước đều đã rõ bộ mặt thật của trận Khe Sanh và Tết Mâu Thân. Khi Võ Nguyên Giáp dùng 3 Sư đoàn bộ binh và trọng pháo bao vây 6.000 Thủy Quân Lục Chiến Mỹ cùng khoảng 200 tay súng Biệt Động Quân miền Nam, nhưng không chiếm nỗi đồi Khe Sanh, với hơn mười ngàn con em miền Bắc “sinh Bắc phải tử Nam” làm cho Võ Nguyên Giáp nhất tướng công thành “dỏm” trên vạn cốt khô “thật”.

“... Ngài có hối tiếc gì về 3-4 triệu người Việt Nam đã 
chết vì cuộc nội chiến ý thức hệ CS...” - 
(Non, pas du tout) “không hối tiếc”!? (Võ Nguyên Giáp).

Tương phản với cái “thùng rỗng” của VOV - Khe Sanh 1968 - sức mạnh Việt Nam - trích soạn một trong hàng trăm bài viết vô tư trung thực từ tư liệu ký giả, PV quốc tế có liên quan trận chiến này để đồng bào trẻ và nhất là các cán binh CSVN “thoát chết” trong trận Khe Sanh - hoài cảm “nghiệm suy” về sự thật cay đắng của nó...

Sự Thật - Khe Sanh 77 ngày của năm 1968. (www.conongviet.com)
Vào tháng 3 năm 1967, căn cứ Khe Sanh được phòng thủ vỏn vẹn chỉ bởi một đại đội Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Lúc đầu, hỏa lực tại đây chỉ gồm một pháo đội 105 ly, 2 khẩu 155 ly, cùng 2 súng cối loại 4. 2 inch.

Lực lượng yểm trợ gồm một đại đội Địa Phương Quân (ĐPQ) và một toán TQLC Hoa Kỳ đóng ở làng Khe Sanh (ngôi làng này cũng tên là Khe Sanh) cách căn cứ chỉ hơn 2 miles (3. 5 km). Và tất cả đều được yểm trợ bởi các khẩu pháo binh 155 ly và 175 ly ở hai căn cứ hỏa lực Carroll và Rock Pile gần đó - Ngày 24 tháng 4 năm 1967, một toán Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ bất ngờ đụng độ với bộ đội Bắc Việt ở một địa điểm về phía Bắc của Đồi 861.

Sau đó tinh tình báo cho biết quân chính quy Bắc Việt đã tập trung đông đảo quân số về vùng nàỵ

Các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến lập tức được lệnh tăng cường cho Khe Sanh. 

Ngày 25 tháng 4, Tiểu Đoàn 3/3 (đọc là “Tiểu Đoàn 3 thuộc Trung Đoàn 3”) TQLC Hoa Kỳ đến Khe Sanh. Sang ngày hôm sau, Tiểu Đoàn 2/3 TQLC lập tức tăng cường. Sang đến ngày 27, Pháo Đội B thuộc Tiểu Đoàn 1/12 Pháo Binh có mặt tại căn cứ. Ngày 28 tháng 4 năm 1967, sau khi được pháo binh yểm trợ, Tiểu Đoàn 2/3 TQLC Hoa Kỳ tiến chiếm Đồi 861. Cùng lúc đó, Tiểu Đoàn 3/3 cũng mở cuộc tấn công lên Đồi 881.

Đây là những cụm đồi nằm gần Khe Sanh, và đã được quân đội Hoa Kỳ chọn làm những tiền đồn bảo vệ căn cứ. Trong những ngày tiếp đến, lực lượng Cọp Biển Hoa Kỳ lần lượt chiếm hết những cao điểm lân cận: đó là các ngọn đồi 861, 881-Bắc và 881-nam.

Ngày 13 tháng 5/1967, Đại Tá J. J. Padley nhậm chức chỉ huy trưởng căn cứ Khe Sanh, thay thế Đại Tá J. P.Lanigan. Lúc đó, lực lượng phòng thủ được tăng cường thêm 3 tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 26 TQLC để thay thế cho Trung Đoàn 3.

Trong khi ấy, từ 24 tháng 4/1967 đến 12 tháng 5/1967, bộ đội Bắc Việt tiếp tục công kích với nhiều màn chạm súng lẻ tẻ.

Các vụ đụng độ này đã gây tử thương cho 155 binh sĩ Hoa Kỳ, nhưng quân Bắc Việt bị thiệt hại rất nặng với hơn 940 cán binh bỏ mạng đếm được. 

Mùa Hè 1967, sau khi bị thiệt hại nặng trong một thời gian ngắn (từ cuối tháng 4 đến giữa tháng 5), quân Cộng Sản phải tạm ngưng các hoạt động.

Áp lực quân sự quanh vùng Khe Sanh giảm sút khá nhiềụ Ngày 12 tháng 8/1967, Đại Tá ẸẸ Lownds được chỉ định thay thế Đại Tá J. J. Padley trong chức vụ Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 26 Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ tại Khe Sanh.

Vì tình hình lúc đó đang lắng diệu, hai trong ba tiểu đoàn TQLC của Trung Đoàn 26 Hoa Kỳ được phép rút khỏi căn cứ.

Nhưng tháng 12, Tiểu Đoàn 3/26 nhận lệnh tăng cường cho Khe Sanh.

Tinh tình báo cho biết hoạt động của các lực lượng Cộng Sản đã bắt đầu gia tăng quanh vùng nàỵ

Đêm 2 tháng 1/1968, gần hàng rào phòng thủ phía Tây Khe Sanh, một toán Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đã phục kích và bắn hạ 5 cán bộ Cộng Sản.

Giấy tờ tịch thu cho biết họ là những sĩ quan cao cấp Bắc Việt, trong đó có cả một người giữ chức trung đoàn trưởng. Còn hai người kia là cán bộ cao cấp về ngành truyền tin và hành quân.

Tình báo Hoa Kỳ lo ngại một lực lượng hùng hậu của Bắc Việt đã có mặt tại vùng nàỵ - Khi ấy, Trung Đoàn 26 TQLC tại Khe Sanh lập tức được lệnh phải bổ sung quân số - Đến ngày 20 tháng 1/1968, một trận đánh dữ dội đã xảy ra trên Đồi 881-Nam.

(Ghi Chú: Có hai ngọn đồi mang tên “881”, một ngọn nằm về hướng Bắc của Khe Sanh, và ngọn kia nằm về hướng Nam).

Ngọn đồi này được phòng thủ bởi một cánh quân của Tiểu Đoàn 1/3 TQLC Hoa Kỳ, gồm Bộ Chỉ Huy của Đại Đội M, hai trung đội bảo vệ, và toàn thể lực lượng của Đại Đội K. Trong tài liệu Nam, Vietnam 1965-75, Đại Úy William H.Dabney (đại đội trưởng Đại Đội I) cho biết đại đội của ông chỉ huy có vài khẩu bích kích pháo 81 ly, 3 đại bác 105 ly, và hai súng không-giật 106 ly.

Lúc trời vừa sáng còn dầy đặc sương mù, một toán quân của Đại Đội I lục soát vòng quanh khu vực. Mọi vật trong không gian và thời gian đang lắng đọng yên lành. Nhưng đến trưa khi sương mù tan biến. Nét lặng yên của buổi sáng bị giao động giữ dội. Hai trung đội đi đầu lọt vào ổ phục kích của địch quân. Một rừng đạn đủ loại từ súng cá nhân cho đến vũ khí cộng đồng bay veo véo Trong vòng chưa đến một phút mà đã có 20 binh sĩ Hoa Kỳ ngã gục. Những người còn lại nằm rạp xuống tránh đạn. Họ vừa bắn trả, vừa gọi máy truyền tin khẩn cấp xin hỏa lực pháo binh và không quân tiếp cứụ 

Các căn cứ hỏa lực quanh vùng lập tức đáp lờị Những khẩu đại bác được quay nòng về hướng Đồi 881-Nam rồi ì ầm tác xạ.

Một rừng đạn pháo bay đến cày nát chiến trường. Bom Napalm từ phi cơ không-yểm ném xuống cản được đợt xung phong của Cộng quân. Toán Cọp Biển TQLC bị thiệt hại nặng. Họ lui về phòng thủ vị trí cũ trên Đồi 881-Nam. 

Trong khi ấy, hai trung đội Thủy Quân Lục Chiến của Đại Đội M/3/26 (đọc là “Đại Đội M thuộc Tiểu Đoàn 3 của Trung Đoàn 26”) được trực thăng vận đến Đồi 881-Nam. Toán quân này chuẩn bị hợp sức với Đại Đội I/3/26 để ngày hôm sau mở cuộc lục soát về hướng Đồi 881-Bắc.

Theo tài liệu của Khe Sanh Veterans Home Page, cuộc hành quân này đưa đến một vụ đụng độ ác liệt dưới chân Đồi 881-Bắc. Lúc ấy, nương vào hỏa lực phi pháo và không yểm, không quân Mỹ từ ThaiLan đã xuất kích yểm trợ hàng trăm lần máy bay chiến lược B52 trút hàng chục ngàn tấn bom trải thảm - Đại Đội I/3/26 của Đại Úy Dabneyđã đánh cho một tiểu đoàn Cộng quân tan tành manh giáp. Trong trận này, Hoa Kỳ mất 7 người, CS Bắc Việt mất 103 - (Khe Sanh Veterans Home Page, Time Line). 

Ngày 20 tháng 1/1968, một biến chuyển quan trọng bất ngờ xảy ra. Lúc 2 giờ chiều, một viên trung úy Bắc Việt tên Lã Thanh Tòng thuộc Sư Đoàn 325C đột nhiên ra “đầu thú”. Trung Úy Tòng cho biết đêm nay Bắc quân sẽ mở cuộc tấn công lên các ngọn Đồi 861 và 881-Bắc.

Ngoài ra, người tù binh này cũng tiết lộ rằng hai sư đoàn 304 và 325C của Bắc Việt đã vạch sẵn một kế hoạch sẽ đánh chiếm căn cứ Khe Sanh. 

Đúng như lời khai của Trung Úy Tòng (CS Bắc Việt), lúc 12 giờ 30 rạng ngày 21 tháng 1/1968, Cộng quân dùng đại bác bắn vào Đồi 861.

Trước hết, kho chứa đạn của Thủy Quân Lục Chiến ở trên đồi trúng đạn pháo kích rồi nổ tan.

Kế đến, lực lượng Cộng Sản gớm 300 cán binh chuẩn bị xung phong lên đồi.

Nhưng Đại Đội K/3/26 biết trước. Họ gờm súng chờ đợi. Trận đánh kéo dài đến 5 giờ 30 sáng, Cộng quân rút lui để lại 47 xác. Phía bên Đại Đội K/3/26 có một binh sĩ hy sinh -Trong khi ấy ở căn cứ Khe Sanh, quân trú phòng luôn chú tâm theo dõi các diễn biến trên Đồi 861. Khi trận đánh kết thúc gần 6 giờ sáng, họ nghe nhiều tiếng “depart” từ xa vọng lạị Bầu trời đột nhiên đổ cơn mưa pháo. Những hạt mưa to bằng sắt thép với đường kính từ 81 đến 130 ly. Khi quả đạn đầu tiên lao vào căn cứ, những người lính tại Khe Sanh lập tức xuống hầm. Một số khác co lại trong giao thông hào Tay họ ôm nón sắt, và miệng đếm theo tiếng nổ của đạn pháo binh.

Trong phút chốc, kho chứa đạn khổng lồ trong căn cứ với 1, 500 tấn đã phát nổ tan tành.

Phi đạo ở Khe Sanh với chiều dài 3, 900 feet (1, 188 m) bị cày xới lung tung, bị rút ngắn lại chỉ còn 2, 000 feet(609 m). Thế mà ngày hôm đó một vài chiếc vận-tải cơ của Hoa Kỳ cũng xuống phi đạo để mang các kiện hàng cho binh sĩ ở Khe Sanh.

Ngày 22 tháng 1/1968, tình hình nguy ngập. Tiểu Đoàn 1 TQLC Hoa Kỳ đến tăng cường Khe Sanh. Đây là một đơn vị thuộc Trung Đoàn 9. Họ đã nổi danh trong trận đánh tại Côn Thiện (Cồn Tiên) gần vùng phi quân sự vào vàonăm 1967 - Ngày 26, một lực lượng tăng viện khác được không vận vào Khe Sanh. Đó là Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân của Đại Úy Hoàng Phổ. Đây là một đơn vị bộ chiến già dặn, đầy gan lì và kinh nghiệm của Việt Nam Cộng HòaTrách nhiệm của họ là tạo vòng đai phòng thủ tại khu vực ở hướng Đông ở căn cứ Khe Sanh.

Trong tác phẩm Battles And Campaigns In Vietnam, Tom Carhart có ghi lại một cách ngắn gọn về trận đánh của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân như sau: “Rạng sáng ngày 29 tháng 2/1968, mũi tấn công duy nhất được nhắm vào vòng đai trách nhiệm của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân. Khi Cộng quân xung phong đến gần hàng rào, họ bị lính Mũ Nâu chào đón họ bằng một rừng Claymore (mìn chống cá nhân), lựu đạn và súng cá nhân. Địch quân chẳng qua được hàng rào kẽm gai chằng chịt bên ngoàị Bảy mươi (70) xác chết của họ đếm được vì vậy đã được xem như như một cuộc thảm bại nặng nề.”

Trong các tài liệu Anh ngữ nói về trận chiến tại Khe Sanh, hầu như các tác giả và ký giả Hoa Kỳ chỉ ghi nhận mức chịu đựng bền bỉ của người lính Thủy Quân Lục Chiến, nhưng ít ai biết đến hoặc nhắc nhở gì về sứ mạng phòng thủ của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân.

May mắn thay, công trạng của họ đã được Trung Tướng Phillip Davison nhắc đến trong tài liệu Vietnam At War, The History 1946-75: “... Tướng Giáp tưởng tấn công vào tuyến phòng thủ của Biệt Động Quân VNCH sẽ dễ dàng hơn là đánh vào những nơi có Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ trấn giữ, nhưng đây không thể gọi là dễ dàng được bởi vì đơn vị Biệt Động Quân VNCH này chính là một đơn vị thiện chiến rất giỏi”

Trận tấn công vào đêm 29 tháng 2 (cho đến rạng ngày 1 tháng 3) là trận tấn công cuối cùng của quân Bắc Việt vào căn cứ. Ngày 1 tháng 4/1968, chiến dịch giải tỏa Khe Sanh bắt đầụ Cuộc hành quân mệnh danh “PEGASUS” (của Mỹ) và Lam Sơn 207 (của Việt Nam Cộng Hòa) được khởi động với sự tham dự của nhiều đơn vị thuộc Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ và Nhảy Dù Nam Việt Nam. Trục tiến quân giải tỏa Khe Sanh được thiết lập dọc theo Quốc Lộ 9. 

Vài ngày sau, 8 tháng 4, căn cứ Khe Sanh hoàn toàn được giải tỏa Giấc mộng tạo dựng một Điện Biên Phủ thứ hai của Võ Nguyên Giáp kể như không thành. Các binh đoàn dưới quyền chỉ huy của ông bị mất từ 10 đến 15, 000 bộ đội Nhiều đơn vị bị xóa tên dưới hỏa lực hùng hậu của pháo binh và B52 không yểm. 

Sau này, các sách vở về chiến tranh Việt Nam đều có nhiều nhận xét khác nhau về chiến thuật của đôi bên. Một lập luận cho rằng tướng Giáp muốn dụ Hoa Kỳ dồn quân vào Khe Sanh để quân Cộng Sản có thể rảnh tay tấn công các vùng khác. Một lập luận khác lại cho rằng ông Giáp bao vây Khe Sanh với lý do muốn tạo dựng một chiến thắng như Điện Biên để buộc Hoa Kỳ phải nhượng bộ rồi đầu hàng. Trong khi đó, một số tài liệu chiến sử Hoa Kỳ lại nghĩ rằng tướng Westmoreland đã “tương kế tựu kế”: “Ông mong Cộng quân sẽ tập trung nhiều binh đoàn gần Khe Sanh để ông có thể dùng hỏa lực pháo binh và B52 trải thảm tiêu diệt”.

Như đã nhắc đến ở phần trên, quân Bắc Việt bị đại bại với từ 10, 000 đến 15, 000 cán binh tử thương. (Tom Carhart: Batles And Campaigns In Vietnam, tr. 130).

Trong khi đó, lực lượng trú phòng Khe Sanh chỉ bị thiệt hại nhẹ.

Hoa Kỳ có 199 binh sĩ Mỹ chết và 1.600 bị thương. (703 hy sinh trong Wikipedia do CSVN hiệu đính là hoàn toàn không chính xác)

Về phía Việt Nam Cộng Hòa, tổn thất gồm 34 quân nhân tử trận (toàn cục 229 hy sinh) và 184 thương binh. (Tom Carhart: Batles And Campaigns In Vietnam, tr. 130). và (Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-75, tr. 175).

Lịch sử đã không theo vết xe lăn của Điện Biên Phủ 14 năm về trước. Năm 1968, Hoa Kỳ có đầy đủ phương tiện để phòng thủ, yểm trợ, và tiếp tế Khe Sanh trong 77 ngày, hoặc lâu dài hơn nếu cần thiết. Phía bên kia, Cộng quân đã không chiếm nổi Khe Sanh, mà lại còn bị thiệt mất từ 10 đến 15, 000 bộ đội - Đó là chưa kể thiệt hại trên các phương diện khác như quân cụ, chiến thuật, cùng hàng ngàn thương binh – Bản chất trận Khe Sanh và Mậu Thân 1968: Tướng Giáp - Không còn Manh Giáp, bởi lạc hậu chiến thuật. Chỉ xót đau, xương máu con em bà con Miền Bắc.

Vậy mà cái “thùng rỗng” VOV cứ rè rè rằng: “Khe Sanh 1968 - sức mạnh Việt Nam” (!?). Vâng! sức mạnh của tuyên truyền láo khoét như Mikhail Gorbachev (Tổng Bí Thư Xô Viết) khẳng định: “Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng cộng sản. Hôm nay tôi đau buồn mà thú nhận rằng: cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá.”

• Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân 70 Ngày Tử Chiến Ở Khe Sanh

Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân 

70 Ngày Tử Chiến Ở Khe Sanh

Sinh Tồn chuyển

Mặt trận Khe Sanh Mùa Xuân 1968:
Trong cuộc chiến Việt Nam giai đoạn 1965-1975, trận đánh Khe Sanh diễn ra vào Mùa Xuân 1968 được các nhà quân sử Việt Nam, Hoa Kỳ và cả thế giới ghi nhận đó là một trong những trận chiến lớn nhất của hậu bán thế kỷ 20. Đây là một mặt trận mà CSBV muốn dựng lại "kịch bản chiến trường Điện Biên Phủ" nhưng đã bị liên quân Việt-Mỹ vô hiệu hóa.

Theo hồi ký của cựu đại tướng William C. Westmoreland, nguyên tư lịnh lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam, khi trận chiến Khe Sanh bùng nổ, vị đại tướng này đã đề nghị với đại tướng Cao Văn Viên tăng cường 1 tiểu đoàn Biệt động quân để cùng với lực lượng Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ bảo vệ cụm cứ điểm Khe Sanh. Đại tướng Viên đã chỉ thị cho trung tướng Hoàng Xuân Lãm, tư lệnh Quân đoàn 1 & Vùng 1 chọn 1 tiểu đoàn tinh nhuệ để tăng viện cho mặt trận Khe Sanh. Cuối cùng theo đề nghị của trung tá Nguyễn Văn Hiệp, liên đoàn trưởng Liên đoàn 1 Biệt động quân, tiểu đoàn 37 Biệt động quân đã được giao phó trọng trách này.

Ngày 27 tháng 1/1968 (trước tết Mậu Thân 3 ngày), từ phi trường Đà Nẵng, toàn bộ tiểu đoàn 37 Biệt Động Quân (BĐQ) do đại úy Hoàng Phổ, tiểu đoàn trưởng chỉ huy, được không vận đến Khe Sanh. Theo sự phối trí lực lượng của bộ chỉ huy Liên quân Việt-Mỹ tại căn cứ này, tiểu đoàn 37 BĐQ được phân nhiệm phòng thủ phía đông phi đạo, ngăn chận không cho các đơn vị đặc công CSBV lọt qua các hàng rào kẻm gai để vào phi trường. Ngay từ khi mới nhận phòng tuyến, tiểu đoàn 37 BĐQ đã bị Cộng quân pháo kích liên tục, tiếp đó là các đợt tấn công bộ chiến. Đã có kinh nghiệm chiến đấu và phòng ngự trong tình hình khốc liệt của chiến trường, người lính Biệt Động Quân đã bình tỉnh chống trả các đợt xung phong của Cộng quân cũng như dễ dàng nhận ra kịp thời những tín hiệu pháo kích của địch. Cứ mỗi lần nghe tiếng gió của đạn ra khỏi nòng là khoảng 21 giây sau sẽ nổ. Thời gian đó đủ để quân trú phòng kịp thời ẩn núp ngay trong chiến hào.

Tiểu đoàn 37 Biệt động quân và 10 tuần lễ kịch chiến quanh phòng tuyến phía đông phi đạo:
Theo lời của một số sĩ quan và hạ sĩ quan, binh sĩ của tiểu đoàn 37 Biệt Động Quân kể lại với các phóng viên, họ phải trực chiến suốt đêm vì Cộng quân thường mở những đợt xung kích vào buổi tối khi mà tầm quan sát của quân trú phòng bị giới hạn. Lợi dụng bóng đêm, các toán đặc công của Cộng quân thường bò vào hàng rào cắt kẽm gai và đổi hướng các loại mìn định hướng của quân trú phòng gài quanh căn cứ. Sự đổi hướng quay vào phía trong của loại mìn định hướng nếu không phát hiện sẽ gây thương vong cho quân trú phòng khi Cộng quân mở các đợt tấn kích. Một sĩ quan kể lại là suốt đêm cả đơn vị phải thức trắng, ngày thì phải lo đối phó với các đợt pháo kích, và từng tiểu đội phải cho người bò ra hàng rào, kiểm soát lại hệ thống mìn định hướng và hệ thống hàng rào kẽm gai.

Trong suốt thời gian diễn ra trận chiến, việc cung cấp nước uống cho quân trú phòng cũng là một trong những mối bận tâm hàng đầu của bộ chỉ huy căn cứ. Tuy nhiên, có những ngày địch quân pháo liên tục, các phi vụ yểm trợ nước và thức ăn không thực hiện đúng như kế hoạch tiếp tế. Chính vì thế việc tiết kiệm tối đa nước uống đã được chiến sĩ Biệt Động Quân thực hiện ngay từ ngày đầu. Uống ít nước, không sử dụng nhiều nước để rửa mặt, luôn luôn đề phòng tình trạng thiếu nước do không tiếp tế được.

Một hạ sĩ quan đã kể lại rằng có ngày không nhận được nước tiếp tế, anh chỉ còn khoảng 1/2 bi đông nước. Vào những trường hợp đó, anh chỉ hớp vài ngụm nước cho khỏi khát nước, nước tiểu anh đã hứng để rửa mặt. Trong 70 ngày quyết chiến với Cộng quân tại phòng tuyến Khe Sanh, những người lính của tiểu đoàn 37 Biệt Động Quân đã chứng minh cho đồng minh Hoa Kỳ thấy sự chịu đựng phi thường và tinh thần chiến đấu dũng cảm, khả năng tác chiến và phòng ngự của một đơn vị Quân lực Việt Nam Cộng Hòa.

http://vnafmamn.com/Rangers/ARVN_Ranger7.jpg
Nhật ký hành quân của tiểu đoàn 37 Biệt động quân:
Trong suốt 10 tuần lễ chiến đấu dưới những trận mưa pháo của địch, tiểu đoàn 37 Biệt động quân đã chận đứng hàng loạt đợt tấn công của đối phương. Sau đây là một số trận đánh được ghi vào chiến sử trận Khe Sanh do Ủy ban Quân sử Hoa Kỳ phổ biến:
- Ngày 21 tháng 2/1968: Cộng quân tấn công cường tập vào tuyến phòng ngự của 1 đại đội/tiểu đoàn 37BĐQ. Địch đã tung nhiều đợt xung phong nhưng đều bị đẩy lùi: 35 Cộng quân bỏ xác ngoài hàng rào.
- Ngày 29/2/1968: Suốt đêm Cộng quân tung ba đợt tấn công liên tiếp vào tuyến tiền đồn của một đại đội tiểu đoàn 37 BĐQ nhưng đều bị đẩy lùi. Dù một đoạn kẽm gai đã bị cắt đứt nhưng địch đã không lọt vào vòng trong được.
- Ngày 8 tháng 3: Một thành phần của tiểu đoàn 37 Biệt động quân vượt hàng rào, truy kích các chốt tiền tiêu của đối phương, hạ sát 26 CQ ở phía đông phi đạo.

Tổng lược về mặt trận Khe Sanh:
Theo các quan sát viên quân sự, kế hoạch tấn công căn cứ Khe Sanh là một phần của cuộc tổng công kích của Cộng quân trong Tết Mậu Thân. Cộng quân khai hỏa tại mặt trận Khe Sanh trước Tết 10 ngày nhằm đánh lạc hướng phán đoán của liên quân Việt-Mỹ và để thu hút sự chú ý của các tư lịnh chiến trường quân đội Hoa Kỳ và quân lực Việt Nam Cộng Hòa cho rằng Khe Sanh là chiến trường quyết định, các nơi khác là phụ thuộc. Tuy nhiên bộ Tổng Tham Mưu Quân lực VNCH và bộ tư lịnh của đại tướng Westmoreland đã nhận được những báo cáo đặc biệt là Cộng quân sẽ mở cuộc tổng công kích toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, trong đó Cộng quân muốn "lập" một Điện Biên Phủ tại Khe Sanh. Những thông tin tin báo chiến trường đã được kiểm chứng qua lời khai của một sĩ quan Cộng quân ra đầu hàng tại Khe Sanh.

Theo hồi ký của đại tướng Westmoreland, vào chiều ngày 20/1/1968 (trước tết 10 ngày), một trung úy Cộng quân tên là Lã Thanh Tòng, đã xuất hiện ở cuối phi đạo sân bay Khe Sanh, tay cầm cờ trắng, xin ra đầu hàng. Giải thích về lý do ra hàng, Tòng cho biết đương sự xứng đáng được thăng cấp và giữ chức vụ cao hơn, nhưng đã bị một sĩ quan Cộng quân khác kém tài hơn tranh đoạt nên đã sinh ra bất mãn. Tòng đã trình bày chi tiết về kế hoạch tấn công Khe Sanh rằng ngay đêm 20/1/1968 rạng ngày 21/1/1968, Cộng quân sẽ tấn công hai vị trí phòng thủ của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ tại đồi 861 và đồi 881. Lời khai của Tòng đã được chứng minh vì ngay đêm đó Cộng quân đã khởi sự tấn công vào hai vị trí trên.

Cũng theo lời khai của Tòng, các đơn vị Cộng quân đã được chuẩn bị để thực hiện cuộc tổng tấn công vào dịp tết. Vài ngày sau khi Tòng ra đầu hàng, B 52 đã thả bom xuống một vùng núi đá ong ở Lào. Theo phân tích của cơ quan tình báo chiến trường thuộc bộ tư lịnh của tướng Westmoreland, vùng núi đá nói trên có thể là bộ chỉ huy của một lực lượng lớn Cộng quân đang đồn trú để chỉ huy các đơn vị quanh Khe Sanh và toàn bộ khu Bắc miền Trung. Sau vụ bị ném bom này, làn sóng vô tuyến của bộ chỉ huy này bị im tiếng trong vòng hai tuần. Ngày 21 tháng 1/1968), Cộng quân đã bắt đầu cuộc pháo kích và tấn công các tiền đồn quanh căn cứ Khe Sanh. Quân trú phòng với sự yểm trợ hữu hiệu của Không quân và pháo binh đã đẩy lùi các đợt tấn công của đối phương. Một đơn vị Cộng quân muốn chọc thủng phòng tuyến ở gần phi đạo nhưng đã bị pháo binh và không quân xạ kích và cuối cùng phải rút lui.

Cùng cần ghi nhận rằng, trong thời gian tiểu đoàn 37 Biệt động quân tham chiến tại Khe Sanh, chỉ huy trưởng binh chủng Biệt Động Quân Quân lực VNCH là đại tá Trần Văn Hai (sau này là chuẩn tướng tư lịnh Sư đoàn 7 Bộ Binh và đã tự sát trong ngày 30/4/1975), đã cùng với 2 sĩ quan tham mưu đến tận Khe Sanh để thăm viếng tiểu đoàn này. Vị chỉ huy trưởng Biệt Động Quân đã ở lại Khe Sanh 2 ngày đêm và đi thăm từng trung đội Biệt Động Quân đang bố phòng dọc theo các giao thông hào.

Kể từ ngày 21/1/1968 khi Cộng quân khởi sự tấn công cho đến ngày 8/4/1968-ngày mà liên quân Việt-Mỹ khởi động cuộc hành quân giải tỏa Khe Sanh, quân trú phòng Việt-Mỹ đã trải qua 11 tuần lễ chiến đấu dưới những trận mưa pháo. Riêng với tiểu đoàn 37 Biệt Động Quân, những người lính Mũ Nâu đã trải qua 10 tuần lễ thức trắng tử chiến với Cộng quân để giữ vững phòng tuyến phía Đông của phi đạo cho đến ngày trở về hậu cứ. 

Sinh Tồn chuyển

• HÀNH-QUÂN BIỆT-KÍCH Năm Khói-Lửa 1968

HÀNH-QUÂN BIỆT-KÍCH Năm Khói-Lửa 1968

Ngày 16 tháng Ba năm 2000CCN/FOB Phú-Bài
Posted by NhaKyThuat at 3:29 PM

Posted by 
Biên Hùng chuyển

Mở Đầu
Đầu năm 1968, Khe-Sanh là một trại biên phòng Lực-Lượng Đặc-Biệt. Đơn vị SOG xử dụng trại này làm căn cứ hành-quân tiền-phương. Nơi đây trở nên tiền đồn bảo vệ phía tây vùng phi-quân-sự. Trong căn cứ có 6000 quân thuộc trung-đoàn 26 TQLC/HK và tiểu-đoàn 37 Biệt-Động-Quân QL/VNCH. Bên ngoài có sự hiện diện của 20000 quân cộng-sản Bắc-Việt. Tất cả mọi hỏa lực đều tập trung xung quanh căn cứ, pháo binh, phi cơ, kể cả B-52 yểm trợ ngày đêm. Sự có mặt, cũng như hành quân vượt biên của đơn vị SOG được bảo mật, không ai biết đến.

Phần 2
Bên trong Khe-Sanh, đơn vị SOG gồm 50 quân nhân LLĐB/HK và khoảng 500 Dân-Sự Chiến Đấu sống dưới hầm cũng như binh-sĩ TQLC/HK chịu đựng 1500 quả đạn đại-bác, súng cối của địch bắn vào căn cứ hàng ngày. Bên ngoài Khe-Sanh, trên những ngọn đồi, tử thần rình rập, các toán biệt-kích SOG phát xuất từ căn cứ hành quân tiền phương 1 (FOB 1) ở Phú-Bài, xâm nhập tìm mục tiêu cho phi cơ oanh-kích, đặt máy nghe lén điện thoại, và đặt máy dò thám điện tử.

Nơi hướng tây căn cứ Khe-Sanh bên kia biên giới Lào-Việt, các toán biêt-kích SOG khác phát xuất từ 'cửa hâu' của đơn vị SOG, phi trường Nakhon Phanom (NKP) bên Thái-Lan. Tại đây, SOG có bẩy nhân viên làm việc với phi-đoàn 21 'Pony' Hành-Quân Đặc-Biệt thuộc Không-Lực Hoa-Kỳ, đơn vị anh-em của SOG phi đoàn 20 Green 
Hornets. Từ tháng Giêng 1967, Ponies yểm trợ cho các toán biệt-kích SOG hoạt động ngoài miền Bắc Việt-Nam, các hoạt động của cơ-quan CIA bên Lào và đến cuối năm thả các toán biệt-kích SOG xâm nhập vào đất Lào. Căn cứ bên Thái-Lan trở nên quan trọng từ đầu năm 1968 khi trực thăng của SOG không hoạt động được trên phi đạo bên trong căn cứ Khe-Sanh.

Một trong những mục tiêu thường xuyên của SOG bên Lào là rặng núi Cơ-Rốc, cao 1800 bộ về hướng tây Khe-Sanh, quân Bắc Việt, đào hầm hố, đục đá núi làm đường chuyển quân. Ngày 12 tháng Giêng năm 1968, toán biệt-kích Indiana bị phục kích trên một sườn núi. Toán chạy lạc, phân tán, toán phó là Trung-Sĩ Jim Cohron cùng hai biệt-kích Nùng tách rời khỏi toán. Phần còn lại chạy đến được một con đường mòn, tìm cách liên lạc với Cohron. Nhóm này thoát, còn nhóm Cohron mất tích.

Tình báo Hoa-Kỳ cho rằng, toán Indiana đụng phải trung-đoàn 'Đồng Nai' CSBV. Hệ thống kiểm thính bắt được tần số của địch cho biết Cohren bị địch bắt và bị hỏi cung. Cho đến nay, Hà-Nội vẫn trả lời không biết gì về người lính Mũ-Xanh Hoa-Kỳ, quê quán ở tiểu bang Iowa.

Cách căn cứ Khe Sanh năm dặm về hướng tây, trong bóng của rặng Cơ-Rốc bên kia biên giới là trại LLĐB Lang-Vei do Đại-Úy Frank Willoughby chỉ huy. Do áp lực của quân đội Bắc Việt vào đầu năm 1968, 282 quân biệt-kích người Thượng được tăng cường thêm một đại đội biệt kích Thượng và quân Mũ-Xanh Lực-Lượng Đặc-Biệt Hoa-Kỳ.

Phần còn lại của toán Indiana đến trại LLĐB Lang-Vei một buổi tối cuối tháng Giêng sau nhiều ngày bị địch săn đuổi trên ngọn núi Cơ-Rốc. Trưởng toán Rick Bayer thông báo cho người hạ-sĩ-quan LLĐB của trại Bill Craig rằng: Toán biệt-kích Indiana trông thấy dấu xích xe-tăng của địch! Thêm điều nữa, 
trong khi đi ngang qua sông Xe-Kong lúc trời xập tối, toán biệt-kích trông thấy quân Bắc Việt thăm dò mực nước sông và đánh dấu bãi chuẩn bị hành quân vượt sông. Bayer không hoài nghi chuyện quân đội Bắc Việt sẽ đem xe tăng vào chiến trường miền Nam.

Khi được đưa vào Saigon để báo cáo, Trung-Sĩ Bayer nhớ lại 'Họ cho tôi là thằng nói dóc!'. Cấp chỉ huy của anh ta trong FOB 1, Thiếu-Tá Ed Rybat cũng mất mặt không kém. 'Tụi tôi gửi báo cáo về, họ trả lời rằng không có gì hết, đó là dấu xe ủi đất'. T ôi đã phục vụ trong đơn vị Thiết-Giáp trước đây, tôi bìết thế nào là dấu xích xe tăng. 'Đó là dấu thiết vận xa lội nước PT-76 của địch'. Trong Saigon, trùm đơn vị SOG là Đại-Tá Singlaub tin rằng quân Bắc Việt chuẩn bị xe-tăng để tấn công. Bộ Chỉ-Huy Quân Viện Hoa-Kỳ MACV bỏ qua lời báo động của ông ta.

Vừa quá nửa đêm ngày 6 tháng Hai, binh sĩ TQLC nơi giao thông hào phiá tây căn cứ Khe-Sanh nghe tiếng động cơ theo gío đưa tới, nghe như tiếng cưa máy - Xe Tăng! Trong trại LLĐB Lang-Vei, mặt đất rung chuyển khi mười một chiến xa PT-76 cùng một tiểu đoàn bộ-binh Bắc Việt được pháo binh 152 ly yểm trợ tràn vào trại. Đại bác 76 ly trên chiến xa bắn xập các pháo đài bên trong. Hơn nửa Dân Sự Chiến Đấu Thượng chết tại vị trí chiến đấu, sau khi bắn hết đạn súng Carbine, đại liên vào các chiến xa đang tiến tới của địch. Lính Mũ-Xanh Hoa-Kỳ dùng súng cối 106 ly tiêu diệt hơn nửa số PT-76.

Trùm đơn vị SOG thông báo về vụ tấn công trại LLĐB Lang-Vei cho cơ-quan MACV, vị tướng trưởng phòng Nhì cơ quan vẫn từ chối không tin. 'Làm gì có xe tăng ở Việt-Nam'. Trong khi trận đánh nơi Lang-Vei vẫn đang tiếp diễn, đơn vị SOG trong Khe-Sanh chuyển lời cầu cứu của trại LLĐB cần viện binh. Đại-tá David Lownds chỉ huy trưởng căn cứ Khe-Sanh từ chối ' Tôi không muốn hy sinh sinh mạng người Hoa-Kỳ'. Biệt-kích SOG kể rằng 'Ông ta liếc qua tụi tôi chớp nhoáng như máy quang tuyến, rồi khước từ một cách dã man'.

'Đúng vậy, chúng tôi có thoả thuận rằng sẽ đi tiếp cứu trại LLĐB Lang-Vei trong trường hợp căn cứ này có thể bị dứt điểm' Thiếu-Tá Jim Stanton, sĩ quan điều hợp pháo-binh TQLC trong căn cứ Khe-Sanh đã xác định bằng lời nói trên. 'Tình trạng chiến đấu trong căn cứ đã xuống thấp, không ai dám bảo đảm vấn đề an-toàn cho họ'.

Phần 3
Sĩ-quan tùy viên cho tướng Westmoreland đánh thức ông ta dậy hai lần trong đêm cho biết trận tấn công trại LLĐB Lang-Vei. Đại-Tá Francis Kelly, chỉ huy trưởng Liên-Đoàn 5 LLĐB/HK yêu cầu ông gửi quân tiếp viện cho Lang-Vei, nhưng tướng Westmoreland ngần ngại ra lệnh cho bộ tư-lệnh TQLC/HK. Cá nhân tướng Westmoreland xem chuyện từ chối không tiếp viện cho trại LLĐB do sự mâu-thuẫn giữa bộ chỉ huy MACV của ông ta và bộ tư-lệnh TQLC/HK. Ông ra lệnh triệu tập một buổi họp với các vị tướng lãnh TQLC/HK tại Đà-Nẵng sáng hôm sau.

Trong trại LLĐB Lang-Vei, quân Bắc Việt đã hoàn toàn làm chủ tình hình. Sĩ quan quân đội Bắc Việt ra lệnh tất cả quân nhân LLĐB/Việt-Mỹ mở cửa hầm chỉ huy và ra đầu hàng. Sĩ-quan Việt-Nam ra trình diện dường như bị bắn tại chỗ. Quân Bắc Việt dùng chất nổ phá cửa hầm, sức nổ làm tám quân Mũ-Xanh Hoa-Kỳ bất tỉnh.

Đến Đà-Nẵng, Tướng Westmoreland ra lệnh cho Trung-Tướng Robert Cushman cung cấp trực thăng đưa một đơn vị cấp cứu SOG trong căn cứ Khe-Sanh vào Lang-Vei ngay tức khắc. Sau này tướng Westmoreland biết được lệnh của ông ta không được thi hành. Ông ta viết 'Đó là điều xẩy ra trong thời gian tôi phục vụ tại Việt-Nam. Chuyện đó làm tôi muốn xin về hưu'.

Tại Khe-sanh, Thiếu Tá George Quamo, Thượng-Sĩ Charles 'Skip' Minnicks có thể nhìn thấy khói bốc lên từ trại LLĐB Lang-Vei. Quamo nói về sự nguy-hiểm đang chờ đợi họ, và hỏi 'Ai muốn đi?'. Một tá lính Mũ-Xanh Hoa-Kỳ xách tiểu-liên CAR-15, tập họp ba mươi biệt-kích Nùng, Thượng rồi leo lên trực thăng TQLC/HK ra đi.

Sự thờ-ơ của TQLC ảnh hưởng viên phi công lái trực thăng, không nhiệt tâm đi cứu. Kinh hoàng trông thấy xe tăng cháy, doanh trại đổ nát ở dưới, mất tay phi công CH-46 lái bay vòng vòng trên không. Cuối cùng Thiếu-tá Quamo ra lệnh 'vào' lúc đó họ mới hạ cánh.

Xuống tới đất, toán biệt-kích SOG, chia ra lục xoát các hầm hố, công sự phòng thủ tìm người sống sót. Hàng ngàn quân Bắc Việt trú ẩn xung quanh Lang-Vei sợ không-lực Hoa-Kỳ oanh-kích không tấn công tiếp. Hầu hết người Hoa-Kỳ sống sót nhờ Trung-Sĩ Nhất Eugene Ashley, chết sáng hôm đó trong những đợt phản công đẩy lui quân cộng sản ra khỏi Lang-Vei. Anh ta được ân thưởng huy chương Danh-Dự cao qúy nhất của chính phủ Hoa-Kỳ. Vài lính Mũ-Xanh Hoa-Kỳ thoát nhờ Thiếu-Úy Qúy lái xe Jeep xông vào trại đem họ đi.

Toán biệt-kích SOG gom tất cả những biệt-kích Hoa-Kỳ sống sót và đem thêm với khả năng của họ những biệt-kích quân Thượng bị thương ra bãi đáp chờ trực thăng bốc. Khi đoàn tầu bay lên, trưởng toán Alabama John Allen trông thấy một quân nhân Hoa-Kỳ chạy ra bãi đáp vẫy tay. Không thể quay trở lại, anh ta bị bỏ rơi cho số mệnh. Người biệt kích Hoa-Kỳ đó tên là Dennis Thompson, bị tù năm năm trước khi được trả tự do. Trong số hai mươi bốn quân nhân biệt-kích Hoa-Kỳ ở trại LLĐB Lang-Vei, Thiếu-Tá Quamo đem về được mười bốn, trong đó có một bị thương.

Đơn vị SOG đóng góp trong trận bao vây Khe-Sanh, cũng là thành quả lớn nhất của họ thâu thập bên Lào trong năm 1968, khám phá được căn cứ lớn, bộ chỉ huy, kho chứa đạn dược của địch gần rặng núi Cơ-Rốc. Phi vụ B-52 Arc Light được lệnh tiêu hủy mục tiêu này kết qủa gây ra nhiều tiếng nổ phụ trong vòng hai tiếng đồng hồ. Trong nhật ký của tướng Westmoreland, ông ta tin rằng trận đánh bom B-52 trúng bộ chỉ huy đầu não của địch trong trận bao vây Khe-Sanh. Hệ thống truyền tin của địch bị mất liên lạc trong vòng hai tuần lễ, chứng tỏ có sự bối rối trong hệ thống chỉ huy của địch, do đó quân Bắc Việt không mở trận tấn công lớn vào căn-cứ Khe-Sanh trong kỳ Tết Mậu-Thân.

Cuối tháng Ba, trong khi sư-đoàn 1 Không-Kỵ Hoa-Kỳ bắt đầu hành quân giải tỏa áp-lực của địch xung quanh căn cứ Khe-Sanh. Toán biệt-kích Asp xâm nhập khu vực cách Khe-Sanh 25 dặm về hướng tây bắc, theo dõi sự triệt thoái của các đơn vị Bắc Việt. Trưởng toán Asp là Trung-Sĩ Nhất George Brown, có Trung Sĩ Charles Huston và Alan Boyer. Toán Asp bị một đơn vị lớn của địch tấn công bất thần.

Một chiếc Kingbee vào cứu Brown và Huston bị hỏa lực địch bắn vào không được. Một chiếc Kingbee khác trông thấy Alan Boyer, thả thang dây xuống cứu anh ta, đạn bắn đứt thang dây, anh này rơi xuống vào giữa địch quân. Tất cả đều mất tích.

Hai trăm lẻ năm TQLC Hoa-Kỳ tử trận trong bẩy mươi bẩy ngày bao vây căn-cứ Khe-Sanh. Thiếu-Tá Quamo chỉ huy cuộc cứu nguy trại LLĐB Lang-Vei, lên máy bay của đơn-vị SOG bay về Đà-Nẵng. Chiếc máy bay cũng biến mất luôn vì thời tiết xấu. Xác Thiếu-Tá Quamo tìm được năm 1974. Vài tuần sau, căn cứ hành quân tiền phương (FOB) ở Khe-Sanh đóng cửa. SOG dời FOB qua trại LLĐB Mai-Lộc đông bắc Khe-Sanh.

Trong khi trận chiến dịu dần xung quanh căn cứ Khe-Sanh, các toán biệt-kích SOG khác vượt biên qua Cambodia, dò thám xem địch quân đã rút qua đất Miên hay chưa, sau trận Tổng-Công-Kích. Ngày 2 tháng Năm 1968, toán biệt-kích do Trung-Sĩ Nhất Leroy Wright làm trưởng toán xâm nhập vùng Lưỡi Câu. Trong toán có Trung-Sĩ Lloyd 'Frenchie' Mousseau, Brian O'Connor và chín biệt-kích Nùng.

Phần 4
Buổi sáng lúc toán ra đi từ căn cứ Quản-Lợi, Trung Sĩ Nhất Roy Benavidez bạn của Wright ra tiễn đưa, cảm phục những người ra đi hoạt-động trong lòng địch. Chẳng bao lâu, khi xuống bãi đáp, toán chạm địch và chạy trở lại bãi đáp. Địch đuổi theo sát đuôi, bắn không cho toán biệt-kích ngóc đầu dậy và đuổi những chiếc trực thăng cấp cứu ra chỗ khác. Một trực thăng võ trang bị bắn rớt.
Địch đem thêm quân đến bao vây toán biệt-kích đang nằm chịu trận dưới hỏa lực súng cối, B-40, AK-47. Một loạt đạn AK trúng Wright vào đầu, anh ta chết ngay tức khắc. Mousseau và O'Connor bị thương nhiều chỗ. Tất cả các biệt-kích Nùng đều trúng đạn, nằm la liệt, bị thương hoặc chết. Không chạy được, hết thuốc chữa, toán biệt kích sắp sửa bị địch thanh toán.

Trong một túp lều dã chiến dựng lên nơi căn cứ hành quân tiền phương Quản-Lợi, Roy Benavidez lắng nghe những chuyện xẩy ra từ máy truyền tin, điện đàm giữa các phi công trực thăng võ trang, và phi công lái máy bay quan sát điều hành không yểm (FAC). Roy sốt ruột lo cho các chiến hữu của mình, Leroy Wright trúng đạn, Frenchie Mousseau trúng đạn, Brian O'Connor cũng trúng đạn và tất cả biệt-kích Nùng đều trúng đạn chết hoặc bị thương nặng. Một lữ-đoàn thuộc sư-đoàn 1 Bộ-Binh Hoa-Kỳ đang hành quân gần đó nhưng họ không được phép vượt rào qua Cambodia. Toán cấp cứu Bright Light cũng không có sẵn. Mình phải làm gì đây! Roy đứng ngồi không yên.

Bị mất nhiều máu, Brian O'Connor yếu đi, anh nghe tiếng trực thăng đến nhưng không di chuyển được. Chiếc máy bay hạ thấp rồi Roy Benavidez xách túi đựng dụng cụ y-khoa nhẩy xuống chạy thật nhanh vào bụi rậm nơi các biệt kích SOG nằm la liệt. Roy tình nguyện đi cứu toán một mình. Địch trông thấy trực thăng đáp xuống, bắn ra tới tấp, một viên trúng vào đùi Roy, chàng vẫn tiếp tục chạy, không dám ngừng lại. Vào đến nơi, Roy liếc thật nhanh, vị trí chiến đấu của toán biệt-kích, Wright đã chết, Mousseau trúng đạn vào đầu, nằm thẳng cẳng nhưng chưa chết, O'Connor bị thương nhưng vẫn còn bò lết được. Roy Benavidez băng bó cho bạn, phân phối đạn còn lại từ những biệt kích quân đã chết. Chàng lãnh thêm một viên AK nữa vào đùi phải trong khi điều khiển trực thăng oanh kích và trực thăng vào đem những người còn sống ra.

Khi chiếc trực thăng hạ cánh, Roy đưa khẩu AK cho O'Connor, chàng vác theo xác Wright. Một viên AK khác trúng vào phổi, Roy ngã xuống gần ngất đi. Chiếc trực thăng trúng đạn súng cối tiêu hủy, viên phi công và người xạ thủ đại liên chết. Roy lết lại chiếc trực thăng, giúp những người còn sống ra khỏi máy bay trúng đạn trước khi bốc cháy. Chàng tiếp tục điều khiển phản lực Phantom F-4 oanh kích, và lãnh thêm hai viên AK nữa. Địch bắn rớt thêm một chiếc gunship.

Rồi một chiếc Huey khác vào bãi đáp, trên máy bay có y-tá LLĐB Trung-Sĩ Ronald Samsons, anh ta giúp Benavidez kéo, dìu phi hành đoàn chiếc trực thăng trúng đạn, xác biệt kích quân lên máy bay. Trên đường về Benavidez bất tỉnh vì mất nhiều máu và kiệt sức, Mousseau chết vì vết thương quá nặng nơi đàu. Wright và Mousseau (chết) được lãnh huy chương Ngoai-Hạng (Distinguish Service Cross). Benavidez nằm bệnh viện gần một năm chữa bẩy vết thương đạn AK, hai mươi tám miểng B-40, cối 61 ly của địch. Roy Benavidez cứu tám người, tuy nhiên giấy tờ thất lạc. Mười ba năm sau, đã về hưu, Thượng-Sĩ Benavidez được máy bay quân đội đưa đi Washington và được tổng thống Reagan gắn huy chương Danh-Dự (Medal of Honor).

Sau ngày Benavidez cứu toán biệt-kích trong tháng Năm 1968 bên Miên. Toán Alabama xâm nhập Lào cách thung lũng A-Shau 15 dặm để gắn máy nghe lén điện thoại. Trưởng toán là Trung-Sĩ John Allen, cùng với Kenneth Cryan, Paul King và sáu biệt kích Nùng. T oán Alabama xâm nhập vùng tình nghi có sự hiện diện của một sư-đoàn Bắc Việt, đơn vị này rút qua Lào khi sư-đoàn Đệ Nhất Không-Kỵ Hoa-Kỳ mở cuộc hành quân càn quét khu vực xung quanh thung lũng A-Shau.

Khi trực thả toán biệt-kích bay gần đến bãi đáp, Allen trông thấy hầm hố, công sự phòng thủ của địch dưới rặng cây. Không thấy bóng dáng quân Bắc Biệt tại đîa điểm thả toán, Allen ra hiệu 'xuống' và toán biệt-kích bắt đầu làm nhiệm vụ. Họ di chuyển khoảng một tiếng đồng hồ, giác quan thứ sáu báo động cho Allen biết (Allen đã có kinh nghiệm đi 20 chuyến qua Lào và một chuyến Bright Light ngoài miền Bắc). Chàng hút-gió báo cho toán phó Ken Cryan biết 'Có điều gì nhìn không bình thường, ngửi cũng khác thường, có chuyện khác thường'. Allen cùng một biệt kích Nùng tiến tới đằng trước quan sát.

Hai người lên trước khoảng 250 thước, họ trông thấy khoảng đất rộng đã được dọn dẹp, những nhánh cây cao trên đầu cột lại che dấu khoảng đất trống ở dưới. Ở giữa có một căn nhà làm bằng tre, rõ ràng là bộ chỉ huy của địch với lính Bắc Việt ra vào. Xa hơn chút nữa có đường hầm rộng đủ hai người cùng đi đào sâu vào trong núi. Allen chụp mấy tấm ảnh rồi lùi về chỗ toán Alabama.

Toán phó Ken Cryan cho biết vài địch quân đi ngang qua, có lẽ toán lùng biệt-kích. Allen quyết định 'cắt đuôi', rồi cả toán nghe tiếng la lối, tiếng xục-xạo trong các bụi rậm trên lộ trình họ vừa di chuyển qua. Toán biệt-kích 'dọt', vài phút sau, biệt-kích hướng đạo (đi-đầu - Point man) dẫn toán băng qua một con đường mòn lớn, có lẽ dẫn tới bộ-chỉ-huy. Âm thanh truy kích của toán lùng biệt-kích chỉ cách phiá sau chừng 50 thước, Allen quyết định tăng tốc độ di chuyển. Họ băng qua một đường mòn nữa rồi nghe tiếng gọi nhau của địch phiá bên phải, và tiếng trả lời phiá sau. Toán biệt kích chạy 'hết tốc lực' lên một ngọn đồi. Súng AK của địch nổ vang dội, một biệt kích đáp lại một tràng CAR-15. Cryan qụy xuống ôm lấy đùi bên phải, Allen chạy lại xốc nách Cryan dìu đi mặc dù Cryan nói hãy chạy đi để chàng ở lại. Một biệt-kích Nùng trúng một viên AK ngay ngực gục xuống đất chết, được đồng đội cõng theo.

Phần 5
Trong khi Paul King gọi máy cấp cứu, Allen tìm chỗ để phòng thủ, chàng thấy một hố bom chừng 50 thước trên đường lên núi. Ra lệnh cho toán viên bắn yểm trợ, Allen dìu Cryan di chuyển đến hố bom, rồi phần còn lại theo sau. Allen trải tấm Pa-nô (Panel) mầu cam giữa lòng hố bom đánh dấu vị trí toán biệt-kích cho phi cơ. Paul King lo cứu thương, người biệt kích Nùng đã chết, Cryan trúng đạn vào đùi bể xương, hèn chi anh ta đứng lên không nổi. Sợ phải cưa chân, King chích morphine cho Cryan đủ cho anh chàng này đỡ đau và còn tỉnh táo.

Allen cùng mấy biệt-kích chuẩn bị tuyến phòng thủ xong thì quân Bắc Việt xuất hiện tiến lên đồi. Nhờ vị trí trên cao, toán biệt-kích ném lựu đạn xuống làm địch phải lui lại. King gọi Allen 'Đã có phi cơ FAC lên vùng' và đưa máy cho anh ta liên lạc, King bước ra miệng hố thay cho Allen, một viên AK bắn trúng King ngay đầu, chết ngay tức khắc. Toán Alabama giờ có hai người chết.

Máy bay quan sát điều khiển các phi tuần đánh bom đẩy lui quân Bắc Việt ra xa, hết Phantom F-4, đến lượt Super Sabres F-100, rồi đến A-1 Skyraider. Rồi trực thăng đến, nhưng viên phi công nhát không dám xuống mặc dầu Allen đã trải pa-nô đánh dấu vị trí toán biệt-kích và đưa tay vẫy, sau đó chiếc trực thăng bay về vì hết nhiên liệu, hẹn hôm sau sẽ trở lại. Toán Alabama đành phải đợi sáng hôm sau, đêm đó họ phải chiến đấu suốt đêm, thêm một biệt kích Nùng bị thương nhẹ.

Sáng hôm sau, quân Bắc Việt vẫn tiếp tục bò lên tấn công, rồi một tiếng nổ lớn rung động hố bom. Allen định thần nhìn quanh, toán Alabama chín người lúc xâm nhập giờ đây còn lại mình chàng và một biệt-kích Nùng, số còn lại chết bị thương nằm la liệt trong hố bom. Đêm qua quân Bắc Việt đã đem súng phòng phông 12 ly 7, đại bác 37 ly đến xung quanh khu vực toán biệt-kích, họ biết máy bay Hoa-Kỳ sẽ đến tiếp cứu toán, nên đã chuẩn bị chiến trường.

Một chiếc Phantom bị bắn rớt, các chiếc khác phải lo tiêu diệt các ổ phòng không của địch. Đến chiều trực thăng cấp cứu CH-53 Jolly Green đến bốc toán Alabama. Sườn núi dốc chiếc CH-53 không đáp được thả dây cấp cứu xuống, Allen đặt Cryan lên một dây, dây bên kia cho một biệt-Kích Nùng ngồi vào, chàng nói 'Hẹn gặp ở Phú-Bài'. Chiếc CH-53 từ từ bốc lên, đạn AK bắn theo trúng cả hai, máu nhiễu xuống vào mặt Allen, chiếc trực thăng hoảng bay đi luôn. Q uân địch vẫn bắn theo, nhằm vào lính biệt-kích chứ không phải trực thăng. Hai xác chết buông xuôi tay, vẫn còn dính dây cấp cứu được trực thăng đem đi.

Allen nổi điên, chửi thề um-xùm. nói với FAC là sẽ tìm đường khác. Viên phi công lái FAC rất bình tĩnh 'John, anh định tìm đường nào?'. John Allen lấy thêm đạn từ những biệt kích chết, rồi ra khỏi hố bom chạy xuống núi, quân Bắc Việt không ngờ, không bắn không đuổi theo. Chạy được một quãng, chàng gọi FAC.

- Tôi đã ra khỏi. Trực thăng có chưa?
- Tôi vẫn theo bạn, sẽ có Kingbee đến đón.
- Còn mấy ông bạn của tôi sao?
- Y-tá nói họ OK! Họ OK! (Phi công FAC trấn an Allen)
Cuối cùng chiếc Kingbee do phi công tài ba Việt-Nam thuộc phi-đoàn 219 bốc Allen đưa về căn cứ hành-quân tiền-phương Phú Bài. Nhờ tài bình tĩnh của viên phi công lái FAC, nói dối để trấn an Allen, Cryan và biệt kích Nùng lãnh mỗi người ba mươi viên AK khi được trực thăng CH-53 bốc. Toán biệt-kích SOG Alabama còn mỗi mình Allen sống sót. Người biệt-kích ngồi ghế sau chiếc FAC là Trung Sĩ Nhất John Robertson tử trận khoảng 15 ngày sau khi đi theo Kingbee trong một sứ mạng cách toán Alabama xâm nhập khoảng 10 dặm. Quân Bắc Việt bắn rớt Kingbee bằng hỏa tiễn SA-7.

Ba ngày sau toán Idaho xâm nhập cách đó khoảng 5 dặm. Chiều hôm đó, trưởng toán Glen Lane, toán phó Robert Owen nói vắn tắt cho Covey (FAC) biết họ không báo cáo được vì quân Bắc Việt đã bao vây toán. Đó là lần cuối cùng toán Idaho báo cáo, không ai biết chuyện gì xẩy ra cho toán biệt-kích. Toán Oregon vào tìm toán Idaho, họ tìm được dấu vết lựu đạn nổ, chứng tỏ có chiến đấu và toán Idaho bị địch bắt. Đến phiên toán Oregon bị đơn vị chống biệt-kích tấn công, tất cả mọi người trong toán đều bị thương nhưng thoát hiểm.

Mùa Hè năm 1968, xếp mới đơn vị SOG là Đại-Tá Cavanaugh, Đoàn Nghiên-Cứu Quan-Sát dồn nỗ lực qua Lào và Miên. Trong nội điạ, chỉ để ý thung lũng A-Shau, cách Đà-Nẵng 40 dặm về hướng nam. Thung lũng A-Shau rộng 25 dặm qua biên giới Lào về hướng tây bắc. Trong vùng này, quân đội Hoa-Kỳ bỏ rơi hai phi đạo ngắn và ba trại LLĐB.

Ngày 3 tháng Tám, toán Idaho mới lập lại do Wilbur Boggs làm trưởng toán xâm nhập vào thung lũng A-Shau cách chỗ toán Idaho cũ biến mất ngày 20 tháng Năm chừng mười dặm. Toán phó là John Walton, anh này rất thông minh, chơi xì-phé giỏi (sau này trở về hưởng gia tài do cha ông để lại những tiệm Wal-Mart), ngoài ra có thêm Tom Cunningham, biệt-kích Thượng.

Xâm nhập không lâu, toán bị tấn công, trưởng toán Boggs bị thương nặng, hai biệt-kích Thượng chết. Toán bị bao vây, không lối thoát. Walton gọi oanh kích ngay trên đầu toán. Nhờ vậy quân Bắc Việt lui ra, Walton lo cấp cứu những biệt kích bị thương, kể cả Cunningham, tất cả đều thoát.

Cùng trong tháng Tám, 3 giờ sáng ngày 23, đặc công cộng sản tấn công bộ chỉ huy Bắc (CCN), trận tấn công kéo dài ba tiếng đồng hồ. Kết quả, 15 sĩ-quan, hạ-sĩ-quan LLĐB/HK chết, con số tổn thất lớn nhất từ trước đến giờ, 16 biệt-kích quân Việt-Nam, Nùng, Thượng chết. Địch bỏ lại 38 xác, 9 bị thương làm tù binh. Trong số xác địch để lại có tên làm trong bếp, nội tuyến của địch gài vào.

Sau vụ Đà-Nẵng, toán biệt kích SOG vẫn tiếp tục xâm nhập qua Lào. Trong mùa Thu, không ai may mắn hơn Trung-Sĩ Lynne Black Jr. Ngày 5 tháng Mười toán của anh ta xâm nhập miền trung Lào, vào vùng đụng ngay, toán trưởng Trung-Sĩ James Stride chết trong loạt đạn đầu. Toán phân tán để chạy, Black cùng với hai biệt kích Thượng chạy ngang qua bộ chỉ huy quân Bắc Việt, chuyện xẩy ra nhanh chóng địch không phản ứng kịp.

Một chiếc CH-53 Jolly Green đến từ Thái Lan, Black cho hai người Thượng, và Mũ-Xanh thất lạc vừa tới lên trước. Nghe tiếng trực thăng, hai lính Bắc Việt chạy ra đụng Black, hai bên giằng co. Không hiểu sao, Black thoát được và được câu lên trực thăng. Đúng lúc đó chiếc trực thăng chao đi vì trúng B-40, viên phi công đáp an toàn xuống một rặng núi khác, rồi một chiếc CH-53 đến bốc tất cả về căn cứ an toàn. Xác trưởng toán Stride không tìm được.

Kết Luận
Bill Copley không được may như Lynne Black. Vài tuần sau khi Black thoát hiểm, toán biệt kích khác xâm nhập vùng nam Lào, bị rượt. Copley bị thương, anh ta cầu cứu 'Giúp tôi, Tôi bị thương!'. Một toán viên cõng Copley chạy đến khi kiệt sức phải bỏ lại vì địch đuổi theo bén gót. Sau đó toán cấp cứu Bright Light vào tìm, chỉ thấy dấu máu nơi Copley nằm. Tổng kết năm 1968, ngoại trừ vụ đặc công tấn công bộ chỉ huy Bắc. CCN mất 18 Mũ-Xanh tử trận, 18 mất tích.

Ngày 16 tháng Ba năm 2000CCN/FOB Phú-Bài

Posted by NhaKyThuat at 3:29 PM
Posted by 
Biên Hùng chuyển