Showing posts with label • Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Show all posts
Showing posts with label • Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Show all posts

Friday, November 25, 2022

NỬA HỒN XUÂN LỘC - Nguyễn Phúc Sông Hương

NỬA HỒN XUÂN LỘC
Thơ Nguyễn Phúc Sông Hương
Tiểu Đoàn TrưởngTĐ3 / Trung Đoàn 48, SĐ18 BB
Nếu được như bố già thượng sĩ
Nghe tin lui quân chỉ nhìn trời
Vỗ về nón sắt cười khinh bạc
Chắc hẳn lòng ta cũng thảnh thơi

Sunday, October 20, 2013

• Chiến Sử Sư Đ0àn 18 Bộ Binh Trên Chiến Trường Miền Đông



 * Từ Biệt khu Phước-Bình-Thành đến Sư đoàn Bộ binh thứ 10:
Tình hình chiến trường tại miền Đông Nam phần (Vùng 3 chiến thuật) trở nên sôi động từ giữa năm 1964 khi Cộng quân tung thêm 4 trung đoàn chủ lực vào các tỉnh dọc theo biên giới Việt-Căm Bốt: Phước Long, Bình Long. Để ngăn chận sự leo thang của đối phương, từ tháng 10/1964, Quân đoàn 3 & Vùng 3 chiến thuật đã phân nhiệm 2 sư đoàn Bộ binh đảm trách hai khu chiến thuật tại miền Đông Nam phần, và biệt khu Phước-Bình-Thành trách nhiệm ba tỉnh Phước Long, Bình Long và Phước Thành. Đến hạ tuần tháng 5/1965, do nhu cầu chiến trường và kế hoạch tái phối trí lực lượng, bộ Quốc phòng ban hành văn thư giải tán Biệt khu Phước-Bình-Thành, đồng thời cho tiến hành việc thành lập sư đoàn thứ 3 cho Quân đoàn 3 và là sư đoàn Bộ binh thứ 10 của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. (9 sư đoàn đã thành lập từ trước theo thứ tự về thời gian: 1, 2, 5, 7, 21, 22, 23, 25, 9). Sư đoàn tân lập này có danh hiệu là Sư đoàn 10 Bộ binh.
 
* Tiến trình hình thành Sư đoàn: đổi danh hiệu thành Sư đoàn 18 BB, lược ghi về các trung đoàn cơ hữu
Theo văn thư bộ Quốc phòng và bộ Tổng tham mưu QL/VNCH, Sư đoàn 10 BB chính thức lập ngày 6/6/1965. Đến tháng 10/1965, đổi danh hiệu thành Sư đoàn 18 BB với 3 trung đoàn cơ hữu: trung đoàn 43 BB, trung đoàn 48 BB và trung đoàn 52 BB, một số đơn vị yểm trợ thống thuộc: Thiết giáp, Pháo binh, Công binh, Quân y, Tiếp vận... Ngay sau khi thành lập, Sư đoàn được phân nhiệm hoạt động tại các tỉnh ở phía Đông của Vùng 3 chiến thuật gồm: Biên Hòa, Long Khánh, Bình Tuy, Phước Tuy. Bộ tư lệnh Sư đoàn đặt tại Xuân Lộc, tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh.

Trong số 3 trung đoàn của Sư đoàn 18 BB, có hai trung đoàn nguyên là trung đoàn cơ hữu của hai sư đoàn Khinh chiến 15 và 16 được thành lập trong giai đoạn 1955-1966: đó là trung đoàn 43 Bộ binh thuộc sư đoàn Khinh chiến 15 và trung đoàn 48 Bộ binh thuộc Sư đoàn Khinh chiến 16. Cuối năm 1959, theo sự cải tổ của Quân lực VNCH, 10 sư đoàn (4 sư đoàn Dã chiến và 6 sư đoàn Khinh chiến) rút xuống còn 7 sư đoàn và được cải danh thành các Sư đoàn Bộ binh. Theo kế hoạch này, Sư đoàn Khinh chiến 15 được biến cải thành Sư đoàn 23 Bộ binh, sư đoàn 16 Khinh chiến cùng với 2 sư đoàn Khinh chiến 12 và 13 được giải tán, quân số của các trung đoàn này được bổ sung cho các sư đoàn còn lại, một số trung đoàn trở thành binh đoàn biệt lập, thống thuộc quyền điều động của các bộ Tư lệnh Quân khu.

Để Sư đoàn 10 Bộ binh được thành hình nhanh chóng, bộ Tổng tham mưu đã quyết định điều động một phần lớn sĩ quan thuộc bộ chỉ huy Biệt khu Phước-Bình-Thành vừa giải tán, chuyển sang bộ tư lệnh sư đoàn tân lập để hình thành các bộ phận tham mưu chính yếu. Đại tá Nguyễn Văn Mạnh, chỉ huy trưởng Biệt khu được bổ nhiệm làm tư lệnh đầu tiên của Sư đoàn; thiếu tá Trần Văn Dĩnh, tham mưu trưởng, thiếu tá Lê Trọng Đàm, tham mưu phó và một số trưởng phòng của Biệt khu Phước-Bình-Thành tiếp tục giữ các chức vụ trọng yếu tại bộ Tham mưu Sư đoàn 10 Bộ binh.

* Lược ghi về quân vụ của 5 vị tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh:
-Tư lệnh đầu tiên: đại tá Nguyễn Văn Mạnh (cấp bậc cuối cùng: trung tướng)
Vị tư lệnh đầu tiên của Sư đoàn 10 (Sư đoàn 18 Bộ binh) là một sĩ quan giàu kinh nghiệm chiến trường, xuất thân trường Sĩ quan Việt Nam tại Huế vào năm 1949, lần lượt giữ các chức vụ đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng, tham mưu trưởng Sư đoàn, tham mưu trưởng Quân đoàn. Năm 1964, đại tá Nguyễn Văn Mạnh được cử giữ chức vụ chỉ huy trưởng Biệt khu Phước-Bình-Thành, bộ chỉ huy đặt tại Phước Vĩnh, tỉnh lỵ Phước Thành. Tháng 4/1965, trong khi đi thực hiện phóng sự chiến trường tại chiến khu D, chúng tôi có dịp tiếp xúc, phỏng vấn đại tá Mạnh tại bộ chỉ huy Biệt khu Phước Bình Thành, 3 tháng sau chúng tôi lại được gặp ông tại bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh ở Long Khánh, ghi nhận của chúng tôi là vị tư lệnh này rất cởi mở, bình dân, một số sĩ quan cho biết ông có cuộc sống rất giản dị, gần gũi với sĩ quan thuộc cấp, rất thương anh em binh sĩ. Khi nói về thời thanh niên của mình, ông cho biết là đã tốt nghiệp trường Canh nông Huế trước 1945 và làm việc trong ngành này được vài năm, trước khi thi vào trường Sĩ quan.

Sau 4 tháng giữ chức tư lệnh, vào thượng tuần tháng 10/1965, đại tá Mạnh được cử giữ chức tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, hoán chuyển chức vụ với chuẩn tướng Lữ Lan. Cuối tháng 10/1965, ông được thăng chuẩn tướng. Tháng 12/1966, được bổ nhiệm giữ chức vụ Quyền tư lệnh Quân đoàn 4 & Vùng 4 chiến thuật. Tháng 2/1967, được vinh thăng thiếu tướng và chính thức giữ chức vụ tư lệnh Quân đoàn này. Tháng 2/1968, thuyên chuyển về bộ Tổng tham mưu giữ chức vụ Tổng thanh tra. Tháng 7/1969, được bổ nhiệm giữ chức tham mưu trưởng Liên quân Quân lực VNCH. Tháng 7/1970 thăng trung tướng. Tháng 4/1974, được cử giữ chức phụ tá Tổng tham mưu trưởng đặc trách Bình định phát triển thay thế trung tướng Nguyễn Văn Là về hưu.

- Chuẩn tướng Lữ Lan: từ tháng 10/1965 đến tháng 6/1966. Trước khi được cử thay thế đại tá Mạnh trong chức vụ tư lệnh Sư đoàn 18 BT, chuẩn tướng Lữ Lan là tư lệnh Sư đoàn 23 BB (từ tháng 10/1964 đến tháng 10/1965). Khi còn mang cấp đại tá, ông là tư lệnh đầu tiên của Sư đoàn 25 BB (thành lập cuối năm 1962 tại Quảng Ngãi, năm 1964, Sư đoàn này chuyển vào Hậu Nghĩa). Các chức vụ và cấp bậc kế tiếp: thăng thiếu tướng vào tháng 11/1965, giữa năm 1966 được bổ nhiệm giữ chức vụ chỉ huy trưởng trường Chỉ Huy và Tham Mưu, từ tháng 11/1966 đến tháng 2/1968: tổng cục trưởng Tổng cục Quân Huấn; cuối tháng 2/1968 đến tháng 8/1970: tư lệnh Quân đoàn 2 & Vùng 2 chiến thuật. Thăng trung tướng giữa năm 1969, chức vụ cuối cùng: Tổng thanh tra Quân lực VNCH.
 
- Chuẩn tướng Đỗ Kế Giai: từ tháng 6/1966 đến tháng 8/1969, cựu tiểu đoàn binh chủng Nhảy Dù trước năm 1961; thăng chuẩn tướng tháng 11/1967, thăng thiếu tướng 1972. Các chức vụ kế tiếp: chỉ huy trưởng Huấn khu Dục Mỹ, chỉ huy trưởng Biệt động quân (1972 đến 30 tháng 4/1975).
 
- Chuẩn tướng Lâm Quang Thơ: từ tháng 8/1969 đến tháng 5/1972: trước khi giữ chức vụ tư lệnh Sư đoàn 18 BB, chuẩn tướng Thơ là chỉ huy trưởng trường Bộ Binh Thủ Đức (từ 1967 đến tháng 8/1969), ông được thăng chuẩn tướng vào tháng 6/1968. Khi còn mang cấp đại tá, đã lần lượt giữ các chức vụ: chỉ huy trưởng Thiết giáp binh QL/VNCH (1964), chỉ huy trưởng trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt (1965), Chỉ huy trưởng trường Hạ Sĩ quan Nha Trang (1966). Thăng thiếu tướng tháng 6/1970. Tháng 5/1972: được cử giữ chức vụ chỉ huy trưởng trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt thay thế trung tướng Lâm Quang Thi được điều động ra miền Trung giữ chức vụ tư lệnh phó Quân đoàn 1. Đây là lần thứ hai ông chỉ huy trường Võ bị và cũng là vị chỉ huy trưởng cuối cùng của quân trường này.

- Chuẩn tướng Lê Minh Đảo: từ tháng 5/1972 đến tháng 4/1975: Giữ chức vụ tư lệnh khi còn mang cấp đại tá, thăng chuẩn tướng tháng 11/1972. Được thăng thiếu tướng tại mặt trận vào hạ tuần tháng 4/1975 với chiến tích đã chỉ huy Sư đoàn 18 chận đứng các cuộc tấn công của CQ tại An Lộc. (Theo tài liệu của đại tá Phạm Bá Hoa, tham mưu trưởng Tổng cục Tiếp vận thì Quân đoàn 3 chưa kịp tổ chức lễ gắn cấp hiệu 2 sao cho tướng Đảo).

* Sư đoàn 18 Bộ binh trên chiến trường Miền Đông Nam phần:
Sau giai đoạn chỉnh trang cần thiết cho một đại đơn vị tân lập, tháng 8/1965, Sư đoàn 18 Bộ binh đã khởi động cuộc hành quân quy mô để tảo thanh Cộng quân tại khu vực trách nhiệm, trong đó hai tỉnh Phước Tuy và Long Khánh là những mục tiêu trọng điểm. Trong thượng tuần tháng 11/1965, một thành phần bộ chiến của Sư đoàn 18BB và đơn vị tăng phái đã đánh tan 1 trung đoàn Cộng quân tại phía Tây Phước Lễ, tỉnh Phước Tuy.

Từ 1966 đến 1969, lực lượng bộ chiến của Sư đoàn 18 Bộ binh phối hợp với lực lượng Đồng minh đã tổ chức hơn 20 cuộc hành quân quy mô truy kích CQ tại các tỉnh Phước Tuy, Long Khánh, Bình Tuy. Trong hai năm 1970 và 1971, theo kế hoạch điều động lực lượng của bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, nhiều đơn vị của Sư đoàn 18 Bộ binh đã luân phiên tham dự cuộc hành quân ngoại biên tại Căm Bốt cùng với các thành phần bộ chiến của Sư đoàn 5, Sư đoàn 25 Bộ binh, Biệt động quân Quân khu 3 và lực lượng lữ đoàn 3 Kỵ Binh.

Trong cuộc chiến Mùa Hè 1972, trước khi trận chiến tại Lộc Ninh bùng nổ vào ngày 5/4/1972, bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 đã điều động trung đoàn 52 thuộc Sư đoàn 18 BB tăng viện cho chiến trường Bình Long, bảo vệ trục giao thông giữa chi khu Lộc Ninh và Thị xã An Lộc. Ngày 11 tháng 7/1972, toàn bộ Sư đoàn 18 BB do đại tá Lê Minh Đảo chỉ huy đã nhập trận An Lộc, thay thế cho Sư đoàn 5 BB. Sư đoàn này được triệt thoái về Lai Khê để chỉnh trang sau hơn 2 tháng cùng với các đơn vị tăng phái tử chiến với ba sư đoàn chủ lực của Cộng quân tại tỉnh lỵ Bình Long.

Sinh Tồn chuyển

• Trận Chiến Ác Liệt ở Dầu Giây Giữa Trung Đòan 52 & 20,000 CQ


Chiến đoàn 52 tại phòng tuyến ngã ba Dầu Giây
Sau hai ngày liên tục tấn công vào trung tâm thị xã Xuân Lộc, Cộng quân vẫn không chọc thủng được tuyến phòng ngự của trung đoàn 43/Sư đoàn 18 Bộ binh. Từ ngày 11/4/1975 đến ngày thứ năm 13/4/1975, cùng lúc với các trận pháo kích vào tỉnh lỵ Long Khánh, Cộng quân đã tung thêm 1 sư đoàn có bí số CT 7 (công trường 7) vào mặt trận tại ngã ba Dầu Giây.


Theo tài liệu của đại tướng Cao Văn Viên và một số tài liệu tổng hợp, tính đến ngày 11/4/1975, lực lượng Cộng quân tại mặt trận Xuân Lộc và khu vực phụ cận có 4 sư đoàn chính quy: 431, CT6 và CT7 thuộc Quân đoàn 4, F3 tân lập (trong số các sư đoàn chính quy của Cộng quân cũng có 1 sư đoàn mang tên là CT3-Sao Vàng) ; lực lượng yểm trợ có 1 sư đoàn pháo binh, 2 trung đoàn thiết giáp và khoảng 3 tiểu đoàn đặc công. Tổng chỉ huy lực lượng Cộng quân là Hoàng Cầm- thiếu tướng, tư lệnh quân đoàn 4 Cộng quân. Trong trận chiến Điện Biên Phủ (từ hạ tuần tháng 3/1954 đến 7/5/1954), Hoàng Cầm là trung đoàn trưởng chỉ huy một cánh quân đánh vào bộ chỉ huy của thiếu tướng De Castries.


* Trận biển người của CQ vào tuyến của tiểu đoàn 3/trung đoàn 52 BB
Tại khu vực vòng đai ngã ba Dầu Giây, ngày 12/4/1975, Cộng quân đồng loạt tấn công các chốt tiền đồn do tiểu đoàn 3/trung đoàn 52 Bộ binh phòng ngự tại những vị trí trọng yếu: núi Sóc Lu, đồn điền Bình Lộc, đồi 196 và cụm cao điểm phía Bắc của bộ chỉ huy Hành quân chiến đoàn 52 (trung đoàn 52 Bộ binh là nỗ lực chính). Trận chiến diễn ra ban ngày, Cộng quân tung liên tục các đợt tấn công cường tập để cố chiếm các cao điểm, từ đó khống chế trục giao thông để các đơn vị tăng viện của Cộng quân từ Cao nguyên đổ về có thể di chuyển theo Quốc lộ 20 vào Xuân Lộc nhanh hơn.

Suốt ngày 12/4/1975, các trận giao tranh ác liệt đã diễn ra giữa tiểu đoàn 3/52 và Cộng quân trên các triền núi và khu vực đồn điền Bình Lộc, cách ngã ba Dầu Giây 7 km về hướng Đông Bắc. Để yểm trợ cho cho đơn vị trú phòng, bộ Tư lệnh Hành quân chiến trường Xuân Lộc đã điều động phi đội phản lực cơ A 37 oanh tạc vào đội hình của Cộng quân, đồng thời bộ chỉ huy chiến đoàn đã điều động 1 chi đoàn chiến xa và hai pháo đội Pháo binh yểm trợ hỏa lực cho tiểu đoàn 3/52 để đơn vị có thể giữ được các vị trí phòng ngự. Mỗi trung đội của tiểu đoàn 3/52 đã phải đối đầu với cả hai, ba đại đội Cộng quân. Dù vậy, tinh thần quyết tử của người lính Sư đoàn 18 Bộ binh đã chận đứng được nhiều đợt xung phong thí mạng của đối phương. Sau những giờ kịch chiến, trước lực lượng địch quá đông với chiến thuật tấn công bằng biển người, nên đến đêm 12/4/1975, các vị trí phòng ngự của tiểu đoàn 3/52 đã bị địch tràn ngập. Dù thất thủ, tiểu đoàn 2/52 đã gây tổn thất nặng cho địch quân: hơn 500 Cộng quân bị loại ngoài vòng chiến.

Tiếp theo cuộc tấn công vào tiểu đoàn 3/52, ngày 13 tháng 4/1975, Cộng quân điều động 1 trung đoàn tiến về phía Nam của phòng tuyến chiến đoàn 52. Trung đoàn CQ này có nhiệm vụ tiến hành các cuộc tấn công triệt phá cụm phòng ngự của tiểu đoàn 1/trung đoàn 52 BB tại ngã ba Dầu Giây. Để yểm trợ cho cuộc tấn công bằng bộ binh, Cộng quân đã điều động các đơn vị pháo di chuyển theo liên tỉnh lộ 321, từ phía Nam đi lên, rồi bố trí pháo tại các cao điểm phía Tây Nam và Đông Nam Ngã Ba Dầu Giây, để pháo vào tuyến phòng thủ của các đơn vị thuộc chiến đoàn 52.

* 1 đại đội của tiểu đoàn 1/52 chống trả trận cường tập của CQ:
Theo sự phối trí của bộ chỉ huy chiến đoàn 52, tiểu đoàn 1/52 bố trí quân quanh ngã ba Dầu Giây, đại đội phòng thủ xa nhất án ngữ tại ấp Phan Bội Châu và dọc theo đường xe lửa, cách Dầu Giây 1 km, dọc theo Quốc lộ 20, kéo dài về hướng Nam. Tối 13 tháng 4/1975, sau trận mưa pháo kích hỏa tập hơn 1 giờ, Cộng quân tấn công biển người tràn ngập vào tuyến phòng ngự của đại đội thuộc tiểu đoàn 1/52 nói trên. Đơn vị trú phòng đã mở đường máu ra rút về tuyến sau. Tính đến 12 giờ đêm 13/4/1972, cụm tuyến phòng ngự của chiến đoàn 52 chỉ còn chiều dài khoảng 6 km, dọc theo Quốc lộ 20 (đường từ Long Khánh đi Đà Lạt).

Sau 1 tuần lễ tử chiến với các sư đoàn CSBV, lực lượng chiến đoàn 52 còn khoảng 2 ngàn quân, gồm cả các đơn vị Địa phương quân Long Khánh từ Định Quán, Túc Trưng triệt thoái về. Về đơn vị Thiết giáp tăng cường, số chiến xa bị cháy và không sử dụng được chiếm gần 1/2. Các pháo đội 105 và 155 ly, tuy chưa bị trúng pháo của CQ, nhưng từ ngày 12/4/1975, số đạn được tiếp tế rất hạn chế. Các ưu tiên về yểm trợ hỏa lực, về phi pháo dồn cho mặt trận chính là trung tâm thị xã Xuân Lộc.

* Trận đánh đẫm máu tại ngã ba Dầu Giây vào chiều ngày 15/4/1975:
Chiều ngày 15 tháng 4/1972, bộ tư lệnh quân đoàn 4 CSBV điều động sư đoàn 341 tổng trừ bị phối hợp với 2 trung đoàn của CT7, 1 lữ đoàn chiến xa T 54, một số tiểu đoàn đặc công, tổng quân số khoảng 20 ngàn, đã đồng loạt tấn công cường tập vào tuyến phòng thủ trung tâm của chiến đoàn 52 tại ngã ba Dầu Giây. Sự tương quan về lực lượng quá chênh lệch, 1 người lính của chiến đoàn 52 phải chống trả với 10 Cộng quân, ngoài ra đối phương còn áp đảo về hỏa lực pháo binh.

Trận chiến diễn ra thật khốc liệt ngay từ những giây phút đầu. Với chiến thuật sử dụng pháo để khống chế chiến trường, sau đó tung bộ binh tấn công bằng biển người có chiến xa yểm trợ, sau 3 giờ giao tranh đẫm máu, Cộng quân đã tràn ngập các cụm điểm phòng ngự của chiến đoàn 52, chia cắt sự liên hoàn trong phòng thủ của các đơn vị thuộc chiến đoàn này dọc theo Quốc lộ 1 và Quốc lộ 20. Một điều không may xảy ra cho chiến đoàn 52 là do trời tối, 4 chiến xa M 48 lại bị trúng đạn pháo kích của CQ, Không quân khó quan sát để thực hiện các phi vụ oanh kích, nên sự yểm trợ hỏa lực của Thiết giáp và Không quân cho các vị trí của chiến đoàn 52 gần như bị tê liệt.

Sau khi đã chia cắt lực lượng của chiến đoàn 52, Cộng quân tung đợt tấn công từ bốn phía để cố chiếm lĩnh trận địa. Trước áp lực mạnh và lối đánh thí mạng tàn bạo của đối phương, phòng tuyến ngã ba Dầu Giây bị vỡ, lực lượng của chiến đoàn còn khoảng 2 đại đội đã mở đường máu vượt thoái được. Dù chiếm được ngã ba Dầu Giây sau 6 giờ ác chiến, nhưng đến 1 giờ sáng, “đại quân” CSBV đã bị tổn thất nặng khi hai trái bom khổng lồ Daisy Cutter- gắn trên C-130 do 1 phi công VNCH điều khiển, được thả xuống khu tập trung quân của các sư đoàn chủ lực CSBV: Toàn bộ khu vực thị trấn Dầu Giây rung chuyển như một trận động đất lớn, đèn phụt tắt, làn sóng vô tuyến của CQ tức khắc im tiếng, bộ chỉ huy sư đoàn 341 và khoảng 7 ngàn quân CSBV bị tiêu diệt bởi hai quả bom này.

* Những trận đánh cuối cùng trong thị xã Xuân Lộc:
Trở lại với mặt trận ở thị xã Xuân Lộc, sau khi thất bại trong hai đợt tấn công đầu tiên vào tỉnh lỵ, Cộng quân chuyển sang tấn công vào hướng Nam và hướng Bắc vòng đai phòng thủ, đồng thời 1 cánh quân CSBV trở lại tấn công thị trấn, bất chấp thiệt hại nặng nề, địch cố xâm nhập vào khu trung tâm, nhưng Sư đoàn 18 Bộ binh đã nhanh chóng phản ứng, đánh bật Cộng quân, bắt sống 20 tù binh, bắn cháy hơn 10 chiến xa. Sau một loạt tấn công bất thành, cuối cùng Cộng quân tung ra đợt tấn công cường tập nhắm vào chiến đoàn 48 đang phòng ngự ở mạn Tây. Tại hướng này, Cộng quân đã điều động 3 trung đoàn bộ binh, với sự yểm trợ của chiến xa T 54, tấn công biển người vào cụm tuyến phòng thủ của các tiểu đoàn của trung đoàn 48 Bộ binh (lực lượng chính của chiến đoàn). Sau hai giờ tấn công thí quân, CQ đã chọc thủng tuyến phòng thủ của 1 tiểu đoàn của trung đoàn này, đồng thời chia cắt làm hai cụm tuyến còn lại. Liên lạc giữa bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh và trung đoàn 48 bị cắt đứt, mặc dầu hai tiểu đoàn của trung đoàn này vẫn còn liên lạc được với bộ Tư lệnh Sư đoàn.
 
Dù các tuyến ngoại vi bị Cộng quân tràn ngập, nhưng tuyến phòng thủ trung tâm vẫn đứng vững. Riêng về Cộng quân, sau khi bị thiệt hại nặng về quân số, pháo binh và chiến xa, đối phương đã thay đổi kế hoạch để tấn công vào Sài Gòn, do đó Xuân Lộc không còn là điểm nóng nữa. Trước diễn biến mới của chiến trường, ngày 20 tháng 4/1975, bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 quyết định cho triệt thoái toàn bộ lực lượng Sư đoàn 18 Bộ binh và các đơn vị tham chiến tại Xuân Lộc, tất cả rút ra khỏi thị xã theo liên tỉnh lộ Hai. 6 giờ chiều cùng ngày, một thành phần của Sư đoàn 18 Bộ binh đã rút từ Long Lễ về Long Bình. Tại đây toàn Sư đoàn được nghỉ dưỡng quân 3 ngày, sau đó được Quân đoàn 3 bố trí phòng thủ khu vực Đông Nam Biên Hòa.

Sinh Tồn chuyển

• Sư Đoàn 18 Bộ Binh Tử Chiến Tại Phòng Tuyến Thép Xuân Lộc




Trong cuộc chiến tháng 4/1975, sau khi đánh chiếm các tỉnh ở Miền Trung và Cao nguyên, Cộng quân đã điều động 3 sư đoàn tổng trừ bị chủ lực để tiến hành cuộc tấn công vào Xuân Lộc, tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh. Từ ngày 9 đến ngày 20 tháng 4/1975, tại chiến trường này, Sư đoàn 18 Bộ binh, lực lượng Lữ đoàn 1 Nhảy Dù, Lữ đoàn 1 Thiết kỵ, Pháo binh...đã chận đứng được nhiều cuộc tấn công cường tập của Cộng quân. Trong phần cuối của loạt bài “Chiến trường Việt Nam 30 năm nhìn lại”, chúng tôi đã trình bày tổng quát về trận chiến tại An Lộc, nhưng do phạm vi bài viết phải lược trình sự kiện chiến trường tại nhiều mặt trận trong cùng một ngày, nên chỉ mới giới thiệu sơ lược một số trận đánh của Sư đoàn 18 Bộ binh. Trong loạt bài Đơn Vị & Chiến trường kỳ này, dựa vào một số tài liệu có giá trị về mặt quân sử, chúng tôi xin tường trình chi tiết về chiến tích của Sư đoàn 18 Bộ binh tại An Lộc và vòng đai tỉnh lỵ vào trung tuần tháng 4/1975: 
 
* Sư đoàn 18 Bộ binh tại phòng tuyến Xuân Lộc:
Trước khi trận chiến tại Long Khánh bùng nổ, theo tài liệu của ông Hứa Yến Lến, cựu sĩ quan QL/VNCH, người đã đảm nhiệm chức vụ tham mưu trưởng Hành quân Sư đoàn 18 Bộ binh vào thời kỳ cuối cùng, lực lượng phòng ngự tại Xuân Lộc và khu vực ngã ba Dầu Giây gồm có: 3 trung đoàn thuộc Sư đoàn 18 Bộ binh, thiết đoàn 5 Kỵ Binh, 4 tiểu đoàn Pháo binh thuộc Sư đoàn 18 Bộ binh binh, tiểu đoàn 82 Biệt động quân, lực lượng Địa phương quân và Nghĩa quân tỉnh Long Khánh. Tất cả các đơn vị nói trên được chia thành 3 lực lượng đặc nhiệm:

- Lực lượng đặc nhiệm 43: do đại tá Lê Xuân Hiếu chỉ huy, gồm trung đoàn 43 Bộ binh gồm trung đoàn 43 (trừ tiểu đoàn 2/43), thiết đoàn 5 Kỵ Binh, tiểu đoàn 2/52, tiểu đoàn 82 Biệt động quân, lực lượng Địa phương quân và Nghĩa quân Long Khánh, trách nhiệm phòng thủ Xuân Lộc.
- Lực lượng đặc nhiệm 48: do trung tá Trần Minh Công chỉ huy, gồm trung đoàn 48 Bộ binh với tiểu đoàn Pháo binh yểm trợ cơ hữu, trách nhiệm hoạt động dọc theo Quốc lộ 1 đi ngang qua vòng đai tỉnh lỵ Long Khánh. (Sau ngày 12/4/1975, lực lượng đặc nhiệm 48 bàn giao nhiệm vụ cho lữ đoàn 1 Nhảy Dù và trở thành trừ bị cho Sư đoàn).
- Lực lượng đặc nhiệm 52: do đại tá Ngô Kỳ Dũng chỉ huy, gồm trung đoàn 52 Bộ binh (trừ tiểu đoàn 2/52), với tiểu đoàn Pháo binh và thành phần yểm trợ cơ hữu), trách nhiệm chận địch dọc Quốc lộ 20, khu vực ngã ba Dầu Giây.
Theo tài liệu của cựu đại tướng Cao Văn Viên, nguyên Tổng tham mưu trưởng QL/VNCH, thì lực lượng tăng phái cho Sư đoàn 18 Bộ binh còn có: trung đoàn 8 thuộc Sư đoàn 5 Bộ binh, thiết đoàn 3 Kỵ Binh (gồm hai chi đoàn M41 và M113, 1 chi đoàn M 48), 2 tiểu đoàn Biệt động quân, hai tiểu đoàn Pháo binh 105 và 155 ly, lữ đoàn 1 Nhảy Dù, liên đoàn 81 Biệt cách Nhảy Dù. Tất cả lực lượng cơ hữu của Sư đoàn 18 Bộ binh và các đơn vị tăng phái được chia thành 3 lực lượng đặc nhiệm mang số hiệu: 316, 318 và 322. (Tài liệu của cựu đại tướng Viên có nhiều điểm khác với tài liệu của ông Hứa Yến Lến, nguyên tham mưu trưởng Hành quân Sư đoàn 18 Bộ binh, nhất là về danh hiệu các đơn vị tham chiến và tăng phái).

Theo phân nhiệm của bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, chuẩn tướng Lê Minh Đảo, tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh là tư lệnh chiến trường Xuân Lộc. Bộ Tư lệnh hành quân đặt tại thị xã tỉnh lỵ. Lực lượng diện địa do đại tá Phạm Văn Phúc, tỉnh trưởng/tiểu khu trưởng Long Khánh trực tiếp chỉ huy, nhưng về phòng thủ, các đơn vị diện địa được phối trí theo kế hoạch của bộ Tư lệnh chiến trường Xuân Lộc. Nhiệm vụ của Sư đoàn 18 Bộ binh là tái chiếm Định Quán trên Quốc lộ 20, tái lập giao thông trên Quốc lộ 1 giữa Xuân Lộc và Bình Tuy, bảo vệ vòng đai phía Bắc của căn cứ tiếp vận Long Bình trên Quốc lộ 15 và căn cứ Không quân ở Biên Hòa.

* Ngày N và N+1 của Sư đoàn 18 BB tại chiến trường Xuân Lộc:
Trận chiến tại An Lộc đã khởi sự từ rạng sáng ngày 9 tháng 4/1972 nhưng ngay từ ngày 7/4/1975, Cộng quân đã điều động quân bao vây các ngõ vào Xuân Lộc. Tại ngã ba Dầu Giây, giao điểm của Quốc lộ 1 và Quốc lộ 20, các đơn vị của sư đoàn 341 và 3 CSBV đã tung quân đặt chướng ngại vật để cắt đứt giao thông giữa Xuân Lộc và Sài Gòn, pháo kích vào tuyến phòng của trung đoàn 52 Bộ binh. Tiếp đó, hai sư đoàn này cùng với sư đoàn 7 CSBV khởi động cuộc tấn Xuân Lộc. Cộng quân khai hỏa vào 5 giờ 30 sáng ngày 9/4/1975 bằng một trận mưa pháo vào khu vực tỉnh lỵ. Phần lớn đạn pháo của CQ rớt vào chợ, nhà thờ và khu dân cư, khiến cho nhiều dân lành bị thương, bị chết trong trận pháo kéo dài hai giờ liền.

7 giờ 30 sáng cùng ngày, lực lượng bộ binh và chiến xa Cộng quân mở cuộc tấn công cường vào trung tâm thị xã Xuân Lộc và tuyến phòng ngự của trung đoàn 43 Bộ binh và 1 tiểu đoàn Địa phương quân của tiểu khu Long Khánh. Tại trung tâm thị xã, trận chiến xảy ra ngay tại nhà thờ Chánh tòa và giữa chợ Xuân Lộc. Đối phương sử dụng thiết giáp có bộ binh tùng thiết tấn công vào khu vực trung tâm tỉnh lỵ Long Khánh. Để đẩy lùi địch quân ra khỏi thị xã, bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 đã điều động lực lượng Dù và Biệt động quân trực thăng vận đến tăng viện, trận chiến trở nên dữ dội hơn.

Từ 7 giờ 30 sáng đến 5 giờ chiều cùng ngày, trung đoàn 43/Sư đoàn 18, lực lượng Địa phương quân và chiến đoàn tăng viện đã nỗ lực chận đứng các đợt tấn công của Cộng quân. 4 chiến xa của địch đã bị bắn cháy gần chợ Xuân Lộc. Đến 6 giờ chiều ngày 10/4/1975, các chốt cầm cự của Cộng quân trong tại thị xã Xuân Lộc, nhà thờ Chánh Tòa hoàn toàn bị đánh bật. Báo cáo sơ khởi của bộ Tư lệnh chiến trường An Lộc cho biết có 300 Cộng quân bị bỏ xác tại trận địa với trên 100 vũ khí đủ loại, 2 binh sĩ Cộng quân bị bắt sống. Tại các khu vực kế cận thị xã, trận chiến vẫn kéo dài đến 10 giờ đêm, do Cộng quân cố bám giữ một số vị trí đã đánh chiếm vào buổi sáng, nhưng cuối cùng, lực lượng tăng viện đã tung các đợt tấn công đêm nỗ lực giải tỏa áp lực của địch quân, 2 chiến xa T 54 của CQ bị hạ tại các vị trí này cùng 6 súng đại liên phòng không và một số súng cá nhân khác bị tịch thu.

Theo ghi nhận của một số cấp chỉ huy các đơn vị tham chiến, trận An Lộc trong ngày đầu tiên vô cùng khốc liệt, như nhận xét của Văn Tiến Dũng, đại tướng, tổng tham mưu trưởng quân đội CSBV trong một bài viết về cuộc chiến 30/4: “Mặt trận Xuân Lộc ác liệt và đẫm máu ngay từ những ngày đầu; các sư đoàn 6, 7 và 341 của ta (CSBV) đã phải tấn công trong thành phố nhiều lần nhưng gặp sức kháng cự mạnh của trung đoàn 43 của địch; các đơn vị Pháo binh của ta đã sử dụng nhiều hơn số đạn dự trù và xe bọc thép của ta bị hại nhiều”.

Trong trận tấn công vào Xuân Lộc, chiến thuật sử dụng pháo binh để khống chế chiến trường đã được Cộng quân vận dụng tối đa. Trong điều kiện chưa mở cuộc tấn công quy mô, chiến thuật “đánh nhanh rút nhanh” của đặc công Cộng quân đã được thực hiện trong nhiều trường hợp. Về mức độ pháo kích, tính từ 5 giờ 30 sáng ngày 9/4/1975 đến 6 giờ chiều cùng ngày, Cộng quân đã pháo kích khoảng 3 ngàn quả pháo đủ loại vào trung tâm thị xã. Tính trung bình, mỗi giờ thị xã này phải hứng chịu gần 250 quả pháo. Riêng trong giờ đầu tiên trước khi tung bộ binh và thiết giáp tấn công thị xã Xuân Lộc, Cộng quân đã pháo hơn 1 ngàn quả đạn vào thị xã.

Ngày 10 tháng 4/1975, Cộng quân mở trận tấn công thứ hai vào thị xã Xuân Lộc với nỗ lực chính là sư đoàn 6, sư đoàn 7 CSBV, 2 lữ đoàn chiến xa. Trận chiến khởi sự lúc 7 giờ sáng với trận pháo kích khoảng 1 ngàn quả đạn đủ loại. Pháo binh CQ vừa ngưng, lực lượng bộ binh và chiến xa Cộng quân đã tấn công từ bốn hướng: Đông, Tây, Nam, Bắc thị xã. Từ tòa Hành chánh tỉnh Long Khánh đến phi trường tỉnh lỵ, tại mỗi khu vực Cộng quân đều điều động lực lượng từ cấp trung đoàn trở lên, có chiến xa yểm trợ, tấn công vào các cụm tuyến phòng ngự của Sư đoàn 18 Bộ binh và lực lượng tăng phái.

Tại tuyến phòng ngự của trung đoàn 43 Bộ binh, Cộng quân đã tung nhiều đợt tấn công biển người để cố chọc thủng cụm phòng thủ của trung đoàn này. Dù bị áp đảo về quân số và về hỏa lực, nhưng hai tiểu đoàn 1/43 và 3/43 Bộ binh đã đánh trả quyết liệt, gây tổn thất nặng cho Cộng quân. Đến chiều ngày 10 tháng 4/1972, Cộng quân tung thêm đợt tấn công biển người cố tràn ngập chiến tuyến của trung đoàn 43 Bộ binh. Địch quân đã cắt tuyến chiến đấu của trung đoàn này thành những cụm nhỏ, nhưng người lính Sư đoàn 18 BB vẫn tiếp tục giữ trận địa, đẩy lùi các đợt tấn công của đối phương.

Tân Sơn Hòa chuyển