Phạm Văn Bình -
ĐỜI CHIA NHƯ NHÁNH SÔNG!
UNDERCONSTRUCTION
Phạm Văn Bình - fb Phạm Hiền Mây
-------------------------------------
I. NHÀ THƠ PHẠM VĂN BÌNH
Không phải ai cũng được như Nguyễn Du, để lại một gia tài đồ sộ hơn ba ngàn câu thơ, thuộc hàng kinh điển cho hậu thế, rồi ngậm ngùi:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như
(Độc Tiểu Thanh Ký)
Nghĩa là: chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa, người đời ai khóc Tố Như chăng?
Ba trăm năm là quá nhiều. Ba mươi năm, đã là chuyện khó. Vì, chỉ ba năm thôi, cũng đủ lãng quên rồi.
Thế hệ này nối tiếp thế hệ kia. Đời này xong thì đến đời khác. Bánh xe luân hồi quay không ngừng nghỉ, không cả kịp cho ngó lại. Chỉ đủ thời gian cho tất bật hành trình, chưa hôm nay, đã xóa nhòa hôm qua, vội vã.
Người ta lo mừng sự sinh sôi, nảy nở, phát triển, nào ai hơi đâu mà dành tâm trí cho thứ già cỗi, meo mốc, lụi tàn.
Phạm Văn Bình, nhà văn, nhà thơ, cũng nằm trong hàng muôn muôn triệu ấy, đến rồi đi, từng có rồi mất, những lưu dấu rồi sẽ nhạt dần, mờ phai, và đến một ngày, nhẹ nhàng, như không, như chưa từng, chưa từng hiện diện.
Phạm Văn Bình viết không nhiều thơ. Sự nghiệp thơ của ông chỉ bắt đầu từ thuở thanh niên, từ 1960 đến 1975. Tù về, ông sang Mỹ. Và, ông qua đời sau khi ở trọ trần gian bảy mươi tám năm.
Trong số ít ỏi những tác phẩm của ông để lại, có ba bài thơ được Phạm Duy phổ thành ca khúc.
Bài thơ Tường Trình Cho Em, Phạm Duy phổ thành ca khúc Mười Hai Tháng Anh Đi.
Bài thơ Cá Lội Bâng Khuâng, Phạm Duy phổ thành ca khúc cùng tên.
Và bài thơ Chuyện Tình Buồn, Phạm Duy phổ nhạc thành ca khúc cùng tên vào năm 1972.
Tháng Giêng xuôi quân ra xứ Huế
Cố đô tan hoang, gạch ngói điêu tàn
Không còn thấy áo em bay chiều bãi học
Tóc thề đã quấn khăn tang
Tháng Hai về trấn giữ ven đô
Chong mắt hỏa châu ghì súng giữ cầu
Gió thoảng ngạt ngào về hơi rượu mạnh
Qua màn sương lơi lả ánh đèn màu
Ba lô lên vai tới miền Tây đô
Quê hương em xanh ngát bóng dừa
Đêm ngủ bìa rừng thèm làn môi ấm
Ngọt trái sầu riêng những lúc sang mùa
Bây giờ trời mây rủ nhau vào Hạ
Mẹ chắc đang sửa soạn đi lễ chùa
Và em nguyện cầu cho anh mỗi tối
Cho người miệt mài sớm nắng chiều mưa
Tháng Năm diễm kiều những vì sao biếc
Hoa phượng nở đầy sân trường
Ngày xưa e ấp những tờ lưu bút
Bây giờ cho nhau phong thư gửi tròn nhớ thương
Tháng Sáu rồi anh vẫn miệt mài
Bận hành quân nên chưa về thăm em
Đừng khóc nghe em như ve sầu tháng Hạ
Xa thì rất nhưng làm sao quên
Tháng Bảy về mưa ngâu bay bay
Ô hay lòng ta sao bỗng dưng sầu
Tráng sĩ đi hề thét roi cầu Vị
Thiếp tại Tương giang vĩ
Quân tại Tương giang đầu
Tháng tám bé thơ chơi đèn kéo quân
Huyền thoại Hằng Nga cũng không còn
Tất cả đã tàn như giấc mơ hiệp sĩ
Thực tế làm trái tim chúng ta khô cằn
Tháng Chín đổ quân bên bờ Cửu Long
Trái vú sữa căng như mạch sống mẹ hiền
Anh đi cho đồng thêm xanh, trái thêm ngọt
Chiến công này xin gởi tặng em
Về Cà Mau viết thơ cho em
Lời gió thương mây, chim nhớ thương rừng
Xin đừng trách anh dù mỏi mòn chờ đợi
“Sao anh đi hoài thế anh?”
Mưa đã mịt mù từ vùng biển
Nhớ đan áo mùa Đông trời trở lạnh rồi em
Thiên hạ rộn ràng may áo cưới
Anh vẫn còn đi, hẹn năm tới nghe em
Hoa mai nở đầy và em đang chờ
Mười hai tháng rồi dài những ước mơ
Nhớ má cho hồng, nhớ môi cho ngọt
Anh về bên em cùng đón giao thừa.
III. TRÁNG SĨ ĐI HỀ THÉT ROI CẦU VỊ, THIẾP TẠI TƯƠNG GIANG VĨ, QUÂN TẠI TƯƠNG GIANG ĐẦU
Tường Trình Cho Em là một bài thơ nhẹ nhàng, dễ thương, của một chàng lính trẻ, dẫu hoàn cảnh lúc bấy giờ, là hoàn cảnh chiến tranh. Mà chiến tranh, thì các bạn biết rồi đó, Hữu Loan cũng từng viết trong Màu Tím Hoa Sim, thời chiến binh, mấy người trở lại, nhỡ khi mình không về.
Bất trắc lắm. Hòa bình đây, mà nợ duyên, có khi còn một sớm một chiều. Huống hồ.
Mới hôm qua là đất thần kinh, hôm nay, đã tan hoang gạch ngói. Mới hôm qua còn thấy áo em bay, hôm nay, đã phất phơ vành khăn trắng.
Bài thơ Tường Trình Cho Em khiến tôi nhớ đến ca khúc Những Đóm Mắt Hỏa Châu của Hàn Châu: có những đêm dài anh ngồi nhìn hỏa châu rơi / nghe vùng tâm tư cháy đỏ xoay ngang lưng trời / những đóm mắt hỏa châu bừng lên trong màn tối / như mắt em sáng ngời theo anh đi ngàn lối / những đêm không ngủ anh ngồi tâm sự cùng hỏa châu rơi.
Buồn lắm, khổ lắm, đời lính chiến mà, có gì vui đâu. Nên tơ tưởng hoài. Nên ngày thì mộng mà đêm thì mơ.
Xem ra, thơ Phạm Văn Bình, vẻ như, cũng nhiều nét hao hao nhà thơ Quang Dũng.
Nếu Quang Dũng: đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm, thì Phạm Văn Bình cũng chẳng kém màu mấy: gió thoảng ngạt ngào về hơi rượu mạnh / qua màn sương lơi lả ánh đèn màu.
Giống thì có giống, nhưng khác thì cũng có khác. Khác ở chỗ, Quang Dũng vì bài thơ Tây Tiến mà bị kiểm điểm, bị đánh giá, còn mang nặng tư tưởng tiểu tư sản. Ông Bình, trong miền Nam, thì chẳng bị hỏi han, vặn vẹo gì cả. Thơ Phạm Văn Bình ngày đó, vẫn đăng báo ngon lành.
Tường Trình Cho Em là giấc mơ của những chàng trai trẻ, mười tám, mười chín, hai mươi. Mới hôm nào còn tập vở đến trường, ăn chưa no, lo chưa tới, mà nay, đã gió sương làm mền, đã nắng mưa làm gối.
Đêm về, cứ thèm hoài, thèm hoài một hơi ấm, thèm hoài da thịt của tình nhân. Thư tới tay, cũng khó, lính chiến mà, hành quân hoài, dịch chuyển hoài, nên, cứ thế mà tưởng tượng thôi, hết mùa xuân thì qua mùa hạ.
Tháng Năm, mùa hoa phượng đỏ. Em có còn nhặt hoa rồi ép giữa trang thơ. Mới vừa hôm qua, anh còn theo ngọ về, mai vào lớp học, anh còn ngẩn ngơ, ngẩn ngơ. Thế mà nay, anh đã khoác trên mình bộ trây-di, tay súng, vai ba-lô, lên đường chiến đấu.
Tường Trình Cho Em, còn làm tôi nhớ đến ca khúc Sương Trắng Miền Quê Ngoại của Đinh Miên Vũ. Trong ca khúc có câu: bận hành quân nên chắc khó thăm nhau.
Nghĩ lại, tôi thấy thương quá chừng thế hệ cha anh trước đây, thượng đế xui chi cho chiến cuộc lan tràn, cho lòng người chia rẽ, cho mất mát thương đau, cho đôi tình nhân cứ phải xa nhau biền biệt.
Cầu Vị, được lấy từ Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn, được bà Đoàn Thị Điểm (Phan Huy Ích?), dịch ra như sau: Chí làm trai, dặm nghìn da ngựa / Gieo Thái Sơn, nhẹ tựa hồng mao / Giã nhà đeo bức chiến bào / Thét roi cầu Vị ào ào gió thu.
Nghĩa là:
Chí bậc trượng phu, rong ruổi ngoài ngàn dặm, sẵn sàng da ngựa bọc thây
Thái Sơn ném xuống nhẹ như lông hồng
Bèn từ biệt chốn khuê phòng tòng quân chinh chiến
Tiếng roi ngựa vang lên trong gió tây (gió thu), tráng sĩ xuất chinh ra khỏi cầu sông Vị (ở kinh đô Tràng An).
Trong bản gốc của Đặng Trần Côn, lại còn có cả điển tích của từ “mã cách” (da ngựa) và “thái sơn nhất trịch khinh hồng mao” nữa, nhưng nếu dẫn ra, sẽ dài quá, lạc qua ông Đặng Trần Côn, mà quên mất ông Phạm Văn Bình của chúng ta, nên thôi.
Còn hai câu: Ngã tại tương giang đầu / Quân tại tương giang vĩ, là trích từ bài Trường Tương Tư của Lương Ý Nương, dịch ra: Chàng ở đầu sông tương / Thiếp ở cuối sông tương.
Nghĩa là, rất nghìn trùng xa cách.
Rồi, tráng sĩ hề nữa. Là lấy từ Sử Ký của Tư Mã Thiên, phần viết về Kinh Kha, có hai câu: Phong tiêu tiêu hề, Dịch thủy hàn / Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục hoàn. Có nghĩa là: Gió thổi hiu hắt, nước sông Dịch lạnh / Tráng sĩ một khi ra đi, sẽ không trở về.
Và khi đọc câu: Tháng bảy về mưa ngâu bay bay / Ô hay lòng ta sao bỗng dưng sầu, tôi nghe ra, hơi hướm của Bích Khê rất rõ.
Tường Trình Cho Em, được viết theo thể tự do, nghĩa là không cần vần, và số chữ viết trong câu không có hạn định, nhưng nếu các bạn để ý, sẽ thấy, tự do thì tự do, người viết vẫn luôn có một sự sắp xếp riêng, để bạn đọc, khi đọc lên, không bị vấp, không bị chỏi, không bị cảm thấy khó khăn khi cảm thụ tác phẩm.
Hay nói cho rõ hơn, khi đọc lên, ít nhiều gì, bài thơ cũng có nhịp điệu, nhạc điệu riêng của nó.
Tường Trình Cho Em, cũng khiến tôi nhớ tới ca khúc Chuyện Tình Người Đan Áo của nhạc sĩ Trường Sa: Có người con gái, đông về đan áo ấm ra sa trường. Từ nhớ này dắt đến nhớ kia, người ta gọi đó là sự liên tưởng.
Thơ Phạm Văn Bình, gợi cho chúng ta nhiều hình ảnh sống động và nhiều liên tưởng thú vị!
IV. BÀI THƠ CHUYỆN TÌNH BUỒN
Thơ Phạm Văn Bình bồi hồi, tha thiết. Thơ Phạm Văn Bình tràn lấp thương đau. Thơ Phạm Văn Bình đầy nỗi u buồn, tang tóc.
CHUYỆN TÌNH BUỒN
Năm năm rồi không gặp
Từ khi em lấy chồng
Anh dặm trường mê mải
Đời chia hai nhánh sông
Những thư tình ngây dại
Những vai mềm, môi ngoan
Những hẹn hò cuống quýt
Trên lối xưa thiên đàng
Thôi cũng đành chôn kín
Dưới đáy huyệt thời gian
Ngày nhà em pháo nổ
Anh cuộn mình trong chăn
Như con sâu làm tổ
Trong trái vải cô đơn
Ngày nhà em pháo nổ
Tâm hồn anh nhuốm máu
Ôi nhát chém hư vô
Ôi nhát chém hư vô
Năm năm rồi đi biệt
Anh chẳng về lối xưa
Sân giáo đường cỏ mọc
Gác chuông nằm chơ vơ
Chúa buồn trên thánh giá
Mắt nhạt nhòa mưa qua
Trên cánh buồm ký ức
Sóng thời gian lô xô
Ngồi bâng khuâng nhớ biển
Bên bãi đời quạnh hiu
Anh mang hồn thủy thủ
Cùng năm tháng phiêu du
Anh một đời rong ruổi
Em tay bế tay bồng
Chiều hắt hiu xóm đạo
Hồi chuông giáo đường vang
Năm năm rồi không gặp
Từ khi em lấy chồng
Bao kỷ niệm chôn kín
Dường như đã lãng quên
Năm năm rồi trở lại
Một màu tang ngút trời
Thương người em năm cũ
Đêm góa phụ bên song.
V. NĂM NĂM RỒI KHÔNG GẶP
Đã năm năm trôi qua, kể từ ngày em đi lấy chồng. Trong năm năm đời chia như nhánh sông ấy, anh vẫn tiếp tục, nơi xa xôi, mê mải dặm trường, miệt mài cùng gian lao, vất vả của đời lính.
Hôm nay, gặp lại em trong tình cờ, bao ký ức bỗng ùa về trong anh. Em vẫn còn nhớ chứ, những phong thư tình thơ dại chúng mình trao gởi nhau, rồi những cuống quýt nữa, lúc vai mềm và môi ngoan chúng ta áp vào nhau. Những lần hò hẹn, là những lần chúng ta dắt tay nhau tìm chốn thiên đường.
Nhưng giờ đây, những kỷ niệm ấy, cũng đành chôn kín trong đáy mộ của thời gian.
Ngày em vu quy, anh chỉ biết cuộn mình trong chăn, như con sâu làm tổ, không trong kén, mà trong đống vải vóc, chăn mền, trong cô đơn rất đỗi.
Cuộn vì không muốn nghe tiếng pháo mừng em lên xe hoa. Cuộn cho máu thôi rỉ ra từ tâm hồn. Cuộn để chống đỡ lại những nhát chém hư vô đang cứ nhắm vào anh, kẻ thất bại trên tình trường, mà phạt xuống.
Năm năm, anh biền biệt, chưa một lần quay lại tìm em, chưa một lần trở lại lối xưa. Thế mà bây giờ, gặp em, ngỡ như ai đang lấy muối mà xát vào trong dạ. Sân giáo đường, nơi hò hẹn cùng em ngày nào, giờ cỏ hoang mọc kín. Gác chuông, nằm chơ vơ trong đổ nát, điêu tàn.
Chúa trên cây thập giá, nhìn xuống nhân gian, chắc ngài cũng đang buồn lắm. Nước mắt anh rơi, hay mưa đang tạt xuống mặt anh, anh cũng không biết nữa. Mưa là bãi bể. Ký ức là cánh buồm rách tả tơi. Và thời gian, là lô xô khói sóng.
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai. (Hoàng Hạc Lâu, Thôi Hiệu, Tản Đà)
Giờ đây, cảnh đời quạnh hiu, cảnh mình đơn chiếc, khiến anh bâng khuâng quá. Bâng khuâng như thủy thủ rày đây mai đó trên biển cả mênh mông, mà tháng năm như mộng.
Tháng năm của anh là đời trai phiêu bạt sương gió. Và tháng năm của em, là tay bế tay bồng.
Hoàng hôn gần tắt bóng, chiều đang cố rọi nốt những ráng vàng èo uột còn sót, xuống xóm đạo hoang tàn. Xa xa, hồi chuông Thánh Đường vang. Hồi chuông vang lên, như những sáng chiều của năm năm về trước. Tiếng chuông không khác, nhưng chúng mình, nhưng anh và em, đã khác xưa nhiều lắm rồi.
Kỷ niệm tưởng đã chôn kín, tưởng đã lãng quên, dè đâu, còn nguyên màu cũ.
Năm năm, không nhiều, mà cũng chẳng ít.
Năm năm rồi, anh mới quay trở lại chốn xưa. Thì tang tóc, thì cô đơn, thì buồn tủi, ngút ngút trời cao, rồi từ trời cao dội xuống, và bao phủ khắp xóm làng ta.
Để anh xót xa, không chỉ vì mối tình ta không thành, mà còn vì, em trở thành góa phụ giữa buổi xuân thì.
Để anh xót xa, khi nhìn thấy em, đang khóc chồng bên song cửa!
VI. CA KHÚC CHUYỆN TÌNH BUỒN CỦA PHẠM DUY
Khi chuyển sang ca khúc đi vào lòng người một cách nhanh chóng này, Phạm Duy đã giữ gần như trọn vẹn bài thơ.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng nhận xét: Không ai phổ thơ hay bằng Phạm Duy. Bài thơ nào qua tay ông là nổi tiếng. Một nhà ảo thuật về phổ thơ.
Điều này hoàn toàn đúng, nhất là với các trường hợp như Phạm Văn Bình, Nguyễn Tất Nhiên, Vũ Hữu Định, Huyền Chi, và nhiều nhà thơ khác nữa.
Phạm Duy cho biết, ông bắt gặp bài thơ Chuyện Tình Buồn của Phạm Văn Bình trên báo, và ngay lập tức, ông quyết định phổ nhạc cho bài thơ này. Trong lời đề trên bản nhạc, Phạm Duy ghi: Đây là một câu chuyện tình buồn. Anh yêu em nhưng không lấy được em. Năm năm qua đi, từ khi em lấy chồng, tưởng chừng như đã quên được em, ngờ đâu, tình cờ gặp lại em, thì em đã góa phụ bên song. Thương em quá em ơi!
CHUYỆN TÌNH BUỒN
Năm năm rồi không gặp, từ khi em lấy chồng
Anh dặm trường mê mải, đời chia như nhánh sông
Phong thư tình ngây dại, và vai môi rất mềm
Những hẹn hò quấn quýt trên lối xưa thiên đường
Ngày nhà em pháo nổ, anh cuộn mình trong chăn
Như con sâu làm tổ, trong trái vải cô đơn
Ngày nhà em pháo nổ, tâm hồn anh nhuốm máu
Ôi nhát chém hư vô, ôi nhát chém hư vô
Năm năm rồi đi biệt, đường xưa chưa lối về
Trong đìu hiu gió cuốn, nằm chơ vơ gác chuông
Năm năm rồi cách biệt, cỏ hoang sân giáo đường
Chúa buồn trên thánh giá, mắt nhạt nhòa mưa qua
Ngồi bâng khuâng nhớ biển, bên bãi đời quạnh hiu
Anh mang đời thủy thủ cùng năm tháng phiêu du
Anh một đời rong ruổi, em tay bế tay bồng
Chiều hắt hiu xóm đạo, hồi chuông giáo đường vang
Năm năm rồi không gặp, từ khi em lấy chồng
Bao kỷ niệm chôn kín, dường như đã lãng quên
Năm năm rồi trở lại, một màu tang ngút trời
Thương người em năm cũ, thương góa phụ bên song.
VII. ĐỜI CHIA NHƯ NHÁNH SÔNG
Chiến tranh nghĩa là đau thương. Chiến tranh nghĩa là mất mát. Chiến tranh nghĩa là ngang trái, nghĩa là éo le.
Những người vợ, những người mẹ, tuổi còn xuân, nhưng đã khăn tang ngang đầu.
Vì thế, Chuyện Tình Buồn.
Ra chiến trận, đâu nói trước được ngày trở lại.
Biết bao người đi chẳng thể trở về. Những lỡ dở, lỡ làng, nhỡ nhàng, vẫn thường luôn. Những ngổn ngang, những thương đau, mẹ mất con, em mất anh, vợ mất chồng, con mất cha, kể sao cho xiết.
Với bài thơ và ca khúc Chuyện Tình Buồn, thường thì những người ở thế hệ trước tôi, họ thích hơn, vì họ, hoặc chứng kiến, hoặc ở trong hoàn cảnh in hệt.
Còn lứa chúng tôi, sanh sau đẻ muộn, chỉ nghe kể thôi, chớ không tự mình trải qua. Thời của tụi tôi là thời của những ám ảnh đói nghèo, ăn bo bo, ăn khoai, ăn bắp, chớ rất ít cơm gạo, cá thịt lại càng thiếu thốn, nên đứa nào cũng còi cọc, lớn không nổi.
Không lớn nổi thì sức đâu mà yêu.
Là tôi nói vui thôi. Mỗi thời, mỗi có cảnh riêng, mỗi có nỗi khổ riêng. Chỉ thương nước mình, thương quê hương mình, hai từ no ấm, bình yên, sao mà khó ghê khó gớm.
Năm mươi ba năm đã trôi qua, bài thơ và ca khúc Chuyện Tình Buồn vẫn còn trên môi nhiều thế hệ người Việt Nam.
Mà thiệt ra, ngay cả khi, không trong cảnh chiến tranh, tình cũng vẫn thường buồn.
Tình buồn bởi vì, cuộc đời chúng ta là những dòng sông, những dòng sông có quá nhiều lối rẽ:
ĐỜI CHIA NHƯ NHÁNH SÔNG!
Sài Gòn 07.08.2025
Phạm Hiền Mây
No comments:
Post a Comment