Monday, October 28, 2013

• Ngày Quốc Khánh Đầu Đời

Tôn Nữ Hoàng Hoa
 
Năm 1956 ba tôi trở về nhiệm sở củ tại Tòa Đại Biểu Chính Phủ Trung Phần dưới thời của anh rễ họ tôi là ông Hồ Đắc Khương, sau hơn một năm làm Phó Tỉnh Trưởng tại Quảng Nam và suýt ra người thiên cổ.

Khi ở Hội An,, sau thời gian bị “nhốt” vào Trường Xơ ở xứ Tam Tòa Đồng Hới. Tôi được thư thả ở lớp nhất tại trường Nữ công lập Tiểu học Hội An 1955.
Nhưng trong tôi vẫn hoài niệm dòng sông êm đềm Lệ Thủy soi bóng Giáo đường Tam tòa, bên hình ảnh âm thầm của trường trung học Chơn Phước Phượng.

Về Huế năm 1956 ở cái tuổi 12, 13 như chim non đầu đời bắt đầu nghĩ đến niềm tin và hy vọng, nhưng cuối cùng cũng lại bị “nhốt” vào trường Jean D'arc trong thời buổi nghỉ  hè. Tại đây tôi có một ngừơi bạn nhỏ tên Nhạn. Nhạn và tôi học cùng lớp và cùng ở chung một xóm trên đường Lê Thái Tổ.



Hằng ngày chúng tôi thừơng ra bơi lội trên dòng sông Hương và ra ăn kem ở chỗ nhà làm kem của một ngừơi tên Thanh.

Giờ sắp bứơc vào tuổi 70 thất thập cổ lai hy lại ngồi  lục lọi tiềm thức để thấy ký ức rộn ràng trong niềm vui mới lớn. Có lẽ lại tháng 10. Tháng Mười đầy ắp kỷ niệm đầu đời của một con dân vừa thoát ra khỏi vòng đô hộ của thực dân Pháp.

Ý nghĩ về những con đường cũ khuất lấp theo thời gian nồng nàn trở về trong ký ức. Con phố xưa trên đường Lê Thái Tổ mờ nhạt theo tháng năm, nhưng giờ lại hiện ra trong mong manh và diễm ảo.
Tôi nhớ một lần đến nhà Nhạn chơi, ba Nhạn đang sửa soạn trang điễm một con phố nhỏ trước nhà làm kem của Thanh để treo lồng đèn, giăng biểu ngữ chào mừng Ngày Quốc Khánh 26/10/1956.

Trong thời gian này Nhạn và tôi được ba Nhạn chấp nhận cho hát trong đoàn hợp ca bản Ngô Tổng Thống Muôn Nặm . Ở tuổi 13 tôi bỗng nhiên được ca hát trình diễn đã ươm trong mãnh đất hồn nhiên nhỏ bé của tôi một niềm tin và hy vọng.

Bài hát đầu đời trình diễn của tôi là hình ảnh của một vị lãnh tụ Quốc Gia mà đất nước vừa mới thoát ra khỏi một căn bệnh trầm kha Đô hộ mà dân tộc Việt có thể đi đến tình cảnh diệt quốc vong thân. Trong tình hình hấp hối lại được tái sinh. Người Việt lúc bấy giờ không ai không khỏi mừng vui trên cơ thể hồi sinh của dân tôc Việt Nam sau khi bị phanh thây làm hai mãnh do bọn cộng sản Bắc Việt chủ tâm.

Ngày Quốc Khánh 26 tháng 10 năm 1956 đến. Con phố không mấy náo nhiệt như góc phố Hàng Me và Lê Thái Tổ như mọi ngày , hôm nay lại tưng bừng lời ca , tiếng nhạc." Ai bao năm từng lê gót nơi quê ngừơi. Cứu đất nứơc thề tranh đấu cho tự do. Ngừơi cương quyết chống Cộng..." cho ngừơi dân trang trọng trên hình ảnh của một vị Tổng Thống nhà Ngô thừơng đi kinh lý thăm dân trên những bứơc chân dài hơn thân thể và cái đánh đường xa trong tay cầm cái mũ như nhạc khúc quân hành .

Trong tâm trí tuổi thơ như  tôi và các bạn cùng tuổi tham gia Ngày Quốc Khánh đầu đời trên tình huống đất nứơc được hồi sinh qua sự lãnh đạo của một vị lãnh tụ độc lập. Đó là một trân trọng ghi ơn. Ngừơi dân tại Huế lúc bấy giờ đi đến đâu cũng nghe vang vang lời cầu nguyện "Xin Thượng Đế ban phước lành cho Người" cho vị lãnh tụ họ Ngô được đầy đủ năng lực để chống lại cả hai thế lực cộng sản và thực dân.

Ngay góc phố Hàng Me và Lê Thái Tổ tối hôm Ngày Quốc Khánh 1956 đã sáng trưng với những ngọn lồng đèn đủ màu sắc cùng tiếng hát vang vang lời ca "Người cương quyết chống Cộng diệt thực dân đang rắc reo tàn khốc"
Từ tiếng hát đầu đời và niềm vui trong ngày Quốc Khánh 26/10/1956 cùng hình ảnh đáng quí của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã đem lại niềm tự hào dân tộc của tôi trên ý nghĩ hình thành một đất nứơc thật sự Tự Do và Độc lập. Tôi mang hành trang đó vào đời trên ý thức thô thiển về  chính trị và trên những biến cố chính trị của đất nứơc Việt Nam.

Năm  Đệ Lục 1957 tại trường Nữ Trung Học Đồng khánh tôi thật sự thích tham gia vào đoàn Nữ Sinh đi làm hàng rào danh dự cho Ngô Tổng Thống đi kinh lý.
Trên những bước chân kinh lý của TT Ngô Đình Diệm là tiếng nhạc là những âm thanh, thanh thoát réo lên từ lòng ngừơi dân như một quấn quit thân yêu giữa người dân và chính quyền. Những lời ca Ngô Tổng Thống Muôn năm đã được họ tình nguyên tự hát ra mà không bị bắt buột dưới một thế lực nào.

Tháng 9/1959 ba tôi căn dặn Me tôi không cho tôi tham gia bất cứ một tổ chức nào của Sinh Viên Học Sinh cả  . Tôi không hiểu tại sao? nhưng vẫn tuân lệnh Me tôi ở nhà không được đi đâu sau giờ đi học. Từ đó, con đường về Thành Nội thăm O Phủ cũng bị giới hạn.

Sau biến cố tại chùa Từ Đàm , khi Sư Trí Quang xuất hiện xách động Phật tử xuống đường gây bất ổn cho chính quyền như là một Tướng Trận tuy rằng Sư Trí Quang đang khoát áo nâu sòng.

Tình hình trong các chùa có vẽ "khẩn trương". Năm 1960 tôi phải rời Huế vào Qui Nhơn trước khi Mẹ Tôi vào.

Giả từ cố đô trên tuổi đời đang đi vào con đường hoa mộng. Giả từ những con đường mang dấu tích tuổi thơ . Những hàng cây nghiêng bên bờ dòng sông tuổi nhỏ, qua mặt đường là biệt thự của ông Hà Thúc Luyện cùng lớp lớp ngồi đứng ngã nghiêng của học sinh trường Quốc Học sắp hàng chờ đợi để "nghễ" con gái Đồng Khánh từ Bến Ngự, Nam Giao, Kim Long , Long Thọ, Nguyệt Biều và Ga đi qua trước giờ vào học.

Vào Trung Học Cường Để Qui Nhơn mà lòng tôi vẫn còn hằn in những dấu ấn, từng kỷ niệm chưa phai mờ trên khoang thuyền của ký ức trôi trên dòng nước của thành phố Huế đã xa.

Trong thời gian của thập niên 60 , ba tôi thường ưu tư trên sự tràn quân của cs Bắc Việt vào miền Nam. Me tôi vì cai quản căn nhà hương hỏa của Bà Nội,nên không thể vào Qui Nhơn cùng lúc với tôi. Nhưng vừa mới thoát cảnh loạn ly của 1954 nên ba tôi lo lắng dục dả me tôi vào.

Tình hình xáo trộn gây bất ổn cho chính quyền mỗi ngày một tăng. Những cuộc xuống đường tàn sát lẫn nhau giữa người nỗi loạn và chính quyền mỗi lúc một mạnh.

Tôi vẫn thầm mong có một ngày trở lại Huế . Trở lại nơi chôn đã hắt lên trong tôi một niềm tin yêu và hy vọng của một quốc gia nhược tiểu được phồn vinh muôn đời từ căn bản của  một con dân được sống trong đất nước tự do dân chủ mà không phải chịu dưới áp lực nhân danh của một chủ nghĩa nào.
Cho đến hôm nay cuộc chiến Quốc/Cộng vẫn còn tiếp diễn trên chiều dài lịch sử của dân tọc Việt Nam.

Cũng giống như thời của thập niên 60 , đảng csVN trên âm mưu tuyền truyền với dân chúng Miền bắc là phải giãi phóng miền Nam dưới sự cai trị của “My-Ngụy” và chiêu bài "Đánh Mỹ Cứu Nước" để thực hiện âm mưu nhuộm đỏ toàn cõi Đông nam Á của cs Quốc tế.

Nhưng sau ngày 30/4/75 khi người dân miến Bắc vào miền Nam và những gì tuyên truyền của VC vốn là niềm tin sắt đá của người dân miền Bắc khi đối diện với những gì thực tế của miền Nam, người dân Việt miền Bắc đã phải hụt hẫng, một cảm giác bị đảng csVN lừa bịp đã làm ngừơi dân khủng hoảng niềm tin .

Cũng vậy, trên âm mưu thôn tính tập thể Ngừơi Việt Tỵ nạn cs tại hải ngoại. Một lần nữa đảng csVN lại dấu mặt và những văn nô của đảng được đưa ra hải ngoại để hướng dẫn ngừơi dân tỵ nạn bằng những chiêu bài ru ngủ như không nơi nào đẹp băng quê hương , quê hương là chùm khế ngọt. Ngừơi dân tỵ nạn tự hỏi nếu quê hương là chùm khế ngọt và không nơi nào đẹp bằng quê hương thì tại sao đảng lại dâng cho tầu Cộng?

Hơn nữa , chúng dùng bạo sách "trồng ngừơi" ở các thành phần tôn giáo, thì thử hỏi từ 1975 đến nay cũng đã là gần 39 năm và chính những "cây người" đó đang ngang nhiên tạo ra những cảnh phạm giới nữ sắc tại cửa Thiền, tại giáo đường để làm cho Phật tử, tín đồ khủng hoảng niềm tin với Tăng Ni của chùa, Cha Thầy của nhà thờ.

 Những nơi nào còn vững chắc không cho sư Quốc Doanh, hay Cha Quốc Doanh  len lõi vào thì bị chúng bôi nhọ vu khống dùng tác phong mafia hay những hành vi "bề hội đồng" theo cái kiểu "lấy thịt đè người" để làm tín đồ khiếp nhược hầu cướp chùa cứơp nhà thờ .

Bài viết của chúng tôi hôm nay không cố ý bài bác những ai đang nhục mạ Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Quí vị có quyền nhục mạ nhưng tiếp nhận sự nhục mạ ấy hay không là do ngừơi dân. Và cho đến hôm nay thì những tổ chức tưởng niệm Cố Tổng Thống một ngày một nhiều hơn, một trang trọng hơn trên những thể thức tổ chức trang nghiêm hơn của chính thể Việt Nam Cộng Hòa.
Cũng trong ý nhĩ đó, chúng tôi xin ghi lại nơi đây bằng một cảm xúc trong ngày 26/10/2013 và từ đó lờ mờ trong ký ức, những mảnh vụn của tuổi thơ trở về , cho dù đã thật xa nhưng như những cánh hoa đời không phai tàn hương sắc theo sóng nước thời gian.

 Ở đó tưng bừng với những hoa đèn biểu ngữ ngày Quốc Khánh 1956,  ở đó chất chứa niềm tin và hy vọng của tuổi thơ vào đời. Ở đó đã vang lên lời ca "Ngô Tổng Thống, Ngô Tông Thống Muôn Năm. Toàn dân Việt Nam Nhớ ơn Ngô Tổng Thống " .Tiếng hát xưa bỗng rào rào trong ký ức để bật mở một hình ảnh oai hùng sáng ngời của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

Từ hình ảnh tưởng vọng đó cùng những bước chân kinh lý dài hơn thân thể trên đoạn đường đưa dân tộc VN ra khỏi cảnh nô lệ của một thời đô hộ, chúng tôi xin kính dâng Ngô Tổng Thống một nén hương tưởng niệm.

Trước khói nhang lung linh vọng tưởng, Chúng tôi xin cầu nguyện cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm mãi mãi bình an trên cõi Vĩnh Hằng để phù hộ cho dân tộc Việt Nam sớm thoát khỏi xiềng xich của Việt Cộng.

Tôn Nữ Hoàng Hoa
26/10/2013

Monday, October 21, 2013

• HÀNH QUÂN LAM SƠN 719- NAM HẠ LÀO.

Tác giả: Huỳnh Mai St.8872
Bh Dạ Lệ Huỳnh - July 15, 2012

 Căn Cứ Hỏa lực 6- Đồng Minh Hoa Kỳ Phản Bội

 Chúng ta là chiến sĩ QL.VNCH, đã "Gảy súng tan hàng...!??" với ngày biến cố lịch sử, 30-4-1975, là nổi đau đớn, uất hận tràn lòng.Chúng ta chiến bại là vì Mỹ phản bội đồng minh chiến sĩ VNCH. Và nỗi buồn nhục nhất:"Không chiến đấu cho quê hương chính mình!??"của  chiến hữu đồng minh Hoa Kỳ rút quân tháo chạy khỏi Miền NamViệt NamVNCH, khi Mỹ hoàn tất thương lượng bán đứng Miền Nam VN cho Tầu Cộng/TQ.Chúng ta hãy xem lại những đoạn video-Youtuble, cuộc hành quân Lam Sơn 719, tại ngả 3 biên giới Nam Hạ Lào. Để thấy được sự trải lòng,vì dân, vì nước và sự hy sinh dũng cảm của chiến sĩ VNCH.Và còn cuộc chiến đấu nào hơn thế nữa không, mới gọi là vô trách nhiệm!??, và bị Việt gian đâm sau lưng chiến sĩ!?? của bọn thời cơ "Ăn cơm Quốc Gia, thờ ma Cộng Sản!?"






 quansuvietnam: Người Mỹ Phản Bội Hay Tội Đánh Mỹ (17/03) 
(03/17/2012 11:39 AM) (Xem: 1823)
Tác giả : Dạ Lệ Huỳnh

viet nam war



quansuvietnamNgười Mỹ Phản Bội Hay Tội Đánh Mỹ
Một thời chinh chiến
Tg Huỳnh Mai St.8872
Bh.Dạ Lệ Huỳnh
March 15, 2012
9:49 PM







Mỹ Cộng, Việt Cộng bắt tay Hai thằng Đối Tác Việt Nam ăn mày!
Chúng tôi, những chiến sĩ QL.VNCH nơi địa đầu, hỏa tuyến -Tây Nguyên trung phần- ngà ba biên giới Việt- Miên –Lào, trong trận địa chiến Lam Sơn 719 Nam Hạ Lào. Nơi đây căn cứ Hỏa Lục 6 của Mỹ đã bàn giao“ Lầm lộn” cho quân cộng sản Bắc Việt, để rút quân, trước khi Việt Nam hóa chiến tranh…Đã nhận rỏ hành động phản bội của đồng minh Hoa Kỳ, bắt tay, và bật đèn xanh cho quân Cộng Sản Bắc Việt xâm nhập và tiến chiếm Miền nam VNCH tại ngả ba biên giới, được sự bỏ ngỏ căn cứ hỏa lực số 6 Hoa Kỳ. Do Hà Nội áp lực “Việt Nam hóa chiến tranh” trong bàn thảo HĐ Paris có Trung Cộng cố vấn Bắc Việt-Hà Nội tham dự cùng phía Hoa Kỳ để quyết định con cờ Miền Nam VNCH trong chiến tranh VN.

Để chiếm lại ngọn núi máu Vinky, cao trên 1.886 m, thuộc Căn cứ 6 của Mỹ. Trung Đoàn 47/SĐ.22BB được lệnh chuyển quân rời bỏ vùng bình nguyên Tuy Hòa-Phú Yên đầy sóng biển, lên vùng Tây Nguyên Pleiku-KomTum rừng núi chập chùng; mây bay ngang đầu. Chuyển từ vùng Du Kích chiến sang vùng Trận Địa Chiến với mệnh lệnh tiếp viện giải cứu Căn Cứ Hỏa Lực 6 tại Đắc-Tô tỉnh Kom-Tum bị Cộng Quân chính qui Bắc Việt chiếm lấy khi Hoa Kỳ rút quân theo kế hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh.

viet nam war
Ông Thần “Ben Hét”- Lạc Lối Tạo Anh Hùng

Đoàn quân chúng tôi đến vùng giới tuyến địa đầu Đắk-Tô, Tân Cảnh tỉnh Kom-Tum được quân bạn và “Chị em ta…” trong quán nước vệ đường cho hay: Quân Mỹ đã bàn giao Căn Cứ 6 cho Việt Cộng và quân ta đang đánh nhau để giành lại ngọn đồi căn cứ 6.

Cũng đáng ghi nhận từ các cô ả gái điếm giang hồ này, vì là ổ tình báo chiến trường giữa ta và địch. Có những cô gái quê mùa làm giao liên VC nằm vùng đang hoạt động lấy tin tức, và cũng có những cô gái Thượng-Fulro là tình báo của Mỹ cho tin tức hổ trợ hành quân phe ta. Tất cả là một bải chiến trường đủ màu sắc, giai nhân và chiến sĩ trong lửa khói chiến tranh.

Sau khi nắm được tin tức tình hình và nhận lương thực tiếp tế hành quân, đoàn quân chúng tôi rời điểm xuất phát và tiến sâu vào vùng núi Ben-Hét bên cách mặt của căn cứ Hỏa Lực 6. Ben-Hét cũng là một ngọn núi có căn cứ tiền đồn của quân ta quan sát sự xâm nhập vũ khí, chuyển quân của địch trên đường mòn Hồ Chí minh. Quân chúng tôi chia làm 3 cánh, của 3 tiểu đoàn tiến qua những cứ điểm tiền đồn nổi tiếng khát máu của du kích quân VC, cắt cổ người, trùm poncho rồi im lặng chiếm đồn không tiếng súng. Chúng tôi tiến qua và hướng đến mục tiêu ấn định trên đỉnh Ben-Hét bắt tay quân ta.

Vì trời tối mù mờ đầy mưa gió bảo bùng và địa bàn xa lạ vùng mới đến, nên đỉnh núi nào cũng là ngọn núi! Trong đêm trên bản đồ hành quân, và tôi đi chệch phương giác theo địa bàn trong đêm mưa bảo che mờ đỉnh núi mà tôi nhận dạng lúc ban ngày. Tôi dẫn đầu đoàn quân vì là ngày trực chiến của tiểu đoàn tôi đi lệch sang đỉnh núi nối liền sau lưng Ben Hét bằng một khe suối rộng có giải đất rộng bằng phẳng mà không thấy quân ta. Đặt ống nhòm Hồng Ngoại Tuyến xuyên đêm xuống thung lũng bên kia đình núi bạn thấy lố nhố Cộng Quân đang tập trung quân, đầy đủ xe tăng, đại pháo, cao xạ phòng không hạng nặng của địch đang định nhổ chốt tiền đồn Ben Hét để chúng chuyển vũ khí từ đường mòn Hồ Chí Minh nơi đây; tăng viện quân đánh Căn Cứ Hỏa Lực số 6.

Dẫn lối lạc đường của tiểu đoàn 4/Trung Đoàn 47 do tôi hướng dẫn trở thành lực lương đánh bọc hậu tiêu diệt Cộng Quân một cách tài tình. Bất ngờ theo yếu tố chiến thuật hành quân; gây thiệt hại tối đa cho cộng quân trên đường xâm nhập ngả ba biên giới Nam Hạ Lào bằng đường mòn Hồ Chí Minh tại mặt trận Ben Hét. Và bắt đắt dĩ tôi nhận biệt danh “Ông Thần Ben Hét” của các bạn sĩ quan tác chiến trung đoàn và binh sĩ hành quân trong trận đánh “Đem con bỏ chợ” và “Đì lính” của chúa Tướng Ngô DZU Quân Đoàn II-Plei-Ku

  –{Cũng trong bài viết Cơn Uất Hạ Lào, đã cho biết là Việt Cộng biết rõ kế họach hành quân của quân lực VNCH trước khi các chiến sĩ tới, và theo Bùi Đức Lạc thì có thể gián điệp Vũ Ngọc Nhạ, cố vấn tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã thông báo cho Hà.nội}.

Căn Cứ Hỏa Lực 6, Ngọn Đồi Phản Bội!
Và chúng tôi vẫn phải tiếp tục hành quân tiến chiếm lại ngọn đồi VINKY- Căn Cứ Hỏa Lực 6-cao 1.886 mét, cũng không một nguồn tin tức tình báo về địch tình của BTL/Sư Đoàn 22BB cho cuộc hành quân, chỉ có Chị Em Ta-Gái giang hồ tứ xứ- cung cấp tình báo quân sự là Quân Mỹ đã bỏ căn cứ rút quân bằng trực thăng để lại toàn bộ chiến cụ mìn bải không kịp phá hủy hay bàn giao lại cho đơn vị VNCH nên để Cộng Quân chiếm và làm chủ tình hình.

Vì đây là căn cứ chiến lược, kiểm soát toàn diện ngả ba biên giới Nam Hạ Lào- Campuchia - Việt Nam và cũng là đầu cuối đường mòn HCM có sân bay dã chiến “Phương Hoàng” của MỸ áng ngữ đổ quân, ngăn chặn Cộng quân xâm nhập Tây Nguyên trung phần.

Chúng tôi, trung đoàn 47+41+42/SĐ 22.BB có tăng phái 3 trung đoàn của SĐ.23BB cùng 3 tiểu đoàn Biệt Động Quân chia làm 3 cánh quân tiến chiến lại ngọn đồi Hỏa Lục số 6.

Ngọn núi có dốc cao, lõm chỗm đá núi, mây mù. Đơn vị quân tôi đánh vào chánh diện có ngọn đồi nhỏ nằm kề bên hông núi làm bàn đạp tấn công. Trời còn mờ tối lúc 4 giờ 30 là giờ G ấn định xuất phát hành quân. Giờ này chỉ có sao trời đưa lối dẫn đường và ru êm giấc ngủ cộng quân. Nhưng chúng tôi dẫm phải bải mìn của Mỹ để lại lúc rút quân và đánh thức cộng quân từ các hầm lô cốt Mỹ kiên cố bắn xối xả những khẩu đại liên M60 vào quân chúng tôi trước sự tấn công mãnh liệt đành lại ngọn đồi. Thây người chiến sĩ đồng đội ngả xuống trước họng súng đồng minh Mỹ bắn lại phe ta, máu đã dính lên từng vách đá khe núi quanh ngọn đồi máu đầy xác người chiến sĩ VNCH bị Mỹ phản bội.

Hai đợt tấn công tái chiến ngọn đồi không thành,trước hỏa lực hùng hậu của Mỹ để lại cho địch quân cộng sản xử dụng bắn lại phe ta, và các lô cốt kiên cố, giao thông có “Bonker, cover”, vỉ sắt che chắn vững chắc, và bải mìn dày đặt ngăn chặn sức tấn công của quân ta. Dù cho pháo binh yểm trợ bắn ngang đầu củng không làm nao núng địch quân. Hỏa pháo bắn lên soi sáng vùng trời, toàn là xác người lính ta bên rào lô cốt kiên cố của Mỹ có cộng quân bên trong ẩn núp bắn ra toàn là đạn pháo của Mỹ do cộng quân rành rẻ xử dụng như có sự chỉ dẫn của người Mỹ đồng minh.

Chúng tôi nhận lệnh rút quân xuống sườn núi và áng ngữ con đường viện binh của địch khi BTL tiền phương Sư Đoàn 22BB quyết định ra lệnh bắn pháo binh đầu đạn nổ chụp từ trên cao theo từ tính tầm nhiệt, để tiêu diệt dịch ẩn núp dưới giao thông hào hay ẩn núp kẹt đá núi. Và cho không yểm bằng máy bay ném bomb, tiêu hủy lô cốt Mỹ và dọn sạch bải mìn để quân ta tấn công tái chiếm đỉnh đồi. Nhưng vì hỏa lực của Mỹ quá mạnh, được xử dụng thuần thục như có huấn luyện chu đáo chiến thuật phòng thủ căn cứ vững chắc của đồng minh Hoa Kỳ.

Các đơn vị tấn công được lệnh ngưng bắn và bố trí tải thương về tuyến sau. Khi rút quân xuống chân núi và bố trí ẩn núp an toàn, thì pháo binh của sư đoàn và tiểu khu tỉnh Kom Tum phối hợp với pháo đội 3 tiểu đoàn Nhảy Dù 1-2-3 tăng phái thêm quân số, đang đóng tại sân bay, phía dưới chân núi bắn trục xạ lên đỉnh cao ngọn núi. Đứng dưới nhìn lên, thấy lổ chỗ từng vết bom đạn loang ra nham nhở như hành tinh mặt trăng. Các đợt pháo binh bắn phá vừa chấm dứt, thì đến các phi tuần ném bom của các phi đội Skyraider không quân Việt Nam đảm nhận phần việc san bằng ngọn núi đầy cộng quân chiếm đóng do Mỹ “Bàn giao”. Khói lửa vang rền bốc cao trắng xóa như đỉnh tuyết Phú Sĩ Sơn có pha sắc màu xám xịt tang thương cuộc chinh chiến.

Các phi tuần đánh bom chấm dứt nhiệm vụ, là các đơn vị phối hợp quân binh chủng chúng tôi mở tổng loạt tấn công lên đỉnh núi. Sức kháng cự cộng quân vẫn còn trong  đóng đổ nát, nhưng rời rạc và yếu ớt hơn, sau đợt bắn phá pháo binh và ném bom. Làm lộ nguyên hình đầy thương tích từ các lô cốt bay nóc xiêu vẹo, giao thông hào đầy xác địch chết ngỗn ngang. Còn bên rào lưới thép kẽm gai là xác quân ta nằm vắt vẻo trước họng đại liên Mỹ M60 nằm chổng trơ sau đợt bom phá hủy. Cảnh hoang tàn đổ nát, những khẩu pháo binh chôn vùi dưới lớp đá núi chất chồng phủ kín chỉ còn ló những nồng súng sáng loáng vươn cao trong nắng chiều tà tím tái máu khô. Nghe mùi tử khí ngồn ngột mà lợn cả giọng. Chỉ cần có  điếu thuốc lá mới chấn tỉnh tinh thần!. Và nhìn kỹ lại ngọn núi cao đã bị bom cày, đạn xới san bằng cụt chõm xuống vòng cao độ bản đồ hành quân, mất hết một vòng cao độ 50 mét thành một hố huyệt mộ tập thể chôn cả xác ta và địch lẫn lộn trong cát đá núi cao cho sự phản bội của đồng minh Mỹ trên chiến trường Tây Nguyên VN.

Sau khi thu dọn chiến trường và tập hợp tàn quân các đơn vị chiến đấu, quân ta thiệt mất và tan rã 2 tiểu đoàn vừa tăng phái và cơ hữu sư đoàn 22BB. Phía cộng quân tan rả 3 trung đoàn  bỏ xác tại chỗ với hơn1.630 xác chết. Đơn vị hành quân hỗn hợp chúng tôi tiếp tục truy đuổi và lục soát địch trên đường tháo chạy về sườn núi phía bên kia tiếp giáp với đường mòn HCM, là cứ địa xuất phát của 2 Sư đoàn: Sao Vàng và 324 cộng quân trấn giử đường mòn HCM. Trên đường rút lui chúng bỏ lại những khẩu pháo và giàn cao xạ bắn máy bay tối tân của Trung Quốc, còn thơm mỡ bò, bọc giấy bảo dưỡng China. Trên những khẩu pháo, và có những xác chết trong tư thế bị xiềng xích chân vào ổ đại pháo. Chúng không phải là bộ đội Vn mà là quân Trung Quốc với đôi mắt xếch, một mí người Tàu Chợ Lớn, theo xác nhận của người lính Chợ lớn VNCH. Và lục xác chết trong túi  họ mang theo tiền Campuchia đầy ấp và mới tinh khôi được in ấn lậu từ phía Trung Quốc đem qua Campuchia giao cho du kích pônpốt-Khờme Đỏ phá rối nền kinh tế chính phủ Lonol thân Mỹ. Và số tiền lậu này, tiểu đoàn đơn vị chúng tôi đã tịch thu chiến lợi phẩm trong trận đánh vừa qua tại mặt trận Ben Hét và biên giới Nam hạ Lào…

Những Phát hiện này và vừa qua có dấu vết xe tăng-thiết giáp địch hạng nặng T.54; PT.76 của Liên Xô và Trung Cộng tăng cường xâm nhập chiến trường Miền Nam VN trong khi Mỹ rút quân và Việt Nam Hóa chiến tranh. Mỹ sợ quân VNCH phát hiện âm mưu đi đêm thỏa thuận với Tàu Cộng bán đứng và phản bội đồng minh qua trận đánh Căn Cứ HỎA LỰC 6, nên cả vú lấp miệng em, bằng cách chối từ nhận xét tình hình mặt trận chiến trường qua mặt Mỹ, hầu xin tăng viện vũ khí hiện đại hóa, để bắt kịp tăng trưởng đà viện trợ, tăng cường của khối Nga-Tàu cho cộng quân Cộng sản Bắc Việt tiến chiếm Miền Nam VN.

Và hậu quả đau buồn dân tộc, của người lính VNCH 30-4-1975, ngày gãy súng tan hàng.
 Xin xem link hướng dẫn cùng tác giả:
- Buồn trong chiến thắng
Nhờ tăng phái thêm 3 tiểu đoàn Dù, và 2 tiểu đoàn biệt kích biệt Lôi Hổ, Biệt Kích 81 Dù này chúng tôi chiếm lại chiếm lại ngọn đồi máu căn cứ 6 này và rảnh tay bung ra lục soát quanh vùng tạo vòng đai an toàn căn cứ trước khi chia tay quân bạn để nhận lãnh trách nhiệm bảo vệ ngọn đồi. Tôi có dịp chứng kiến những mất mát của chiến tranh và tình người trong cuộc chiến.

Chiến thắng nào cũng có cái giá của nó,và miền vui nào cũng có buồn ẩn chứa bên trong, không có cái gì trọn vẹn bao giờ, xin nhớ cho!Trong trận chiến này, người lính chúng tôi phải mượn xác đồng đội trải dài trên rào kẽm thép đánh dấu bải mìn và bước qua  xác bạn để tiến tới lổ châu mai nơi đặt ổ đại liên địch. Thây người chồng chất bịt kín, làm im tiếng súng địch…Tại sao chúng tôi, người lính chiến sĩ VNCH chết nhiều như vậy là vì chúng tôi có tình thần đồng đội rất cao biết hy sinh và chết thế cho nhau trước họng súng kẻ thù để bảo vệ Tự-Do miền Nam. Người lính chúng tôi không thù hằn với anh em Bộ Đội Miền Bắc và, vì chúng tôi chỉ là nạn nhân của chiến tranh, bắt buộc phải giết  lẫn nhau tranh giành sự sống, đó là luật sinh tồn không ai muốn giết nhau giữa Bắc -Nam bao giờ!?.

Trên đường lục soát, tôi bắt gặp nhiều cán binh bộ đội Miền Bắc còn rất trẻ tuổi- Học trò cấp một- bị bắt vào Nam với khẩu hiệu; ”Sinh Bắc Tử Nam”. Vượt dãy Trường sơn vào Nam “Giải Phóng”. Họ được tuyên truyền dụ dỗ cho uống thuốc “Hùng Tâm” do Trung Quốc cung cấp {Kích thích tố hăng say chiến đấu}là chất độc mang lại hệ quả chiến tranh sau này, nhưng trước mắt vẫn là thuốc “Hăng máu” liều mạng, tấn công biển người của Cộng Sản!?. Xác chết cán binh Cộng Sản Miền Bắc có màu da trắng bệch như một xác người di động vô hồn…trên vai mang túi gạo và ít đòn bánh tết{Tét} hẩm hiu, chắc do mẹ tiễn con lên đường vào Nam chống Mỹ…Trong túi áo rách nát đầy máu vết thương, còn sót lại những bức thư tình vụng-dại tuổi học trò nào biết gì chiến tranh!?, Tôi thương họ lắm, và biết nói gì với chiến tranh, khi chính mình cũng là nạn nhân  trong  cuộc chiến phi lý và vô nhân đạo này!!!

viet nam war, người lính việt nam cộng hòa
Tội Đánh Mỹ!?
Trên con đường lên Tây Nguyên của đoàn xe-Convoi- chở đầy vợ con lính, dọn  nhà khu gia binh và quần áo mang theo rời  khỏi Phú yên, tỉnh Tuy Hòa lên núi Hàm Rồng thuộc tỉnh pkeiku, để tiếp nhận khu gia binh của căn cứ Mỹ nằm dưới chân núi. Trên đường đi theo quốc lộ 19 tới An Khê, Phù Mỹ- tỉnh Quy Nhơn- gặp đoàn  xe- Convoi GMC - chở lính Mỹ đầy máy móc dụng cụ văn phòng ngược chiều về Tuy Hòa cho kịp chuyến bay hay ra khơi với hạm đội số 7 trong đợt rút quân. Với lối ngang tàng, hống hách theo kiểu cow-boy miền tây hoang dã Hoa Kỳ của một đạo quân Viễn Chinh chủ chiến tại Miền Nam VN, không coi trọng tài sản và sinh mệnh của người dân Việt Nam trong thời chiến tranh giúp VN với một chút quyền, mà Mỹ tự cho họ có quyền sinh sát, bố thí Tự- Do cho người dân VN phải mang ơn ngươi Mỹ. Trên con đường vội  rút quân. Đoàn quân xa Mỹ lái xe cán bừa lên người, lên vật đang lao nhao hợp chợ phiên làng quê bên đường. Phiên chợ quốc lộ 19 thị trấn An Khê - Phù Mỹ đông đúc dân làng sinh hoạt. Phải một phen làm người dân chạy tán loạn, kinh hoàng bởi đoàn xe lính Mỹ bất thần ào ào tiến tới vói những hung thần Mỹ hất tung hàng hóa, gióng gánh, thúng mẹt ăng tung tóe trên vệ đường quốc lộ. Làm tôm cá, mắm thóc, rau cải của nông dân khuya sớm lặn lội, tảo tần từ trong các đồng sâu mang về đây, để bị người Mỹ đạp đổ không chút tiếc thương quê nghèo. Có người bị thương, chảy máu kêu khóc vang trời…cũng không động lòng văn minh lối sống người Mỹ, sang đây giúp đỡ nhân phẩm tự do của người Việt Nam.

Chúng tôi người lính VNCH, vì thể diện tinh thần dân tộc, không thể chịu đựng trước những hành động côn đồ, mất dạy và khoanh tay đứng nhìn người Mỹ ngang nhiên nhục mạ và sỉ nhục quyền sống đồng bào mình, và họ-Mỹ- rất khinh khi, kỳ thị sắc tộc  da màu khi tới được Miền Nam VNCH, và chà đạp nhân quyền dân bổn xứ VN. Coi đồng minh VNCH là kẻ đánh thuê. Tự cho mình là đỉnh văn minh Hoa Kỳ; khinh rẻ dân bản xứ Việt Nam. Và vì chủ động trong cuộc chiến chống cộng sản, mà Mỹ muốn bỏ rơi chiến hữu đồng minh VNCH trong hợp đồng tác chiến chống Bắc Cộng sản rất tùy tiện, và cố ý thân Tàu Cộng Trung Quốc, để rút quân vội vàng cho sự sắp xếp Việt Nam hóa chiến tranh. Nên đoàn quân chúng tôi phải can thiệp bằng vũ lực quân sự với quân đội Mỹ trong bất bình tột độ. Bắn nhiều loạt đại liên M60 đặt trên nốc xe GMC dẩn đầu mở đường, bảo vệ khu gia binh lính. bắn thẳng vào lốp xe đoàn Mỹ bể bánh, lật trái sang lề đường, gây cản trở cho đoàn xe Mỹ phải dừng lại.Và lính chúng tôi tủa xuống đường, bố trí thành trận địa sẵn sàng nghinh chiến nếu  lính Mỹ có phản ứng cứng đầu, chống lại, và nổ súng ngay, cho dù là chiến hữu, kể cả đồng minh Hoa Kỳ, khi tàn nhẫn với dân tộc minh…Rất may không gặp phản ứng gì khi đoàn xe Mỹ biết nhận lỗi về mình. Nhưng không thể xoa dịu tính tự tôn dân tộc và khí phách kiêu hùng của người lính VNCH, nên chúng tôi bảo chúng đầu hàng,hai tay để trên đầu như kẻ tù binh thua trận đứng về một bên và chúng tôi cho nổ lựu đạn phá hủy chiếc xe gây nạn khủng khiếp cho đồng bào được thỏa lòng hả dạ tự ái dân tộc mình không ai dám công khai chà đạp dân mình dù là ân nhân Mỹ trong cuộc chiến VN. Đứng xa xa là đồng bọn Mỹ thủ súng tự vệ và gọi máy truyền tin, báo cáo sự việc về cho Tướng Cố vấn Hoa Kỳ và tướng Tư lệnh Ngô Dzu SĐ 22BB lên can thiệp vì sợ chúng tôi đốt sạch hết cả đoàn xe Mỹ chở đầy hàng hóa và của cải rút quân về biếu tặng tướng lãnh Sư Đoàn…để trả thù dân tộc và bảo vệ  cho dân.

Khi tiếng trực thăng kêu phạch phạch trên bầu trời là lúc ngọn lửa sắp tàn của chiếc xe bị đốt, khói vẫn bốc lên cao tạo thành hỏa khói chỉ điểm cho trực thăng của Tướng Tư lệnh SĐ vùng II đáp xuống xử lý nội vụ. Nhưng trực thăng không đáp xuống…Mà đoàn xe chở đầy hàng của cãi hàng hóa mỹ, được lệnh tướng tư lệnh cho chở về bản doanh BTL/SĐ 22BB cầu Bà Gi. Còn trung đoàn 47/SĐ 22 BB lập tức theo lệnh lên đường trục chỉ hành quân tiếp viện căn cứ 6, không kịp đưa vợ con lính về căn cứ khu gia binh mới nhận được của Mỹ, ở căn cứ Hàm Rồng. Đây là hình phạt lưu đày lính “Cầm lựu đạn đi tiền đồn” theo luật phạt nhà binh cho lính và ít nhất lảnh “100 củ” ghi vào hồ sơ quân bạ của mỗi sĩ quan trước khi đưa ra tòa án binh giáng cấp chức vụ-xuống cấp bực quân hàm sau đó…! khi chấm dứt lệnh hành quân.

Từ đó, chúng tôi có mối bất hòa với cố vấn quân sự Hoa kỳ trong mỗi lần hành quân phối hợp Việt Mỹ. Vì người Mỹ đánh giặc theo kiểu công tử con nhà giàu rất là keo kiệt, tính toán lời-lỗ với chiến hữu đồng minh VNCH trong tiếp xúc ngoại giao vì công vụ: “Anh ăn, anh trả. Tôi ăn tôi trả…!?”{He ate his return, I eat I pay}, làm tôi muốn điên cái đầu  khi đi công tác, công vụ với cố vấn Mỹ được họ mời cơm, thì phải soát lại trong túi có đủ tiền trả cho buổi cơm đó không!? Và tôi phải mất mặt ghi nợ trước mặt ngươi đẹp bán hàng cho buổi cơm 2 người cố vấn kia theo phong cách hiếu khách dân tộc Việt. Lề lối cư xử con buôn quốc tế từ thời lập quốc tới nay, nên họ mới giàu ra! Về mặt  quyền lợi kinh tế. khi họ cho ai món quà nào thì họ móc cả lưỡi câu vào món mồi đó, có nối liền lưỡi câu bằng một sợi dây dài cằm sẵn nơi bàn tay khôn ngoan đóa để của họ. Không thua gì dân Ba Tàu Trung Quốc.

Tuy nhiên, người Mỹ thiếu kinh nghiệm về chính trị, lẫn quân sự, chỉ biết lấy sức mạnh quân sự làm phương tiện phục vụ kinh tế cho họ. Nên chiến tranh Việt Nam, Mỹ không chủ trương đánh thắng Cộng Sản Bắc Việt, mà muốn mở của thị trường đông dân Trung Quốc mà thôi. Và Hoa Kỳ cóc cần biết ai là Cộng Sản; ai là Quốc Gia tự do yêu nước trong số 25 triệu dân miền nam trong chiến tranh VN. Trước năm 75, có nhiều cố vấn quân Sự Hoa Kỳ hỏi tôi: “ Ai trong số các anh là VC làm sao tôi phân biệt được kẻ thù!???”- Tôi trả lời: “Khi chúng tôi còn mặc quân phục và người dân chúng tôi còn mang ơn các các chiến hữu Hoa Kỳ đem lại hòa bình tự do đó chính là đồng minh, bạn anh. Và khi chúng tôi đánh đuổi, đòi giết anh,thì chúng tôi mới là VC kẻ thù của anh, xin anh rõ nghĩa, thế nào là Cộng Sản rạch ròi đen trắng!?

Và có một điều thú vị, các bạn Mỹ là ân nhân cứu mạng cho Cộng Sản nằm vùng mỗi khi đơn vị Mỹ phối hợp hành quân lục soát mật cứ địch trong vùng “Giải phóng. Với tiếng động ồn ào như đi hội chợ, làm cho VC nằm vùng hoảng hồn bỏ chạy trước khi Mỹ đến mục tiêu không có VC, mà chỉ toàn là nông dân, tay lấm chân bùn…giả dạng thường dân vô tội và làm cho lính Mỹ có cảm tưởng VC hết giờ làm việc,và đi ngủ tất cả rồi! và đưa đến trạng thái ngây thơ trong cuộc chiến VN là lẽ tất nhiên phải thua cuộc với Cộng Sản MTGPMN.
Mọi sự việc xảy ra lính tôi đều chấp nhận, miễn sao gánh bớt thương đau cho dân vùng chiến nạn hằng ngày phải đối mặt với chiến tranh!

-Về… trong nỗi nhục-nhằng bơ-vơ!
Mỗi lần hành quân về, đoàn quân chiến thắng chúng tôi không được vào thành phố, là nơi chúng tôi tìm chút nghĩ ngơi và giải trí sau những ngày hành quân gian khổ, mệt nhọc, thiếu vắng tình người thành phố cho ấm lại hoang vắng núi rừng. Lính chúng tôi chỉ được đón tiếp, chào hỏi, mời mọc của những cô Ả “ Gái giang hồ”{Giải quyết chiến tranh}. Đời lính chúng tôi chỉ được vinh danh trong cái thừa thải xã hội, còn được đồng hóa với chúng tôi vào hàng đỉ điếm…!?

Cấp trên mệnh lệnh đóng quân ra xa khỏi thành phố để tránh tình trạng lính phá phách và đánh nhau giành “Gái”…Người lính trận chúng tôi bị coi thừơng về giá trị Tự-Do mà Tổ Quốc vinh dự trao cho trách nhiệm bảo vệ đến hơi thở cuối cùng, và người lính chúng tôi phải có được quyền sống -Tự- Do- cho cá nhân cộng đồng người lính sau mỗi cuộc hành quân về. Lính chúng tôi là giá trị thể hiện Tự Do tại sao chúng tôi không có quyền hưởng nhu cầu tự do chính mình làm ra cho hòa bình,Tự do dân tộc.

Các ông Tư Lệnh Quân đoàn, Sư Đoàn và Tướng Lãnh Quân khu không cho lính vào các thành phố “Ăn Chơi” của đám thanh niêm, sinh viên con ông cháu cha –Thế lực- trốn lính ăn chơi sa đọa trong các tửu lầu nhạc nhúng sập xình cùng gái đẹp-bia ôm-Cùng đám đại gia; con buôn lậu đồ Mỹ quốc viện trợ chiến tranh…làm đau lòng chiến sĩ ngày đêm đánh trận cho hậu phương an ổn ăn chơi trên xương máu các anh chiến sĩ ngoài trận địa sống chết với kẻ thù, thử hỏi ai không buồn!?.

Và chính các ông tướng lãnh này đứng ra chỉ đạo kinh doanh bằng quyền lực chiến tranh cho phép mở các quán Bar đèn mờ và các động đỉ cao sang tiếp khách quốc tế và các thương gia- Bọn gian thương-chuyên buôn bán đồ Mỹ lậu là mặt hàng viện trợ quân sự chiến tranh, cũng là xương máu của anh em chiến sĩ VNCH do các tướng lãnh quân đội đứng ra làm ma cô, ma cạo ”bảo kê”, hoặc làm chủ kinh doanh bia ôm, động điếm…nên không cho lính dưới quyền mình về phá phách xóm làng và đập bể nồi cơm, nhờ chiến tranh làm giàu cho họ.

Các tướng lãnh quân đội VNCH thời đệ nhị cộng hòa của “ Hội Đồng Cách Mạng Quân Nhân” lên nắm quyền điều hành đất nước Miền Nam thay thế chính phủ dân sự đệ nhất cộng hòa Ngô Đình Diệm, đã làm lu mờ vai trò yêu nước của người quân nhân, chiến sĩ VNCH và mất miền tin trong lòng nhân dân lẫn quần chúng Miền Nam. Người lính chiến đấu bảo vệ Tự-Do Miền Nam mà dân chúng cứ hoài nghi cho thế lực ngoại bang Mỹ-Theo lời VC/MTGPMN nói - Để rồi cuộc chiến đấu này của người lính VNCH bị phủi công ơn và quên lãng của người dân trước sự hy sinh vô bờ bến cho Tự Do Độc lập VNCH.

 -Một thời chinh chiến, một thời ngang dọc…!
Lính tôi trước sự bất công xã hội và bất bình cấp trên, nên rơi vào trạng thái, không ai biết thương mình!?-Một thành phần cuộc chiến bỏ rơi. Nên phản kháng bất cần đời…!!!

Chúng tôi kéo nguyên cả một tiểu đoàn hành quân với đầy đủ súng đạn về thành phố Pleiku-“Phố núi Mây Bay” vì có vài người lính của đơn vị chúng tôi ra phố uống rượu nhằm vào quán Bar đèn mờ của Tướng Ngô DZU thành lập kinh doanh và cho vài lính bảo vệ và có quân cảnh xét giấy tờ bắt quân nhân trên trên thành phố vào nơi có em út sập xình uốn éo cho đám thanh niên vô công rổi nghề, phè phởn ăn chơi trên xương máu, chết sống của người lính. Các chiến hữu đơn vị bị bắt, chạy về báo cáo sự việc, nên tiểu đoàn tôi tức tốc từ căn cứ núi “ Hàm Rồng” vác theo 2 khẩu đại liên M60 và 4 xe GMC đầy nhóc lính chạy ra phố và đặt 2 khẩu đại liên, hai bên đồn lính quân cảnh,và ra lệnh phải thả ngay lập tức 5 người lính của tiểu đoàn bị quân cảnh bắt giữ. Và được một sĩ quan trong đồn ra giải hòa và hứa thả với một chầu bia lon- bia Heineken- tại chổ cho các cấp sĩ quan hai bên vốn đã ghét nhau từ lâu…giữa lính kiểng và lính tác chiến không ưa gì nhau!- Một đàng sống-chết, một đàng lính cô, lính cậu….

Sau khi lấy lính ra khỏi đồn Quân Cảnh, chúng tôi chở lính đến các quán “ Bar” đèn mờ, nhà hàng hạng sang của Tướng Ngô Dzu cho các lính kiểng  đứng ra bảo kê làm đầu nậu,ma cô. Lính chúng tôi vào ăn uống rồi đập phá quán… Ông Tướng Ngô Dzu và ngài Tỉnh Trưởng Pleiku biết được và biệt phái các lính kiểng gác dinh tòa tỉnh. Cả ba chục người trên 5 xe Jeep và lại có thêm 4 xe Quân Cảnh hộ tống. Hai bên lính chúng tôi dàn trận ngay trên những con đường chính của thành phố Pleiku như một trận địa và bắn hai khẩu đại liên{Gà Cồ M6o}bay cao trên đầu họ với làn đạn lửa như pháo hoa và ném lựu đạn ra giửa lòng đường phố nổ tung, gây áp đảo tinh thần lính kiểng-chết nhát!- Làm họ phải tìm nơi ẩn núp bằng hai tay che đầu, núp dưới gốc cây hai bên đường, thấy mà thương cho đời lính kiểng. Họ bỏ xe sắp hàng dài như đi duyệt binh mà không sợ địch phục kích như chúng tôi !?. Sẵn máu nóng hăng say do rượu vào nhưng có biết đâu là bạn,đâu là thù! Lính chúng tôi châm lửa đốt 4 xe Jeep của Quân Khu II. Và lật ngửa chúng ra lộ đường cho hả giận, vì tức tối Tướng cầm quân, hy sinh xương máu chiến hữu dưới quyền tại chiến trận, để bảo vệ thành phố cho các thanh niên, thiếu nữ sống sa đọa, ăn chơi nhảy múa trên máu xương các chiến sĩ VNCH ngoài mặt trận. Không phải là nạn kiêu binh trong thời chinh chiến nhưng là sự nhắc nhở các tướng lãnh cầm quân, hãy quay về với trách nhiệm và danh dự tổ quốc giao phó, khi Miền Nam VN sắp rơi vào cộng quân Bắc Việt, mà Mỹ đã đánh mùi biết trước. Nên Hoa Kỳ rút quân rất sớm để được an toàn!!?

Và 36 năm sau bổng giựt mình nhớ lại cuộc chiến hôm nay; tưởng đã lãng quên chôn vùi trong quá vãng, nào ngờ hiện thực phủ phàng lôi tôi sống lại chiến trường xưa!

 “Ví dù miền Nam Việt Nam có bị đại bại hoàn toàn, cái yểm trợ tận lực của Hoa Kỳ sẽ cho phép người Mỹ nhún vai và nói rằng họ đã cố gắng hết sức. Nhưng, Hoa Kỳ đã không tận lực, mà trái lại người Mỹ lại còn cố gắng che đậy sự thật bằng cách bôi nhọ miền Nam Việt Nam và nhục mạ quân lực VNCH đã sai lầm, không chiến đấu cho dân tộc họ.

Bây giờ đã quá trễ để Hoa Kỳ chuộc lại tội ác tầy trời khi bỏ rơi nhân dân miền Nam Việt Nam vào tay Cộng Sản. Nhưng nó chưa quá trễ để Hoa Kỳ thú nhận lỗi lầm trong việc nhục mạ họ-VNCH. Và cũng chưa quá trễ để bắt đầu vinh danh các thành quả và lòng dũng cảm của những binh sĩ VNCH đã chiến đấu bảo vệ lý tưởng Tự Do cho hòa bình Việt Nam!!!

Huỳnh Mai St.8872
{Thân phận chiến Tranh-VNCH}

Sunday, October 20, 2013

• Chiến Sử Sư Đ0àn 18 Bộ Binh Trên Chiến Trường Miền Đông



 * Từ Biệt khu Phước-Bình-Thành đến Sư đoàn Bộ binh thứ 10:
Tình hình chiến trường tại miền Đông Nam phần (Vùng 3 chiến thuật) trở nên sôi động từ giữa năm 1964 khi Cộng quân tung thêm 4 trung đoàn chủ lực vào các tỉnh dọc theo biên giới Việt-Căm Bốt: Phước Long, Bình Long. Để ngăn chận sự leo thang của đối phương, từ tháng 10/1964, Quân đoàn 3 & Vùng 3 chiến thuật đã phân nhiệm 2 sư đoàn Bộ binh đảm trách hai khu chiến thuật tại miền Đông Nam phần, và biệt khu Phước-Bình-Thành trách nhiệm ba tỉnh Phước Long, Bình Long và Phước Thành. Đến hạ tuần tháng 5/1965, do nhu cầu chiến trường và kế hoạch tái phối trí lực lượng, bộ Quốc phòng ban hành văn thư giải tán Biệt khu Phước-Bình-Thành, đồng thời cho tiến hành việc thành lập sư đoàn thứ 3 cho Quân đoàn 3 và là sư đoàn Bộ binh thứ 10 của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. (9 sư đoàn đã thành lập từ trước theo thứ tự về thời gian: 1, 2, 5, 7, 21, 22, 23, 25, 9). Sư đoàn tân lập này có danh hiệu là Sư đoàn 10 Bộ binh.
 
* Tiến trình hình thành Sư đoàn: đổi danh hiệu thành Sư đoàn 18 BB, lược ghi về các trung đoàn cơ hữu
Theo văn thư bộ Quốc phòng và bộ Tổng tham mưu QL/VNCH, Sư đoàn 10 BB chính thức lập ngày 6/6/1965. Đến tháng 10/1965, đổi danh hiệu thành Sư đoàn 18 BB với 3 trung đoàn cơ hữu: trung đoàn 43 BB, trung đoàn 48 BB và trung đoàn 52 BB, một số đơn vị yểm trợ thống thuộc: Thiết giáp, Pháo binh, Công binh, Quân y, Tiếp vận... Ngay sau khi thành lập, Sư đoàn được phân nhiệm hoạt động tại các tỉnh ở phía Đông của Vùng 3 chiến thuật gồm: Biên Hòa, Long Khánh, Bình Tuy, Phước Tuy. Bộ tư lệnh Sư đoàn đặt tại Xuân Lộc, tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh.

Trong số 3 trung đoàn của Sư đoàn 18 BB, có hai trung đoàn nguyên là trung đoàn cơ hữu của hai sư đoàn Khinh chiến 15 và 16 được thành lập trong giai đoạn 1955-1966: đó là trung đoàn 43 Bộ binh thuộc sư đoàn Khinh chiến 15 và trung đoàn 48 Bộ binh thuộc Sư đoàn Khinh chiến 16. Cuối năm 1959, theo sự cải tổ của Quân lực VNCH, 10 sư đoàn (4 sư đoàn Dã chiến và 6 sư đoàn Khinh chiến) rút xuống còn 7 sư đoàn và được cải danh thành các Sư đoàn Bộ binh. Theo kế hoạch này, Sư đoàn Khinh chiến 15 được biến cải thành Sư đoàn 23 Bộ binh, sư đoàn 16 Khinh chiến cùng với 2 sư đoàn Khinh chiến 12 và 13 được giải tán, quân số của các trung đoàn này được bổ sung cho các sư đoàn còn lại, một số trung đoàn trở thành binh đoàn biệt lập, thống thuộc quyền điều động của các bộ Tư lệnh Quân khu.

Để Sư đoàn 10 Bộ binh được thành hình nhanh chóng, bộ Tổng tham mưu đã quyết định điều động một phần lớn sĩ quan thuộc bộ chỉ huy Biệt khu Phước-Bình-Thành vừa giải tán, chuyển sang bộ tư lệnh sư đoàn tân lập để hình thành các bộ phận tham mưu chính yếu. Đại tá Nguyễn Văn Mạnh, chỉ huy trưởng Biệt khu được bổ nhiệm làm tư lệnh đầu tiên của Sư đoàn; thiếu tá Trần Văn Dĩnh, tham mưu trưởng, thiếu tá Lê Trọng Đàm, tham mưu phó và một số trưởng phòng của Biệt khu Phước-Bình-Thành tiếp tục giữ các chức vụ trọng yếu tại bộ Tham mưu Sư đoàn 10 Bộ binh.

* Lược ghi về quân vụ của 5 vị tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh:
-Tư lệnh đầu tiên: đại tá Nguyễn Văn Mạnh (cấp bậc cuối cùng: trung tướng)
Vị tư lệnh đầu tiên của Sư đoàn 10 (Sư đoàn 18 Bộ binh) là một sĩ quan giàu kinh nghiệm chiến trường, xuất thân trường Sĩ quan Việt Nam tại Huế vào năm 1949, lần lượt giữ các chức vụ đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng, tham mưu trưởng Sư đoàn, tham mưu trưởng Quân đoàn. Năm 1964, đại tá Nguyễn Văn Mạnh được cử giữ chức vụ chỉ huy trưởng Biệt khu Phước-Bình-Thành, bộ chỉ huy đặt tại Phước Vĩnh, tỉnh lỵ Phước Thành. Tháng 4/1965, trong khi đi thực hiện phóng sự chiến trường tại chiến khu D, chúng tôi có dịp tiếp xúc, phỏng vấn đại tá Mạnh tại bộ chỉ huy Biệt khu Phước Bình Thành, 3 tháng sau chúng tôi lại được gặp ông tại bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh ở Long Khánh, ghi nhận của chúng tôi là vị tư lệnh này rất cởi mở, bình dân, một số sĩ quan cho biết ông có cuộc sống rất giản dị, gần gũi với sĩ quan thuộc cấp, rất thương anh em binh sĩ. Khi nói về thời thanh niên của mình, ông cho biết là đã tốt nghiệp trường Canh nông Huế trước 1945 và làm việc trong ngành này được vài năm, trước khi thi vào trường Sĩ quan.

Sau 4 tháng giữ chức tư lệnh, vào thượng tuần tháng 10/1965, đại tá Mạnh được cử giữ chức tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, hoán chuyển chức vụ với chuẩn tướng Lữ Lan. Cuối tháng 10/1965, ông được thăng chuẩn tướng. Tháng 12/1966, được bổ nhiệm giữ chức vụ Quyền tư lệnh Quân đoàn 4 & Vùng 4 chiến thuật. Tháng 2/1967, được vinh thăng thiếu tướng và chính thức giữ chức vụ tư lệnh Quân đoàn này. Tháng 2/1968, thuyên chuyển về bộ Tổng tham mưu giữ chức vụ Tổng thanh tra. Tháng 7/1969, được bổ nhiệm giữ chức tham mưu trưởng Liên quân Quân lực VNCH. Tháng 7/1970 thăng trung tướng. Tháng 4/1974, được cử giữ chức phụ tá Tổng tham mưu trưởng đặc trách Bình định phát triển thay thế trung tướng Nguyễn Văn Là về hưu.

- Chuẩn tướng Lữ Lan: từ tháng 10/1965 đến tháng 6/1966. Trước khi được cử thay thế đại tá Mạnh trong chức vụ tư lệnh Sư đoàn 18 BT, chuẩn tướng Lữ Lan là tư lệnh Sư đoàn 23 BB (từ tháng 10/1964 đến tháng 10/1965). Khi còn mang cấp đại tá, ông là tư lệnh đầu tiên của Sư đoàn 25 BB (thành lập cuối năm 1962 tại Quảng Ngãi, năm 1964, Sư đoàn này chuyển vào Hậu Nghĩa). Các chức vụ và cấp bậc kế tiếp: thăng thiếu tướng vào tháng 11/1965, giữa năm 1966 được bổ nhiệm giữ chức vụ chỉ huy trưởng trường Chỉ Huy và Tham Mưu, từ tháng 11/1966 đến tháng 2/1968: tổng cục trưởng Tổng cục Quân Huấn; cuối tháng 2/1968 đến tháng 8/1970: tư lệnh Quân đoàn 2 & Vùng 2 chiến thuật. Thăng trung tướng giữa năm 1969, chức vụ cuối cùng: Tổng thanh tra Quân lực VNCH.
 
- Chuẩn tướng Đỗ Kế Giai: từ tháng 6/1966 đến tháng 8/1969, cựu tiểu đoàn binh chủng Nhảy Dù trước năm 1961; thăng chuẩn tướng tháng 11/1967, thăng thiếu tướng 1972. Các chức vụ kế tiếp: chỉ huy trưởng Huấn khu Dục Mỹ, chỉ huy trưởng Biệt động quân (1972 đến 30 tháng 4/1975).
 
- Chuẩn tướng Lâm Quang Thơ: từ tháng 8/1969 đến tháng 5/1972: trước khi giữ chức vụ tư lệnh Sư đoàn 18 BB, chuẩn tướng Thơ là chỉ huy trưởng trường Bộ Binh Thủ Đức (từ 1967 đến tháng 8/1969), ông được thăng chuẩn tướng vào tháng 6/1968. Khi còn mang cấp đại tá, đã lần lượt giữ các chức vụ: chỉ huy trưởng Thiết giáp binh QL/VNCH (1964), chỉ huy trưởng trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt (1965), Chỉ huy trưởng trường Hạ Sĩ quan Nha Trang (1966). Thăng thiếu tướng tháng 6/1970. Tháng 5/1972: được cử giữ chức vụ chỉ huy trưởng trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt thay thế trung tướng Lâm Quang Thi được điều động ra miền Trung giữ chức vụ tư lệnh phó Quân đoàn 1. Đây là lần thứ hai ông chỉ huy trường Võ bị và cũng là vị chỉ huy trưởng cuối cùng của quân trường này.

- Chuẩn tướng Lê Minh Đảo: từ tháng 5/1972 đến tháng 4/1975: Giữ chức vụ tư lệnh khi còn mang cấp đại tá, thăng chuẩn tướng tháng 11/1972. Được thăng thiếu tướng tại mặt trận vào hạ tuần tháng 4/1975 với chiến tích đã chỉ huy Sư đoàn 18 chận đứng các cuộc tấn công của CQ tại An Lộc. (Theo tài liệu của đại tá Phạm Bá Hoa, tham mưu trưởng Tổng cục Tiếp vận thì Quân đoàn 3 chưa kịp tổ chức lễ gắn cấp hiệu 2 sao cho tướng Đảo).

* Sư đoàn 18 Bộ binh trên chiến trường Miền Đông Nam phần:
Sau giai đoạn chỉnh trang cần thiết cho một đại đơn vị tân lập, tháng 8/1965, Sư đoàn 18 Bộ binh đã khởi động cuộc hành quân quy mô để tảo thanh Cộng quân tại khu vực trách nhiệm, trong đó hai tỉnh Phước Tuy và Long Khánh là những mục tiêu trọng điểm. Trong thượng tuần tháng 11/1965, một thành phần bộ chiến của Sư đoàn 18BB và đơn vị tăng phái đã đánh tan 1 trung đoàn Cộng quân tại phía Tây Phước Lễ, tỉnh Phước Tuy.

Từ 1966 đến 1969, lực lượng bộ chiến của Sư đoàn 18 Bộ binh phối hợp với lực lượng Đồng minh đã tổ chức hơn 20 cuộc hành quân quy mô truy kích CQ tại các tỉnh Phước Tuy, Long Khánh, Bình Tuy. Trong hai năm 1970 và 1971, theo kế hoạch điều động lực lượng của bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, nhiều đơn vị của Sư đoàn 18 Bộ binh đã luân phiên tham dự cuộc hành quân ngoại biên tại Căm Bốt cùng với các thành phần bộ chiến của Sư đoàn 5, Sư đoàn 25 Bộ binh, Biệt động quân Quân khu 3 và lực lượng lữ đoàn 3 Kỵ Binh.

Trong cuộc chiến Mùa Hè 1972, trước khi trận chiến tại Lộc Ninh bùng nổ vào ngày 5/4/1972, bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 đã điều động trung đoàn 52 thuộc Sư đoàn 18 BB tăng viện cho chiến trường Bình Long, bảo vệ trục giao thông giữa chi khu Lộc Ninh và Thị xã An Lộc. Ngày 11 tháng 7/1972, toàn bộ Sư đoàn 18 BB do đại tá Lê Minh Đảo chỉ huy đã nhập trận An Lộc, thay thế cho Sư đoàn 5 BB. Sư đoàn này được triệt thoái về Lai Khê để chỉnh trang sau hơn 2 tháng cùng với các đơn vị tăng phái tử chiến với ba sư đoàn chủ lực của Cộng quân tại tỉnh lỵ Bình Long.

Sinh Tồn chuyển

• Trận Chiến Ác Liệt ở Dầu Giây Giữa Trung Đòan 52 & 20,000 CQ


Chiến đoàn 52 tại phòng tuyến ngã ba Dầu Giây
Sau hai ngày liên tục tấn công vào trung tâm thị xã Xuân Lộc, Cộng quân vẫn không chọc thủng được tuyến phòng ngự của trung đoàn 43/Sư đoàn 18 Bộ binh. Từ ngày 11/4/1975 đến ngày thứ năm 13/4/1975, cùng lúc với các trận pháo kích vào tỉnh lỵ Long Khánh, Cộng quân đã tung thêm 1 sư đoàn có bí số CT 7 (công trường 7) vào mặt trận tại ngã ba Dầu Giây.


Theo tài liệu của đại tướng Cao Văn Viên và một số tài liệu tổng hợp, tính đến ngày 11/4/1975, lực lượng Cộng quân tại mặt trận Xuân Lộc và khu vực phụ cận có 4 sư đoàn chính quy: 431, CT6 và CT7 thuộc Quân đoàn 4, F3 tân lập (trong số các sư đoàn chính quy của Cộng quân cũng có 1 sư đoàn mang tên là CT3-Sao Vàng) ; lực lượng yểm trợ có 1 sư đoàn pháo binh, 2 trung đoàn thiết giáp và khoảng 3 tiểu đoàn đặc công. Tổng chỉ huy lực lượng Cộng quân là Hoàng Cầm- thiếu tướng, tư lệnh quân đoàn 4 Cộng quân. Trong trận chiến Điện Biên Phủ (từ hạ tuần tháng 3/1954 đến 7/5/1954), Hoàng Cầm là trung đoàn trưởng chỉ huy một cánh quân đánh vào bộ chỉ huy của thiếu tướng De Castries.


* Trận biển người của CQ vào tuyến của tiểu đoàn 3/trung đoàn 52 BB
Tại khu vực vòng đai ngã ba Dầu Giây, ngày 12/4/1975, Cộng quân đồng loạt tấn công các chốt tiền đồn do tiểu đoàn 3/trung đoàn 52 Bộ binh phòng ngự tại những vị trí trọng yếu: núi Sóc Lu, đồn điền Bình Lộc, đồi 196 và cụm cao điểm phía Bắc của bộ chỉ huy Hành quân chiến đoàn 52 (trung đoàn 52 Bộ binh là nỗ lực chính). Trận chiến diễn ra ban ngày, Cộng quân tung liên tục các đợt tấn công cường tập để cố chiếm các cao điểm, từ đó khống chế trục giao thông để các đơn vị tăng viện của Cộng quân từ Cao nguyên đổ về có thể di chuyển theo Quốc lộ 20 vào Xuân Lộc nhanh hơn.

Suốt ngày 12/4/1975, các trận giao tranh ác liệt đã diễn ra giữa tiểu đoàn 3/52 và Cộng quân trên các triền núi và khu vực đồn điền Bình Lộc, cách ngã ba Dầu Giây 7 km về hướng Đông Bắc. Để yểm trợ cho cho đơn vị trú phòng, bộ Tư lệnh Hành quân chiến trường Xuân Lộc đã điều động phi đội phản lực cơ A 37 oanh tạc vào đội hình của Cộng quân, đồng thời bộ chỉ huy chiến đoàn đã điều động 1 chi đoàn chiến xa và hai pháo đội Pháo binh yểm trợ hỏa lực cho tiểu đoàn 3/52 để đơn vị có thể giữ được các vị trí phòng ngự. Mỗi trung đội của tiểu đoàn 3/52 đã phải đối đầu với cả hai, ba đại đội Cộng quân. Dù vậy, tinh thần quyết tử của người lính Sư đoàn 18 Bộ binh đã chận đứng được nhiều đợt xung phong thí mạng của đối phương. Sau những giờ kịch chiến, trước lực lượng địch quá đông với chiến thuật tấn công bằng biển người, nên đến đêm 12/4/1975, các vị trí phòng ngự của tiểu đoàn 3/52 đã bị địch tràn ngập. Dù thất thủ, tiểu đoàn 2/52 đã gây tổn thất nặng cho địch quân: hơn 500 Cộng quân bị loại ngoài vòng chiến.

Tiếp theo cuộc tấn công vào tiểu đoàn 3/52, ngày 13 tháng 4/1975, Cộng quân điều động 1 trung đoàn tiến về phía Nam của phòng tuyến chiến đoàn 52. Trung đoàn CQ này có nhiệm vụ tiến hành các cuộc tấn công triệt phá cụm phòng ngự của tiểu đoàn 1/trung đoàn 52 BB tại ngã ba Dầu Giây. Để yểm trợ cho cuộc tấn công bằng bộ binh, Cộng quân đã điều động các đơn vị pháo di chuyển theo liên tỉnh lộ 321, từ phía Nam đi lên, rồi bố trí pháo tại các cao điểm phía Tây Nam và Đông Nam Ngã Ba Dầu Giây, để pháo vào tuyến phòng thủ của các đơn vị thuộc chiến đoàn 52.

* 1 đại đội của tiểu đoàn 1/52 chống trả trận cường tập của CQ:
Theo sự phối trí của bộ chỉ huy chiến đoàn 52, tiểu đoàn 1/52 bố trí quân quanh ngã ba Dầu Giây, đại đội phòng thủ xa nhất án ngữ tại ấp Phan Bội Châu và dọc theo đường xe lửa, cách Dầu Giây 1 km, dọc theo Quốc lộ 20, kéo dài về hướng Nam. Tối 13 tháng 4/1975, sau trận mưa pháo kích hỏa tập hơn 1 giờ, Cộng quân tấn công biển người tràn ngập vào tuyến phòng ngự của đại đội thuộc tiểu đoàn 1/52 nói trên. Đơn vị trú phòng đã mở đường máu ra rút về tuyến sau. Tính đến 12 giờ đêm 13/4/1972, cụm tuyến phòng ngự của chiến đoàn 52 chỉ còn chiều dài khoảng 6 km, dọc theo Quốc lộ 20 (đường từ Long Khánh đi Đà Lạt).

Sau 1 tuần lễ tử chiến với các sư đoàn CSBV, lực lượng chiến đoàn 52 còn khoảng 2 ngàn quân, gồm cả các đơn vị Địa phương quân Long Khánh từ Định Quán, Túc Trưng triệt thoái về. Về đơn vị Thiết giáp tăng cường, số chiến xa bị cháy và không sử dụng được chiếm gần 1/2. Các pháo đội 105 và 155 ly, tuy chưa bị trúng pháo của CQ, nhưng từ ngày 12/4/1975, số đạn được tiếp tế rất hạn chế. Các ưu tiên về yểm trợ hỏa lực, về phi pháo dồn cho mặt trận chính là trung tâm thị xã Xuân Lộc.

* Trận đánh đẫm máu tại ngã ba Dầu Giây vào chiều ngày 15/4/1975:
Chiều ngày 15 tháng 4/1972, bộ tư lệnh quân đoàn 4 CSBV điều động sư đoàn 341 tổng trừ bị phối hợp với 2 trung đoàn của CT7, 1 lữ đoàn chiến xa T 54, một số tiểu đoàn đặc công, tổng quân số khoảng 20 ngàn, đã đồng loạt tấn công cường tập vào tuyến phòng thủ trung tâm của chiến đoàn 52 tại ngã ba Dầu Giây. Sự tương quan về lực lượng quá chênh lệch, 1 người lính của chiến đoàn 52 phải chống trả với 10 Cộng quân, ngoài ra đối phương còn áp đảo về hỏa lực pháo binh.

Trận chiến diễn ra thật khốc liệt ngay từ những giây phút đầu. Với chiến thuật sử dụng pháo để khống chế chiến trường, sau đó tung bộ binh tấn công bằng biển người có chiến xa yểm trợ, sau 3 giờ giao tranh đẫm máu, Cộng quân đã tràn ngập các cụm điểm phòng ngự của chiến đoàn 52, chia cắt sự liên hoàn trong phòng thủ của các đơn vị thuộc chiến đoàn này dọc theo Quốc lộ 1 và Quốc lộ 20. Một điều không may xảy ra cho chiến đoàn 52 là do trời tối, 4 chiến xa M 48 lại bị trúng đạn pháo kích của CQ, Không quân khó quan sát để thực hiện các phi vụ oanh kích, nên sự yểm trợ hỏa lực của Thiết giáp và Không quân cho các vị trí của chiến đoàn 52 gần như bị tê liệt.

Sau khi đã chia cắt lực lượng của chiến đoàn 52, Cộng quân tung đợt tấn công từ bốn phía để cố chiếm lĩnh trận địa. Trước áp lực mạnh và lối đánh thí mạng tàn bạo của đối phương, phòng tuyến ngã ba Dầu Giây bị vỡ, lực lượng của chiến đoàn còn khoảng 2 đại đội đã mở đường máu vượt thoái được. Dù chiếm được ngã ba Dầu Giây sau 6 giờ ác chiến, nhưng đến 1 giờ sáng, “đại quân” CSBV đã bị tổn thất nặng khi hai trái bom khổng lồ Daisy Cutter- gắn trên C-130 do 1 phi công VNCH điều khiển, được thả xuống khu tập trung quân của các sư đoàn chủ lực CSBV: Toàn bộ khu vực thị trấn Dầu Giây rung chuyển như một trận động đất lớn, đèn phụt tắt, làn sóng vô tuyến của CQ tức khắc im tiếng, bộ chỉ huy sư đoàn 341 và khoảng 7 ngàn quân CSBV bị tiêu diệt bởi hai quả bom này.

* Những trận đánh cuối cùng trong thị xã Xuân Lộc:
Trở lại với mặt trận ở thị xã Xuân Lộc, sau khi thất bại trong hai đợt tấn công đầu tiên vào tỉnh lỵ, Cộng quân chuyển sang tấn công vào hướng Nam và hướng Bắc vòng đai phòng thủ, đồng thời 1 cánh quân CSBV trở lại tấn công thị trấn, bất chấp thiệt hại nặng nề, địch cố xâm nhập vào khu trung tâm, nhưng Sư đoàn 18 Bộ binh đã nhanh chóng phản ứng, đánh bật Cộng quân, bắt sống 20 tù binh, bắn cháy hơn 10 chiến xa. Sau một loạt tấn công bất thành, cuối cùng Cộng quân tung ra đợt tấn công cường tập nhắm vào chiến đoàn 48 đang phòng ngự ở mạn Tây. Tại hướng này, Cộng quân đã điều động 3 trung đoàn bộ binh, với sự yểm trợ của chiến xa T 54, tấn công biển người vào cụm tuyến phòng thủ của các tiểu đoàn của trung đoàn 48 Bộ binh (lực lượng chính của chiến đoàn). Sau hai giờ tấn công thí quân, CQ đã chọc thủng tuyến phòng thủ của 1 tiểu đoàn của trung đoàn này, đồng thời chia cắt làm hai cụm tuyến còn lại. Liên lạc giữa bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh và trung đoàn 48 bị cắt đứt, mặc dầu hai tiểu đoàn của trung đoàn này vẫn còn liên lạc được với bộ Tư lệnh Sư đoàn.
 
Dù các tuyến ngoại vi bị Cộng quân tràn ngập, nhưng tuyến phòng thủ trung tâm vẫn đứng vững. Riêng về Cộng quân, sau khi bị thiệt hại nặng về quân số, pháo binh và chiến xa, đối phương đã thay đổi kế hoạch để tấn công vào Sài Gòn, do đó Xuân Lộc không còn là điểm nóng nữa. Trước diễn biến mới của chiến trường, ngày 20 tháng 4/1975, bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 quyết định cho triệt thoái toàn bộ lực lượng Sư đoàn 18 Bộ binh và các đơn vị tham chiến tại Xuân Lộc, tất cả rút ra khỏi thị xã theo liên tỉnh lộ Hai. 6 giờ chiều cùng ngày, một thành phần của Sư đoàn 18 Bộ binh đã rút từ Long Lễ về Long Bình. Tại đây toàn Sư đoàn được nghỉ dưỡng quân 3 ngày, sau đó được Quân đoàn 3 bố trí phòng thủ khu vực Đông Nam Biên Hòa.

Sinh Tồn chuyển