Monday, October 21, 2013

• HÀNH QUÂN LAM SƠN 719- NAM HẠ LÀO.

Tác giả: Huỳnh Mai St.8872
Bh Dạ Lệ Huỳnh - July 15, 2012

 Căn Cứ Hỏa lực 6- Đồng Minh Hoa Kỳ Phản Bội

 Chúng ta là chiến sĩ QL.VNCH, đã "Gảy súng tan hàng...!??" với ngày biến cố lịch sử, 30-4-1975, là nổi đau đớn, uất hận tràn lòng.Chúng ta chiến bại là vì Mỹ phản bội đồng minh chiến sĩ VNCH. Và nỗi buồn nhục nhất:"Không chiến đấu cho quê hương chính mình!??"của  chiến hữu đồng minh Hoa Kỳ rút quân tháo chạy khỏi Miền NamViệt NamVNCH, khi Mỹ hoàn tất thương lượng bán đứng Miền Nam VN cho Tầu Cộng/TQ.Chúng ta hãy xem lại những đoạn video-Youtuble, cuộc hành quân Lam Sơn 719, tại ngả 3 biên giới Nam Hạ Lào. Để thấy được sự trải lòng,vì dân, vì nước và sự hy sinh dũng cảm của chiến sĩ VNCH.Và còn cuộc chiến đấu nào hơn thế nữa không, mới gọi là vô trách nhiệm!??, và bị Việt gian đâm sau lưng chiến sĩ!?? của bọn thời cơ "Ăn cơm Quốc Gia, thờ ma Cộng Sản!?"






 quansuvietnam: Người Mỹ Phản Bội Hay Tội Đánh Mỹ (17/03) 
(03/17/2012 11:39 AM) (Xem: 1823)
Tác giả : Dạ Lệ Huỳnh

viet nam war



quansuvietnamNgười Mỹ Phản Bội Hay Tội Đánh Mỹ
Một thời chinh chiến
Tg Huỳnh Mai St.8872
Bh.Dạ Lệ Huỳnh
March 15, 2012
9:49 PM







Mỹ Cộng, Việt Cộng bắt tay Hai thằng Đối Tác Việt Nam ăn mày!
Chúng tôi, những chiến sĩ QL.VNCH nơi địa đầu, hỏa tuyến -Tây Nguyên trung phần- ngà ba biên giới Việt- Miên –Lào, trong trận địa chiến Lam Sơn 719 Nam Hạ Lào. Nơi đây căn cứ Hỏa Lục 6 của Mỹ đã bàn giao“ Lầm lộn” cho quân cộng sản Bắc Việt, để rút quân, trước khi Việt Nam hóa chiến tranh…Đã nhận rỏ hành động phản bội của đồng minh Hoa Kỳ, bắt tay, và bật đèn xanh cho quân Cộng Sản Bắc Việt xâm nhập và tiến chiếm Miền nam VNCH tại ngả ba biên giới, được sự bỏ ngỏ căn cứ hỏa lực số 6 Hoa Kỳ. Do Hà Nội áp lực “Việt Nam hóa chiến tranh” trong bàn thảo HĐ Paris có Trung Cộng cố vấn Bắc Việt-Hà Nội tham dự cùng phía Hoa Kỳ để quyết định con cờ Miền Nam VNCH trong chiến tranh VN.

Để chiếm lại ngọn núi máu Vinky, cao trên 1.886 m, thuộc Căn cứ 6 của Mỹ. Trung Đoàn 47/SĐ.22BB được lệnh chuyển quân rời bỏ vùng bình nguyên Tuy Hòa-Phú Yên đầy sóng biển, lên vùng Tây Nguyên Pleiku-KomTum rừng núi chập chùng; mây bay ngang đầu. Chuyển từ vùng Du Kích chiến sang vùng Trận Địa Chiến với mệnh lệnh tiếp viện giải cứu Căn Cứ Hỏa Lực 6 tại Đắc-Tô tỉnh Kom-Tum bị Cộng Quân chính qui Bắc Việt chiếm lấy khi Hoa Kỳ rút quân theo kế hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh.

viet nam war
Ông Thần “Ben Hét”- Lạc Lối Tạo Anh Hùng

Đoàn quân chúng tôi đến vùng giới tuyến địa đầu Đắk-Tô, Tân Cảnh tỉnh Kom-Tum được quân bạn và “Chị em ta…” trong quán nước vệ đường cho hay: Quân Mỹ đã bàn giao Căn Cứ 6 cho Việt Cộng và quân ta đang đánh nhau để giành lại ngọn đồi căn cứ 6.

Cũng đáng ghi nhận từ các cô ả gái điếm giang hồ này, vì là ổ tình báo chiến trường giữa ta và địch. Có những cô gái quê mùa làm giao liên VC nằm vùng đang hoạt động lấy tin tức, và cũng có những cô gái Thượng-Fulro là tình báo của Mỹ cho tin tức hổ trợ hành quân phe ta. Tất cả là một bải chiến trường đủ màu sắc, giai nhân và chiến sĩ trong lửa khói chiến tranh.

Sau khi nắm được tin tức tình hình và nhận lương thực tiếp tế hành quân, đoàn quân chúng tôi rời điểm xuất phát và tiến sâu vào vùng núi Ben-Hét bên cách mặt của căn cứ Hỏa Lực 6. Ben-Hét cũng là một ngọn núi có căn cứ tiền đồn của quân ta quan sát sự xâm nhập vũ khí, chuyển quân của địch trên đường mòn Hồ Chí minh. Quân chúng tôi chia làm 3 cánh, của 3 tiểu đoàn tiến qua những cứ điểm tiền đồn nổi tiếng khát máu của du kích quân VC, cắt cổ người, trùm poncho rồi im lặng chiếm đồn không tiếng súng. Chúng tôi tiến qua và hướng đến mục tiêu ấn định trên đỉnh Ben-Hét bắt tay quân ta.

Vì trời tối mù mờ đầy mưa gió bảo bùng và địa bàn xa lạ vùng mới đến, nên đỉnh núi nào cũng là ngọn núi! Trong đêm trên bản đồ hành quân, và tôi đi chệch phương giác theo địa bàn trong đêm mưa bảo che mờ đỉnh núi mà tôi nhận dạng lúc ban ngày. Tôi dẫn đầu đoàn quân vì là ngày trực chiến của tiểu đoàn tôi đi lệch sang đỉnh núi nối liền sau lưng Ben Hét bằng một khe suối rộng có giải đất rộng bằng phẳng mà không thấy quân ta. Đặt ống nhòm Hồng Ngoại Tuyến xuyên đêm xuống thung lũng bên kia đình núi bạn thấy lố nhố Cộng Quân đang tập trung quân, đầy đủ xe tăng, đại pháo, cao xạ phòng không hạng nặng của địch đang định nhổ chốt tiền đồn Ben Hét để chúng chuyển vũ khí từ đường mòn Hồ Chí Minh nơi đây; tăng viện quân đánh Căn Cứ Hỏa Lực số 6.

Dẫn lối lạc đường của tiểu đoàn 4/Trung Đoàn 47 do tôi hướng dẫn trở thành lực lương đánh bọc hậu tiêu diệt Cộng Quân một cách tài tình. Bất ngờ theo yếu tố chiến thuật hành quân; gây thiệt hại tối đa cho cộng quân trên đường xâm nhập ngả ba biên giới Nam Hạ Lào bằng đường mòn Hồ Chí Minh tại mặt trận Ben Hét. Và bắt đắt dĩ tôi nhận biệt danh “Ông Thần Ben Hét” của các bạn sĩ quan tác chiến trung đoàn và binh sĩ hành quân trong trận đánh “Đem con bỏ chợ” và “Đì lính” của chúa Tướng Ngô DZU Quân Đoàn II-Plei-Ku

  –{Cũng trong bài viết Cơn Uất Hạ Lào, đã cho biết là Việt Cộng biết rõ kế họach hành quân của quân lực VNCH trước khi các chiến sĩ tới, và theo Bùi Đức Lạc thì có thể gián điệp Vũ Ngọc Nhạ, cố vấn tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã thông báo cho Hà.nội}.

Căn Cứ Hỏa Lực 6, Ngọn Đồi Phản Bội!
Và chúng tôi vẫn phải tiếp tục hành quân tiến chiếm lại ngọn đồi VINKY- Căn Cứ Hỏa Lực 6-cao 1.886 mét, cũng không một nguồn tin tức tình báo về địch tình của BTL/Sư Đoàn 22BB cho cuộc hành quân, chỉ có Chị Em Ta-Gái giang hồ tứ xứ- cung cấp tình báo quân sự là Quân Mỹ đã bỏ căn cứ rút quân bằng trực thăng để lại toàn bộ chiến cụ mìn bải không kịp phá hủy hay bàn giao lại cho đơn vị VNCH nên để Cộng Quân chiếm và làm chủ tình hình.

Vì đây là căn cứ chiến lược, kiểm soát toàn diện ngả ba biên giới Nam Hạ Lào- Campuchia - Việt Nam và cũng là đầu cuối đường mòn HCM có sân bay dã chiến “Phương Hoàng” của MỸ áng ngữ đổ quân, ngăn chặn Cộng quân xâm nhập Tây Nguyên trung phần.

Chúng tôi, trung đoàn 47+41+42/SĐ 22.BB có tăng phái 3 trung đoàn của SĐ.23BB cùng 3 tiểu đoàn Biệt Động Quân chia làm 3 cánh quân tiến chiến lại ngọn đồi Hỏa Lục số 6.

Ngọn núi có dốc cao, lõm chỗm đá núi, mây mù. Đơn vị quân tôi đánh vào chánh diện có ngọn đồi nhỏ nằm kề bên hông núi làm bàn đạp tấn công. Trời còn mờ tối lúc 4 giờ 30 là giờ G ấn định xuất phát hành quân. Giờ này chỉ có sao trời đưa lối dẫn đường và ru êm giấc ngủ cộng quân. Nhưng chúng tôi dẫm phải bải mìn của Mỹ để lại lúc rút quân và đánh thức cộng quân từ các hầm lô cốt Mỹ kiên cố bắn xối xả những khẩu đại liên M60 vào quân chúng tôi trước sự tấn công mãnh liệt đành lại ngọn đồi. Thây người chiến sĩ đồng đội ngả xuống trước họng súng đồng minh Mỹ bắn lại phe ta, máu đã dính lên từng vách đá khe núi quanh ngọn đồi máu đầy xác người chiến sĩ VNCH bị Mỹ phản bội.

Hai đợt tấn công tái chiến ngọn đồi không thành,trước hỏa lực hùng hậu của Mỹ để lại cho địch quân cộng sản xử dụng bắn lại phe ta, và các lô cốt kiên cố, giao thông có “Bonker, cover”, vỉ sắt che chắn vững chắc, và bải mìn dày đặt ngăn chặn sức tấn công của quân ta. Dù cho pháo binh yểm trợ bắn ngang đầu củng không làm nao núng địch quân. Hỏa pháo bắn lên soi sáng vùng trời, toàn là xác người lính ta bên rào lô cốt kiên cố của Mỹ có cộng quân bên trong ẩn núp bắn ra toàn là đạn pháo của Mỹ do cộng quân rành rẻ xử dụng như có sự chỉ dẫn của người Mỹ đồng minh.

Chúng tôi nhận lệnh rút quân xuống sườn núi và áng ngữ con đường viện binh của địch khi BTL tiền phương Sư Đoàn 22BB quyết định ra lệnh bắn pháo binh đầu đạn nổ chụp từ trên cao theo từ tính tầm nhiệt, để tiêu diệt dịch ẩn núp dưới giao thông hào hay ẩn núp kẹt đá núi. Và cho không yểm bằng máy bay ném bomb, tiêu hủy lô cốt Mỹ và dọn sạch bải mìn để quân ta tấn công tái chiếm đỉnh đồi. Nhưng vì hỏa lực của Mỹ quá mạnh, được xử dụng thuần thục như có huấn luyện chu đáo chiến thuật phòng thủ căn cứ vững chắc của đồng minh Hoa Kỳ.

Các đơn vị tấn công được lệnh ngưng bắn và bố trí tải thương về tuyến sau. Khi rút quân xuống chân núi và bố trí ẩn núp an toàn, thì pháo binh của sư đoàn và tiểu khu tỉnh Kom Tum phối hợp với pháo đội 3 tiểu đoàn Nhảy Dù 1-2-3 tăng phái thêm quân số, đang đóng tại sân bay, phía dưới chân núi bắn trục xạ lên đỉnh cao ngọn núi. Đứng dưới nhìn lên, thấy lổ chỗ từng vết bom đạn loang ra nham nhở như hành tinh mặt trăng. Các đợt pháo binh bắn phá vừa chấm dứt, thì đến các phi tuần ném bom của các phi đội Skyraider không quân Việt Nam đảm nhận phần việc san bằng ngọn núi đầy cộng quân chiếm đóng do Mỹ “Bàn giao”. Khói lửa vang rền bốc cao trắng xóa như đỉnh tuyết Phú Sĩ Sơn có pha sắc màu xám xịt tang thương cuộc chinh chiến.

Các phi tuần đánh bom chấm dứt nhiệm vụ, là các đơn vị phối hợp quân binh chủng chúng tôi mở tổng loạt tấn công lên đỉnh núi. Sức kháng cự cộng quân vẫn còn trong  đóng đổ nát, nhưng rời rạc và yếu ớt hơn, sau đợt bắn phá pháo binh và ném bom. Làm lộ nguyên hình đầy thương tích từ các lô cốt bay nóc xiêu vẹo, giao thông hào đầy xác địch chết ngỗn ngang. Còn bên rào lưới thép kẽm gai là xác quân ta nằm vắt vẻo trước họng đại liên Mỹ M60 nằm chổng trơ sau đợt bom phá hủy. Cảnh hoang tàn đổ nát, những khẩu pháo binh chôn vùi dưới lớp đá núi chất chồng phủ kín chỉ còn ló những nồng súng sáng loáng vươn cao trong nắng chiều tà tím tái máu khô. Nghe mùi tử khí ngồn ngột mà lợn cả giọng. Chỉ cần có  điếu thuốc lá mới chấn tỉnh tinh thần!. Và nhìn kỹ lại ngọn núi cao đã bị bom cày, đạn xới san bằng cụt chõm xuống vòng cao độ bản đồ hành quân, mất hết một vòng cao độ 50 mét thành một hố huyệt mộ tập thể chôn cả xác ta và địch lẫn lộn trong cát đá núi cao cho sự phản bội của đồng minh Mỹ trên chiến trường Tây Nguyên VN.

Sau khi thu dọn chiến trường và tập hợp tàn quân các đơn vị chiến đấu, quân ta thiệt mất và tan rã 2 tiểu đoàn vừa tăng phái và cơ hữu sư đoàn 22BB. Phía cộng quân tan rả 3 trung đoàn  bỏ xác tại chỗ với hơn1.630 xác chết. Đơn vị hành quân hỗn hợp chúng tôi tiếp tục truy đuổi và lục soát địch trên đường tháo chạy về sườn núi phía bên kia tiếp giáp với đường mòn HCM, là cứ địa xuất phát của 2 Sư đoàn: Sao Vàng và 324 cộng quân trấn giử đường mòn HCM. Trên đường rút lui chúng bỏ lại những khẩu pháo và giàn cao xạ bắn máy bay tối tân của Trung Quốc, còn thơm mỡ bò, bọc giấy bảo dưỡng China. Trên những khẩu pháo, và có những xác chết trong tư thế bị xiềng xích chân vào ổ đại pháo. Chúng không phải là bộ đội Vn mà là quân Trung Quốc với đôi mắt xếch, một mí người Tàu Chợ Lớn, theo xác nhận của người lính Chợ lớn VNCH. Và lục xác chết trong túi  họ mang theo tiền Campuchia đầy ấp và mới tinh khôi được in ấn lậu từ phía Trung Quốc đem qua Campuchia giao cho du kích pônpốt-Khờme Đỏ phá rối nền kinh tế chính phủ Lonol thân Mỹ. Và số tiền lậu này, tiểu đoàn đơn vị chúng tôi đã tịch thu chiến lợi phẩm trong trận đánh vừa qua tại mặt trận Ben Hét và biên giới Nam hạ Lào…

Những Phát hiện này và vừa qua có dấu vết xe tăng-thiết giáp địch hạng nặng T.54; PT.76 của Liên Xô và Trung Cộng tăng cường xâm nhập chiến trường Miền Nam VN trong khi Mỹ rút quân và Việt Nam Hóa chiến tranh. Mỹ sợ quân VNCH phát hiện âm mưu đi đêm thỏa thuận với Tàu Cộng bán đứng và phản bội đồng minh qua trận đánh Căn Cứ HỎA LỰC 6, nên cả vú lấp miệng em, bằng cách chối từ nhận xét tình hình mặt trận chiến trường qua mặt Mỹ, hầu xin tăng viện vũ khí hiện đại hóa, để bắt kịp tăng trưởng đà viện trợ, tăng cường của khối Nga-Tàu cho cộng quân Cộng sản Bắc Việt tiến chiếm Miền Nam VN.

Và hậu quả đau buồn dân tộc, của người lính VNCH 30-4-1975, ngày gãy súng tan hàng.
 Xin xem link hướng dẫn cùng tác giả:
- Buồn trong chiến thắng
Nhờ tăng phái thêm 3 tiểu đoàn Dù, và 2 tiểu đoàn biệt kích biệt Lôi Hổ, Biệt Kích 81 Dù này chúng tôi chiếm lại chiếm lại ngọn đồi máu căn cứ 6 này và rảnh tay bung ra lục soát quanh vùng tạo vòng đai an toàn căn cứ trước khi chia tay quân bạn để nhận lãnh trách nhiệm bảo vệ ngọn đồi. Tôi có dịp chứng kiến những mất mát của chiến tranh và tình người trong cuộc chiến.

Chiến thắng nào cũng có cái giá của nó,và miền vui nào cũng có buồn ẩn chứa bên trong, không có cái gì trọn vẹn bao giờ, xin nhớ cho!Trong trận chiến này, người lính chúng tôi phải mượn xác đồng đội trải dài trên rào kẽm thép đánh dấu bải mìn và bước qua  xác bạn để tiến tới lổ châu mai nơi đặt ổ đại liên địch. Thây người chồng chất bịt kín, làm im tiếng súng địch…Tại sao chúng tôi, người lính chiến sĩ VNCH chết nhiều như vậy là vì chúng tôi có tình thần đồng đội rất cao biết hy sinh và chết thế cho nhau trước họng súng kẻ thù để bảo vệ Tự-Do miền Nam. Người lính chúng tôi không thù hằn với anh em Bộ Đội Miền Bắc và, vì chúng tôi chỉ là nạn nhân của chiến tranh, bắt buộc phải giết  lẫn nhau tranh giành sự sống, đó là luật sinh tồn không ai muốn giết nhau giữa Bắc -Nam bao giờ!?.

Trên đường lục soát, tôi bắt gặp nhiều cán binh bộ đội Miền Bắc còn rất trẻ tuổi- Học trò cấp một- bị bắt vào Nam với khẩu hiệu; ”Sinh Bắc Tử Nam”. Vượt dãy Trường sơn vào Nam “Giải Phóng”. Họ được tuyên truyền dụ dỗ cho uống thuốc “Hùng Tâm” do Trung Quốc cung cấp {Kích thích tố hăng say chiến đấu}là chất độc mang lại hệ quả chiến tranh sau này, nhưng trước mắt vẫn là thuốc “Hăng máu” liều mạng, tấn công biển người của Cộng Sản!?. Xác chết cán binh Cộng Sản Miền Bắc có màu da trắng bệch như một xác người di động vô hồn…trên vai mang túi gạo và ít đòn bánh tết{Tét} hẩm hiu, chắc do mẹ tiễn con lên đường vào Nam chống Mỹ…Trong túi áo rách nát đầy máu vết thương, còn sót lại những bức thư tình vụng-dại tuổi học trò nào biết gì chiến tranh!?, Tôi thương họ lắm, và biết nói gì với chiến tranh, khi chính mình cũng là nạn nhân  trong  cuộc chiến phi lý và vô nhân đạo này!!!

viet nam war, người lính việt nam cộng hòa
Tội Đánh Mỹ!?
Trên con đường lên Tây Nguyên của đoàn xe-Convoi- chở đầy vợ con lính, dọn  nhà khu gia binh và quần áo mang theo rời  khỏi Phú yên, tỉnh Tuy Hòa lên núi Hàm Rồng thuộc tỉnh pkeiku, để tiếp nhận khu gia binh của căn cứ Mỹ nằm dưới chân núi. Trên đường đi theo quốc lộ 19 tới An Khê, Phù Mỹ- tỉnh Quy Nhơn- gặp đoàn  xe- Convoi GMC - chở lính Mỹ đầy máy móc dụng cụ văn phòng ngược chiều về Tuy Hòa cho kịp chuyến bay hay ra khơi với hạm đội số 7 trong đợt rút quân. Với lối ngang tàng, hống hách theo kiểu cow-boy miền tây hoang dã Hoa Kỳ của một đạo quân Viễn Chinh chủ chiến tại Miền Nam VN, không coi trọng tài sản và sinh mệnh của người dân Việt Nam trong thời chiến tranh giúp VN với một chút quyền, mà Mỹ tự cho họ có quyền sinh sát, bố thí Tự- Do cho người dân VN phải mang ơn ngươi Mỹ. Trên con đường vội  rút quân. Đoàn quân xa Mỹ lái xe cán bừa lên người, lên vật đang lao nhao hợp chợ phiên làng quê bên đường. Phiên chợ quốc lộ 19 thị trấn An Khê - Phù Mỹ đông đúc dân làng sinh hoạt. Phải một phen làm người dân chạy tán loạn, kinh hoàng bởi đoàn xe lính Mỹ bất thần ào ào tiến tới vói những hung thần Mỹ hất tung hàng hóa, gióng gánh, thúng mẹt ăng tung tóe trên vệ đường quốc lộ. Làm tôm cá, mắm thóc, rau cải của nông dân khuya sớm lặn lội, tảo tần từ trong các đồng sâu mang về đây, để bị người Mỹ đạp đổ không chút tiếc thương quê nghèo. Có người bị thương, chảy máu kêu khóc vang trời…cũng không động lòng văn minh lối sống người Mỹ, sang đây giúp đỡ nhân phẩm tự do của người Việt Nam.

Chúng tôi người lính VNCH, vì thể diện tinh thần dân tộc, không thể chịu đựng trước những hành động côn đồ, mất dạy và khoanh tay đứng nhìn người Mỹ ngang nhiên nhục mạ và sỉ nhục quyền sống đồng bào mình, và họ-Mỹ- rất khinh khi, kỳ thị sắc tộc  da màu khi tới được Miền Nam VNCH, và chà đạp nhân quyền dân bổn xứ VN. Coi đồng minh VNCH là kẻ đánh thuê. Tự cho mình là đỉnh văn minh Hoa Kỳ; khinh rẻ dân bản xứ Việt Nam. Và vì chủ động trong cuộc chiến chống cộng sản, mà Mỹ muốn bỏ rơi chiến hữu đồng minh VNCH trong hợp đồng tác chiến chống Bắc Cộng sản rất tùy tiện, và cố ý thân Tàu Cộng Trung Quốc, để rút quân vội vàng cho sự sắp xếp Việt Nam hóa chiến tranh. Nên đoàn quân chúng tôi phải can thiệp bằng vũ lực quân sự với quân đội Mỹ trong bất bình tột độ. Bắn nhiều loạt đại liên M60 đặt trên nốc xe GMC dẩn đầu mở đường, bảo vệ khu gia binh lính. bắn thẳng vào lốp xe đoàn Mỹ bể bánh, lật trái sang lề đường, gây cản trở cho đoàn xe Mỹ phải dừng lại.Và lính chúng tôi tủa xuống đường, bố trí thành trận địa sẵn sàng nghinh chiến nếu  lính Mỹ có phản ứng cứng đầu, chống lại, và nổ súng ngay, cho dù là chiến hữu, kể cả đồng minh Hoa Kỳ, khi tàn nhẫn với dân tộc minh…Rất may không gặp phản ứng gì khi đoàn xe Mỹ biết nhận lỗi về mình. Nhưng không thể xoa dịu tính tự tôn dân tộc và khí phách kiêu hùng của người lính VNCH, nên chúng tôi bảo chúng đầu hàng,hai tay để trên đầu như kẻ tù binh thua trận đứng về một bên và chúng tôi cho nổ lựu đạn phá hủy chiếc xe gây nạn khủng khiếp cho đồng bào được thỏa lòng hả dạ tự ái dân tộc mình không ai dám công khai chà đạp dân mình dù là ân nhân Mỹ trong cuộc chiến VN. Đứng xa xa là đồng bọn Mỹ thủ súng tự vệ và gọi máy truyền tin, báo cáo sự việc về cho Tướng Cố vấn Hoa Kỳ và tướng Tư lệnh Ngô Dzu SĐ 22BB lên can thiệp vì sợ chúng tôi đốt sạch hết cả đoàn xe Mỹ chở đầy hàng hóa và của cải rút quân về biếu tặng tướng lãnh Sư Đoàn…để trả thù dân tộc và bảo vệ  cho dân.

Khi tiếng trực thăng kêu phạch phạch trên bầu trời là lúc ngọn lửa sắp tàn của chiếc xe bị đốt, khói vẫn bốc lên cao tạo thành hỏa khói chỉ điểm cho trực thăng của Tướng Tư lệnh SĐ vùng II đáp xuống xử lý nội vụ. Nhưng trực thăng không đáp xuống…Mà đoàn xe chở đầy hàng của cãi hàng hóa mỹ, được lệnh tướng tư lệnh cho chở về bản doanh BTL/SĐ 22BB cầu Bà Gi. Còn trung đoàn 47/SĐ 22 BB lập tức theo lệnh lên đường trục chỉ hành quân tiếp viện căn cứ 6, không kịp đưa vợ con lính về căn cứ khu gia binh mới nhận được của Mỹ, ở căn cứ Hàm Rồng. Đây là hình phạt lưu đày lính “Cầm lựu đạn đi tiền đồn” theo luật phạt nhà binh cho lính và ít nhất lảnh “100 củ” ghi vào hồ sơ quân bạ của mỗi sĩ quan trước khi đưa ra tòa án binh giáng cấp chức vụ-xuống cấp bực quân hàm sau đó…! khi chấm dứt lệnh hành quân.

Từ đó, chúng tôi có mối bất hòa với cố vấn quân sự Hoa kỳ trong mỗi lần hành quân phối hợp Việt Mỹ. Vì người Mỹ đánh giặc theo kiểu công tử con nhà giàu rất là keo kiệt, tính toán lời-lỗ với chiến hữu đồng minh VNCH trong tiếp xúc ngoại giao vì công vụ: “Anh ăn, anh trả. Tôi ăn tôi trả…!?”{He ate his return, I eat I pay}, làm tôi muốn điên cái đầu  khi đi công tác, công vụ với cố vấn Mỹ được họ mời cơm, thì phải soát lại trong túi có đủ tiền trả cho buổi cơm đó không!? Và tôi phải mất mặt ghi nợ trước mặt ngươi đẹp bán hàng cho buổi cơm 2 người cố vấn kia theo phong cách hiếu khách dân tộc Việt. Lề lối cư xử con buôn quốc tế từ thời lập quốc tới nay, nên họ mới giàu ra! Về mặt  quyền lợi kinh tế. khi họ cho ai món quà nào thì họ móc cả lưỡi câu vào món mồi đó, có nối liền lưỡi câu bằng một sợi dây dài cằm sẵn nơi bàn tay khôn ngoan đóa để của họ. Không thua gì dân Ba Tàu Trung Quốc.

Tuy nhiên, người Mỹ thiếu kinh nghiệm về chính trị, lẫn quân sự, chỉ biết lấy sức mạnh quân sự làm phương tiện phục vụ kinh tế cho họ. Nên chiến tranh Việt Nam, Mỹ không chủ trương đánh thắng Cộng Sản Bắc Việt, mà muốn mở của thị trường đông dân Trung Quốc mà thôi. Và Hoa Kỳ cóc cần biết ai là Cộng Sản; ai là Quốc Gia tự do yêu nước trong số 25 triệu dân miền nam trong chiến tranh VN. Trước năm 75, có nhiều cố vấn quân Sự Hoa Kỳ hỏi tôi: “ Ai trong số các anh là VC làm sao tôi phân biệt được kẻ thù!???”- Tôi trả lời: “Khi chúng tôi còn mặc quân phục và người dân chúng tôi còn mang ơn các các chiến hữu Hoa Kỳ đem lại hòa bình tự do đó chính là đồng minh, bạn anh. Và khi chúng tôi đánh đuổi, đòi giết anh,thì chúng tôi mới là VC kẻ thù của anh, xin anh rõ nghĩa, thế nào là Cộng Sản rạch ròi đen trắng!?

Và có một điều thú vị, các bạn Mỹ là ân nhân cứu mạng cho Cộng Sản nằm vùng mỗi khi đơn vị Mỹ phối hợp hành quân lục soát mật cứ địch trong vùng “Giải phóng. Với tiếng động ồn ào như đi hội chợ, làm cho VC nằm vùng hoảng hồn bỏ chạy trước khi Mỹ đến mục tiêu không có VC, mà chỉ toàn là nông dân, tay lấm chân bùn…giả dạng thường dân vô tội và làm cho lính Mỹ có cảm tưởng VC hết giờ làm việc,và đi ngủ tất cả rồi! và đưa đến trạng thái ngây thơ trong cuộc chiến VN là lẽ tất nhiên phải thua cuộc với Cộng Sản MTGPMN.
Mọi sự việc xảy ra lính tôi đều chấp nhận, miễn sao gánh bớt thương đau cho dân vùng chiến nạn hằng ngày phải đối mặt với chiến tranh!

-Về… trong nỗi nhục-nhằng bơ-vơ!
Mỗi lần hành quân về, đoàn quân chiến thắng chúng tôi không được vào thành phố, là nơi chúng tôi tìm chút nghĩ ngơi và giải trí sau những ngày hành quân gian khổ, mệt nhọc, thiếu vắng tình người thành phố cho ấm lại hoang vắng núi rừng. Lính chúng tôi chỉ được đón tiếp, chào hỏi, mời mọc của những cô Ả “ Gái giang hồ”{Giải quyết chiến tranh}. Đời lính chúng tôi chỉ được vinh danh trong cái thừa thải xã hội, còn được đồng hóa với chúng tôi vào hàng đỉ điếm…!?

Cấp trên mệnh lệnh đóng quân ra xa khỏi thành phố để tránh tình trạng lính phá phách và đánh nhau giành “Gái”…Người lính trận chúng tôi bị coi thừơng về giá trị Tự-Do mà Tổ Quốc vinh dự trao cho trách nhiệm bảo vệ đến hơi thở cuối cùng, và người lính chúng tôi phải có được quyền sống -Tự- Do- cho cá nhân cộng đồng người lính sau mỗi cuộc hành quân về. Lính chúng tôi là giá trị thể hiện Tự Do tại sao chúng tôi không có quyền hưởng nhu cầu tự do chính mình làm ra cho hòa bình,Tự do dân tộc.

Các ông Tư Lệnh Quân đoàn, Sư Đoàn và Tướng Lãnh Quân khu không cho lính vào các thành phố “Ăn Chơi” của đám thanh niêm, sinh viên con ông cháu cha –Thế lực- trốn lính ăn chơi sa đọa trong các tửu lầu nhạc nhúng sập xình cùng gái đẹp-bia ôm-Cùng đám đại gia; con buôn lậu đồ Mỹ quốc viện trợ chiến tranh…làm đau lòng chiến sĩ ngày đêm đánh trận cho hậu phương an ổn ăn chơi trên xương máu các anh chiến sĩ ngoài trận địa sống chết với kẻ thù, thử hỏi ai không buồn!?.

Và chính các ông tướng lãnh này đứng ra chỉ đạo kinh doanh bằng quyền lực chiến tranh cho phép mở các quán Bar đèn mờ và các động đỉ cao sang tiếp khách quốc tế và các thương gia- Bọn gian thương-chuyên buôn bán đồ Mỹ lậu là mặt hàng viện trợ quân sự chiến tranh, cũng là xương máu của anh em chiến sĩ VNCH do các tướng lãnh quân đội đứng ra làm ma cô, ma cạo ”bảo kê”, hoặc làm chủ kinh doanh bia ôm, động điếm…nên không cho lính dưới quyền mình về phá phách xóm làng và đập bể nồi cơm, nhờ chiến tranh làm giàu cho họ.

Các tướng lãnh quân đội VNCH thời đệ nhị cộng hòa của “ Hội Đồng Cách Mạng Quân Nhân” lên nắm quyền điều hành đất nước Miền Nam thay thế chính phủ dân sự đệ nhất cộng hòa Ngô Đình Diệm, đã làm lu mờ vai trò yêu nước của người quân nhân, chiến sĩ VNCH và mất miền tin trong lòng nhân dân lẫn quần chúng Miền Nam. Người lính chiến đấu bảo vệ Tự-Do Miền Nam mà dân chúng cứ hoài nghi cho thế lực ngoại bang Mỹ-Theo lời VC/MTGPMN nói - Để rồi cuộc chiến đấu này của người lính VNCH bị phủi công ơn và quên lãng của người dân trước sự hy sinh vô bờ bến cho Tự Do Độc lập VNCH.

 -Một thời chinh chiến, một thời ngang dọc…!
Lính tôi trước sự bất công xã hội và bất bình cấp trên, nên rơi vào trạng thái, không ai biết thương mình!?-Một thành phần cuộc chiến bỏ rơi. Nên phản kháng bất cần đời…!!!

Chúng tôi kéo nguyên cả một tiểu đoàn hành quân với đầy đủ súng đạn về thành phố Pleiku-“Phố núi Mây Bay” vì có vài người lính của đơn vị chúng tôi ra phố uống rượu nhằm vào quán Bar đèn mờ của Tướng Ngô DZU thành lập kinh doanh và cho vài lính bảo vệ và có quân cảnh xét giấy tờ bắt quân nhân trên trên thành phố vào nơi có em út sập xình uốn éo cho đám thanh niên vô công rổi nghề, phè phởn ăn chơi trên xương máu, chết sống của người lính. Các chiến hữu đơn vị bị bắt, chạy về báo cáo sự việc, nên tiểu đoàn tôi tức tốc từ căn cứ núi “ Hàm Rồng” vác theo 2 khẩu đại liên M60 và 4 xe GMC đầy nhóc lính chạy ra phố và đặt 2 khẩu đại liên, hai bên đồn lính quân cảnh,và ra lệnh phải thả ngay lập tức 5 người lính của tiểu đoàn bị quân cảnh bắt giữ. Và được một sĩ quan trong đồn ra giải hòa và hứa thả với một chầu bia lon- bia Heineken- tại chổ cho các cấp sĩ quan hai bên vốn đã ghét nhau từ lâu…giữa lính kiểng và lính tác chiến không ưa gì nhau!- Một đàng sống-chết, một đàng lính cô, lính cậu….

Sau khi lấy lính ra khỏi đồn Quân Cảnh, chúng tôi chở lính đến các quán “ Bar” đèn mờ, nhà hàng hạng sang của Tướng Ngô Dzu cho các lính kiểng  đứng ra bảo kê làm đầu nậu,ma cô. Lính chúng tôi vào ăn uống rồi đập phá quán… Ông Tướng Ngô Dzu và ngài Tỉnh Trưởng Pleiku biết được và biệt phái các lính kiểng gác dinh tòa tỉnh. Cả ba chục người trên 5 xe Jeep và lại có thêm 4 xe Quân Cảnh hộ tống. Hai bên lính chúng tôi dàn trận ngay trên những con đường chính của thành phố Pleiku như một trận địa và bắn hai khẩu đại liên{Gà Cồ M6o}bay cao trên đầu họ với làn đạn lửa như pháo hoa và ném lựu đạn ra giửa lòng đường phố nổ tung, gây áp đảo tinh thần lính kiểng-chết nhát!- Làm họ phải tìm nơi ẩn núp bằng hai tay che đầu, núp dưới gốc cây hai bên đường, thấy mà thương cho đời lính kiểng. Họ bỏ xe sắp hàng dài như đi duyệt binh mà không sợ địch phục kích như chúng tôi !?. Sẵn máu nóng hăng say do rượu vào nhưng có biết đâu là bạn,đâu là thù! Lính chúng tôi châm lửa đốt 4 xe Jeep của Quân Khu II. Và lật ngửa chúng ra lộ đường cho hả giận, vì tức tối Tướng cầm quân, hy sinh xương máu chiến hữu dưới quyền tại chiến trận, để bảo vệ thành phố cho các thanh niên, thiếu nữ sống sa đọa, ăn chơi nhảy múa trên máu xương các chiến sĩ VNCH ngoài mặt trận. Không phải là nạn kiêu binh trong thời chinh chiến nhưng là sự nhắc nhở các tướng lãnh cầm quân, hãy quay về với trách nhiệm và danh dự tổ quốc giao phó, khi Miền Nam VN sắp rơi vào cộng quân Bắc Việt, mà Mỹ đã đánh mùi biết trước. Nên Hoa Kỳ rút quân rất sớm để được an toàn!!?

Và 36 năm sau bổng giựt mình nhớ lại cuộc chiến hôm nay; tưởng đã lãng quên chôn vùi trong quá vãng, nào ngờ hiện thực phủ phàng lôi tôi sống lại chiến trường xưa!

 “Ví dù miền Nam Việt Nam có bị đại bại hoàn toàn, cái yểm trợ tận lực của Hoa Kỳ sẽ cho phép người Mỹ nhún vai và nói rằng họ đã cố gắng hết sức. Nhưng, Hoa Kỳ đã không tận lực, mà trái lại người Mỹ lại còn cố gắng che đậy sự thật bằng cách bôi nhọ miền Nam Việt Nam và nhục mạ quân lực VNCH đã sai lầm, không chiến đấu cho dân tộc họ.

Bây giờ đã quá trễ để Hoa Kỳ chuộc lại tội ác tầy trời khi bỏ rơi nhân dân miền Nam Việt Nam vào tay Cộng Sản. Nhưng nó chưa quá trễ để Hoa Kỳ thú nhận lỗi lầm trong việc nhục mạ họ-VNCH. Và cũng chưa quá trễ để bắt đầu vinh danh các thành quả và lòng dũng cảm của những binh sĩ VNCH đã chiến đấu bảo vệ lý tưởng Tự Do cho hòa bình Việt Nam!!!

Huỳnh Mai St.8872
{Thân phận chiến Tranh-VNCH}

Sunday, October 20, 2013

• Chiến Sử Sư Đ0àn 18 Bộ Binh Trên Chiến Trường Miền Đông



 * Từ Biệt khu Phước-Bình-Thành đến Sư đoàn Bộ binh thứ 10:
Tình hình chiến trường tại miền Đông Nam phần (Vùng 3 chiến thuật) trở nên sôi động từ giữa năm 1964 khi Cộng quân tung thêm 4 trung đoàn chủ lực vào các tỉnh dọc theo biên giới Việt-Căm Bốt: Phước Long, Bình Long. Để ngăn chận sự leo thang của đối phương, từ tháng 10/1964, Quân đoàn 3 & Vùng 3 chiến thuật đã phân nhiệm 2 sư đoàn Bộ binh đảm trách hai khu chiến thuật tại miền Đông Nam phần, và biệt khu Phước-Bình-Thành trách nhiệm ba tỉnh Phước Long, Bình Long và Phước Thành. Đến hạ tuần tháng 5/1965, do nhu cầu chiến trường và kế hoạch tái phối trí lực lượng, bộ Quốc phòng ban hành văn thư giải tán Biệt khu Phước-Bình-Thành, đồng thời cho tiến hành việc thành lập sư đoàn thứ 3 cho Quân đoàn 3 và là sư đoàn Bộ binh thứ 10 của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. (9 sư đoàn đã thành lập từ trước theo thứ tự về thời gian: 1, 2, 5, 7, 21, 22, 23, 25, 9). Sư đoàn tân lập này có danh hiệu là Sư đoàn 10 Bộ binh.
 
* Tiến trình hình thành Sư đoàn: đổi danh hiệu thành Sư đoàn 18 BB, lược ghi về các trung đoàn cơ hữu
Theo văn thư bộ Quốc phòng và bộ Tổng tham mưu QL/VNCH, Sư đoàn 10 BB chính thức lập ngày 6/6/1965. Đến tháng 10/1965, đổi danh hiệu thành Sư đoàn 18 BB với 3 trung đoàn cơ hữu: trung đoàn 43 BB, trung đoàn 48 BB và trung đoàn 52 BB, một số đơn vị yểm trợ thống thuộc: Thiết giáp, Pháo binh, Công binh, Quân y, Tiếp vận... Ngay sau khi thành lập, Sư đoàn được phân nhiệm hoạt động tại các tỉnh ở phía Đông của Vùng 3 chiến thuật gồm: Biên Hòa, Long Khánh, Bình Tuy, Phước Tuy. Bộ tư lệnh Sư đoàn đặt tại Xuân Lộc, tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh.

Trong số 3 trung đoàn của Sư đoàn 18 BB, có hai trung đoàn nguyên là trung đoàn cơ hữu của hai sư đoàn Khinh chiến 15 và 16 được thành lập trong giai đoạn 1955-1966: đó là trung đoàn 43 Bộ binh thuộc sư đoàn Khinh chiến 15 và trung đoàn 48 Bộ binh thuộc Sư đoàn Khinh chiến 16. Cuối năm 1959, theo sự cải tổ của Quân lực VNCH, 10 sư đoàn (4 sư đoàn Dã chiến và 6 sư đoàn Khinh chiến) rút xuống còn 7 sư đoàn và được cải danh thành các Sư đoàn Bộ binh. Theo kế hoạch này, Sư đoàn Khinh chiến 15 được biến cải thành Sư đoàn 23 Bộ binh, sư đoàn 16 Khinh chiến cùng với 2 sư đoàn Khinh chiến 12 và 13 được giải tán, quân số của các trung đoàn này được bổ sung cho các sư đoàn còn lại, một số trung đoàn trở thành binh đoàn biệt lập, thống thuộc quyền điều động của các bộ Tư lệnh Quân khu.

Để Sư đoàn 10 Bộ binh được thành hình nhanh chóng, bộ Tổng tham mưu đã quyết định điều động một phần lớn sĩ quan thuộc bộ chỉ huy Biệt khu Phước-Bình-Thành vừa giải tán, chuyển sang bộ tư lệnh sư đoàn tân lập để hình thành các bộ phận tham mưu chính yếu. Đại tá Nguyễn Văn Mạnh, chỉ huy trưởng Biệt khu được bổ nhiệm làm tư lệnh đầu tiên của Sư đoàn; thiếu tá Trần Văn Dĩnh, tham mưu trưởng, thiếu tá Lê Trọng Đàm, tham mưu phó và một số trưởng phòng của Biệt khu Phước-Bình-Thành tiếp tục giữ các chức vụ trọng yếu tại bộ Tham mưu Sư đoàn 10 Bộ binh.

* Lược ghi về quân vụ của 5 vị tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh:
-Tư lệnh đầu tiên: đại tá Nguyễn Văn Mạnh (cấp bậc cuối cùng: trung tướng)
Vị tư lệnh đầu tiên của Sư đoàn 10 (Sư đoàn 18 Bộ binh) là một sĩ quan giàu kinh nghiệm chiến trường, xuất thân trường Sĩ quan Việt Nam tại Huế vào năm 1949, lần lượt giữ các chức vụ đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng, tham mưu trưởng Sư đoàn, tham mưu trưởng Quân đoàn. Năm 1964, đại tá Nguyễn Văn Mạnh được cử giữ chức vụ chỉ huy trưởng Biệt khu Phước-Bình-Thành, bộ chỉ huy đặt tại Phước Vĩnh, tỉnh lỵ Phước Thành. Tháng 4/1965, trong khi đi thực hiện phóng sự chiến trường tại chiến khu D, chúng tôi có dịp tiếp xúc, phỏng vấn đại tá Mạnh tại bộ chỉ huy Biệt khu Phước Bình Thành, 3 tháng sau chúng tôi lại được gặp ông tại bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh ở Long Khánh, ghi nhận của chúng tôi là vị tư lệnh này rất cởi mở, bình dân, một số sĩ quan cho biết ông có cuộc sống rất giản dị, gần gũi với sĩ quan thuộc cấp, rất thương anh em binh sĩ. Khi nói về thời thanh niên của mình, ông cho biết là đã tốt nghiệp trường Canh nông Huế trước 1945 và làm việc trong ngành này được vài năm, trước khi thi vào trường Sĩ quan.

Sau 4 tháng giữ chức tư lệnh, vào thượng tuần tháng 10/1965, đại tá Mạnh được cử giữ chức tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, hoán chuyển chức vụ với chuẩn tướng Lữ Lan. Cuối tháng 10/1965, ông được thăng chuẩn tướng. Tháng 12/1966, được bổ nhiệm giữ chức vụ Quyền tư lệnh Quân đoàn 4 & Vùng 4 chiến thuật. Tháng 2/1967, được vinh thăng thiếu tướng và chính thức giữ chức vụ tư lệnh Quân đoàn này. Tháng 2/1968, thuyên chuyển về bộ Tổng tham mưu giữ chức vụ Tổng thanh tra. Tháng 7/1969, được bổ nhiệm giữ chức tham mưu trưởng Liên quân Quân lực VNCH. Tháng 7/1970 thăng trung tướng. Tháng 4/1974, được cử giữ chức phụ tá Tổng tham mưu trưởng đặc trách Bình định phát triển thay thế trung tướng Nguyễn Văn Là về hưu.

- Chuẩn tướng Lữ Lan: từ tháng 10/1965 đến tháng 6/1966. Trước khi được cử thay thế đại tá Mạnh trong chức vụ tư lệnh Sư đoàn 18 BT, chuẩn tướng Lữ Lan là tư lệnh Sư đoàn 23 BB (từ tháng 10/1964 đến tháng 10/1965). Khi còn mang cấp đại tá, ông là tư lệnh đầu tiên của Sư đoàn 25 BB (thành lập cuối năm 1962 tại Quảng Ngãi, năm 1964, Sư đoàn này chuyển vào Hậu Nghĩa). Các chức vụ và cấp bậc kế tiếp: thăng thiếu tướng vào tháng 11/1965, giữa năm 1966 được bổ nhiệm giữ chức vụ chỉ huy trưởng trường Chỉ Huy và Tham Mưu, từ tháng 11/1966 đến tháng 2/1968: tổng cục trưởng Tổng cục Quân Huấn; cuối tháng 2/1968 đến tháng 8/1970: tư lệnh Quân đoàn 2 & Vùng 2 chiến thuật. Thăng trung tướng giữa năm 1969, chức vụ cuối cùng: Tổng thanh tra Quân lực VNCH.
 
- Chuẩn tướng Đỗ Kế Giai: từ tháng 6/1966 đến tháng 8/1969, cựu tiểu đoàn binh chủng Nhảy Dù trước năm 1961; thăng chuẩn tướng tháng 11/1967, thăng thiếu tướng 1972. Các chức vụ kế tiếp: chỉ huy trưởng Huấn khu Dục Mỹ, chỉ huy trưởng Biệt động quân (1972 đến 30 tháng 4/1975).
 
- Chuẩn tướng Lâm Quang Thơ: từ tháng 8/1969 đến tháng 5/1972: trước khi giữ chức vụ tư lệnh Sư đoàn 18 BB, chuẩn tướng Thơ là chỉ huy trưởng trường Bộ Binh Thủ Đức (từ 1967 đến tháng 8/1969), ông được thăng chuẩn tướng vào tháng 6/1968. Khi còn mang cấp đại tá, đã lần lượt giữ các chức vụ: chỉ huy trưởng Thiết giáp binh QL/VNCH (1964), chỉ huy trưởng trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt (1965), Chỉ huy trưởng trường Hạ Sĩ quan Nha Trang (1966). Thăng thiếu tướng tháng 6/1970. Tháng 5/1972: được cử giữ chức vụ chỉ huy trưởng trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt thay thế trung tướng Lâm Quang Thi được điều động ra miền Trung giữ chức vụ tư lệnh phó Quân đoàn 1. Đây là lần thứ hai ông chỉ huy trường Võ bị và cũng là vị chỉ huy trưởng cuối cùng của quân trường này.

- Chuẩn tướng Lê Minh Đảo: từ tháng 5/1972 đến tháng 4/1975: Giữ chức vụ tư lệnh khi còn mang cấp đại tá, thăng chuẩn tướng tháng 11/1972. Được thăng thiếu tướng tại mặt trận vào hạ tuần tháng 4/1975 với chiến tích đã chỉ huy Sư đoàn 18 chận đứng các cuộc tấn công của CQ tại An Lộc. (Theo tài liệu của đại tá Phạm Bá Hoa, tham mưu trưởng Tổng cục Tiếp vận thì Quân đoàn 3 chưa kịp tổ chức lễ gắn cấp hiệu 2 sao cho tướng Đảo).

* Sư đoàn 18 Bộ binh trên chiến trường Miền Đông Nam phần:
Sau giai đoạn chỉnh trang cần thiết cho một đại đơn vị tân lập, tháng 8/1965, Sư đoàn 18 Bộ binh đã khởi động cuộc hành quân quy mô để tảo thanh Cộng quân tại khu vực trách nhiệm, trong đó hai tỉnh Phước Tuy và Long Khánh là những mục tiêu trọng điểm. Trong thượng tuần tháng 11/1965, một thành phần bộ chiến của Sư đoàn 18BB và đơn vị tăng phái đã đánh tan 1 trung đoàn Cộng quân tại phía Tây Phước Lễ, tỉnh Phước Tuy.

Từ 1966 đến 1969, lực lượng bộ chiến của Sư đoàn 18 Bộ binh phối hợp với lực lượng Đồng minh đã tổ chức hơn 20 cuộc hành quân quy mô truy kích CQ tại các tỉnh Phước Tuy, Long Khánh, Bình Tuy. Trong hai năm 1970 và 1971, theo kế hoạch điều động lực lượng của bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, nhiều đơn vị của Sư đoàn 18 Bộ binh đã luân phiên tham dự cuộc hành quân ngoại biên tại Căm Bốt cùng với các thành phần bộ chiến của Sư đoàn 5, Sư đoàn 25 Bộ binh, Biệt động quân Quân khu 3 và lực lượng lữ đoàn 3 Kỵ Binh.

Trong cuộc chiến Mùa Hè 1972, trước khi trận chiến tại Lộc Ninh bùng nổ vào ngày 5/4/1972, bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 đã điều động trung đoàn 52 thuộc Sư đoàn 18 BB tăng viện cho chiến trường Bình Long, bảo vệ trục giao thông giữa chi khu Lộc Ninh và Thị xã An Lộc. Ngày 11 tháng 7/1972, toàn bộ Sư đoàn 18 BB do đại tá Lê Minh Đảo chỉ huy đã nhập trận An Lộc, thay thế cho Sư đoàn 5 BB. Sư đoàn này được triệt thoái về Lai Khê để chỉnh trang sau hơn 2 tháng cùng với các đơn vị tăng phái tử chiến với ba sư đoàn chủ lực của Cộng quân tại tỉnh lỵ Bình Long.

Sinh Tồn chuyển

• Trận Chiến Ác Liệt ở Dầu Giây Giữa Trung Đòan 52 & 20,000 CQ


Chiến đoàn 52 tại phòng tuyến ngã ba Dầu Giây
Sau hai ngày liên tục tấn công vào trung tâm thị xã Xuân Lộc, Cộng quân vẫn không chọc thủng được tuyến phòng ngự của trung đoàn 43/Sư đoàn 18 Bộ binh. Từ ngày 11/4/1975 đến ngày thứ năm 13/4/1975, cùng lúc với các trận pháo kích vào tỉnh lỵ Long Khánh, Cộng quân đã tung thêm 1 sư đoàn có bí số CT 7 (công trường 7) vào mặt trận tại ngã ba Dầu Giây.


Theo tài liệu của đại tướng Cao Văn Viên và một số tài liệu tổng hợp, tính đến ngày 11/4/1975, lực lượng Cộng quân tại mặt trận Xuân Lộc và khu vực phụ cận có 4 sư đoàn chính quy: 431, CT6 và CT7 thuộc Quân đoàn 4, F3 tân lập (trong số các sư đoàn chính quy của Cộng quân cũng có 1 sư đoàn mang tên là CT3-Sao Vàng) ; lực lượng yểm trợ có 1 sư đoàn pháo binh, 2 trung đoàn thiết giáp và khoảng 3 tiểu đoàn đặc công. Tổng chỉ huy lực lượng Cộng quân là Hoàng Cầm- thiếu tướng, tư lệnh quân đoàn 4 Cộng quân. Trong trận chiến Điện Biên Phủ (từ hạ tuần tháng 3/1954 đến 7/5/1954), Hoàng Cầm là trung đoàn trưởng chỉ huy một cánh quân đánh vào bộ chỉ huy của thiếu tướng De Castries.


* Trận biển người của CQ vào tuyến của tiểu đoàn 3/trung đoàn 52 BB
Tại khu vực vòng đai ngã ba Dầu Giây, ngày 12/4/1975, Cộng quân đồng loạt tấn công các chốt tiền đồn do tiểu đoàn 3/trung đoàn 52 Bộ binh phòng ngự tại những vị trí trọng yếu: núi Sóc Lu, đồn điền Bình Lộc, đồi 196 và cụm cao điểm phía Bắc của bộ chỉ huy Hành quân chiến đoàn 52 (trung đoàn 52 Bộ binh là nỗ lực chính). Trận chiến diễn ra ban ngày, Cộng quân tung liên tục các đợt tấn công cường tập để cố chiếm các cao điểm, từ đó khống chế trục giao thông để các đơn vị tăng viện của Cộng quân từ Cao nguyên đổ về có thể di chuyển theo Quốc lộ 20 vào Xuân Lộc nhanh hơn.

Suốt ngày 12/4/1975, các trận giao tranh ác liệt đã diễn ra giữa tiểu đoàn 3/52 và Cộng quân trên các triền núi và khu vực đồn điền Bình Lộc, cách ngã ba Dầu Giây 7 km về hướng Đông Bắc. Để yểm trợ cho cho đơn vị trú phòng, bộ Tư lệnh Hành quân chiến trường Xuân Lộc đã điều động phi đội phản lực cơ A 37 oanh tạc vào đội hình của Cộng quân, đồng thời bộ chỉ huy chiến đoàn đã điều động 1 chi đoàn chiến xa và hai pháo đội Pháo binh yểm trợ hỏa lực cho tiểu đoàn 3/52 để đơn vị có thể giữ được các vị trí phòng ngự. Mỗi trung đội của tiểu đoàn 3/52 đã phải đối đầu với cả hai, ba đại đội Cộng quân. Dù vậy, tinh thần quyết tử của người lính Sư đoàn 18 Bộ binh đã chận đứng được nhiều đợt xung phong thí mạng của đối phương. Sau những giờ kịch chiến, trước lực lượng địch quá đông với chiến thuật tấn công bằng biển người, nên đến đêm 12/4/1975, các vị trí phòng ngự của tiểu đoàn 3/52 đã bị địch tràn ngập. Dù thất thủ, tiểu đoàn 2/52 đã gây tổn thất nặng cho địch quân: hơn 500 Cộng quân bị loại ngoài vòng chiến.

Tiếp theo cuộc tấn công vào tiểu đoàn 3/52, ngày 13 tháng 4/1975, Cộng quân điều động 1 trung đoàn tiến về phía Nam của phòng tuyến chiến đoàn 52. Trung đoàn CQ này có nhiệm vụ tiến hành các cuộc tấn công triệt phá cụm phòng ngự của tiểu đoàn 1/trung đoàn 52 BB tại ngã ba Dầu Giây. Để yểm trợ cho cuộc tấn công bằng bộ binh, Cộng quân đã điều động các đơn vị pháo di chuyển theo liên tỉnh lộ 321, từ phía Nam đi lên, rồi bố trí pháo tại các cao điểm phía Tây Nam và Đông Nam Ngã Ba Dầu Giây, để pháo vào tuyến phòng thủ của các đơn vị thuộc chiến đoàn 52.

* 1 đại đội của tiểu đoàn 1/52 chống trả trận cường tập của CQ:
Theo sự phối trí của bộ chỉ huy chiến đoàn 52, tiểu đoàn 1/52 bố trí quân quanh ngã ba Dầu Giây, đại đội phòng thủ xa nhất án ngữ tại ấp Phan Bội Châu và dọc theo đường xe lửa, cách Dầu Giây 1 km, dọc theo Quốc lộ 20, kéo dài về hướng Nam. Tối 13 tháng 4/1975, sau trận mưa pháo kích hỏa tập hơn 1 giờ, Cộng quân tấn công biển người tràn ngập vào tuyến phòng ngự của đại đội thuộc tiểu đoàn 1/52 nói trên. Đơn vị trú phòng đã mở đường máu ra rút về tuyến sau. Tính đến 12 giờ đêm 13/4/1972, cụm tuyến phòng ngự của chiến đoàn 52 chỉ còn chiều dài khoảng 6 km, dọc theo Quốc lộ 20 (đường từ Long Khánh đi Đà Lạt).

Sau 1 tuần lễ tử chiến với các sư đoàn CSBV, lực lượng chiến đoàn 52 còn khoảng 2 ngàn quân, gồm cả các đơn vị Địa phương quân Long Khánh từ Định Quán, Túc Trưng triệt thoái về. Về đơn vị Thiết giáp tăng cường, số chiến xa bị cháy và không sử dụng được chiếm gần 1/2. Các pháo đội 105 và 155 ly, tuy chưa bị trúng pháo của CQ, nhưng từ ngày 12/4/1975, số đạn được tiếp tế rất hạn chế. Các ưu tiên về yểm trợ hỏa lực, về phi pháo dồn cho mặt trận chính là trung tâm thị xã Xuân Lộc.

* Trận đánh đẫm máu tại ngã ba Dầu Giây vào chiều ngày 15/4/1975:
Chiều ngày 15 tháng 4/1972, bộ tư lệnh quân đoàn 4 CSBV điều động sư đoàn 341 tổng trừ bị phối hợp với 2 trung đoàn của CT7, 1 lữ đoàn chiến xa T 54, một số tiểu đoàn đặc công, tổng quân số khoảng 20 ngàn, đã đồng loạt tấn công cường tập vào tuyến phòng thủ trung tâm của chiến đoàn 52 tại ngã ba Dầu Giây. Sự tương quan về lực lượng quá chênh lệch, 1 người lính của chiến đoàn 52 phải chống trả với 10 Cộng quân, ngoài ra đối phương còn áp đảo về hỏa lực pháo binh.

Trận chiến diễn ra thật khốc liệt ngay từ những giây phút đầu. Với chiến thuật sử dụng pháo để khống chế chiến trường, sau đó tung bộ binh tấn công bằng biển người có chiến xa yểm trợ, sau 3 giờ giao tranh đẫm máu, Cộng quân đã tràn ngập các cụm điểm phòng ngự của chiến đoàn 52, chia cắt sự liên hoàn trong phòng thủ của các đơn vị thuộc chiến đoàn này dọc theo Quốc lộ 1 và Quốc lộ 20. Một điều không may xảy ra cho chiến đoàn 52 là do trời tối, 4 chiến xa M 48 lại bị trúng đạn pháo kích của CQ, Không quân khó quan sát để thực hiện các phi vụ oanh kích, nên sự yểm trợ hỏa lực của Thiết giáp và Không quân cho các vị trí của chiến đoàn 52 gần như bị tê liệt.

Sau khi đã chia cắt lực lượng của chiến đoàn 52, Cộng quân tung đợt tấn công từ bốn phía để cố chiếm lĩnh trận địa. Trước áp lực mạnh và lối đánh thí mạng tàn bạo của đối phương, phòng tuyến ngã ba Dầu Giây bị vỡ, lực lượng của chiến đoàn còn khoảng 2 đại đội đã mở đường máu vượt thoái được. Dù chiếm được ngã ba Dầu Giây sau 6 giờ ác chiến, nhưng đến 1 giờ sáng, “đại quân” CSBV đã bị tổn thất nặng khi hai trái bom khổng lồ Daisy Cutter- gắn trên C-130 do 1 phi công VNCH điều khiển, được thả xuống khu tập trung quân của các sư đoàn chủ lực CSBV: Toàn bộ khu vực thị trấn Dầu Giây rung chuyển như một trận động đất lớn, đèn phụt tắt, làn sóng vô tuyến của CQ tức khắc im tiếng, bộ chỉ huy sư đoàn 341 và khoảng 7 ngàn quân CSBV bị tiêu diệt bởi hai quả bom này.

* Những trận đánh cuối cùng trong thị xã Xuân Lộc:
Trở lại với mặt trận ở thị xã Xuân Lộc, sau khi thất bại trong hai đợt tấn công đầu tiên vào tỉnh lỵ, Cộng quân chuyển sang tấn công vào hướng Nam và hướng Bắc vòng đai phòng thủ, đồng thời 1 cánh quân CSBV trở lại tấn công thị trấn, bất chấp thiệt hại nặng nề, địch cố xâm nhập vào khu trung tâm, nhưng Sư đoàn 18 Bộ binh đã nhanh chóng phản ứng, đánh bật Cộng quân, bắt sống 20 tù binh, bắn cháy hơn 10 chiến xa. Sau một loạt tấn công bất thành, cuối cùng Cộng quân tung ra đợt tấn công cường tập nhắm vào chiến đoàn 48 đang phòng ngự ở mạn Tây. Tại hướng này, Cộng quân đã điều động 3 trung đoàn bộ binh, với sự yểm trợ của chiến xa T 54, tấn công biển người vào cụm tuyến phòng thủ của các tiểu đoàn của trung đoàn 48 Bộ binh (lực lượng chính của chiến đoàn). Sau hai giờ tấn công thí quân, CQ đã chọc thủng tuyến phòng thủ của 1 tiểu đoàn của trung đoàn này, đồng thời chia cắt làm hai cụm tuyến còn lại. Liên lạc giữa bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh và trung đoàn 48 bị cắt đứt, mặc dầu hai tiểu đoàn của trung đoàn này vẫn còn liên lạc được với bộ Tư lệnh Sư đoàn.
 
Dù các tuyến ngoại vi bị Cộng quân tràn ngập, nhưng tuyến phòng thủ trung tâm vẫn đứng vững. Riêng về Cộng quân, sau khi bị thiệt hại nặng về quân số, pháo binh và chiến xa, đối phương đã thay đổi kế hoạch để tấn công vào Sài Gòn, do đó Xuân Lộc không còn là điểm nóng nữa. Trước diễn biến mới của chiến trường, ngày 20 tháng 4/1975, bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 quyết định cho triệt thoái toàn bộ lực lượng Sư đoàn 18 Bộ binh và các đơn vị tham chiến tại Xuân Lộc, tất cả rút ra khỏi thị xã theo liên tỉnh lộ Hai. 6 giờ chiều cùng ngày, một thành phần của Sư đoàn 18 Bộ binh đã rút từ Long Lễ về Long Bình. Tại đây toàn Sư đoàn được nghỉ dưỡng quân 3 ngày, sau đó được Quân đoàn 3 bố trí phòng thủ khu vực Đông Nam Biên Hòa.

Sinh Tồn chuyển

• Sư Đoàn 18 Bộ Binh Tử Chiến Tại Phòng Tuyến Thép Xuân Lộc




Trong cuộc chiến tháng 4/1975, sau khi đánh chiếm các tỉnh ở Miền Trung và Cao nguyên, Cộng quân đã điều động 3 sư đoàn tổng trừ bị chủ lực để tiến hành cuộc tấn công vào Xuân Lộc, tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh. Từ ngày 9 đến ngày 20 tháng 4/1975, tại chiến trường này, Sư đoàn 18 Bộ binh, lực lượng Lữ đoàn 1 Nhảy Dù, Lữ đoàn 1 Thiết kỵ, Pháo binh...đã chận đứng được nhiều cuộc tấn công cường tập của Cộng quân. Trong phần cuối của loạt bài “Chiến trường Việt Nam 30 năm nhìn lại”, chúng tôi đã trình bày tổng quát về trận chiến tại An Lộc, nhưng do phạm vi bài viết phải lược trình sự kiện chiến trường tại nhiều mặt trận trong cùng một ngày, nên chỉ mới giới thiệu sơ lược một số trận đánh của Sư đoàn 18 Bộ binh. Trong loạt bài Đơn Vị & Chiến trường kỳ này, dựa vào một số tài liệu có giá trị về mặt quân sử, chúng tôi xin tường trình chi tiết về chiến tích của Sư đoàn 18 Bộ binh tại An Lộc và vòng đai tỉnh lỵ vào trung tuần tháng 4/1975: 
 
* Sư đoàn 18 Bộ binh tại phòng tuyến Xuân Lộc:
Trước khi trận chiến tại Long Khánh bùng nổ, theo tài liệu của ông Hứa Yến Lến, cựu sĩ quan QL/VNCH, người đã đảm nhiệm chức vụ tham mưu trưởng Hành quân Sư đoàn 18 Bộ binh vào thời kỳ cuối cùng, lực lượng phòng ngự tại Xuân Lộc và khu vực ngã ba Dầu Giây gồm có: 3 trung đoàn thuộc Sư đoàn 18 Bộ binh, thiết đoàn 5 Kỵ Binh, 4 tiểu đoàn Pháo binh thuộc Sư đoàn 18 Bộ binh binh, tiểu đoàn 82 Biệt động quân, lực lượng Địa phương quân và Nghĩa quân tỉnh Long Khánh. Tất cả các đơn vị nói trên được chia thành 3 lực lượng đặc nhiệm:

- Lực lượng đặc nhiệm 43: do đại tá Lê Xuân Hiếu chỉ huy, gồm trung đoàn 43 Bộ binh gồm trung đoàn 43 (trừ tiểu đoàn 2/43), thiết đoàn 5 Kỵ Binh, tiểu đoàn 2/52, tiểu đoàn 82 Biệt động quân, lực lượng Địa phương quân và Nghĩa quân Long Khánh, trách nhiệm phòng thủ Xuân Lộc.
- Lực lượng đặc nhiệm 48: do trung tá Trần Minh Công chỉ huy, gồm trung đoàn 48 Bộ binh với tiểu đoàn Pháo binh yểm trợ cơ hữu, trách nhiệm hoạt động dọc theo Quốc lộ 1 đi ngang qua vòng đai tỉnh lỵ Long Khánh. (Sau ngày 12/4/1975, lực lượng đặc nhiệm 48 bàn giao nhiệm vụ cho lữ đoàn 1 Nhảy Dù và trở thành trừ bị cho Sư đoàn).
- Lực lượng đặc nhiệm 52: do đại tá Ngô Kỳ Dũng chỉ huy, gồm trung đoàn 52 Bộ binh (trừ tiểu đoàn 2/52), với tiểu đoàn Pháo binh và thành phần yểm trợ cơ hữu), trách nhiệm chận địch dọc Quốc lộ 20, khu vực ngã ba Dầu Giây.
Theo tài liệu của cựu đại tướng Cao Văn Viên, nguyên Tổng tham mưu trưởng QL/VNCH, thì lực lượng tăng phái cho Sư đoàn 18 Bộ binh còn có: trung đoàn 8 thuộc Sư đoàn 5 Bộ binh, thiết đoàn 3 Kỵ Binh (gồm hai chi đoàn M41 và M113, 1 chi đoàn M 48), 2 tiểu đoàn Biệt động quân, hai tiểu đoàn Pháo binh 105 và 155 ly, lữ đoàn 1 Nhảy Dù, liên đoàn 81 Biệt cách Nhảy Dù. Tất cả lực lượng cơ hữu của Sư đoàn 18 Bộ binh và các đơn vị tăng phái được chia thành 3 lực lượng đặc nhiệm mang số hiệu: 316, 318 và 322. (Tài liệu của cựu đại tướng Viên có nhiều điểm khác với tài liệu của ông Hứa Yến Lến, nguyên tham mưu trưởng Hành quân Sư đoàn 18 Bộ binh, nhất là về danh hiệu các đơn vị tham chiến và tăng phái).

Theo phân nhiệm của bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, chuẩn tướng Lê Minh Đảo, tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh là tư lệnh chiến trường Xuân Lộc. Bộ Tư lệnh hành quân đặt tại thị xã tỉnh lỵ. Lực lượng diện địa do đại tá Phạm Văn Phúc, tỉnh trưởng/tiểu khu trưởng Long Khánh trực tiếp chỉ huy, nhưng về phòng thủ, các đơn vị diện địa được phối trí theo kế hoạch của bộ Tư lệnh chiến trường Xuân Lộc. Nhiệm vụ của Sư đoàn 18 Bộ binh là tái chiếm Định Quán trên Quốc lộ 20, tái lập giao thông trên Quốc lộ 1 giữa Xuân Lộc và Bình Tuy, bảo vệ vòng đai phía Bắc của căn cứ tiếp vận Long Bình trên Quốc lộ 15 và căn cứ Không quân ở Biên Hòa.

* Ngày N và N+1 của Sư đoàn 18 BB tại chiến trường Xuân Lộc:
Trận chiến tại An Lộc đã khởi sự từ rạng sáng ngày 9 tháng 4/1972 nhưng ngay từ ngày 7/4/1975, Cộng quân đã điều động quân bao vây các ngõ vào Xuân Lộc. Tại ngã ba Dầu Giây, giao điểm của Quốc lộ 1 và Quốc lộ 20, các đơn vị của sư đoàn 341 và 3 CSBV đã tung quân đặt chướng ngại vật để cắt đứt giao thông giữa Xuân Lộc và Sài Gòn, pháo kích vào tuyến phòng của trung đoàn 52 Bộ binh. Tiếp đó, hai sư đoàn này cùng với sư đoàn 7 CSBV khởi động cuộc tấn Xuân Lộc. Cộng quân khai hỏa vào 5 giờ 30 sáng ngày 9/4/1975 bằng một trận mưa pháo vào khu vực tỉnh lỵ. Phần lớn đạn pháo của CQ rớt vào chợ, nhà thờ và khu dân cư, khiến cho nhiều dân lành bị thương, bị chết trong trận pháo kéo dài hai giờ liền.

7 giờ 30 sáng cùng ngày, lực lượng bộ binh và chiến xa Cộng quân mở cuộc tấn công cường vào trung tâm thị xã Xuân Lộc và tuyến phòng ngự của trung đoàn 43 Bộ binh và 1 tiểu đoàn Địa phương quân của tiểu khu Long Khánh. Tại trung tâm thị xã, trận chiến xảy ra ngay tại nhà thờ Chánh tòa và giữa chợ Xuân Lộc. Đối phương sử dụng thiết giáp có bộ binh tùng thiết tấn công vào khu vực trung tâm tỉnh lỵ Long Khánh. Để đẩy lùi địch quân ra khỏi thị xã, bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 đã điều động lực lượng Dù và Biệt động quân trực thăng vận đến tăng viện, trận chiến trở nên dữ dội hơn.

Từ 7 giờ 30 sáng đến 5 giờ chiều cùng ngày, trung đoàn 43/Sư đoàn 18, lực lượng Địa phương quân và chiến đoàn tăng viện đã nỗ lực chận đứng các đợt tấn công của Cộng quân. 4 chiến xa của địch đã bị bắn cháy gần chợ Xuân Lộc. Đến 6 giờ chiều ngày 10/4/1975, các chốt cầm cự của Cộng quân trong tại thị xã Xuân Lộc, nhà thờ Chánh Tòa hoàn toàn bị đánh bật. Báo cáo sơ khởi của bộ Tư lệnh chiến trường An Lộc cho biết có 300 Cộng quân bị bỏ xác tại trận địa với trên 100 vũ khí đủ loại, 2 binh sĩ Cộng quân bị bắt sống. Tại các khu vực kế cận thị xã, trận chiến vẫn kéo dài đến 10 giờ đêm, do Cộng quân cố bám giữ một số vị trí đã đánh chiếm vào buổi sáng, nhưng cuối cùng, lực lượng tăng viện đã tung các đợt tấn công đêm nỗ lực giải tỏa áp lực của địch quân, 2 chiến xa T 54 của CQ bị hạ tại các vị trí này cùng 6 súng đại liên phòng không và một số súng cá nhân khác bị tịch thu.

Theo ghi nhận của một số cấp chỉ huy các đơn vị tham chiến, trận An Lộc trong ngày đầu tiên vô cùng khốc liệt, như nhận xét của Văn Tiến Dũng, đại tướng, tổng tham mưu trưởng quân đội CSBV trong một bài viết về cuộc chiến 30/4: “Mặt trận Xuân Lộc ác liệt và đẫm máu ngay từ những ngày đầu; các sư đoàn 6, 7 và 341 của ta (CSBV) đã phải tấn công trong thành phố nhiều lần nhưng gặp sức kháng cự mạnh của trung đoàn 43 của địch; các đơn vị Pháo binh của ta đã sử dụng nhiều hơn số đạn dự trù và xe bọc thép của ta bị hại nhiều”.

Trong trận tấn công vào Xuân Lộc, chiến thuật sử dụng pháo binh để khống chế chiến trường đã được Cộng quân vận dụng tối đa. Trong điều kiện chưa mở cuộc tấn công quy mô, chiến thuật “đánh nhanh rút nhanh” của đặc công Cộng quân đã được thực hiện trong nhiều trường hợp. Về mức độ pháo kích, tính từ 5 giờ 30 sáng ngày 9/4/1975 đến 6 giờ chiều cùng ngày, Cộng quân đã pháo kích khoảng 3 ngàn quả pháo đủ loại vào trung tâm thị xã. Tính trung bình, mỗi giờ thị xã này phải hứng chịu gần 250 quả pháo. Riêng trong giờ đầu tiên trước khi tung bộ binh và thiết giáp tấn công thị xã Xuân Lộc, Cộng quân đã pháo hơn 1 ngàn quả đạn vào thị xã.

Ngày 10 tháng 4/1975, Cộng quân mở trận tấn công thứ hai vào thị xã Xuân Lộc với nỗ lực chính là sư đoàn 6, sư đoàn 7 CSBV, 2 lữ đoàn chiến xa. Trận chiến khởi sự lúc 7 giờ sáng với trận pháo kích khoảng 1 ngàn quả đạn đủ loại. Pháo binh CQ vừa ngưng, lực lượng bộ binh và chiến xa Cộng quân đã tấn công từ bốn hướng: Đông, Tây, Nam, Bắc thị xã. Từ tòa Hành chánh tỉnh Long Khánh đến phi trường tỉnh lỵ, tại mỗi khu vực Cộng quân đều điều động lực lượng từ cấp trung đoàn trở lên, có chiến xa yểm trợ, tấn công vào các cụm tuyến phòng ngự của Sư đoàn 18 Bộ binh và lực lượng tăng phái.

Tại tuyến phòng ngự của trung đoàn 43 Bộ binh, Cộng quân đã tung nhiều đợt tấn công biển người để cố chọc thủng cụm phòng thủ của trung đoàn này. Dù bị áp đảo về quân số và về hỏa lực, nhưng hai tiểu đoàn 1/43 và 3/43 Bộ binh đã đánh trả quyết liệt, gây tổn thất nặng cho Cộng quân. Đến chiều ngày 10 tháng 4/1972, Cộng quân tung thêm đợt tấn công biển người cố tràn ngập chiến tuyến của trung đoàn 43 Bộ binh. Địch quân đã cắt tuyến chiến đấu của trung đoàn này thành những cụm nhỏ, nhưng người lính Sư đoàn 18 BB vẫn tiếp tục giữ trận địa, đẩy lùi các đợt tấn công của đối phương.

Tân Sơn Hòa chuyển

Tuesday, September 17, 2013

• PHÂN ƯU CỐ CHUẨN TƯỚNG PHAN HÒA HIỆP

PHÂN ƯU CỐ CHUẨN TƯỚNG PHAN HÒA HIỆP
Trịnh Khánh Tuấn, ngày 15.9.2013
Mai Nguyễn Huỳnh - Shared privately  -  1:49 PM

 

Vô cùng thương tiếc cố CHUẨN TƯỚNG PHAN HÒA HIỆP- Cựu Trưỡng phái đoàn VNCH trong Ban Liên Hiệp Quân Sự bốn bên. Kình chúc hương hồn cố Chuẩn Tướng sớm được về cõi an lành,miên viễn bình an...!!!
Vòng hoa thương tiếc- Tri ân vị anh hùng QL.VNCH.

Theo tin từ Ðỗ Dzũng/ báo Người Việt 35 năm

CỰU CHUẨN TƯỚNG PHAN HÒA HIỆP
cựu Tổng Trưởng Thông Tin Dân Vận/ VNCH
cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh
cựu Trưỡng phái đoàn VNCH trong Ban Liên Hiệp Quân Sự bốn bên.

ĐÃ QUA ĐỜI, THỌ 86 TUỔI LÚC 2 giờ 5 PHÚT SÁNG THỨ BẢY, 14 tháng 9.2013 TẠI TƯ GIA Ở RLANDO FLORIDA, SAU MỘT THỜI GIAN BẠO BỆNH

Tiếp xúc với nhật báo Người Việt qua điện thoại, bà Phan Châu Ánh, phu nhân người quá cố, nói trong nước mắt: “Nhà tôi qua đời khá bất ngờ. Ông bị ung thư phổi hơn một năm nay. Tưởng là đến cuối năm ông mới đi, không ngờ ông đi sớm như vậy.”

“Ông là một người rất tốt, luôn lo cho gia đình và con cái, trong suốt 52 năm chung sống với tôi,” bà Phan Châu Ánh, trước đây tên là Châu Ngọc Ánh, nhận xét về người bạn đời. “Hồi còn sống, ông có hỏi tôi, kiếp sau, nếu tôi xin làm người bạn đời của bà, bà có bằng lòng không. Tôi nói tôi bằng lòng chứ.”

Nhà báo Phan Nhật Nam từng là thư ký trưởng phái đoàn và là sĩ quan trao trả trong Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên của VNCH trước năm 1975, mà trưởng phái đoàn lúc đó là cố Chuẩn Tướng Phan Hòa Hiệp.

“Phải nói rằng trước đây không ai có thể nghĩ rằng một sĩ quan thiết giáp mà lại đảm trách một nhiệm vụ có tính cách chính trị. Nhưng khi trở thành trưởng phái đoàn ban liên hợp, Tướng Phan Hòa Hiệp đã chứng tỏ ông rất 'cứng cựa' và vững vàng,” nhà văn Phan Nhật Nam nhận xét.

Nhà báo này chia sẻ thêm: “Phải nói là tôi và chuẩn tướng có rất nhiều kỷ niệm. Tôi còn nhớ, khoảng năm 1952, tôi ở chung khu nhà số 5 Tô Hiến Thành-Huế với ông, lúc đó ông mới là trung úy. Khi tôi thấy bức hình ông duyệt xe thiết giáp ở Phú Văn Lâu, tôi cảm thấy hào hứng vô cùng và muốn vào quân đội. Và năm 1960, chính ông thúc giục tôi đi lính. Khi ra trường năm 1963, tôi lại gặp ông, lúc đó mang lon thiếu tá, và tôi coi ông như người anh. Rồi đến năm 1973, chính ông xin cho tôi về Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên.”

Bà Phan Châu Ánh cho biết bà và cố chuẩn tướng có năm người con, hai trai, ba gái, và bảy cháu nội ngoại.

Bà cho biết hiện gia đình đang phối hợp với nhà quàn để lo an táng cho ông. Theo dự trù, viếng xác từ 5 giờ chiều đến 9 giờ tối trong hai ngày Thứ Năm và Thứ Sáu, 19 và 20 Tháng Chín. Lễ an táng diễn ra vào lúc 9 giờ 40 sáng Thứ Bảy, 21 Tháng Chín và sau đó linh cữu chuẩn tướng được chôn cất tại nghĩa trang Palm Cemetery, Winter Park, Florida.

Theo gia đình cố Chuẩn Tướng Phan Hòa Hiệp cho biết, ông tốt nghiệp Khóa 1 Võ Bị Ðịa Phương Trung Việt, Ðập Ðá, Huế. Những chức vụ ông từng đảm nhiệm trước đây là Tổng Trưởng Thông Tin và Chiêu Hồi, Trưởng Phái Ðoàn VNCH trong Ủy Ban Liên Hợp Quân Sự hai bên và bốn bên, Tư Lệnh Sư Ðoàn 2 Bộ Binh, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp, Tư Lệnh Lữ Ðoàn I Kỵ Binh, và Thiết Ðoàn Trưởng Thiết Ðoàn 4 Kỵ Binh.

Ông từng được Ðệ Nhị Bảo Quốc Huân Chương trong thời gian phục vụ trong QLVNCH, cũng theo gia đình cho biết.

Xin được thông báo tin BUỒN nầy đấn tất cả cưụ chiến sĩ Vnch, để cùng nhau chia buồn với gai quyến của Cố Chuẩn Tướng.

Khi có địa điểm và giờ thăm viếng tôi sẽ phổ biến đến quý vị sau.


Trịnh Khánh Tuấn, ngày 15.9.2013








Cố Chuẩn Tướng Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà PHAN HOÀ HIỆP (1927-2013)
Qua Đời Tại Olando, Florida Ngày Thứ Bảy 14 Tháng 9 Năm 2013
Nhầm Ngày 10 Tháng 8 Âm Lịch Quý Tỵ 2013
Hưởng Thọ 86 Tuổi

Cố Chuẩn Tướng PHAN HÒA HIỆP

Sơ lược tiểu sử :
Cố Chuẩn tướng Phan Hòa Hiệp tốt nghiệp Khóa 1 Võ Bị Ðịa Phương Trung Việt, Ðập Ðá, Huế.

Chức vụ đảm nhiệm trước năm 1975 :
Tổng Trưởng Thông Tin và Chiêu Hồi
Trưởng Phái Ðoàn VNCH trong Ủy Ban Liên Hợp Quân Sự hai bên và bốn bên
Tư Lệnh Sư Ðoàn 2 Bộ Binh
Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp
Tư Lệnh Lữ Ðoàn I Kỵ Binh
Thiết Ðoàn Trưởng Thiết Ðoàn 4 Kỵ Binh

Huân chương :
Ðệ Nhị Bảo Quốc Huân Chương trong thời gian phục vụ trong Quân Lực VNCH.

Đã qua đời tại tư gia thuộc thành phố Orlando tiểu bang Florida - Hoa Kỳ vào lúc 2 giờ 5 phút sáng Thứ Bảy ngày 14 tháng 9 năm 2013 sau một thời gian bạo bệnh, hưởng thọ 86 tuổi. Lễ an táng diễn ra vào lúc 9 giờ 40 sáng Thứ Bảy, ngày 21 tháng 9 tại nghĩa trang Palm Cemetery, Winter Park, Florida.

Phu nhân của cố chuẩn tướng Phan Hòa Hiệp là bà Phan Châu Ánh. Gia đình có năm người con, hai trai, ba gái, và bảy cháu nội ngoại.

Tiếc thương cố Chuẩn tướng Phan Hòa Hiệp, một niên trưởng và là Trưởng phái đoàn VNCH trong Ban Liên Hiệp Quân Sự Bốn Bên, nhà văn Phan Nhật Nam cựu Sĩ quan Thư ký trưởng trong Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên của VNCH trước năm 1975, tỏ lòng kính mến :

"Phải nói rằng trước đây không ai có thể nghĩ rằng một sĩ quan thiết giáp mà lại đảm trách một nhiệm vụ có tính cách chính trị. Nhưng khi trở thành Trưởng phái đoàn ban liên hợp, Tướng Phan Hòa Hiệp đã chứng tỏ ông rất 'cứng cựa' và vững vàng" .

Nhà báo Phan Nhật Nam tưởng nhớ : "Phải nói là tôi và chuẩn tướng có rất nhiều kỷ niệm. Tôi còn nhớ, khoảng năm 1952, tôi ở chung khu nhà số 5 đường Tô Hiến Thành-Huế với ông, lúc đó ông mới là trung úy. Khi tôi thấy bức hình ông duyệt xe thiết giáp ở Phú Văn Lâu, tôi cảm thấy hào hứng vô cùng và muốn vào quân đội. Và năm 1960, chính ông thúc giục tôi đi lính. Khi ra trường năm 1963, tôi lại gặp ông, lúc đó mang lon thiếu tá, và tôi coi ông như người anh. Rồi đến năm 1973, chính ông xin cho tôi về Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên".

Sunday, September 8, 2013

• Nhảy Dù VNCH-TQ Lục Chiến Mỹ Phản Công quanh Khe Sanh

Nhảy Dù VNCH-TQ Lục Chiến Mỹ Phản Công quanh Khe Sanh

Tân Sơn Hòa chuyển

Mặt trận Khe Sanh, trận chiến giữa tháng 4/1968:
Sau khi đã đánh bật CQ ra khỏi các vị trí trọng điểm quanh Khe Sanh, ngày 15 tháng 4/1968, bộ Tư lệnh Lực lượng 3 Thủy bộ/ Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ tại VN đã khởi động chiến dịch Scotland 2 nhằm tổng truy kích các đơn vị CSBV ở phía Tây Khe Sanh. Nỗ lực chính của cuộc hành quân này là 3 tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 3/ Lực lượng 3 Thủy bộ Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đang hoạt động tại vùng giới tuyến. Song song với chiến dịch này, lực lượng bộ chiến VNCH tiếp tục cuộc hành quân Lam Sơn 207 (khai diễn ngày 1 tháng 4/1968) tại khu vực Tây Khe Sanh, với nỗ lực chính là hai tiểu đoàn Nhảy Dù.
Trước khi chiến dịch này khởi động, vào ngày 11 tháng 4/1968, tại Sài Gòn, đại tướng Westmoreland nhận được lệnh bàn giao chức vụ tư lệnh Lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam để về Hoa Kỳ nhận chức tham mưu trưởng Lục quân. Người thay thế tướng Westmorland là phụ tá của ông: đại tướng Creighton W. Abrams, tư lệnh phó Lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam.

Trước ngày bàn giao, tướng Westmoreland đã phân tích cho người kế nhiệm của ông về tình hình Khe Sanh và các kế hoạch tảo thanh CSBV mà ông đang tiến hành. Tướng Westmoreland nhấn mệnh rằng Cộng quân đã thất bại trong mưu toan muốn tạo Khe Sanh thành một Điện Biên Phủ thứ hai, tuy nhiên một số đơn vị Cộng quân vẫn còn hoạt động ở phía Tây Khe Sanh, các đại đơn vị và bộ phận chính CSBV đã bắt đầu rút về bên kia đất Lào. Cuộc rút lui của đối phương trùng hợp với kế hoạch riêng của đại tướng Westmoreland là muốn tái lập giao thông với căn cứ Khe Sanh. Trong hai tuần đầu của tháng 4, các đơn vị bộ chiến Việt-Mỹ đã giải tỏa Quốc lộ 9, đoạn từ Cam Lộ đến Khe Sanh, nhưng muốn giữ an ninh cho trục lộ này, phải đánh bật các cụm điểm chốt chận của đối phương ở phía Tây Quốc lộ máu này.

* Hai cuộc hành quân của Liên quân Việt-Mỹ:
Ngày 15 tháng 4/1968, ba tiểu đoàn TQLC thuộc Sư đoàn 3 TQLC/ Lực lượng 3 Thủy bộ Hoa Kỳ đã bung rộng về phía Tây để truy quét CQ. Cũng trong ngày này, quanh các ngọn đồi trọng điểm 861 A, 881 Nam, 881 Bắc, 689, giao tranh đã diễn ra ở cấp đại đội giữa TQLC và CSBV.

Trận chiến bùng nổ dữ dội vào ngày 16 tháng 4/1968 khi một thành phần TQLC Hoa Kỳ bị 1 tiểu đoàn CSBV phục kích tại vị trí cách Khe Sanh 6 km về hướng Tây Nam, hai bên đã giao chiến ác liệt, phía TQLC Hoa Kỳ có 17 tử thương, 36 bị thương. Tổn thất về phía CQ khá nặng, nhưng cấp chỉ huy đơn vị Hoa Kỳ không xác định được con số tử thương và bị thương của đối phương do địch đã chuyển đi sau khi rút lui. Cũng trong ngày này, Cộng quân đã pháo gần 300 đạn đại bác vào các vị trí trọng yếu của căn cứ Khe Sanh.

Ngày 17 tháng 4/1968, lực lượng Nhảy Dù VNCH tung cuộc phản công quyết định tại phía Tây Khe Sanh và Làng Vei, Cà Lu. Với lối đánh tốc chiến, các đơn vị Nhảy Dù VNCH đã mở các đợt xung phong vào cụm tuyến phòng ngự của đối phương. Cộng quân đã sử dụng tất cả các loại súng cộng đồng bắn xối xả để cản cường độ tấn công của Nhảy Dù. Giao tranh diễn ra ở mức độ rất ác liệt, đến chiều, lực lượng Nhảy Dù đã khống chế trận địa, kết thúc cuộc hành quân Lam Sơn 207 với kết quả: phía Cộng quân có 215 CSBV bị tử thương, 4 bị bắt, 26 súng cộng đồng và 67 súng cá nhân bị tịch thu; phía Nhảy Dù VNCH: 48 tử trận, 206 bị thương.

Tình hình chiến sự tại mặt trận tạm lắng dịu được hai ngày, đến 19 tháng 4/1968, Cộng quân lại mở các trận hỏa tập vào căn cứ Khe Sanh và tổ chức phục kích một đoàn quân xa Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ trên Quốc lộ 9, cách Cà Lu 7 km về phía Tây Nam. Trực thăng võ trang đã xuất trận kịp thời chận đứng cuộc tấn kích của đối phương, tuy nhiên phía Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ cũng bị tổn thất với 4 quân nhân Hoa Kỳ tử thương, 22 bị thương, một số xe bị hư hại.

Ngày 22 tháng 4/1968, đơn vị TQLC phòng ngự đồi 881 đã bị Cộng quân tấn công dữ dội bằng hỏa tiễn và lựu đạn, nhưng vẫn giữ vững được vị trí. Từ 23 đến cuối tháng 4/1968, Cộng quân tiếp tục tấn công bằng pháo và đặc công vào các vị trí ở phía Tây của căn cứ. Cũng cần ghi nhận rằng trong suốt thời gian bao vây căn cứ Khe Sanh, các toán đặc công của Cộng quân thường bò vào hàng rào cắt kẻm gai và đổi hướng các loại mìn định hướng của quân trú phòng gài quanh căn cứ. Sự đổi hướng quay vào phía trong của loại mìn định hướng nếu không kịp phát hiện sẽ gây thương vong cho quân trú phòng khi CQ mở các đợt tấn kích. Thế nhưng, trong thời gian tiểu đoàn 37 BĐQ VNCH phòng thủ vòng đai phi đạo, các chiến sĩ Mũ Nâu đã vô hiệu hóa các hoạt động của đặc công CSBV. Một sĩ quan BĐQ kể lại là dù suốt đêm cả đơn vị phải thức trắng, ngày thì phải lo đối phó với các đợt pháo kích, nhưng hàng ngày từng trung đội đều cho người bò ra hàng rào, kiểm soát lại hệ thống mìn định hướng và hệ thống hàng rào kẻm gai.

* Khe Sanh và cuộc tổng công kích Mậu Thân của Cộng quân
Như đã trình bày trong các số báo trước, kế hoạch tấn công căn cứ Khe Sanh là một phần của cuộc tổng công kích của CSBV trong Tết Mậu Thân. Cộng quân khai hỏa tại mặt trận Khe Sanh trước Tết 10 ngày nhằm đánh lạc hướng phán đoán của liên quân Việt-Mỹ và để thu hút sự chú ý của các tư lịnh chiến trường Quân đội Hoa Kỳ và Quân lực Việt Nam Cộng Hòa cho rằng Khe Sanh là chiến trường quyết định, các nơi khác là phụ thuộc. Tuy nhiên bộ Tổng Tham Mưu Quân lực VNCH và bộ Tư lịnh của đại tướng Westmoreland đã nhận được những báo cáo đặc biệt là CQ sẽ mở cuộc tổng công kích toàn lãnh thổ VNCH, trong đó CQ muốn “lập” một Điện Biên Phủ tại Khe Sanh. Những thông tin tin báo chiến trường đã được kiểm chứng qua lời khai của một sĩ quan CQ ra đầu hàng tại Khe Sanh.

Theo hồi ký của đại tướng Westmoreland, vào chiều ngày 20/1/1968 (trước Tết 10 ngày), một trung úy Cộng quân tên là Lã Thanh Tòng, đã xuất hiện ở cuối phi đạo sân bay Khe Sanh, tay cầm cờ trắng, xin ra đầu hàng. Giải thích về lý do ra hàng, Tòng cho biết đương sự xứng đáng được thăng cấp và giữ chức vụ cao hơn, nhưng đã bị một sĩ quan Cộng quân khác kém tài hơn tranh đoạt nên đã sinh ra bất mãn. Tòng đã trình bày chi tiết về kế hoạch tấn công Khe Sanh thì ngay đêm 20/1/1968 rạng ngày 21/1/1968, Cộng quân sẽ tấn công hai vị trí phòng thủ của TQLC Hoa Kỳ tại đồi 861 và đồi 881. Lời khai của Tòng đã được chứng minh vì ngay đêm đó Cộng quân đã khởi sự tấn công vào hai vị trí trên.

* Bộ chỉ huy CQ đặt trên đất Lào
Cũng theo lời khai của Tòng, các đơn vị CQ đã được chuẩn bị để thực hiện cuộc tổng tấn công vào dịp tết. Vài ngày sau khi Tòng ra đầu hàng, B 52 đã thả bom xuống một vùng núi đá ong ở Lào. Theo phân tích của cơ quan tình báo chiến trường thuộc bộ tư lịnh của tướng Westmoreland, vùng núi đá nói trên có thể là bộ chỉ huy của một lực lượng lớn Cộng quân đang đồn trú để chỉ huy các đơn vị quanh Khe Sanh và toàn bộ khu Bắc miền Trung. Bộ chỉ huy này rất quan trọng vì theo cung từ của nhiều tù binh bắt được quanh căn cứ Khe Sanh và tại khu phi quân sự ở bờ Nam sông Bến Hải đều khai rằng có một nhân vật rất quan trọng-có thể là Võ Nguyên Giáp-đến thăm mấy lần. Sau vụ bị ném bom này, làn sóng vô tuyến của bộ chỉ huy này bị im tiếng trong vòng hai tuần. Có lẽ vì vậy mà trận tấn công của Cộng quân vào dịp Tết Mậu Thân đã thiếu sự chỉ huy thống nhất. Các sư đoàn tham chiến tự động tiến hành kế hoạch mà không có sự hợp đồng toàn mặt trận.

Suốt thời gian bao vây và tấn công Khe Sanh, CQ đã sử dụng tối đa hỏa lực pháo binh để tiến hành các đợt hỏa tập vào các vị trí trọng yếu như phi đạo, kho đạn, khu vực trung tâm. Tại mỗi mục tiêu pháo, CQ thường pháo kích từ bốn, năm trái một lần. Sau nhiều tuần lễ, binh sĩ TQLC Hoa Kỳ đã học được kinh nghiệm tránh pháo. Cứ mỗi lần nghe tiếng gió của đạn ra khỏi nòng thì khoảng 21 giây sau sẽ nổ. Thời gian này kịp cho các chiến binh trú phòng nhảy xuống hầm để núp. Nếu đạn pháo của địch bắn từ xa đến, thì hễ nghe tiếng gió rít qua đầu thì báo qua máy cho đồng đội ở tuyến gần đó biết.

Theo hồi ký của đại tướng Westmoreland, vị tướng này cũng đã “nếm mùi” pháo kích khi đến Khe Sanh để họp cùng đại tá Lownds, chỉ huy căn cứ. Khi tướng Wesrmoreland đến nơi, CQ bắt đầu pháo kích. Khi ông lên trực thăng ra về và được 1 trực thăng thuộc loại “tàu rượt đuổi địch quân” hộ tống. Đạn súng nhỏ của CQ bắn trúng trực thăng hộ tống này và bị hư hại nhưng vẫn bay được.

Trận chiến tại Khe Sanh tạm lắng dịu vào cuối tháng 4, nhưng sau đó lại bùng nổ với những trận hỏa tập của CQ vào thượng tuần tháng 5/1968. (Biên soạn theo tài liệu của Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ, bản tin chiến sự hàng ngày của Tổng cục Chiến tranh Chính trị QL/VNCH phổ biến cho báo chí, hồi ký của đại tướng Westmoreland do nhà xuất bản Thế Giới phát hành, một số bài viết trong KBC...)

Tân Sơn Hòa chuyển