Saturday, September 7, 2013

• Trận Chiến Ác Liệt Hè 72 Giữa Sư Đoàn 18 BB & CSBV

Trận Chiến Ác Liệt Hè 72 Giữa Sư Đoàn 18 BB & CSBV

Sinh Tồn chuyển

* Trung đoàn 52/Sư đoàn 18 Bộ binh tại chiến trường Bình Long:
Trong loạt bài giới thiệu Sư đoàn 5 Bộ binh, chúng tôi đã lược trình một số trận giao tranh tại mặt trận An Lộc trong mùa Hè 1972 giữa các trung đoàn của Sư đoàn này và các đơn vị Cộng quân. Riêng trong giai đoạn đầu của trận chiến, một trong những binh đoàn tăng viện cho Sư đoàn 5 Bộ binh là trung đoàn 52 thuộc Sư đoàn 18 Bộ binh.

Đang hành quân tại khu vực phía Đông Nam của miền Đông Nam phần, trung đoàn 52 Bộ binh được bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 điều động lên tỉnh Bình Long để tăng cường cho Sư đoàn 5 Bộ binh phòng thủ vòng đai An Lộc từ xa. Theo sự phối trí và tổ chức đơn vị, 2 tiểu đoàn của trung đoàn và hai pháo đội 155 ly và 105 ly lập thành chiến đoàn 52 đặc nhiệm hoạt động tại phía Bắc thị xã An Lộc. Toàn bộ lực lượng chiến đoàn được trực thăng vận đến khu vực gần cầu Cần Lê gần giao điểm Liên tỉnh lộ 17 và Quốc lộ 13, cách An Lộc 15 km về hướng Bắc và cách Quốc lộ 13 2km về hướng Tây. Tại khu vực này, theo kế hoạch của bộ Tư lệnh chiến trường An Lộc, bộ chỉ huy trung đoàn 52 Bộ binh (đồng thời là bộ chỉ huy chiến đoàn 52 BB) đã cho xây dựng 1 căn cứ hỏa lực với hai pháo đội Pháo binh và 1 tiểu đoàn của trung đoàn 52 trách nhiệm phòng thủ, ngoài ra, tiểu đoàn thứ hai của chiến đoàn trách nhiệm bảo vệ trục giao thông giữa chi khu Lộc Ninh và thị xã An Lộc.

* Những trận giao tranh ác liệt quanh Lộc Ninh:
Ngày 5 tháng 4/1972, chi khu Lộc Ninh bị một trung đoàn của Công trường 5 CSBV tấn công. Để giải tỏa áp lực của Cộng quân, ngay trong tối 5 tháng 4/1972, bộ Tư lệnh Sư đoàn 5 BB đã ra lệnh cho chiến đoàn 52 Bộ binh điều động 1 tiểu đoàn Bộ binh tiếp cứu cho lực lượng Địa phương quân Lộc Ninh đang bị bao vây. Sáng ngày 6 tháng 4/1972, khi tiểu đoàn Bộ binh này vừa đến ngã tư liên tỉnh lộ 17 và Quốc lộ 13 thì bị khoảng 2 tiểu đoàn Cộng quân tấn công. Dù bị địch áp đảo về quân số, nhưng tiểu đoàn của trung đoàn 52 Bộ Binh đã nỗ lực đẩy lùi được đợt tấn công đầu tiên của đối phương. Cộng quân tung tiếp đợt tấn công cường tập thứ hai từ hai hướng, giao tranh đã diễn ra ác liệt, hai bên tổn thất nặng.

Cùng lúc tiểu đoàn Bộ binh nói trên bị tấn công, tiểu đoàn thứ hai của chiến đoàn 52, đang hành quân tuần tiểu ở khu vực hướng Tây căn cứ hỏa lực, đã phát giác một đơn vị Cộng quân đang khai triển đội hình để chuẩn bị một cuộc phục kích. Để chận đứng mưu tính của địch, vị tiểu đoàn trưởng đã cho lệnh ba đội của tiểu đoàn bất thần tấn công vào đội hình của đối phương. Bị tấn công bất ngờ, Cộng quân rối loạn hàng ngũ, không kịp phản ứng chống trả, hơn 100 cán binh CSBV bị loại khỏi vòng chiến, thành phần còn lại đã tháo chạy trong hỗn loạn. Liền sau đó, bộ chỉ huy chiến đoàn 52BB đóng tại căn cứ Hỏa lực Cần Lê bị Cộng quân pháo kích dữ dội bằng đủ loại đạn. Một số công sự bị trúng đạn pháo của địch, hai pháo đội Pháo binh 105 và 155 ly tại căn cứ đã cố gắng phản pháo nhưng gặp khó khăn do áp lực pháo của đối phương mạnh, khống chế trận địa.

Cũng trong buổi sáng ngày 6 tháng 4/1972, Cộng quân tung 1 trung đoàn và 1 tiểu đoàn chiến xa khoảng 30 chiếc tấn công cường tập Lộc Ninh, mặc dù Pháo binh VNCH đã phải hạ nòng bắn trực xạ để ngăn chận Cộng quân nhưng chỉ hai giờ sau, quận lỵ này vẫn bị tràn ngập. Trước tình hình mới của chiến trường, bộ Tư lệnh chiến trường An Lộc cho lệnh chiến đoàn 52 rút về An Lộc để tăng cường cho lực lượng phòng thủ bảo vệ An Lộc. Vào lúc này, ngoài tiểu đoàn Bộ binh tiếp cứu cho Lộc Ninh, lực lượng của chiến đoàn 52 còn lại 1 tiểu đoàn Bộ binh, 2 pháo đội 105 và 155 ly, và thành phần bảo vệ bộ chỉ huy chiến đoàn. Trên đường triệt thoái, chiến đoàn này đã bị Cộng quân chận đánh tại cùng ngã tư Liên tỉnh lộ 17 và Quốc lộ 13.

Tại ngã tư này, Cộng quân đã dàn sẵn trận địa, đào các công sự tác chiến liên hoàn quanh khu vực, khi đại đội đi đầu vừa tiến vào ngã tư thì địch quân tràn ra tấn công. Cùng lúc đó, từ các cụm điểm hỏa lực gần ngã tư, Cộng quân đã sử dụng đủ loại súng cộng đồng bắn xối xả vào các thành phần của chiến đoàn 52. Dù bị tổn thất nặng, nhưng chiến đoàn 52 vẫn nỗ lực đẩy lùi được các đợt tấn công biển người của Cộng quân. Đến gần tối, thành phần còn lại của chiến đoàn 52 đã rút vào rừng. Để đánh lạc hướng phán đoán của đối phương, vị chiến đoàn trưởng đã cho đơn vị rút theo một con đường khác xuyên qua rừng. Đến chiều ngày 7 tháng 4/1972, chiến đoàn đã về đến thị xã tỉnh lỵ.

* Sư đoàn 18 Bộ binh nhập trận An Lộc thay thế Sư đoàn 5 Bộ binh:
Tại An Lộc, các thành phần còn lại của chiến đoàn 52 cùng với một đơn vị của Sư đoàn 5 Bộ binh trách nhiệm phòng thủ hướng Tây. Ngày 11 tháng 7/1972, toàn bộ Sư đoàn 18 Bộ binh được lệnh tạm rời khu vực trách nhiệm (Long Khánh, Phước Tuy, Bình Tuy, Biên Hòa) để nhập trận An Lộc, thay thế cho Sư đoàn 5 Bộ binh được rút về Lai Khê dưỡng quân và tái chỉnh trang. Đại tá Lê Minh Đão (đầu tháng 11/1972 được thăng chuẩn tướng), tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh được cử làm tư lệnh chiến trường An Lộc trong giai đoạn 2.

Cùng với trung đoàn 52 Bộ binh (chiến đoàn 52) đã có mặt tại An Lộc, hai trung đoàn 43 và 48 Bộ binh cùng các đơn vị Pháo binh Sư đoàn 18 BB đã được phối trí để bảo vệ vòng đai tỉnh lỵ Bình Long. Vào thời gian này, lực lượng trừ bị tăng phái cho Sư đoàn 18 Bộ binh là liên đoàn 5 Biệt động quân do trung tá Ngô Minh Hồng chỉ huy. Sau khi hoàn tất cuộc chuyển quân vào An Lộc, bộ tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh (đồng thời là bộ Tư lệnh Mặt trận An Lộc) đã điều động một thành phần bộ chiến phối hợp cùng liên đoàn 5 Biệt động quân giải tỏa áp lực Cộng quân tại một số khu vực trọng yếu: Khu kỹ nghệ Tân Lợi, đồn điền cao su Xa Cam, đồi Gió, phi trường Quản Lợi (bị Cộng quân chiếm giữ từ chiều 7 tháng 4/1972).

Trong tháng 7 và tháng 8/1972, lực lượng bộ chiến Sư đoàn 18 Bộ binh và liên đoàn 5 Biệt động quân tăng pháo đã lần lượt chiếm lại nhiều vị trí chiến lược nói trên, chỉ còn lại phi trường Quản Lợi và vòng đai quanh khu vực này còn bị Cộng quân kiểm soát. Đến tháng 9/1972, bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh tung cuộc phản công toàn diện, 3 trung đoàn của Sư đoàn 18 Bộ binh và liên đoàn Biệt đoàn 5 Biệt động quân đã kịch chiến với 4 trung đoàn Cộng quân ở hướng Bắc, Tây Bắc và Đông Bắc thị xã. Cuộc phản công đã mang kết quả tốt đẹp, dù số quân sĩ bị thương vong khá cao: Cộng quân bị đánh bật khỏi nhiều cụm điểm kháng cự, pháo binh của đối phương đã bị đẩy ra xa, mức độ pháo kích của Cộng quân vào thị xã chỉ ở mức thấp và lẻ tẻ.

* Trận quanh phi trường Quản Lợi:
Theo lệnh của bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, lực lượng bộ chiến Sư đoàn 18 Bộ Binh và liên đoàn 5 Biệt động quân tăng phái đã nỗ lực tái chiếm phi trường Quản Lợi để tái lập cầu không vận giữa tỉnh này với Biên Hòa và Sài Gòn. Trong suốt tháng 9/1972, trận chiến đã diễn ra khốc liệt quanh phi trường Quản Lợi. Tại đây địch đã phối trí hai trung đoàn chủ lực để cố thủ phi trường và chống trả các cuộc phản công của VNCH: 1 trung đoàn bố trí quanh khu trung tâm phi trường, 1 trung đoàn hoạt động phòng ngoài, tổ chức các cụm chốt ngăn chận các cánh quân của Sư đoàn 18 BB và Biệt động quân. Do địch đã xây dựng hệ thống công sự tác chiến kiên cố tại phi trường với các cụm hỏa lực mạnh và các tổ phòng không dày dặc, nên các hoạt động yểm trợ của Không quân cho các đơn vị bộ chiến đã bị hạn chế. Tất cả nỗ lực chính đều dựa vào lực lượng bộ chiến và hỏa lực yểm trợ của đơn vị Pháo binh.

Thế trận giằng co giữa Cộng quân và lực lượng VNCH. Các cuộc phản công của Sư đoàn 18 Bộ binh và Biệt động quân tuy không đánh bật được Cộng quân ra khỏi phi trường Quản Lợi nhưng đã gây tổn thất nặng cho đối phương. Sau gần 4 tháng chiến đấu cam go tại mặt trận An Lộc, đến cuối tháng 10/1972, Sư đoàn 18 Bộ binh được trở về khu vực trách nhiệm cũ, bàn giao nhiệm vụ bảo vệ vòng đai An Lộc cho 3 liên đoàn Biệt động quân của Quân khu 3.

Cũng như Lực lượng Biệt Cách Nhảy Dù, Sư đoàn 18 Bộ binh cũng xây dựng một nghĩa trang tại An Lộc. Nghĩa trang này không chỉ dành riêng cho quân nhân của Sư đoàn đã tử trận mà còn có những khu vực dành cho mộ phần tử sĩ các đơn vị khác. Trước ngày rời khỏi An Lộc, bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh cho lệnh các đơn vị sửa sang lại nghĩa trang, trước mỗi ngôi mộ, có mộ bia làm bằng ván tháo từ các thùng đạn, với hàng chữ viết bằng sơn ghi tên họ, đơn vị của đồng đội đã vĩnh viễn ở lại chiến trường. Ngày lên đường, khi đi ngang qua nghĩa trang, những người lính Sư đoàn 18 Bộ binh lặng lẽ cúi đầu thay cho lời chào vĩnh biệt gửi đến đồng đội đã không bao giờ trở về…


• CHUYỆN NHỮNG NGƯỜI LÍNH TỬ THỦ AN LỘC - Phạm Phong Dinh

CHUYỆN NHỮNG NGƯỜI LÍNH TỬ THỦ AN LỘC 

Phạm Phong Dinh
(Để nhớ lại những ngày Mùa Hè Bão Lửa – Tri Ân những Người Lính QLVNCH)

Ngày 7.7.1972, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đáp xuống An Lộc tuyên dương công trạng và đặc cách thăng cấp tất cả chiến sĩ tử thủ An Lộc sau gần ba tháng ác chiến với bốn sư đoàn cộng quân 5, 7, 9 và Bình Long. Trong lúc tình hình mặt trận vẫn còn rất ngột ngạt, tuy rằng các sư đoàn địch đã lùi ra xa, nhưng không có gì bảo đảm rằng sự hiện diện của vị Tổng Tư Lệnh là không nguy hiểm cho chính bản thân ông. Tổng Thống Thiệu được đích thân Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh lái xe Jeep chở đi một vòng thành phố để quan sát những đổ vỡ của chiến tranh. Tổng Thống Thiệu đã cảm khái đứng lặng thinh bên những nấm mộ chôn vội của tử sĩ và người dân An Lộc. Chiếc xe Jeep phải chạy ngang khu bến xe An Lộc để ông có thể ngậm ngùi trông thấy được một cái nghĩa trang nhỏ, đơn sơ nhưng rất tươm tất, nơi an táng hình hài của 68 anh hùng 81 Biệt Cách Dù, mà đã được đồng đội còn sống lập nên thành.



Chiến thắng An Lộc mang một kích thước quá lớn, không còn của riêng dân tộc Việt Nam đánh bại đạo quân tiền phong của khối cộng sản quốc tế là binh đội Bắc Việt, mà nó còn là một biểu tượng của thế giới tự do đánh thắng chủ nghĩa cộng sản, là khúc dạo đầu báo hiệu sự hủy diệt cái chủ nghĩa quái thai đó 17 năm sau: Cuộc sụp đổ năm 1989 của Liên Sô và khối cộng sản Đông Âu. Tổng Thống Thiệu đã trân trọng trao tặng quân dân tử thủ ở cái thành phố nhỏ bé mà cang cường này một mỹ danh mà sẽ vĩnh viễn đi vào những trang sử dân tộc và cả quân sử thế giới: BÌNH LONG ANH DŨNG – AN LỘC ANH DŨNG. Vị Tổng Thống đã vui vẻ gọi về cho phu nhân của mình, giọng hân hoan của ông có thể được nghe rộng rắp đất nước từ hàng triệu chiếc máy thu thanh:

- Bà đừng chờ cơm tôi. Tôi ở đây ăn cơm với anh em chiến sĩ An Lộc.

Người cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh đã tươi cười đứng giữa những chiến hữu của ông chụp nhiều bức hình, mà ngày hôm sau đã nằm ở trang đầu của những tờ báo Thủ Đô Sài Gòn và cả trên các báo khắp thế giới. Đó há chẳng phải là một vinh dự cực lớn mà quân dân Bình Long Anh Dũng đã xứng đáng nhận được từ chính máu xương của mình. Há chẳng phải đó là một thách thức ngạo nghễ đối với lũ âm binh què quặt của bốn sư đoàn cộng quân đang lẩn trốn đâu đó trong những cánh rừng già Miền Đông và bên kia biên giới. Há chẳng phải là một cú đấm ngàn cân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vào giữa mặt cái khối gọi là “các nước xã hội chủ nghĩa anh em”. Há chẳng phải đó mà một xác nhận cuộc chiến bại nhục nhã mà tướng tá Hà Nội dù có lật lọng đến đâu cũng phải cúi đầu câm nín hay sao.

Chiếc trực thăng phành phạch đập cánh quạt đưa Tổng Thống Thiệu và phái đoàn hùng hậu quan khách Sài Gòn ra thăm viếng đã xa dần. Nhưng đối với quân dân An Lộc, cuộc chiến đấu vẫn còn rất gian nan ở phía trước. Cộng quân đâu đã cam chịu chiến bại, các đơn vị của chúng vẫn còn lẫn quẩn bên ngoài An Lộc dội pháo quấy phá ngày đêm.

Ngày 22.6.1972, các đơn vị tiền phong của Sư Đoàn 18 Bộ Binh đã nhảy xuống thay thế nhiệm vụ trấn thủ An Lộc cho Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Các đơn vị Sư Đoàn 5 Bộ Binh lục tục được không vận về Căn Cứ Lai Khê, trong khi các đơn vị của Sư Đoàn 18 tiếp tục đổ vào thành phố. Vẫn còn một khối lượng công tác chiến đấu ngỗn ngang đang chờ đón đoàn tinh binh tràn đầy nhuệ khí này. Đồi Gió, Đồi 169, phi trường Quản Lợi vẫn còn đang nằm trong tay quân giặc. Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo và chiến sĩ Nỏ Thần Miền Đông của ông sẽ rất bận rộn trong những ngày hành quân trước mặt. Nhưng dù thế nào mặc lòng, buổi chào cờ sáng và thượng Quốc Kỳ mỗi thứ Hai luôn được Chuẩn Tướng Đảo cho cử hành trang trọng, bất chấp địch đang pháo hay không pháo.



Trong những ngày ngột ngạt đó, phóng viên chiến trường Lưu Văn Giỏi nhận lệnh của Bộ Tư Lệnh Không Quân Việt Nam Cộng Hòa nhảy xuống An Lộc để ghi nhận những đổ nát của chiến tranh, những hoạt động âm thầm của những người lính bay Không Quân và người lính Bộ Binh, cùng quân dân An Lộc đã chiến đấu anh dũng như thế nào, đang và sẽ chiến đấu ra sao, cùng những mất mát não lòng. Anh Lưu Văn Giỏi từng là Chủ Tịch Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH Toronto, Canada nhiều nhiệm kỳ. Anh đã về hưu từ lâu và vui thú điền viên. Nhưng những thiên bút ký chiến trường ngày xưa của anh và những đóng góp của anh trong công cuộc đấu tranh chống cộng và tôn vinh Lá Cờ Vàng Đại Nghĩa cùng Những Người Lính QLVNCH vẫn luôn ghi khắc sâu trong lòng mỗi chúng ta. Bài viết Trên Vùng Trời Đất Nước của anh đã nhận được Giải Ba Cuộc Thi Phóng Sự Chiến Trường Năm 1973 của Cục Chính Huấn:

Tại Sư Đoàn 2 Không Quân, tôi nhận một công điện từ Bộ Tư Lệnh Không Quân gọi về trình diện gấp, vì nhu cầu công vụ, thời gian công tác và ngày về sẽ cho đơn vị biết sau. Một chiếc phản lực A37 đi công tác đưa tôi từ Nha Trang vào Sài Gòn. Tại Parking vãng lai, tôi thót lên “Honda ôm” trực chỉ Bộ Tư Lệnh Không Quân. Và nửa giờ sau tại đây tội nhận một sự vụ lệnh khác, thời gian và nơi đến là 8 ngày tại An Lộc. Tờ mờ sáng hôm sau, tôi có mặt trên bãi đậu trực thăng của Sư Đoàn 3 Không Quân để đi Lai Khê. Lần đi này ngoài hợp đoàn 18 chiếc trực thăng võ trang UH, còn có 6 chiếc CH 47 (loại trực thăng khổng lồ tải hàng).


30 phút ở Lai Khê
Phi trường Lai Khê là một phi trường nhỏ được dùng làm Bộ Chỉ Huy Tiền Phương, tất cả trực thăng yểm trợ cho An Lộc đều đặt ở đây để tiện đường cho quân bạn tải quân, tải hàng đến, và nhất là để thu ngắn đường chim bay đến An Lộc. Tại đây, dưới những gốc cao su già có những hàng cơm, hàng nước kiểu dã chiến, vài hoa tiêu mắc võng nằm nhai bánh mì chờ... thời tiết.
Tôi gặp Đại Úy Đào Vũ Anh Hùng, nhà văn kiêm hoa tiêu trực thăng. Thấy tôi, Hùng hỏi:
- Đi làm hay đi chơi? Câu hỏi ngắn và tôi cũng trả lời gọn:
- Đi làm.
Hùng moi trong túi áo bay ra một gói xôi bắp đã bẹp:
- Ăn không? Tôi lắc đầu vỗ nhẹ tay lên bụng, trong khi anh nhìn tôi từ đầu đến chân:
- Vào Điện Biên Phủ thứ hai mà cứ y như là đi du lịch vậy? Không có áo giáp, nón sắt thì phòng không và pháo kích nó không chê bạn đâu.
Hùng chỉ chiếc máy ảnh tôi đang mang trước ngực:
- Phải có thêm một nón sắt nhỏ cho ống kính mới an toàn, nếu không thì bạn có nhiều triển vọng thất nghiệp đấy!
- Kỳ trước có một ông bạn Báo Chí lên An Lộc, khi ông ta vừa đưa máy lên ngắm thì một viên AK đã ưu ái chui vào nằm gọn trong ống kính. Cũng may là tầm đạn đã yếu nên không bị chột.
Có nhìn thấy cái cảnh phi công Việt Nam treo võng nằm tòn teng dưới những gốc cao su gậm bánh mì, cạp xôi bắp chờ phi vụ ta mới thấy thương họ. Nghỉ ngơi và ăn uống như thế mà bay như điên, bay bất kể giờ giấc và thời tiết. Có khi vừa đáp, chưa kịp nghỉ ngơi mà thấy có tên trong Phi Vụ Lệnh là lại xách nón đi bay. Cứ sáng vác tàu đi, tối vác về... Có người đi rồi không bao giờ trở lại. Cũng có người về mà trên thân tàu lổ chổ đầy dấu đạn phòng không. Cũng có người khi đã đáp an toàn trên bãi đậu rồi mới biết người xạ thủ phi hành của mình đã gục đầu trên cây đại liên mà chết tự lúc nào. Cũng có khi người hoa tiêu chánh bị phòng không ngồi chết ngay ngắn trong ghế lái trong “tư thế còn sống”, cái chết thật đẹp như cái chết của một Từ Hải mà người hoa tiêu phụ vẫn cố cắn răng để nước mắt mình lăn dài xuống má, tiếp tục bay thi hành cho xong sứ mạng đã, rồi mới về. Cũng có người phải bỏ tàu giữa rừng để về bằng một tàu khác, hoặc băng rừng lội suối, rồi năm bảy ngày sau mới về với một thể xác đói khát và đầy thương tích. Ta có thể so sánh những tiện nghi cùng số giờ bay và thành tích chiến đấu một trời một vực giữa phi công Hoa Kỳ và phi công Giao Chỉ như sau:

Pilot Hoa Kỳ không biết mắc võng ở gốc cây nằm gặm bánh mì chờ phi vụ như pilot An Nam ta. Hồi tháng 4.1972, ở mặt trận Tây Nguyên, tại Bộ Chỉ Huy của tiền đồn Tân Cảnh, tôi đã thấy một Đại Úy phi công Hoa Kỳ trong bữa cơm. Ông ta đã ăn gần nửa kí thịt với bơ, sữa, hột gà, táo, nho, rồi mới bước lên chiếc trực thăng võ trang Cobra mà cất cánh, trong khi hoa tiêu Giao Chỉ cũng trước một phi vụ nhưng chỉ... “thổi hết một cái kèn bằng bột”, rồi ngửa cổ ừng ực nước lã trong bi đông, xong... cuốn võng leo lên ghế lái, bay vù vù, bay như điên. Về số giờ bay và thành tích, ta có thể so sánh thật thà như sau : “Chiến trận Hạ Lào chính thức khai diễn ngày 8.2.1971, trong 29 ngày đầu tại đây, người Mỹ có số giờ bay cao nhất là một Thiếu Tá, 80 giờ. Trong khi đó, phi công có số giờ bay cao nhất là Trung Úy Dương Đức Ngọc, thuộc Không Đoàn 62 Chiến thuật, Sư Đoàn 2 Không Quân, 168 giờ. Người Mỹ đánh nhiều chiến xa nhất, một Trung Úy phi công phản lực, 3 chiếc. Trong khi đó Trung Úy Dương Đức Ngọc đánh 17 chiếc T54. Số giờ bay và thành tích đó đã làm vẻ vang về tinh thần chiến đấu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bên cạnh quân đội đồng minh tại Hạ Lào. Trong trận này, Ngọc cũng là người lãnh đạn phòng không nhiều nhất. Một lần phi cơ anh đứng một chong chóng, phài đáp ở Đà Nẵng lúc 23 giờ 30, 3 lần khác bị gãy cánh trái và cánh đuôi, nhưng lúc bấy giờ thời tiết ở Việt Nam không cho phép, nên anh phải dẫn tàu qua Thái Lan đáp trên phi trường Nakhom – Phakhom. Sự so sánh thật thà trên đã là một chứng minh cụ thể cho ta thấy tinh thần chiến đấu cao độ của người lính Việt Nam trên đất nước nghèo nàn này.

Đồng hồ tay chỉ 7 giờ 45, trời vẫn còn xấu. Các hoa tiêu có vẻ sốt ruột, họ tụm năm tụm ba ngồi đấu láo với nhau, nói chuyện thời tiết, nói chuyện phi vụ hôm qua, chuyện hào hoa, lã lướt đêm rồi và bàn với nhau cho phi vụ sắp tới. Một nhân viên của toán Điều Không đến nói với Hùng:
- Cứ cất cánh, vì An Lộc đang chờ. Tôi đứng dậy nhưng không đi với Hùng, vì anh bay tàu C and C (Hướng dẫn C and C = Command and Control và chỉ huy, không đáp).

Tôi theo chân một hoa tiêu ra chiếc võ trang đậu ngoài bãi. Tại đây, lương thực, vũ khí, đạn dược và chiến sĩ đổ bộ đã chờ sẵn. Tôi đi chiếc tàu tải đạn. Mười phút sau tất cản những chiếc trực thăng tại đây đã bốc khỏi mặt đất và... trực chỉ An Lộc. Trên đường từ Lai Khê đến An Lộc trần mây thật thấp, sương mù còn thật mù, họ phải để đèn báo hiệu cho khỏi đụng nhau trên trời. Ngồi trên trực thăng nhìn chung quanh những chiếc võ trang đang lù lù bay theo, tôi có cảm tưởng như đây là một đàn ong khổng lồ bị vở tổ và đang di dân. Sau vài phút bay, đến một nơi quang đãng hơn, dưới mắt tôi ruộng đồng xơ xác, những hàng tre cháy xém, những hố đạn, hố bom cày nát trên ruộng đất bỏ hoang...

Nhảy xuống An Lộc
Người xạ thủ phi hành ghé váo tai tôi:
- Anh có xuống không?
Tôi gật đầu. Anh ta lại nhìn tôi với vẻ ái ngại như thầm hỏi tôi sao không có áo giáp và nón sắt, nhưng... tôi lờ đi. Bỗng anh khom lưng chỉa mũi minigun xuống đất bấm cò. Những hồi đạn rú dài như... bò rống. Tôi thấy... rức tim khi những vệt lửa từ dưới xẹt lên quanh phi cơ. Xung quanh tôi, năm chiến sĩ bộ binh thuộc Sư Đoàn 18 cũng... lên đạn. Tôi cũng nhét vội băng đạn vào khẩu Colt của mình cho vững bụng. Đang bay, tàu bỗng xà xuống đột ngột rồi bất ngờ đáp vội trên Quốc Lộ 13, “càng” chưa chạm đất, mấy quả đạn pháo kích đã ào ào bay tới rớt quanh đó làm gãy mấy cây cao su. Tôi nhảy vội theo năm chiến sĩ rời thân tàu và lăn tròn qua mặt lộ nằm gọn dưới một hố bom. Chúng tôi chưa kịp xô hàng xuống, thì tàu đã bốc vội lên cao bay mất hút, một trái dạn khác rớt ngay chỗ phi cơ vừa đáp làm banh xác cái ba lô vô tội của một chiến sĩ vừa quăng xuống. Mấy bịch gạo xấy tung tóe trắng mặt đường. Tôi nằm dưới hố bom mà thầm nghĩ : “Người Mỹ đã dạy cho người Việt biết đánh giặc bằng trực thăng, nhưng còn lâu sự khôn lanh của họ mới bằng sự nhanh nhẹn của người Việt Nam và... có lẽ chừng nào người Mỹ biết ăn trầu, thì họ mới có đủ được kinh nghiệm của chiến trường Việt Nam. Vì nếu lơ mơ không bốc lên kịp, thì chiếc trực thăng kia với một núi đạn 81 ly trong đó sẽ lãnh đủ trái đạn pháo vừa rồi.

Tôi nhìn theo chiếc trực thăng đã mất hút ở cuối bìa rừng cao su, như hiểu ý, một người nằm gần nói với tôi :
- Cứ nằm đây chờ, chút nữa hết pháo họ sẽ đến.
Tôi hỏi lại:
- Nhỡ đến mà nó pháo nữa thì sao?
Anh ta thản nhiên:
- Trúng thì rớt, không trúng thì bay đi.
Sau câu nói này, tôi nhớ lại cái chết của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Nhàn thuộc Phi Đoàn CH47 của Sư Đoàn 3 Không Quân trước đây một tuần tại mặt trận An Lộc. Trong một phi vụ tiếp tế, tàu của Nhàn bị trúng phòng không, bạn bè bay theo bảo anh rời vòng chiến ngay và đáp ép buộc chờ trực thăng võ trang cứu. Nhưng anh đã trả lời:
- Biết rồi, để thả hết hàng cho họ đã. Họ bị thiếu tiếp tế từ mấy ngày nay, không lẽ mình vượt bao nhiêu màn lươi phòng không mới vào được đây, mà bây giờ lại ra sao?

Anh chỉ trả lời như thế rồi tiếp tục vào vòng yểm trợ. Khi số hàng còn lại trên tàu vừa thả được xong, thì cũng là lúc chiếc CH47 anh đã nằm gọn trong màn lưới phòng không. Thiếu Tá Mai là bạn của anh bay gần đó đã nghe được những lời cuối cùng của anh qua hệ thống vô tuyến : “Hàng thả hết rồi, nhưng tất cả hệ thống điều khiển trong phòng lái đã ngưng hoạt động. Bây giờ tao đáp ép buộc đây, tụi mày hãy theo tao cover thật kỹ và pick-up thật nhanh... “. Nhưng không còn kịp nữa, anh vừa nói xong thì chiếc trực thăng đã như một bó đuốc khổng lồ từ trời cao rơi xuống nổ tung trên mặt đất, và anh đã chết theo tàu... Tôi và các chiến sĩ vẫn nằm trốn đạn và chờ trực thăng đến. Quanh đó, vài chiến xa T54 nằm chỏng trơ, vài chiếc khác nằm chúi đầu xuống những hố bom, phía sau tôi là rừng cao su trùng điệp. Trong phút chốc tàu bốc vội lên mây, mất hút ở cuối một khúc quanh của con lộ 13. Vài tràng đạn AK đuổi theo, mấy quả đạn pháo kích khác rớt quanh đó như xé gió phá rừng, những thân cây lại thi nhau gãy rôm rốp. Mấy thùng đạn vừa được đem xuống vẫn còn nằm trên quốc lộ. Một anh kéo tôi đi nơi khác:

- Hãy tránh xa đống đạn này, đạn pháo kích mà nó rớt vào đây thì... bỏ bu.
Từ hướng Xa Cam, một đoàn người gồng gánh, bồng bế nhau chạy loạn về hướng chúng tôi. Tức thì mấy quả đạn pháo kích được câu đến từ Đồi Gió rớt vào giữa đám dân chạy loạn này, gây vô số người chết, vô số người bị thương. Có những người bị thương cách đây vài giờ lại bị thương nữa. Có những người sắp chết, muốn được chết cho rảnh tay người thân chạy nạn, thì bây giờ được chết. Trong số những người chết này, một cảnh tượng thật thương tâm đã xảy ra ngay trên bìa rừng cao su An Lộc. Một người mẹ bồng đứa con khoảng sáu tháng bị mảnh pháo phá vỡ khuôn ngực và bà ngã ra chết liền tại chỗ. Đứa nhỏ không chết, cũng không bị thương, nó bò trên bụng mẹ khóc thét lên trong sự hãi hùng. Khóc mệt, nó lại gục đầu vào ngực mẹ nó mà bú. Một người khác cũng dân chạy loạn đến bế nó ra, thì mặt mũi của đứa bé bê bết máu của mẹ nó và trong mồm nó cũng có máu, mà có lẽ nó tưởng đó là chất sữa nên đã hút vào. Một lúc sau đứa bé cũng chết luôn trên tay người bế nó.

Một cảnh tượng khác mà tôi cũng không làm sao quên được. Một đứa bé gái khoảng13 tuổi mù hai mắt, gầy yếu xanh xao, cõng thằng anh nó khoảng 15 tuổi trên lưng, bị cụt một chân. Đứa nhỏ mù mắt cõng đứa lớn cụt chân. Đứa cụt chân ngồi trên lưng đứa mù mắt để chỉ đường mà chạy trốn Việt cộng. Trong xách tay tôi còn hai ổ bánh mì mua hồi sáng ở Lai Khê, tôi lấy đưa cả cho anh em nó. Trước đây tôi đã được đọc những câu in trên bích chương dán ở thành phố : “... Pháo kích bừa bãi, giết hại dân lành, nhà cháy người chết, thù hận này biết đến bao giờ mới nguôi ngoai trong lòng người dân Việt... “. Dạo đó tôi đã nghĩ rằng những câu này chỉ là về phương diện chính trị thôi. Nghĩa là Việt cộng xuyên tạc mình thì mình xuyên tạc lại. Nhưng bây giờ thì tôi đã hiểu đó là sự thật, một sự thật mà không thể đội trời chung với bọn người dã man đó được, và tự nhiên trong lòng tôi thấy dâng lên những thù hận ngút ngàn. Thật tình mà nói, trước khi bước vào An Lộc, tôi đã thầm nghĩ : “Mình chỉ chết khi bị trúng đạn, chứ nếu đối diện gần thì trên ngực áo tôi có hai chữ Báo Chí “nó” không giết đâu mà sợ, cao lắm thì chỉ bắt sống là cùng. Nhưng bây giờ thì tôi không còn nghĩ như thế nữa. Trước mặt tôi, chung quanh tôi, những người dân vô tội đang thương vong la liệt. Tôi sờ tay vào hông, khẩu Colt vẫn cồm cộm. Tôi quyết định : “Nếu đêm nay còn phải ở đây mà rủi gặp bọn chúng, thì dù thế nào tôi cũng đẩy về hướng chúng 6 viên và còn lại là cho tôi, chứ nhất định không để bị bắt sống. Nghĩ đến đây, hình ảnh vợ con tôi tại trại gia binh lại hiện ra, tôi thấy nhói trong lòng.

Từ xa có tiếng đập phần phật của trực thăng, rồi trong phút chốc 8 chiếc lượn sát những ngọn cao su và cũng bất thần đáp dài trên quốc lộ, trong khi đạn pháo kích của Việt cộng tiếp tục rải dài theo hai bên bìa đường. Các chiến sĩ đổ bộ thuộc Sư Đoàn 18 Bộ Binh lẽ ra khi nhảy xuống thì họ di tản, nhưng họ đã đến phụ khiêng xác chết và người bị thương lên phi cơ xong mới đi. Tôi ngồi tựa lưng vào xích của một chiếc T54 bỏ hoang nhìn theo mấy chiếc trực thăng đang bốc vút về hướng Lai Khê mà trong đó có gần 100 người dân vô tội vừa chết, vừa bị thương, vừa kinh hoàng... Cộng sản Bắc Việt vừa sát hại xong dân lành vô tội bằng công cụ giết người của chúng, thì Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đến mang những người dân đó về nơi an toàn... Từ hướng Chi Khu An Lộc, một chiếc Jeep mui trần chở gần 20 đồng bào tiến về hướng bãi đáp trực thăng. Tôi quá giang chiếc Jeep này vào Chi Khu và tại đây tôi được gặp Đại Úy Lê Văn Vẫn, Chi Khu Phó Chi Khu An Lộc. Đại Úy Vẫn cho biết ông là người ở đây lâu nhất (bốn đời Quận Trưởng đã thay phiên nhau) từ năm 1964. Và bây giờ ông nhất định ở đây chiến đấu đến hơi thở cuối cùng chứ không đi đâu hết. Ông kể tiếp:

- Ngày mặt trận An Lộc mở màn có 6 chiếc trực thăng của Sư Đoàn 3 Không Quân đến đáp vào Chi Khu để đưa gia đình của quân nhân tại đây rời An Lộc. Tôi chạy vào hầm trú ẩn nói với vợ tôi : “Có trực thăng đến, em mau đưa các con về Sài Gòn, ở đây nguy hiểm lắm. Khi nào êm, anh sẽ về đưa mẹ con em lên. Nhưng vợ tôi nhứt định không chịu và trả lời : “Mẹ con em về nơi an toàn, ở đây rủi anh chết thì mẹ con em sống với ai ? Em xin được ở lại đây cùng sống chết với anh”. Trong lúc đó vợ con của anh em quân nhân tại đây đều đã nhất loạt trả lời như thế, nên cuối cùng sáu chiếc trực thăng phải rời Chi Khu mà không có đàn bà trẻ con nào theo... “ Sau câu nói của Đại Úy Vẫn, tôi chợt nhớ lại gương liệt nữ Phạm Thị Thàng cách đây đã lâu. Chị Thàng là vợ của một chiến sĩ Nghĩa Quân. Chị và các con đều sống chung trong công sự chiến đấu của chồng trong làng. Một đêm nọ Việt cộng công đồn, chồng chị bị trúng đạn, chi thay chồng tung mấy chục trái lựu đạn vào đám Việt cộng khi chúng tấn công bằng biển người. Nhưng đến quả cuối cùng, bọn chúng quá gần nên chị đã chết chung với thêm mấy tên Việt cộng nữa bằng quả lựu đạn đó. Bây giờ vợ lính ở An Lộc cũng đã noi gương chị Thàng không chịu đi Sài Gòn ở lại tử thủ: sống chết với chồng con tại An Lộc. Đại Úy Vẫn tiếp:
- Sáu chiếc trực thăng vừa bốc lên thì một chiếc bị trúng đạn và rớt ngay bên ngoài vòng đai Chi Khu rồi bốc cháy. Chúng tôi nhìn theo mà đã khóc lúc nào không hay. Anh em Không Quân đã vì sinh mạng gia đình chúng tôi mà phải chết, tôi kính trọng và nhớ ơn nghĩa cử của quí anh em đó lắm. Cuối cùng tôi quyết định cho một trung đội mở đường máu ra cứu phi hành đoàn, nhưng cũng không kịp. Khi trung đội trở vào thì... chỉ còn phân nửa quân số, bởi lúc bấy giờ chiến xa Việt cộng quá nhiều. Rồi hai hôm sau, trai gia binh của chúng tôi tại đây cũng bị pháo kích nặng, hơn tám chục phần trăm gia đình của quân nhân chết và bị thương...

Gà trống nuôi con
Trong khi ngồi tiếp chuyện với tôi tại một căn hầm dã chiến được đào sâu dưới mặt đất, trước mặt tôi là Đại Úy Vẫn, quanh đó khoảng năm, bảy chiến sĩ mà mỗi người đang có vài em bé quấn qúit bên cạnh. Đại Úy Vẫn xoa đầu một bé gái khoảng 4 tuổi:
- Tôi có năm đứa, bây giờ chỉ còn mình nó, anh chị nó chết hết rồi, má nó cũng chết, ông nội bà nội, ông ngoại bà ngoại nó cũng chết trong trận pháo kích đó...
Ông chỉ những đứa bé đang đứng cạnh mấy chiến sĩ quanh ông:
- Đấy anh xem, bây giờ ở đây cái cảnh gà trống nuôi con rất nhiều. Cha mẹ và vợ con chúng tôi đã vì chúng tôi mà chết tại đây, nên chúng tôi đã thề tử thủ tại đây đến hơi thở cuối cùng, dù có được đổi về Sài Gòn cũng không đi. Nếu một ngày nào đó mà anh gặp lại một trong những khuôn mặt của chúng tôi tại đây trên một địa danh an toàn nào đó không phải là An Lộc mà lúc đó chúng tôi còn tại ngũ thì... anh có quyền giết chúng tôi, nếu không phải là Lệnh hay Chỉ Thị cho chúng tôi rời An Lộc. Hôm nay anh là người Báo Chí của Không Quân đầu tiên đến đây, tôi xin được đại diện các chiến sĩ tử thủ An Lộc gửi đến anh em Không Quân, nhất là những phi hành đoàn đã lái tàu bay vào Chi Khu với ý định đưa vợ con chúng tôi đến nơi an toàn, những lời thành thật muôn đời nhớ ơn của chúng tôi, mặc dù vợ con chúng tôi không đi và... đã chết.

Những chiếc vòng tử thủ
Nói đến đây Đại Úy Vẫn gỡ trong tay của ông ta ra 3 chiếc vòng trao cho tôi:
- Tất cả những chiến sĩ tử thủ tại đây mỗi người đều có mang ba chiếc vòng này và chúng tôi đã đặt tên là... vòng AN LỘC TỬ THỦ. Nay tôi xin tặng anh để làm kỷ niệm... Anh là người thứ hai, sau Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa mà chúng tôi tặng ba vòng này.
Một Thiếu Úy ngồi gần đó nhìn Đại Úy Vẫn rồi nói với tôi:
- Anh có viết bài thì nhớ nói là Thiếu Tá, vì ổng lên lon gần hai tháng nay, nhưng từ đó đến nay ở đây không ai bán “lon” mà mua nên... ông Vẫn “vẫn” mang “lon cũ”.
Tôi nhìn Đại Úy Vẫn như thầm hỏi lại: “Có đúng thế không ? “. Thiếu Tá Vẫn gật đầu:
- Đúng vậy.

68 Ngày tử thủ An Lộc không lãnh lương
Cũng tại đây, tôi gặp một chiến sĩ còn rất trẻ, anh ta tâm sự với tôi như sau:
- Em là Binh Nhất Lê Nhâm Thình, quân nhân Không Quân, thuộc Sư Đoàn 2 Không Quân tại Phù Cát, kỹ thuật phi cơ loại C 7A. Về phép thăm nhà hôm 28.3.1972 rồi bị kẹt lại đây đến bây giờ. Trọn gia đình em bị pháo kích chết hết rồi, chỉ còn lại một người anh đang tại ngũ tại An Lộc này thôi. Đã nhiều lần em muốn ra đón tàu để về lại với Không Quân, nhưng còn ngại sẽ bị rắc rối về an ninh nên chưa dám. Tính đến nay là 68 ngày, trong suốt thời gian này tại đây em đã chiến đấu như một chiến sĩ Bộ Binh thật sự, nhưng chỉ ăn nhờ cơm gạo sấy của anh em ở đây thôi chứ không có lãnh lương. Em có lấy được một AK của tên Việt cộng mà em đã bắn chết nó. Hôm nào về Sài Gòn, nhờ anh trình lên Bộ Tư Lệnh Không Quân, nếu không bị rắc rối, anh viết thư về đây, KBC 6995, lúc đó em sẽ bằng đủ mọi cách về trình diện đơn vị...

Buổi chiều, tôi có dịp vào thị trấn An Lộc. Phố xá thật tiêu điều, những căn nhà không người trơ vách, những tuyến kẽm gai quanh Chi Khu cháy cong queo. Đó đây một vài xác trực thăng cháy xụm, những chiến xa đứt xích nằm chỏng chơ như quái vật không đầu, vài chiếc khác chúi mũi xuống những hố bom, một chiếc dù màu trắng đỏ phất phơ theo chiều gió trên ngọn cao su. Những chiếc dù tải hàng còn vương vãi theo hai bên quốc lộ, trên mặt con lộ 13 những hố đạn, hố bom sâu hoắm. Những vỏ đạn đủ cỡ, đủ loại nằm ngỗn ngang, những thân cây cao su cháy đen ngã gục. Trong vòng đai Chi Khu, một bức tường dầy và cao lổ chổ đầy vết đạn lớn nhỏ mà phía trên còn đọc được ba chữ “ QUẬN AN LỘC “. Gần đó, một vách tường khác có dấu hồng thập tự với ba chữ “TRẠM CỨU THƯƠNG “, phía sau là một trường tiểu học bị tróc nóc. Xa hơn một chút là trại gia binh An Lộc cũng đã điêu tàn. Bước ra phía ngoài, một xe Honda bốn bánh nằm lật ngang, bên hông có cẩn thận ghi hai chữ thật lớn “XE NHÀ” bằng sơn màu trắng và... một chữ “BINH ” viết bằng đất đỏ An Lộc. Tôi thầm cười, trạm cứu thương, trại gia binh, nhà thờ, chùa chiền và đàn bà trẻ thơ vô tội còn phải lãnh đạn pháo kích của “quân giải phóng”, thì... “Xe Nhà Binh” sức mấy mà thoát khỏi, sao không đề là... “XE CỦA QUÂN GIẢI PHÓNG“. Tôi đâm ra phục lối chơi chữ hay hay của người nào đó đã viết thêm chữ “ BINH“ sau hai chữ “XE NHÀ “ này.

Châu chấu đá voi
Cách cổng vào Chi Khu An Lộc khoảng hai cây số, một chiếc xe cần cẩu của tư nhân màu vàng nằm chắn ngang một nửa mặt con lộ 13, một chiếc khác nằm trơ bánh lên trời dưới mé lộ. Được biết, trong những ngày đầu sôi động của An Lộc, khổ chủ hai chiếc xe trên đã tình nguyện đem ra cho “đâu đít lại với nhau” nằm chắn ngang lộ, với ý định không cho chiến xa của Việt cộng vào thị trấn An Lộc thân yêu của họ. Vì họ đã nghĩ rằng, một khi mà chiến xa của Việt cộng vào được trong thị trấn thì dù cho xe cần cẩu của họ có để trong nhà cũng không còn. Nhưng... kết quả T54 của Việt cộng là voi, mà xe cần cẩu của họ là châu chấu!

Thoát chết nhờ lối tuyên truyền láo của Việt cộng
Gần vòng đai Chi Khu vài chục thước, mấy chiếc T54 nằm quay đầu ra bất động. Hỏi, thì một chiến sĩ cho biết như sau:
- Dạo đó, khi An Lộc bị thất thủ, hàng chục chiến xa Việt Cộng đã phây phây đi vào và các tay xạ thủ cũng đã phây phây ngồi hẳn phía trên xe. Chúng tôi lúc đó chỉ còn hơn đại đội, nấp dưới những hầm hố, không dám bắn trước. Nhưng chúng tôi lấy làm lạ, không hiểu tại sao những chiến xa này không khai hỏa mà chỉ vào đậu đó, xong chạy vòng vòng, thật chậm như có ý tìm kiếm rồi quay ra và... khi chúng quay đầu xe ra, bọn tôi xách M72 chạy theo hạ hết. Thứ này mà bắn vào đứt xích là nằm liền. Các trưởng xa và xạ thủ thoát khỏi xe cũng bị chúng tôi hạ luôn, có vài tên bị chúng tôi bắt làm tù binh và chúng cho biết : Sở dĩ khi chúng đưa xe vào tận đây mà không khai hỏa, vì trước khi vào đây, cấp chỉ huy đã cho chúng biết, hiện An Lộc hoàn toàn do quân giải phóng kiểm soát và... làm chủ tình hình, nên chúng vào và cứ tự nhiên ngồi trên nóc xe như “người quân nhân trở về đơn vị” và chạy vòng vòng là có ý đi tìm “đồng chí”. 

Đến khi tìm mà không gặp được đồng chí nào hết nên mới lừng lững quay ra, và khi quay ra thì mỗi chiếc bị lãnh vài viên M72 từ mặt hậu rồi đứt xích luôn không thể quay đầu lại. Bởi thế mà anh thấy những chiến xa quanh vòng đai này phần đông đều quay đầu ra. Còn những chiếc khác xa xa thì lại quay đầu vào, những chiếc này hầu hết là lãnh bom và rocket từ phi cơ.
Nghe xong câu chuyện, tôi thầm nghĩ: “Bọn cộng sản Bắc Việt ngoài lối thí quân, nướng quân bằng những cuộc tấn công biển người ồ ạt của chúng, mặc cho hỏa lực khủng khiếp từ phi cơ ta “làm cỏ”, nay chúng có thêm một lối “nướng quân” bằng cách tuyên truyền láo với quân sĩ thuộc quyền. Bởi nếu chúng không nói láo với quân sĩ của chúng thì anh lính này đâu còn sống đến ngay nay để kể lại giai thoại “chiến xa Việt cộng phây phây vào sào huyệt ta đi tìm “đồng chí”, để rồi khi quay đầu ra vừa khỏi vòng đai, thì... nằm đây luôn đến bây giờ. Trong lúc vui miệng anh lại kể cho tôi nghe thêm một vài chuyện khó tin, nhưng tại đây lại... có thật.

Trong thời gian tử thủ bệnh táo bón rất quí
Có những lúc bên ngoài nó pháo rát quá, hầm trú ẩn thì nhỏ, mà anh em lại quá đông, đôi khi muốn đi cầu lại ngại lãnh đạn, nên chúng tôi cứ... “cố nín, cố nín”. Đến khi không thể nín được mà bên ngoài vẫn còn pháo, thì dùng... lớp trong của nón sắt làm cái “bô”. Xong, đứng ở miệng hầm liệng ra ngoài. Có người chỉ mới hai ngày đã liệng luôn cả hai lớp của nón sắt, nên ở đây mà trong thời gian đó ai có được cái bệnh táo bón là quí như vàng, thảnh thơi lắm. Mà tóm lại trong thời gian đó, người nào có táo bón mấy đi nữa thì cũng phải có một lần “liệng nón sắt”.

Một giai thoại khác: “TẮM BẰNG MỒ HÔI“, vì tại đây nước rất quí, quí hơn vàng, có khi phải dùng đến nước tiểu để làm “nở cơm sấy” khi ăn. Có nhiều người chịu không nổi phải bịt cả hai lổ mũi, nhai sơ rồi nuốt vội như cố “tống cơm vào bao tử” cho xong để có sức mà... tử thủ nhưng không dám ăn nhiều, vì nếu ăn nhiều thì trời sẽ không cho được cái bệnh táo bón. Bởi nước quí như vàng, nên trong thời gian đó lúc nào thấy êm, ai muốn tắm thì cứ cử tạ bằng cách bưng một thùng đạn nặng trịch đưa lên, đưa xuống cho đổ mồ hôi. Xong cởi ngay quần áo ra... ung dung ngồi kỳ đất trên da nở ra và rất dễ... “TẮM BẰNG MỒ HÔI“. Phạm Phong Dinh




Sinh Tồn chuyển

• Sư Đoàn 22 BB ở Chiến Trường Dakto-tân Cảnh, Kontum Hè 72 Tổng lược về chiến sử của Sư đoàn 22 Bộ binh:

Sư Đoàn 22 BB ở Chiến Trường Dakto-tân Cảnh, Kontum Hè 72

Tổng lược về chiến sử của Sư đoàn 22 Bộ binh:
Sinh Tồn chuyển

http://omphalos.com.au/vnchlogos/logo_sd22.jpg
Sư đoàn 22 Bộ binh có danh hiệu nguyên thủy là Sư đoàn Khinh chiến số 4 được thành lập ngày 1/5/1955 với ba trung đoàn tiên khởi: trung đoàn Bộ binh 401 (gồm tiểu đoàn 73, 90, 91), trung đoàn Bộ binh số 402 (gồm 3 tiểu đoàn 1, 94 và 95), trung đoàn Bộ binh 403 (tiểu đoàn 31, 92, 93). Đến tháng 10/1955, Sư đoàn được cải danh thành Sư đoàn Khinh chiến số 14, các trung đoàn và tiểu đoàn cũng được cải danh như sau: trung đoàn Bộ binh số 401 cải danh thành trung đoàn Bộ binh số 40 (các tiểu đoàn: 90 cải danh thành 1/40, tiểu đoàn 91 thành 2/40, tiểu đoàn 73 thành 3/40); trung đoàn Bộ binh 402 cải danh thành trung đoàn Bộ binh số 41 (các tiểu đoàn: 91 thành 1/41, 95 đổi thành 2/41, tiểu đoàn 1 cải danh là 3/41); trung đoàn Bộ binh số 402 cải danh thành trung đoàn 42 (các tiểu đoàn :92 thành 1/42, 93 thành 2/42, tiểu đoàn 31 thành 3/42.


Đầu năm 1959, theo cải tổ của Bộ Tổng Tham Mưu, các sư đoàn Khinh chiến 12, 13, và 16 bị giải tán. Các sư đoàn 11, 14, 15 được thâu nhận một phần lớn quân số của các sư đoàn giải tán để cải tổ thành các sư đoàn Bộ binh. Theo đó, sư đoàn Khinh chiến số 14 được cải danh thành Sư đoàn 22 Bộ binh với ba trung đoàn cơ hữu cải danh: trung đoàn Bộ binh số 40, số 41, số 42 thành trung đoàn Bộ binh 40, 41, 42. Sau này, do tình hình chiến trường, Sư đoàn 22 Bộ binh có thêm trung đoàn thứ 4, đó là trung đoàn 47 Bộ binh. Từ năm 1970, khu vực trách nhiệm của Sư đoàn 22 Bộ binh bao gồm các tỉnh: Bình Định, Phú Yên, Phú Bổn, Kontum, Pleiku.

* Sơ lược về quân vụ của 9 vị tư lệnh Sư đoàn 22 Bộ binh:
Từ khi cải danh từ Sư đoàn Khinh chiến thành Sư đoàn Bộ binh, Sư đoàn 22BB đã được được chỉ huy bởi 9 vị tư lệnh qua 11 thời kỳ (có hai vị hai lần giữ chức vụ này). Tư lệnh thứ 1 sau khi cải danh: trung tá Trần Thanh Chiêu (1/4/1959 đến 2/9/1959; vào thời gian 1962-1963, trung tá Chiêu là Thanh tra Dân vệ đoàn (Nghĩa quân), ông chỉ được thăng đến đại tá, mất tích vào tháng 4/1972); tư lệnh thứ 2: trung tá Nguyễn Bảo Trị (từ 3/9/1959 đến 4/11/1963; được thăng đại tá trong thời gian giữ chức vụ tư lệnh Sư đoàn này; thăng chuẩn tướng vào cuối tháng 10/1964 khi giữ chức tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh, được bổ nhiệm giữ chức tư lệnh Quân đoàn 3 vào đầu tháng 10/1965, thăng thiếu tướng vào cuối tháng 10/1965; tháng 6/1966: tổng cục trưởng Chiến tranh Chính trị, sau đó giữ chức Tổng trưởng Thông tin Chiêu Hồi; thăng trung tướng vào cuối tháng 10/1967; chức vụ cuối cùng: chỉ huy trưởng trường Chỉ huy Tham mưu); tư lệnh thứ ba: đại tá Nguyễn Thanh Sằng (từ 5 tháng 11/1963 đến 4 tháng 2/1964, thăng chuẩn tướng vào cuối tháng 10/1964 khi đang phục vụ tại Vùng 1 chiến thuật; chức vụ cuối cùng: tư lệnh phó Hành quân Quân đoàn 4 (1972-1973), giải ngũ trước 30 tháng 4/1975.

Từ tháng 2/1964 đến tháng 4/1975, các đại tá và tướng lãnh sau đây đã chỉ huy Sư đoàn 22 Bộ binh: thiếu tướng Linh Quang Viên (từ 5 tháng 2/1964 đến 6/9/1964, rời Sư đoàn 22 Bộ binh, tướng Linh Quang Viên có thời gian giữ chức vụ tham mưu trưởng Liên quân từ 1965 đến 1966, thăng trung trướng vào cuối tháng 10/1967 và giữ chức Tổng trưởng Nội vụ trong nội các Nguyễn Văn Lộc, chức vụ cuối cùng: Chỉ huy trưởng Trường Hạ Sĩ quan Nha Trang, giải ngũ vào tháng 3/1974); đại tá Nguyễn Văn Hiếu (từ 7 tháng 9/1964 đến 23/10/1964; đại tá Hiếu trở lại làm tư lệnh Sư đoàn 22 BB vào tháng 6/1966 và thăng chuẩn tướng vào năm 1967, đến tháng 8/1969, giữ chức tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh, thăng thiếu tướng 1970, chức vụ cuối cùng: tư lệnh phó Quân đoàn 3, tử nạn vào hạ tuần tháng 4/1975);

Thứ 6: chuẩn tướng Nguyễn Xuân Thịnh (từ 24 tháng 10/1964 đến 1/3/1965, đại tá Thịnh được thăng cấp tướng khi vừa được bổ nhiệm giữ chức vụ tư lệnh Sư đoàn 22, thăng thiếu tướng tháng 6/1968 khi giữ chức tư lệnh Sư đoàn 25 BB, thăng trung tướng cuối năm 1971 và được bổ nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng Pháo binh QL/VNCH vào đầu năm 1972); thứ 7: chuẩn tướng Nguyễn Thanh Sằng (giữ chức tư lệnh Sư đoàn 22BB lần thứ 2 từ 1/3/1965 đến 22/6/1966); thứ 8: chuẩn tướng Nguyễn Văn Hiếu (giữ chức tư lệnh lần thứ hai, từ 23/6/1966 đến 10/8/1969); thứ 9: Chuẩn tướng Lê Ngọc Triễn (từ 11 tháng 8/1969 đến cuối tháng 2/1972, thăng chuẩn tướng vào giữa năm 1970, đầu tháng 3/1972, được bổ nhiệm giữ chức tham mưu phó Hành quân bộ Tổng tham mưu); thứ 10: đại tá Lê Đức Đạt (từ 1 tháng 3/1972 đến ngày 24/4/1972; trước khi giữ chức tư lệnh thay thế tướng Triễn, đại tá Đạt là tư lệnh phó Sư đoàn này, được ghi nhận là mất tích khi Cộng quân tấn công Tân Cảnh); tư lệnh cuối cùng: chuẩn tướng Phan Đình Niệm (từ 28 tháng 4/1972 đến 30/4/1972), tướng Niệm được bổ nhiệm chức vụ tư lệnh Sư đoàn 22 Bộ binh khi ông đang là đại tá, chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Lam Sơn, được thăng chuẩn tướng cuối tháng 10/1972; ông đã có một thời gian đảm nhiệm các chức vụ chỉ huy trong Bộ binh: tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng, tư lệnh phó Sư đoàn.

* Sư đoàn 22 Bộ binh tại mặt trận Tân Cảnh-Dakto mùa hè 1972:
Từ năm 1959 đến 1972, Sư đoàn 22 Bộ binh đã tham dự nhiều cuộc hành quân quy mô trong khu vực trách nhiệm, và đã lập nhiều chiến công, riêng trong cuộc chiến Mùa Hè 1972, Sư đoàn này đã trải qua một giai đoạn đầy bi tráng tại mặt trận Tân Cảnh-Dakto. Toàn cảnh về trận chiến này được ghi nhận tổng lược như sau, dựa theo tài liệu của cựu đại tá Trịnh Tiếu, nguyên trưởng phòng 2 Quân đoàn 2:

Trong tháng 3/1972, những tin tức tình báo ghi nhận về sự tăng cường lực lượng của Cộng quân ở khu vực Kontum đã làm cho trung tướng Ngô Du-Tư lệnh Quân đoàn 2 lo lắng. Dựa trên những báo cáo của Phòng 2 Quân đoàn và sau khi hội ý với cố vấn trưởng Quân đoàn là ông John P. Vann, trung tướng Ngô Du đã cho tái phối trí lực lượng để bảo vệ mặt Bắc Kontum. Theo đó, bộ tư lệnh Tiền Phương Sư đoàn 22 Bộ binh cùng trung đoàn 47, một thành phần Tiếp vận quan trọng của Sư đoàn từ bản doanh chính tại Bình Định di chuyển đến Tân Cảnh-Dakto. Tại cụm phòng tuyến này, bộ tư lệnh hành quân của Sư đoàn đặt chung với bộ chỉ huy Hành quân của Trung đoàn 42 Bộ binh đã hoạt động tại đây từ trước. Về lực lượng Thiết giáp, ngoài thiết đoàn cơ hửu, Sư đoàn 22 Bộ binh được Quân đoàn 2 tăng cường 1 chi đoàn của thiết đoàn 19 thuộc Lữ đoàn 2 Kỵ Binh.

Hỗ tương phòng thủ cùng với Sư đoàn 22 Bộ binh là lữ đoàn 2 Nhảy Dù do đại tá Trần Quốc Lịch chỉ huy. Lữ đoàn này phòng thủ các căn cứ Delta và Charlie ở dãy đồi phía Tây sông Polco. (Vào 4 giờ sáng ngày 3 tháng 4/1972, sư đoàn 320 CSBV đã tấn công cường tập căn cứ Delta, nhưng địch quân đã bị đẩy lùi. Tiếp đến ngày 14 tháng 4/1972, Cộng quân lại mở cuộc tấn công vào căn cứ Charlie, trung tá Nguyễn Đình Bảo, chỉ huy tiểu đoàn 11 Nhảy Dù phòng ngự căn cứ này đã bị tử thương do trúng một quả hỏa tiễn 122 ly. Chi tiết về hai trận tấn công này sẽ được trình bày trong bài viết về lữ đoàn 2 Nhảy Dù).
Ngày 20 tháng 4/1972, tình hình tại mặt trận Quảng Trị ở Quân khu 1 quá nặng, bộ Tổng tham mưu quyết định điều động lữ đoàn 2 Nhảy Dù tăng cường cho giới tuyến. Tướng 3 sao CSBV là Hoàng Minh Thảo, tư lệnh B3 (Cộng quân tại Cao nguyên) thấy lữ đoàn Nhảy Dù đã rút, nên đã cho tiến hành kế hoạch tấn công cấp tốc để “dứt điểm” Sư đoàn 22 Bộ binh. Lực lượng chính mà B 3 sử dụng để tấn công Sư đoàn 22 BB là sư đoàn 320 và sư đoàn 2 Sao Vàng với thành phần phụ lực là một lữ đoàn chiến xa. Các đơn vị Cộng quân đều có phân đội trang bị hỏa tiển Sagger (các sĩ quan tình báo chiến trường của VNCH gọi là AT 3), loại hỏa tiển chống chiến xa có tầm tác xạ hữu hiệu tối đa là 2 ngàn mét.

Từ ngày 20 đến 22/4/1972, các sư đoàn CSBV áp sát vòng đai Tân Cảnh. Trước tình hình mới, đại tá Trịnh Tiếu, trưởng phòng 2 Quân đoàn 2, sau khi đã khám phá đầy đủ các vị trí của địch đã xuất hiện, đã trình với trung tướng Ngô Du-tư lệnh Quân đoàn 2- xin tiến hành ngay kế hoạch tiêu diệt địch bằng B 52 mà trước đây tướng Du và cố vấn Paul Vann đã tính toán. Điều bất ngờ là ông Paul Vann đã từ chối đề nghị của Quân đoàn 2 sử dụng B 52 để “dọn sạch” đối phương, nguyên nhân là ông Paul Vann không muốn yểm trợ cho đại tá Lê Đức Đạt-tư lệnh Sư đoàn 22. Trước thái độ của ông Paul Vann, trung tướng Ngô Du tức giận la lớn: Ông Paul Vann, ông là bạn hay kẻ thù của tôi. Paul Vann làm thinh bỏ đi. Ông bay trực thăng xuống mặt trận Bắc Bình Định. Tư lệnh chiến trường này là đại tá Trần Hiếu Đức, trung đoàn trưởng trung đoàn 40/Sư đoàn 22 Bộ binh. Đại tá Đức chịu trách nhiệm chỉ huy toàn bộ lực lượng bộ chiến hoạt động trong ba quận Hoài Ân, Hoài Nhơn và Tam Quan.

Ngày 23 tháng 4/1972, một tiểu đoàn Bộ binh của Sư đoàn 22 đã giao tranh với địch tại một vị trí gần bộ Tư lệnh Hành quân của Sư đoàn. Cũng trong ngày này, Cộng quân pháo kích tới tấp vào Tân Cảnh bằng hỏa tiễn 122 ly. Lực lượng chiến xa bảo vệ bộ Tư lệnh lúc bấy giờ chỉ có 10 chiếc, được điều động dàn đội hình ngăn chận địch, đã bị hỏa tiễn Sagger của Cộng quân bắn cháy mất 8 chiếc, còn lại 2 chiếc thì bị đứt xích. Một sĩ quan cấp thiếu tá tên là Như cùng một cố vấn Hoa Kỳ là đại úy Kenneth Yonan, 23 tuổi, đã leo lên tháp nước cao tại căn cứ, sử dụng đại liên 12.7 ly để tấn công địch, cũng bị hỏa tiễn Sagger bắn, bồn nước nổ tung và cả hai sĩ quan Việt-Mỹ này chết tại chỗ.
Khoảng 10 giờ tối ngày 23 tháng 4/1972, quận Dakto cách Tân Cảnh 2 km về phía Bắc, quân trú phòng tại quận này quan sát thấy đèn của 11 chiến xa T 54 tiến về hướng quận. Ngay sau khi nhận được báo cáo của Sư đoàn 22 Bộ binh, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 đã điều động C 130 Spectre lên thả trái sáng. Trong khi đó, các chiến binh thuộc thành phần phòng ngự vòng đai bộ Tư lệnh Hành quân Sư đoàn, từ các hầm chiến đấu cá nhân, thấy 15 chiến xa T 54 khác của địch chạy về Tân Cảnh. Phi cơ C 130 Spectre tác xạ để ngăn chận chiến xa địch, nhưng không có hiệu quả vì loại phi cơ này không có đạn chống chiến xa. Tình hình chiến sự tại Tân Cảnh đã bước vào những giờ phút quyết định của cuộc chiến.
Sinh Tồn chuyển

• Sư Đoàn 5 BB ở Chiến Trường An Lộc, Bình Long, Hè 1972

Sư Đoàn 5 BB ở Chiến Trường An Lộc, Bình Long, Hè 1972 

Sinh Tồn chuyển


Thành lập ngày 10 tháng 2/1955 theo ND số 040 QP/ND với danh hiệu đầu tiên là Sư đoàn 6 Bộ binh. Tiền thân của Sư đoàn là lực lượng Nùng được thành lập tại Bắc Việt trước 1954. Đến ngày 1 tháng 7/1955, Sư đoàn được đổi tên là Sư đoàn Dã chiến số 41 với 3 trung đoàn: trung đoàn Bộ binh số 34 (các tiểu đoàn 57, 86, 87), trung đoàn Bộ binh số 35 (tiểu đoàn số 72, 75, 88), trung đoàn Bộ binh số 36 (tiểu đoàn 32, 72, 89). Ngày 17 tháng 9/1955, theo SVVT số 3975/TTM/1/1/SC, sư đoàn được cải danh thành sư đoàn Dã chiến số 3. Theo kế hoạch về quân số, hơn 2/3 quân nhân người Việt sắc tộc Nùng của Sư đoàn từ miền Bắc vào được phân bố cho các sư đoàn khác, đồng thời sư đoàn được bổ sung binh sĩ, hạ sĩ quan, sĩ quan từ các liên đoàn chiến thuật. Về danh hiệu đơn vị cơ hữu, các trung đoàn cải danh như sau: trung đoàn Bộ binh số 34 thành trung đoàn Bộ binh số 7, trung đoàn Bộ binh số 35 thành trung đoàn Bộ binh số 8, trung đoàn Bộ binh số 36 thành trung đoàn Bộ binh số 9. Cuối năm 1958, theo kế hoạch của Bộ Tổng Tham mưu, Sư đoàn dã chiến số 3 đổi thành Sư đoàn 5 Bộ binh, các trung đoàn Bộ binh số 7, số 8, số 9 đổi thành trung đoàn 7,8,9 Bộ binh.

* Lược trình về quân vụ của 17 vị tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh:
Tư lệnh đầu tiên của sư đoàn là đại tá Vòng A Sáng, người đã sáng lập lực lượng Nùng tại Bắc Việt. Đại tá Sáng chỉ huy sư đoàn đến 24/10/1955 thì bàn giao chức vụ cho đại tá Phạm Văn Đổng. Từ 25 tháng 6/1955 đến 30 tháng 4/1975, Sư đoàn được chỉ huy bởi 16 vị tư lệnh sau đây:

- Đại tá Phạm Văn Đổng (25/10/1956 đến 17 tháng 3/1958; đại tá Đổng thăng chuẩn tướng tháng 5/1964, thăng thiếu tướng 1965, và giữ nhiều chức vụ quan trọng như: tư lệnh Biệt khu Thu đô, Tổng trưởng Cựu chiến binh).

- Trung tá Nguyễn Quang Thông (18/3/1958 đến 15/9/1958, chỉ được thăng đến đại tá)

- Đại tá Tôn Thất Xứng (16/9/1958 đến 18/11/1958, thăng thiếu tướng tháng 2/1964, khi vừa được bổ nhiệm chức vụ tư lệnh Quân đoàn 1 & Vùng 1 chiến thuật, chức vụ cuối cùng: chỉ huy trưởng trường Đại học Quân sự- sau này là trường Chỉ huy Tham mưu-từ tháng 11/1964 đến năm 1966).

- Trung tá Đặng Văn Sơn (19 tháng 11/1958 đến 2 tháng 8/1959, chỉ thăng đến đại tá)

- Đại tá Nguyễn Văn Chuân (3 tháng 8/1959 đến 19/5/1961, thăng chuẩn tướng tháng 11/1964 khi giữ chức tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh, thăng thiếu tướng tháng 11/1965, tháng 3/1966 giữ chức tư lệnh Quân đoàn 1, tháng 4/1966 giữ chức tổng cục trưởng Quân Huấn, giải ngũ vào giữa năm 1966, cựu thượng nghị sĩ).

- Thiếu tướng Trần Ngọc Tám (20/5/1961 đến 15/10/1961, thăng trung tướng tháng 3/1964 khi giữ chức tư lệnh Quân đoàn 3/Vùng 3; tháng 9/1964, tư lệnh Địa phương quân & Nghĩa quân, giữa năm 1965, giữ chức chủ tịch Ủy ban điều hành Quốc tế Quân viện)

- Đại tá Nguyễn Đức Thắng (16 tháng 10/1961 đến 19/12/1962, thăng chuẩn tướng tháng 8/1964 khi đang giữ chức trưởng phòng 3 Bộ Tổng tham mưu, thăng thiếu tướng tháng 11/1965 và được cử giữ chức Tổng ủy viên (tổng trưởng) Xây dựng Nông Thôn; thăng trung tướng vào tháng 5/1968 khi đang giữ chức tư lệnh Quân đoàn 4 & Vùng 4 chiến thuật, chức vụ cuối cùng: phụ tá Kế hoạch Tổng tham mưu trưởng.

- Đại tá Nguyễn Văn Thiệu (20 tháng 12/1962 đến 1 tháng 2/1964, thăng thiếu tướng ngày 2 tháng 11/1963; tháng 2/1964 giữ chức Tham mưu trưởng Liên quân; tháng 9/1964, giữ chức tư lệnh Quân đoàn 4, thăng trung tướng tháng 12/1964; tháng 2/1965 đến tháng 6/1965, phó thủ tướng kiêm tổng trưởng Quốc phòng của nội các Phan Huy Quát; 19/6/1965 đến 30/101/1967: chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia; 31/10/1967: Tổng thống VNCH).

- Thiếu tướng Đặng Thành Liêm (2/2/1964 đến 5 tháng 6/1964, giải ngũ vào năm 1965).

- Chuẩn tướng Cao Hảo Hớn (5 tháng 6/1964 đến 20/10/1964, thăng thiếu tướng 1967, thăng trung tướng 1971, chức vụ cuối cùng: phụ tá thủ tướng, trung tâm trưởng trung tâm Điều hợp về Bình Định & Xây dựng Nông thôn).

- Chuẩn tướng Trần Thanh Phong (từ 21 tháng 10/1964 đến 18/7/1965, thăng thiếu tướng 11/1967, từng giữ các chức vụ quan trọng: tổng trưởng Xây dựng nông thôn, tư lệnh Cảnh sát Quốc gia, tử nạn do phi cơ rớt vào năm 1972 khi làm phụ tá cho trung tướng Cao Hảo Hớn).

- Thiếu tướng Phạm Quốc Thuần (từ 19 tháng 7/1965 đến 14/8/1969, nhận chức tư lệnh khi còn là đại tá, thăng chuẩn tướng tháng 6/1966, thăng thiếu tướng tháng 6/1968; thăng trung tướng 1972; các chức vụ kế tiếp: từ tháng 8/1969 đến tháng 11/1973, chỉ huy trưởng trường Bộ binh; tư lệnh Quân đoàn 3; từ tháng 11/1974: chỉ huy trưởng trường Hạ Sĩ Quan QL/VNCH).

- Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu (từ ngày 15/10/1969 đến 13 tháng 6/1971, nhận chức tư lệnh khi còn chuẩn tướng, thăng thiếu tướng tháng 6/1970; chức vụ cuối cùng: tư lệnh phó Quân đoàn 3, tử nạn vào cuối tháng 4/1975).

- Chuẩn tướng Lê Văn Hưng (14 tháng 6/1971 đến 3 tháng 9/1972, nhận chức tư lệnh khi còn đại tá, thăng chuẩn tướng năm 1972, các chức vụ kế tiếp: tư lệnh phó Quân khu 3, tư lệnh Sư đoàn 21 BB, tư lệnh phó Quân đoàn 4-tự sát ngày 30 tháng 4/1975).

- Chuẩn tướng Trần Quốc Lịch (4 tháng 9/1972 đến 6 tháng 11/1973, nhận chức tư lệnh khi còn là đại tá, nguyên lữ đoàn trưởng Nhảy Dù, thăng chuẩn tướng tháng 11/1972, chức vụ cuối cùng: chánh thanh tra cấp Quân đoàn).

- Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ (7 tháng 11/1973 đến 30/4/1975, nhận chức tư lệnh khi còn mang cấp đại tá, thăng chuẩn tướng năm 1974, tự sát ngày 30 tháng 4/1975).

* Sư đoàn 5 Bộ binh tại Bình Long hè 1972:
Trong suốt 20 năm chiến đấu trên chiến trường miền Đông Nam phần, Sư đoàn 5 Bộ binh đã tham dự nhiều cuộc hành quân quy mô, và đã lập nhiều chiến công lớn. Riêng trong cuộc chiến mùa Hè 1972, Sư đoàn 5 Bộ binh cùng các lực lượng Nhảy Dù, Biệt động quân, Biệt cách Nhảy Dù và các đơn vị tăng viện giữ vững phòng tuyến Phước Long. Sau đây là lược trình về sự phối trí của Sư đoàn 5 Bộ binh và các trận đụng độ đầu tiên tại tỉnh Bình Long, trước khi Cộng quân tấn công cường tập An Lộc.

Trận chiến xảy ra vào ngày 4 tháng 4/1972 khi một chi đội chiến xa tăng phái cho trung đoàn 9 BB từ biên giới rút về tăng cường cho lực lượng phòng thủ Lộc Ninh. Ngày 5/4/1972, Cộng quân bắt đầu tấn công vào bộ chỉ huy Chi khu Lộc Ninh và hậu cứ trung đoàn 9 Bộ binh đặt trong quận lỵ. Địch đã mở đầu trận tấn công bằng trận địa pháo và sau đó tung bộ binh và thiết giáp tấn công cường tập. Lực lượng trú phòng đã chống trả quyết liệt. Trưa cùng ngày, Cộng quân bị đẩy lùi khi cố đánh chiếm phi đạo.

Ngày 6 tháng 4/1972, Cộng quân mở đợt tấn công mới với sự yểm trợ của 1 tiểu đoàn chiến xa T 54 với khoảng 30 chiếc. Pháo binh VNCH tại Lộc Ninh đã phải hạ nòng bắn trực xạ vào các chiến xa CSBV đang tiến tới, nhưng do áp lực quá nặng của CQ, thị trấn Lộc Ninh vẫn bị tràn ngập. Một thành phần quân trú phòng đã vượt thoát khỏi vòng vây của địch và về đến An Lộc. Ngày 11 tháng 4/1972, An Lộc tiếp nhận 50 quân nhân đầu tiên từ Lộc Ninh vượt thoát về, ngày hôm sau, vị quận trưởng/chi khu trưởng và cố vấn trưởng chi khu Lộc Ninh về đến thị xã. Sau khi trận tấn công vào Lộc Ninh đã diễn ra, trung tướng Nguyễn Văn Minh, tư lệnh Quân đoàn 3, Quân khu 3 mới tin chắc là An Lộc sẽ trở thành mục tiêu trọng điểm của Cộng quân. Theo kế hoạch của tướng Minh, bộ Tư lệnh Hành quân của Sư đoàn 5 Bộ binh cho chuẩn tướng Lê Văn Hưng chỉ huy và hai tiểu đoàn của Liên đoàn 3 Biệt động quân-Quân khu 3 được trực thăng vận vào An Lộc. Cuộc chuyển quân hoàn tất vào ngày 5 tháng 4/1972.

Trong thượng tuần tháng 4/1972, thị xã An Lộc chưa bị tấn công nhưng phi trường Quản Lợi, cách thị xã tỉnh lỵ 3 km về hướng Đông thành phố bị pháo kích và sau đó bị tấn công cường tập vào tối ngày 7 tháng 4/1972. Trận chiến diễn ra ác liệt, hai đại đội trú phòng được lệnh phá hủy hai khẩu 105 ly và triệt thoái về thị xã. Hai ngày sau, thành phần nói trên mới về đến An Lộc. Sự mất phi trường An Lộc đã làm cho tỉnh lỵ tỉnh Bình Long hoàn toàn bị cô lập vì cả hai đường giao thông không vận và đường bộ bị cắt đứt. Ngày 7 tháng 4/1972, bộ Tổng tham mưu đã điều động lữ đoàn 1 Nhảy Dù do đại tá Lê Quang Lưỡng chỉ huy tăng viện cho Sư đoàn 5 Bộ binh. Lữ đoàn này di chuyển từ Lai Khê lên Chơn Thành bằng đường bộ. Từ đó, các đơn vị của lữ đoàn hành quân "dọn sạch" các cụm điểm kháng cự của Cộng quân về hướng Bắc Quốc lộ 13 về An Lộc. Vừa rời khỏi Chơn Thành 6km, lữ đoàn Nhảy Dù bị 1 trung đoàn của CT 7 CSBV chận đánh. Địch tổ chức các cụm chốt cố thủ liên hoàn tại Suối Tàu Ô. Cộng quân cố bám giữ con đường chiến lược này và cố chận các cánh quân tăng viện của lực lượng VNCH cũng như các đợt tiếp tế vào An Lộc.

Ngày 11 và 12 tháng 4/1972, trung đoàn 8/Sư đoàn 5 BB với 3 tiểu đoàn cơ hữu được trực thăng vận vào An Lộc. Quân trú phòng tại An Lộc vào lúc này là 3 ngàn quân Trước đó, sư đoàn 5 Bộ binh được bộ Tổng tham mưu tăng viện một trung đoàn Bộ binh của sư đoàn 18 Bộ binh ở miền Tây. Đó là trung đoàn 52 do trung tá Nguyễn Văn Thịnh làm trung đoàn trưởng. Trung đoàn 52 đóng ở khu vực cầu Cần Lê, sau cuộc tấn công của Cộng quân vào các ngày 6 và 7 tháng 4/1972 đã bị thiệt hại nặng. Trung đoàn 7 thuộc sư đoàn 5 do trung tá Lại Đức Quân làm trung đoàn trưởng cũng bị tổn thất trong các cuộc tấn công vào tháng 4/1972, đã được bổ sung quân số và là lực lượng trừ bị của sư đoàn 5 Bộ binh. 

• Ngày Cuối Cùng Của 1 Tư Lệnh Tại Căn Cứ Tân Cảnh, Mùa Hè 72

Ngày Cuối Cùng Của 1 Tư Lệnh Tại Căn Cứ Tân Cảnh, Mùa Hè 72


Mặt trận Tân Cảnh và tư lệnh chiến trường: từ thiếu tướng Lê Ngọc Triển đến đại tá Lê Đức Đạt:

Như đã trình bày trong số trước, trước những tín hiệu báo động về các cuộc chuyển quân ồ ạt của CSBV vào tháng 2/1972, bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 đã tăng cường lực lượng phòng thủ ở mặt trận phía Bắc tỉnh Kontum: trung đoàn 47 Bộ binh/Sư đoàn 22 Bộ binh cùng với bộ Tư lệnh Tiền phương Sư đoàn, và một thành phần Tiếp vận từ Bình Định lên khu vực Tân Cảnh-Dakto. Tại Tân Cảnh, bộ tư lệnh Tiền phương đóng chung với bộ chỉ huy trung đoàn 42 Bộ binh-một trong 4 trung đoàn cơ hữu của sư đoàn- đã đóng quân tại đây từ trước. Căn cứ này gần ngã ba Quốc lộ 14 và Tỉnh lộ 512. Toàn bộ cuộc chuyển quân hoàn tất vào ngày 8 tháng 2/1972. Đến ngày 1 tháng 3/1972, thiếu tướng Lê Ngọc Triển-tư lệnh Sư đoàn 22 Bộ binh bàn giao chức vụ chỉ huy sư đoàn này cho đại tá Lê Đức Đạt tư lệnh phó Sư đoàn để về bộ Tổng Tham mưu nhận chức tham mưu phó Hành quân.

Ngay sau khi nhận chức tư lệnh, Đại tá Đạt đã điều động các phòng tham mưu chính lên Tân Cảnh, bộ Tư lệnh Tiền phương trở thành bộ Tư lệnh Hành quân Sư đoàn. Theo lời kể của cựu đại tá Trịnh Tiếu, nguyên trưởng phòng 2 Quân đoàn 2 và của một số sĩ quan cao cấp Sư đoàn 22 Bộ binh, khi đảm nhận chức vụ tư lệnh Sư đoàn, đại tá Lê Đức Đạt đã không có được yểm trợ của cố vấn trưởng Quân đoàn 2 Paul Vann như ông ta đã dành cho đại tá Lý Tòng Bá, tân tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, lại còn bị vị cố vấn này gây nhiều khó khăn trong chỉ huy và điều hợp các đơn vị. Như chúng tôi đã trình bày sơ lược trong loạt bài “Chiến trường Việt Nam, 30 năm nhìn lại”, do bất bình với trung tướng Ngô Du, tư lệnh Quân đoàn 2,đã không sắp xếp nhân sự giữ chức tư lệnh Sư đoàn 22BB theo ý của cố vấn trưởng, ông Paul Vann đã từ chối yêu cầu của tướng Du về kế hoạch dội B 52 “dập nát” hai sư đoàn Cộng quân đang bao vây Sư đoàn 22 Bộ binh, dẫn đến hậu quả là sư đoàn này đã bị bức tử.

Theo các tài liệu tổng hợp, chi tiết về chuyện bất đồng này đã diễn ra như sau: vào tháng 2/1972, ông Paul Vann với chức danh cố vấn trưởng Quân đoàn 2 đã yêu cầu trung tướng Ngô Du phải thay thế hai vị tướng đang giữ chức tư lệnh hai sư đoàn của Quân đoàn 2: thiếu tướng Lê Ngọc Triển-tư lệnh Sư đoàn 22 Bộ binh và chuẩn tướng Võ Văn Cảnh-tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh (tướng Cảnh thăng thiếu tướng vào tháng 4/1974 khi đang giữ chức vụ phụ tá đặc biệt của Tổng trưởng Nội vụ). 

Lý do Ông Paul Vann đưa ra là hai vị tướng này đã lớn tuổi cần được thay thế bởi các sĩ quan trẻ hơn. Vị cố vấn trưởng Quân đoàn đề nghị đại tá Lý Tòng Bá và đại tá Lê Minh Đảo thay tướng Triển và tướng Cảnh. Sự tiến cử của ông Paul Vann đã không được trung tướng Ngô Du đồng ý. Tướng Du nói với ông Paul Vann rằng việc bổ nhiệm tư lệnh Sư đoàn là do Tổng thống VNCH quyết định, hơn nữa hai tướng Triễn và Cảnh không phạm lỗi gì, nên không thể đề nghị thay đổi được. Tuy nhiên ông Paul Vann làm áp lực đòi trung tướng Du phải thay thế hai vị tư lệnh Sư đoàn. Tướng Ngô Du hỏi tại sao ông Paul Vann lại nằng nặc đề cử đại tá Bá và đại tá Đảo mà ông đề cử một số đại tá trẻ và giỏi đang phục vụ tại Quân đoàn 2, vị cố vấn trưởng này trả lời: Đại tá Lý Tòng Bá và đại tá Lê Minh Đảo là các sĩ quan trẻ, năng động và kinh nghiệm chiến trường mà tôi đã biết tại Quân đoàn 3. (Ông Paul Vann nguyên là trung tá Cố vấn trưởng Sư đoàn 7 Bộ binh trong thời gian 1961-1962, thời kỳ tướng Huỳnh Văn Cao còn là đại tá tư lệnh Sư đoàn, sau đó, ông giải ngũ và về Hoa Kỳ. Năm 1966 ông trở lại Việt Nam, từ 1967-1969, với tư cách là quan chức dân chính cao cấp của Hoa Kỳ, ông chỉ huy cơ quan CORDS tại Vùng 3 chiến thuật, khi được bổ nhiệm làm cố vấn trưởng Quân đoàn 2, ông được hưởng quyền lợi ngang hàng với một thiếu tướng Hoa Kỳ).

Cuối cùng, do tình hình quân sự ngày càng nghiêm trọng, đòi hỏi sự yểm trợ về Không quân của Hoa Kỳ qua trung gian của Cố vấn Quân đoàn, trung tướng Ngô Du đành phải thỏa mãn gấp các điều kiện của ông Paul Vann, tuy nhiên vị tư lệnh Quân đoàn 2 cũng chỉ thỏa mãn một nửa số điều kiện của ông Paul Vann: ông đề ghị Tổng thống VNCH bổ nhiệm đại tá Lý Tòng Bá giữ chức tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh thay vì tư lệnh Sư đoàn 22 Bộ binh như đề nghị ban đầu của ông Paul Vann, và đại tá Lê Đức Đạt-tư lệnh phó Sư đoàn 22 BB giữ chức tư lệnh Sư đoàn này. Giải pháp 50% của trung tướng Ngô Du vẫn không làm vừa lòng ông Paul Vann, ông rất giận tướng Du vì đã không cử đại tá Lê Minh Đảo làm tư lệnh Sư đoàn 22 Bộ binh khi đại tá Bá đã được đề nghị chỉ huy Sư đoàn 23 Bộ binh. Do đó, ông Paul Vann đã trút tất cả sự bức tức lên đại tá Đạt. Theo giải thích của cựu đại tá Trịnh Tiếu thì sở dĩ tướng Du cử đại tá Lê Đức Đạt vì đại tá đang là tư lệnh phó Sư đoàn lên thay tư lệnh Sư đoàn là điều hợp lý, hơn nữa đại tá đại tá Đạt rất thân với đại tướng Cao Văn Viên, nên tướng Du nghĩ rằng khi đại tá Đạt lên làm tư lệnh mặt trận thì đại tướng Viên sẽ yểm trợ tối đa cho đại tá Đạt. (Cũng cần ghi nhận rằng trong khoảng thời gian 1965, khi đại tướng Cao Văn Viên còn là thiếu tướng tư lệnh Quân đoàn 3 & Vùng 3 chiến thuật thì đại tá Đạt là tỉnh trưởng/tiểu khu trưởng Phước Tuy với cấp bậc trung tá).

* Ngày cuối cùng của đại tá Lê Đức Đạt và bộ Tư lệnh Sư đoàn 22 BB:
Trở lại với chiến trường Tân Cảnh, trước khi Cộng quân mở cuộc tấn công cường tập vào căn cứ này, lực lượng bố phòng tại đây gồm có trung đoàn 42 Bộ binh, hai pháo đội 105 và 155 ly, một chi đội M 41 và một chi đội M-113, một đại đội Công Binh chiến đấu. Ngày 23 tháng 4/1972, lực lượng Cộng quân gồm các đơn vị của sư đoàn 2 CSBV phối hợp với các đơn vị đặc công, thiết giáp CQ thuộc B 3 đã khởi động cuộc tấn công ở vòng đai Tân Cảnh. Trong ngày 23 tháng 4/1972, Cộng quân đã pháo kích dồn dập vào căn cứ. Địch quân mở một trận hỏa công bằng đủ loại pháo, trong đó có hỏa tiễn-dây điều khiển Sagger 13 để làm tê liệt các chiến xa và công sự chiến đấu của lực lượng trú phòng. Từng chiến xa M 41 đang nằm trên các vị trí phòng ngự để bảo vệ Trung tâm Hành quân Sư đoàn đều bị trúng đạn. Tiếp đó, vào 10 giờ 30, trung tâm Hành quân cũng bị trúng đạn địch bắn trực xạ, hệ thống truyền tin bị hủy hoại, một số quân nhân thương vong.

Buổi trưa, với sự giúp đỡ của các cố vấn Hoa Kỳ, một trung tâm Hành quân tạm thời đã được thiết lập chung với trung tâm Hành quân Sư đoàn 22 Bộ binh với các máy móc truyền tin lấy từ hệ thống dành cho các Cố vấn. Thế nhưng, đại tá Lê Đức Đạt-tư lệnh Sư đoàn đã từ chối cùng với các sĩ quan Hoa Kỳ trong ban Cố vấn Sư đoàn đến làm việc tại trung tâm Hành quân mới, ông ở lại bộ chỉ huy cũ đã bị tan hoang cùng với vị đại tá Tôn Thất Hùng, tư lệnh phó, vài sĩ quan thân tín trong bộ Tham mưu cùng với một máy truyền tin liên lạc.
Buổi chiều, đại tá Lê Đức Đạt cho lệnh các pháo đội của Sư đoàn phản pháo vào các vị trí tình nghi là pháo binh của địch đặt súng, nhưng không có kết quả. Cùng lúc đó, từ trung tâm Hành quân mới, các cố vấn Hoa Kỳ đã hướng dẫn Không quân thực hiện phi vụ không yểm, oanh kích vào các mục tiêu của Cộng quân-dựa theo báo cáo của các cố vấn trung đoàn. Nỗ lực của các cố vấn Hoa Kỳ vẫn không có hiệu quả do thời tiết quá xấu đã hạn chế phần quan sát, ngoài ra hệ thống phòng không dày dặc của địch đã bắn chận các oanh tạc cơ và chiến đấu cơ của Không quân Việt-Mỹ.

Gần tối, một thành phần đặc công CSBV đã xâm nhập vào vòng đai phi đạo của căn cứ và đặt chất nổ phá hủy một bãi đổ đạn dược gần đường bay. Trong khi đó, Cộng quân tiếp tục pháo kích dữ dội vào khu vực trung tâm của căn cứ. Vào nửa đêm, các đơn vị của trung đoàn 42 phòng thủ quanh vòng đai căn cứ quan sát thấy 15 chiến xa địch di chuyển theo hướng Nam đến Tân Cảnh. Trong tình hình nguy kịch, nên Sư đoàn 22 khó tiến hành một kế hoạch nào kịp thời để ngăn chận Cộng quân, ngoài trừ một trận pháo ở mức độ nhỏ của Pháo binh và đợt phản pháo dữ dội nhưng không có kết quả của đối phương, trong khi đó hai chiếc cầu trên Quốc lộ 14 ở hướng Nam đến Tân Cảnh vẫn để nguyên vẹn nên chiến xa của địch đã di chuyển dễ dàng trên lộ trình chuyển quân.

Khoảng 2 giờ sáng ngày 24 tháng 4/1972, 15 chiến xa T 54 của Cộng quân bao vây căn cứ Tân Cảnh, vào lúc này 10 chiến xa M 41 và M 113 bảo vệ bộ Tư lệnh đã bị địch bắn cháy 8 chiếc, 2 chiếc còn lại đoàn 22 đã ở trong tình trạng bất khiển dụng vì bị đứt dây xích. Nhận thấy tình hình vô vọng, đại tá Kaplan-cố vấn trưởng Sư đoàn-đã liên lạc khẩn cấp yêu cầu cố vấn trưởng Quân đoàn 2 bay lên cứu ông và toán cố vấn. Khoảng 4 giờ sáng, ông Paul Vann lál trực thăng trinh sát đặc biệt OH-58 Kiowa-loại mới nhất của Hoa Kỳ đáp xuống một bãi đáp rất nhỏ bên cạnh bãi mìn để bốc đại tá Kaplan.

Trước khi trực thăng đáp xuống, đại tá Kaplan đã đến báo cho đại tá Lê Đức Đạt và yêu cầu ông cùng lên trực thăng ứng cứu của ông Paul Vann nhưng đại tá Đạt đã từ chối. Vị tư lệnh Sư đoàn 22 Bộ binh đã biết rõ tình hình rất bi đát, thế nhưng ông vẫn không yêu cầu trung tướng Ngô Du cho trực thăng bay lên cứu. Đại tá Đạt ra lệnh cho tất cả các quân nhân còn lại trong căn cứ tìm cách thoát ra ngoài căn cứ trước khi trời sáng. Ông bắt tay vĩnh biệt các sĩ quan, và đại tá Hùng tư lệnh phó. Và ông đã ở lại với Tân Cảnh. Theo lời kể của đại tá Kaplan và một số nhân chứng, đại tá Lê Đức Đạt đã tự sát sau khi căn cứ bị Cộng quân tràn ngập.

Về các sĩ quan trong bộ Tư lệnh Sư đoàn 22 Bộ binh vượt thoát ra ngoài căn cứ, một số đã bị địch bắt. Còn đại tá Tôn Thất Hùng đã thoát được ra ngoài nhưng bị thương, Ông đã cố chạy vào một buôn Thượng gần đó. Nhờ nói được tiếng Thượng rất rành, nên đã được một gia đình người Thượng che dấu, chăm sóc, sau đó dẫn đường đưa ông về đến tỉnh lỵ Kontum sau 15 ngày đi loanh quanh trong rừng. (Ba tháng sau, đại tá Hùng cùng gia đình lên Pleiku để đền ơn gia đình người Thượng này, vào lúc đó đang sống trong trại tỵ nạn bằng một số tiền và vàng rất lớn). Riêng với đại gia đình Sư đoàn 22 Bộ binh, ngày 24 tháng 4/1972 là ngày mà vị tư lệnh Mặt trận Tân Cảnh mùa Hè 72 đã vĩnh viễn ở lại với chiến trường.
Sinh Tồn chuyển