Monday, October 28, 2013

• Ngày 26 tháng 10: chính thức thành lập Chính Thể VNCH - Sài Gòn Xưa & Nay

Ngày 26 tháng 10: chính thức thành lập Chính Thể VNCH


Người chuyển bài: Nguyễn Thị Vịnh


Ngày 26 tháng 10:chính thức thành lập Chính Thể VNCH

Hình ảnh

Tòa Đô Chánh Sài Gòn ngày 26-10-1955 - Ngày Khai Sinh Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa (Ngày Quốc Khánh Đệ Nhất VNCH)...

Ngày 26 tháng 10, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm long trọng tuyên bố tại Dinh Độc Lập chính thức thành lập Chính Thể Việt Nam Cộng Hòa, và chính thức là vị Tổng Thống đầu tiên của thể chế Dân Chủ.

Hai tháng sau Tổng Thống yêu cầu Pháp rút hết quân đội Pháp ra khỏi Việt Nam, Tổng Thống cũng tuyên bố không thi hành tuyển cử theo Hiệp định Geneve, như đã định vào ngày 20 tháng 12 năm 1956.






Đồng thời ban hành HIẾN PHÁP gồm có 10 Thiên:
- Thiên thứ Nhất : Điều khoản căn bản
- Thiên thứ Hai : Quyền lợi và Nhiệm vụ người Dân
- Thiên thứ Ba : Tổng Thống
- Thiên thứ Tư : Quốc Hội (gồm 4 Chương)
- Thiên thứ Năm : Thẩm Phán
- Thiên thứ Sáu : Đặc biệt Pháp Viện
- Thiên thứ Bảy : Hội đồng Kinh Tế Quốc Gia
- Thiên thứ Tám : Viện Bảo Hiến
- Thiên thứ Chín : Sửa đổi Hiến Pháp
- Thiên thứ Mười : Các điều khoản chung
Và thành lập Nội Các trong đó có 18 Bộ Trưởng gồm 5 Bộ là người Công Giáo, 8 Bộ người Phật Giáo và 5 Bộ thuộc Khổng Giáo.

Trong 38 vị tỉnh trưởng thì có đến 26 vị tỉnh trưởng Phật Giáo chỉ có 12 vị thuộc Công Giáo, còn tướng lãnh thì có 16 tướng lãnh thuộc các tôn giáo khác chỉ có 3 tướng thuộc Công Giáo.

Ngay Chánh Văn Phòng của Tổng Thống là ông Võ Văn Hải, người Phật Giáo và Chánh Văn Phòng của Ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu là Trung Tá Phạm Thư Đường cũng là người Phật Giáo. Tổng Thống không bao giờ có đầu óc kỳ thị, phân chia Nam – Bắc, Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ, người miền Nam và các Bộ Trưởng như Trần Văn Hương, Bùi văn Thinh, Phan Khắc Sửu đều là người miền Nam đã cùng làm việc với Tổng Thống ngay từ lúc ở ngoại quốc về.

Các Tướng như Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Là đều là người gốc Miền Nam. Và những Bộ Trưởng người miền Trung gồm có ông Trương Công Cừu giữ Bộ Văn Hóa Xã Hội, ông Nguyễn Quang Trình giữ Bộ Giáo Dục, và Bộ Trưởng người miền Bắc có ông Nguyễn Đình Thuần, Bộ Quốc Phòng, ông Nguyễn Lương, Bộ Tài Chính, ông Trần Lê Quang, Bộ Cải Tiến Nông Thôn.

Về phần tướng lãnh độc nhất có Tướng Phạm Xuân Chiểu người niềm Bắc, còn 5 tướng người miền Trung gốm có: Tướng Nguyễn Ngọc Lễ, Tôn Thất Đính, Thái Quang Hoàng, Huỳnh văn Cao và Lê Văn Nghiêm.

Thành tích phát triển của Chính Phủ VNCH

A – CHÍNH TRỊ:

Xây dựng chủ thuyết Nhân vị để chống lại thuyết Tam Vô của Cộng Sản. Thành lập Chính thể Cộng Hòa tháng 10-1955.

- Tổ chức Quốc Hội Lập Hiến, ban hành Hiến Pháp đầu tiên cho Việt Nam vào tháng 10–1955.

- Thống nhất tổ chức hành chánh từ Trung Ương đến hạ tầng cơ sở.

B – KINH TẾ:

Vấn đề thương mãi quốc ngoại, quốc nôi đã phát triển quá nhanh nên mức sống dân chúng khá cao. Tại thôn quê vấn đề Nông nghiệp được Cơ Giới hóa, được tài trợ tiền bạc, phân bón, hạt giống cho nên thường xuyên được mùa nên đời sống nông dân cũng được cải thiện nâng cao mức sống, nên dù các quân nhân, dù là cấp nhỏ nhất, binh nhì thì tiền lương cũng đủ cấp dưỡng vợ con, là lại được cấp nhà trong trại gia binh nên cũng đủ sống.

- Thành lập khu kỹ nghệ: Thủ Đức, An Hòa, Nông Sơn, nhà máy xi măng Hà Tiên, nhà máy thủy điện Đa Nhim, nhà máy sản xuất vải sợi Vinatexco Đà Nẵng, Vimytex Sài Gòn, Nhà máy thủy tinh, mỏ than Nông Sơn .v . v

- Mặc dù bị chiến tranh, nhưng VN vẫn xuất cảng gạo, và cao su.

- Năm 1960, VN xuất cảng 192.158 tấn gạo, chưa kể đến số cao su, than đá, hải sản và đồ . tiểu công nghệ

- Lập Ủy Ban Cải Cách Điền Địa mua ruộng của các điền chủ để phân phối cho nông dân.

- Định cư cho gần 1 Triệu đồng bào từ Bắc vô Nam tránh nạn Cộng Sản.

C – QUÂN SỰ:

Sát nhập các lực lượng vũ trang của các Giáo phái và các Lực lượng quân sự địa phương để thông nhất Lực Lượng Quân Đội Quốc Gia.

Sửa đổi chương trình đào tạo sĩ quan Đà Lạt, muốn thi vô Đà Lạt sinh viên phải có bằng Tú Tài toàn phần và chương trình học là 4 năm, trường Sĩ Quan Trừ Bị THỦ ĐỨC cũng thay đổi chương trình cho thích hợp về chuyên nghiệp, các trường Hạ Sĩ Quan cũng chú trọng về Văn Hóa.

- Thành lập trường Đại Học Quân Sự và Cao Đẳng Quốc Phòng.

- Cải tiến các Trung tâm Kỹ Thuật, nâng cao số sinh viên từ 365 lên 625/năm.

- Thiết lập các trường Đại Học HUẾ, Đại Học Sư Phạm Sài Gòn.
- Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn.
- Truòng Sinh Ngữ Quân Đội
- Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ
- Trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ
- Trường Bưu Điện Quốc Gia
- Trường Thương Mại Quốc Gia
- Trường Sư Phạm và Kỹ Thuật Vĩnh Long
- Nguyên Tử Lực Cuộc, Đà Lạt
- Thư Viện Trung Ương và Trung Tâm Văn Hóa Việt Nam
- Viện Hán Học
- Trung Tâm Khảo Cứu Khoa Học
- Câu Lạc Bộ Văn Hóa
.. .. .............

D - XÃ HỘI:- Ngày 15 tháng 2 năm 1955, ông Diệm ra lệnh đóng cửa sòng bạc Kim Chung Đại Thế Giới của Bảy Viễn. Mở chiến dịch bài trừ tứ đổ tường, đặc biệt là nha phiến, mãi dâm, du đảng và cờ bạc.
- Ngày 23 tháng 10 năm 1955, Tổng Thống tổ chức trưng cầu dân ý, truất phế vua Bảo Đại.

- Ngày 1 tháng 12 năm 1955, ông Diệm ra lệnh đóng cửa xóm Bình Khang, nơi buôn bán mãi dâm công khai do ông Bảy Viễn để lại, đồng thời ra lệnh cấm hút và cấm buôn bán thuốc phiện để lành mạnh hóa nhân dân miền Nam. Một chiến dịch đốt bàn đèn hấp dẫn vừa để làm gương cho dân chúng vừa để làm cho người ngoại quốc kính nể chế độ VNCH.

Năm 1957, nhân một chuyến đi dạo quanh đô thành, Tổng Thống Diệm đi qua bến Bạch Đằng... ông nổi giận đùng đùng vì cảnh bến sông thật là "bê bối"... hàng quán san sát, chiêu đãi viên cùng thực khách đùa giỡn lả lơi, ông Diệm sau đó chỉ thị cho giới chức đô thành phải giải tỏa ngay, Tổng Thống cho rằng thủ đô là tiêu biểu cho thể thống quốc gia để cho hàng quán tùm lum ở bến sông, ở hè phố như vậy thì còn gì là thể thống. Theo quyết định của Tổng Thống, Đô Trưởng Sài Gòn khẩn cấp ra lệnh giải tỏa. Hàng ba trăm bạn hàng dọc theo bờ sông bến Bạch Đằng và một số nơi khác ở các vỉa hè lớn bị giải tỏa.

Khoảng năm 1959 Tổng Thống đi xe từ trại Quang Trung về đến ngã ba Chú Ía (gần nhà thương Cộng Hòa) thì có cả mấy chục cô gái giang hồ phấn son lòe loẹt dừng bên đường vẫy tay cười nói, Tổng Thống mặt đỏ bừng bừng: “Mấy con mụ đó nó làm chi mà dị hợm rứa". Viên sĩ quan tùy viên cứ ngay tình nói thẳng: "Bẩm, mấy đứa nó là gái giang hồ, vùng này nhiều lắm". Tổng Thống lại hầm hầm mặt đỏ gay: “Thằng Tỉnh Trưởng nó làm chi đó hỉ?...”.

Khi trở về dinh, ông Diệm cho gọi Đại Uý Bằng đến hỏi kỹ về chuyện này. Sau đó ông bảo Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Đô Thành, Tỉnh Trưởng Gia Định và Trung Tá Cao Văn Viên, phải thân hành lấy xe đi một vòng kiểm soát xem thực hư thế nào. Các viên chức trở về Dinh đều xác nhận là có nhiều gái giang hồ tại mấy vùng ngoại ô như Lăng Cha Cả, vùng nhà thương Cộng hòa.

Ông Giám Đốc Cảnh sát Đô thành (Trần văn Tư) phải một phen xanh mặt. Mấy hôm sau, Tổng Thống Diệm ra lệnh bãi chức một loạt Cảnh Sát Trưởng thuộc Đô Thành và Trưởng Ty Cảnh sát Gia Định.


- Lập nhiều Cô Nhi Viện, yểm trợ các Trại Cùi, các Trung Tâm Y Tế Công Cộng, các Trung Tâm Sinh Hoạt và giáo dục các người tật nguyền.
- Lập các quán cơm xã hội giúp cho người lao động và học sinh có chỗ ăn uống vừa túi tiền.

E - NGOẠI GIAO:- Gia nhập Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc được 40 phiếu thuận 8 phiếu chống.
- Việt Nam được 80 Quốc gia trên Thế giới công nhận
- Việc Nam là Hội viên Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế
- Ký kết thỏa ước với Pháp hợp tác về Nguyên Tử Lực phụng sự hòa bình
- Khai mạc Hội Nghị Kế hoạch COLOMBO gồm có các nước:
Miến Điện , Thái Lan, Ấn Độ và Hồi Quốc.
- Phê chuẩn Hiệp Ước thân thiện Việt Nam và Phi Luật Tân
- Hội nghị Quốc Tế về lúa gạo tại Sài Gòn.
- Ký thỏa ước Nhật bồi thường chiến tranh và vay tiền Nhật
- Ký thỏa ước Việt Nam và Đức Quốc về viện trợ kỹ thuật.


Sài Gòn Xưa & Nay


Những lời phát biểu của 

Tổng Thống Ngô Đình Diệm

 

Trần Quốc Việt - Nhân dịp năm mươi năm ngày Tổng Thống Ngô Đình Diệmcùng bào đệ Ngô Đình Nhu bị sát hại trong cuộc đảo chính đẫm máu vào ngày 2 tháng 11, 1963, chúng tôi sưu tầm và trích dịch một số lời phát biểu sau của Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Phát biểu tại National Press Club ở Washington, Hoa Kỳ với các nhà lãnh đạo Đông Nam Á thích chủ nghĩa trung lập, tức phong trào không liên kết, Tổng Thống Ngô Đình Diệm nói:
“ Vì cộng sản không trung lập, chúng ta không thể trung lập.”
New York Times, ngày 11 tháng Năm, 1957
Tổng Thống Ngô Đình Diệm phát biểu nhân dịp kỷ niệm bảy năm ngày cầm quyền tại Sài Gòn:
“Liệu ta có thể vẫn còn trung lập khi đối diện với sự quyết tâm hủy diệt có hệ thống này? Ta phải cương quyết bác bỏ và chiến đấu chống lại chủ nghĩa cộng sản cuồng tín hiếu chiến, kẻ thù của nhân loại, thay vì để cho mình bị tê liệt bởi sự tuyên truyền dối trá của cộng sản.”
New York Times, ngày 8 tháng Bảy, 1961
Tổng Thống Ngô Đình Diệm:

“Mục đích duy nhất của tôi là nước Việt Nam độc lập thật sự.”
New York Times, ngày 12 tháng Năm, 1957
Tổng Thống Ngô Đình Diệm phát biểu tại Hội đồng Thương mại và Công nghiệp Viễn Đông-Hoa Kỳ ở Detroit về chương trình cải cách ruộng đất qua đó ruộng đất được cấp cho những nông dân không có ruộng:
“Qua chương trình này, chúng tôi đáp lại những lời tuyên bố dối trá của cộng sản về cải cách ruộng đất. Chúng tôi cấp ruộng đất cho nông dân và chúng tôi thực hiện được điều này mà không cần đến những cách thức cưỡng chế và tịch thu vô nhân đạo.”
Harrison E. Salisbury, New York Times, ngày 15 tháng Năm, 1957
Tổng Thống Ngô Đình Diệm phát biểu tại Sài Gòn vào ngày 29 tháng Ba 1957 nhân dịp đón tiếp các đoàn đại biểu tham dự Đại hội lần thứ ba của Liên Minh Các Nhân Dân Chống Cộng Châu Á:
“Đối diện với nỗ lực phá hoại của cộng sản, chúng ta phải tuyên bố rằng những quy luật chi phối sự tiến bộ của nhân loại không chỉ mang tính chất kinh tế, rằng sự tiến bộ như thế cũng và trên hết được chi phối bởi những quy luật về đạo đức.

Chúng ta hãy dùng tình thương để chống lại sự căm thù mà cộng sản rao giảng. Lịch sử dạy chúng ta rằng sớm hay muộn cuối cùng chính sẽ thắng tà, sự thật sẽ thắng dối trá, tình thương sẽ thắng hận thù.”

Nguồn: Wilson Center Digital Archive
http://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/118361

Tổng Thống Ngô Đình Diệm phát biểu nhân dịp khánh thành Đập Đồng Cam ở Tuy Hòa vào ngày 17 tháng Chín, 1955:
“Chúng ta hiện nay đang tiếp tục cuộc chiến đấu lớn lao để hoàn thiện nền độc lập của quốc gia chúng ta và để đảm bảo tự do của nhân dân chúng ta. Cuộc đời của chúng ta, tự do của chúng ta, hạnh phúc của chúng ta và cuộc đời, tự do, và hạnh phúc của con cháu chúng ta đều phụ thuộc vào cuộc chiến đấu này. Nếu Việt Minh thắng trong cuộc đấu tranh này, quốc gia thân yêu của chúng ta sẽ biến mất và nước chúng ta sẽ chỉ được đề cập đến như là một tỉnh phía nam của Trung Cộng. Hơn nữa nhân dân Việt Nam sẽ mãi mãi sống dưới ách độc tài do Mạc Tư Khoa tạo ra và sẽ bị tước mất tôn giáo, tổ quốc và gia đình.”
Nguồn: Major Policy Speeches by President Ngo Dinh Diem
Vietnam Center and Archive.
Trần Quốc Việt
___________________

Phụ lục:
1. Cộng Sản vui mừng trước cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm
“Nhà báo Úc Wilfred Burchett kể rằng những nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam chào đón cuộc đảo chánh như “món quà”. “Người Mỹ đã làm chuyện mà chúng tôi đã không thể nào làm được trong chín năm trời, đó là loại bỏ Diệm.”
Nguồn: Mark Moyar, JFK and the Seeds of Disaster in Vietnam, The Wall Street Journal 11/1/ 2013
2. Lời cảm ơn của Đức Đạt Lai Lạt Ma về sự giúp đỡ của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa sau khi Đức Đạt Lai Lạt Ma cùng với sáu chục ngàn người Tây Tạng vượt núi Hymalayas sang tị nạn ở Ấn Độ vào năm 1959 sau khi Trung Cộng xâm chiếm Tây Tạng
“Các tổ chức cứu trợ thiện nguyện ở nhiều nước đã giúp đỡ tiền bạc, hay thực phẩm, áo quần, hay thuốc men. Chính phủ các nước Anh, Mỹ, Úc, và Tân Tây Lan đã gởi quà để giúp chúng tôi giáo dục trẻ em, và chính phủ Nam Việt Nam đã gởi cho chúng tôi gạo. Chúng tôi rất cảm ơn tất cả những tấm lòng nhân ái này.”
Nguồn: My Land and My People, Memoirs of the Dalai Lama of Tibet, Potala Corporation, New York 1962, trang 225.


“Hãy nối chí tôi”: bảo vệ và kiến thiết Tổ quốc

 

 

Nguyễn Hội “Nếu bọn cộng sản Việt Nam thắng, thì quốc-gia Việt-Nam cũng sẽ bị tiêu-diệt và sẽ biến thành một tỉnh nhỏ của Trung-hoa Cộng-sản. Hơn nữa toàn-dân sẽ phải sống mãi mãi dưới ách độc tài của một bọn vong bản vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo.” Ngô Đình Diệm (Khánh Thành Đập Đồng Cam, Tuy-Hòa 17-9-1955).

* * *

Quốc gia, Tổ quốc là đầu mối đem lại sung túc cho mỗi gia đình, cho từng từng cá nhân. Tác giả đã từng ví quốc gia như là một căn nhà mà mỗi gia đình tiêu biểu cho từng căn phòng ở trong căn nhà đó. Nếu căn nhà vững chắc về mọi mặt thì các phòng trong nhà luôn được yên ổn, an toàn. Ngược lại nếu căn nhà èo uột, mái nhà dột nát thì chỉ một cơn bão thổi đến cũng đủ phá sập nhà và các căn phòng trong nhà mặc dù kiên cố vẫn bị hư hại, dột ướt. Cuộc khủng hoảng Âu châu vừa qua đã chứng minh được giả thuyết nêu trên. Một nghiên cứu của Ngân hàng trung ương Âu châu (ECB) cho biết tài sản trung bình của người dân Hy Lạp là 101.900 EUR, của người dân Tây Ban Nha là 182.700 EUR và của người dân cyprus là 266.900 EUR. Trong khi đó gia tài trung bình của người dân Đức chỉ có 51.400 EUR mà thôi [1]. Mặc dù Ngân hàng trung ương Âu châu cho biết phương pháp tính có thể có lỗi lầm là họ dùng Median chứ không dùng Average. Nhưng thông thường trong một tập hợp to lớn với chục triệu phần tử thì khác biệt giữa Median và Average không cao lắm.


Nước Đức vẫn vững chắc qua các cuộc khủng hoảng vừa qua. Các nước Hy Lạp, Cyprus, Tây Ban Nha gần như phá sản phải nhờ đến sự giúp đỡ tài chánh của nước Đức được hình thành bởi những người dân nghèo hơn mới được sống còn. Qua đó giả thuyết dân có giầu thì nước mới mạnh là không đúng. Ngược lại, mỗi người dân phải có nhiệm vụ đóng góp xây dựng đất nước, xây dựng quốc gia cho vững mạnh, xây dựng một chính quyền vững mạnh.

Điều kiện tiên quyết cho một quốc gia vững mạnh là quốc gia đó phải có một chính quyền mạnh, biết cách lèo lái, điều khiển nhân lực và tài nguyên hiện hữu trên quốc gia nhằm đạt được kết quả cao nhất. Vào thập niên 90 trong lãnh vực kinh tế phát triển cho những quốc gia chậm tiến có xuất hiện danh từ “good Governance”, danh từ này được wikipedia giải thích như sau: điều hành tốt một xã hội. Điều hành bao gồm công việc điều khiển và quản trị xã hội, trong đó có cả việc quản lý tốt ngân sách tài chính. Điều hành kém (bad Governance) được đề cập đến khi việc quản lý và kiểm soát xã hội bị thất bại. Trái ngược với điều hành tốt, trong điều hành kém không có sự minh bạch, pháp luật không nghiêm minh, tham nhũng tràn lan. Công dân phải chấp nhận sự tùy tiện của những người cầm quyền và công dân ít có hoặc không có cơ hội tham gia vào công việc chính trị.

Trong một cuộc phỏng vấn trước đây 10 năm, cũng vào thới điểm này với đài phát thanh Úc châu, Tiến sĩ sử gia Hoàng Ngọc Thành nhận xét là chế độ chính phủ Ngô Đình Diệm là một chế độ mạnh. Cho đến nay chưa có một nhận xét nào ngược lại với nhận xét trên có tính thuyết phục. 

Việt Nam Cộng Hòa và Đại Hàn (South Korea)
Tương tự như Việt Nam, Đại Hàn sau thế chiến thứ hai năm 1945 cũng bị chia đôi, nghĩa là trước Việt Nam 9 năm. Sau khi nhậm chức vào năm 1954, chính phủ Ngô Đình Diệm phải đương đầu với rất nhiều khó khăn. Trong bài “Một cách hiểu về Ngô Đình Diệm” Tiến sĩ Roland Frankum nhận xét tình hình miền Nam Việt Nam khi TT Ngô Đình Diệm về chấp chánh như sau:

“Khi tạo ra Việt Nam Cộng Hòa từ tro tàn của gần 100 năm Pháp đô hộ, Diệm đối diện rất nhiều thử thách; chúng định hình chính sách và quyết định số phận của ông. Diệm thừa hưởng một tình thế khó khăn; thực dân Pháp đẩy người Việt xuống hàng công dân hạng hai, không cho họ kiến thức và kinh nghiệm trị nước.

Trải nghiệm thực dân và thời gian chiếm đóng tàn nhẫn của Nhật thời Thế chiến Hai khiến đất nước chia rẽ về ý thức hệ, tôn giáo, văn hóa, xã hội. Ban bệ của Diệm lại không có mấy người có kinh nghiệm quản trị, nhiều người thì nuôi dưỡng sự nghi ngờ chính quyền Sài Gòn. [2]
 
Hơn thế, chính phủ Ngô Đình Diệm còn phải đối đầu với những nan giải sau:
- Ổn định an ninh xã hội qua việc đánh dẹp các phe Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo, thân Pháp, thân Cộng.
- Giải quyết những phá hoại ngầm của chính phủ Pháp.
- Ổn định đời sống cho gần một triệu người di cư từ miền Bắc
- đối phó với những phá hoại của cộng sản
- Xây dựng nền kinh tế tự chủ từ một nền kinh tế thuộc địa què quặt.
- Vận động cộng đồng quốc tế công nhận VNCH

Mặc dù Đại Hàn không có hoặc có nhưng đã giải quyết xong các khó khăn nêu trên mà chính quyền Ngô Đình Diệm đang phải chống cự, nhưng vào năm 1960 GDP đầu người của người dân Đại Hàn (south Korea) mới được 155 USD[3], trong khi đó dân miền Nam Việt Nam đã vượt trội hơn với 223 USD (miền Bắc 73 USD)[3]. Nghĩa là vào năm 1960 GDP đầu người của Đại Hàn chỉ bằng 69% của VNCH và hơn gấp đôi so với miền Bắc cộng sản.

Tại miền Nam Việt Nam người Pháp đã áp đặt một chế độ thực dân thuần túy là chỉ nhằm khai thác tài nguyên chứ không hề xây dựng nhà máy công nghiệp có tính chất phát triển lâu dài như Nhật đã thực hiện tại Đại Hàn. Vào năm 1954 kỹ nghệ sản xuất tại miền Nam Việt Nam chỉ bao gồm sản xuất bia, nước uống và thuốc lá. Song song việc xây cất hạ tầng cơ sở như đường bộ, đường sắt và xây dựng các ngành kỹ nghệ như xi măng, thủy tinh, giấy, hoá chất, điện, nghiên cứu hạt nhân vv… chính phủ Ngô Đình Diệm đặc biệt cho phát triển ngành giáo dục từ tiểu học đến đại học cùng các biện pháp khuyến khích phát triển nông nghiệp là ngành nuôi sống phần lớn dân chúng thời bấy giờ. Vào năm 1963 sản phẩm sản xuất công nghiệp chiếm 12% tổng sản lượng nội địa.

Sự phát triển của miền Nam Việt Nam đã được William E. Colby ghi nhận như sau khi ông tới thăm các vùng thôn quê Việt Nam: “Đường xá được mở lại. Số trường học tăng nhanh ở thôn quê. Chương trình ngũ niên xịt thuốc diệt muỗi được khởi sự để thanh toán bệnh sốt rét rừng. Sức sản xuất lúa gạo bắt đầu tăng... Những tiến bộ về kinh tế, xã hội lúc đó đã xuống đến nông thôn... Đặc biệt kế hoạch “Khu trù mật” năm 1959, là kế hoạch được ông Diệm nâng niu nhất, bắt đầu với nhiều hứa hẹn. Những “đô thị” nông nghiệp được xây dựng trên phần đất truất hữu của địa chủ theo chương trình cải cách điền địa và được chia thành những khu trung tâm dân cư và vùng ruộng lúa...[4]” .
 
Thực vậy, vào năm 1963, VNCH xuất cảng 323 ngàn tấn gạo, đứng hàng thứ tư trên thế giới về xuất cảng gạo trên thế giới, nhưng chỉ 4 năm sau, vào năm 1967 VNCH phải nhập cảng 770 ngàn tấn gạo[5].

Từ năm 1960, đặc biệt sau khi Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam được thành lập người cộng sản bắt đầu tổ chức du kích phá hoại gây trở ngại cho công việc làm ăn của người dân ở thôn quê. Điều này biểu lộ rõ ràng qua ngành xuất cảng tại miền Nam Việt Nam. Biểu đồ sau đây so sánh xuất cảng của miền Nam Việt Nam và của Đại Hàn từ năm 1955 cho đến năm 1967:

Trước năm 1961 xuất cảng của miền Nam Việt Nam cao hơn Đại Hàn, và có thể nói tương đương với Đại Hàn trong hai năm 1962 và 1963. Nhưng từ năm 1964 Đại Hàn vượt trội hẳn. 

Yêu nước, thương dân
Các chuyên gia trong lãnh vực good Governance thường xác định sự đồng thuận giữa dân chủ và good governance của quốc gia. Bởi vì trong một quốc gia có dân chủ việc làm của chính phủ được kiểm soát bởi các đảng phái đối lập, của báo chí độc lập và của chính người dân sinh sống trong quốc gia đó. Chính phủ qua đó làm việc rõ ràng, minh bạch, cố gắng hết sức đạt nhiều kết quả tốt đẹp nhất cho quốc gia hầu có thể được đắc cử trong lần bầu cử kế tiếp.

Ở những quốc gia chưa có nền móng dân chủ sẵn, điều kiện để có được một chính quyền mạnh là chính phủ này phải có tinh thần trách nhiệm cao đối với đất nước và dân tộc, đồng nghĩa với yêu nước, thương dân. Điều kiện nêu trên đã được chứng minh tại Đại Hàn, Đài Loan, Do Thái vv…

Năm 1949 Quốc gia Việt Nam ra đời do Quốc trưởng Bảo Đại đứng đầu, có nhiều nguồn tin cho là Chí sĩ Ngô Đình Diệm đứng ra đảm nhận chức Thủ tướng. Ông đã viết lời tuyên bố gửi đồng bào có đoạn như sau:
Trước hết tôi tin chắc rằng nguyện vọng của dân tộc Việt Nam chỉ thỏa mãn khi Tổ quốc chúng ta hưởng được một chế độ chính trị như các nước Ấn, Hồi. Sự bang giao hữu nghị giữa Pháp và Việt Nam sẽ được vững chãi, khi nào đôi bên đều bình đẳng và có tình huynh đệ trong một khối cộng đồng các dân tộc ở trong “Liên Hiệp Pháp”.

Thứ đến, nên biết rằng cuộc tranh đấu hiện tại không phải chỉ là cuộc chiến đấu cho độc lập Tổ quốc về phương diện chính trị mà thôi, mà còn là một cuộc cách mạng xã hội để đem lại cho nông dân và thợ thuyền Việt Nam. Để cho tất cả mọi người trong nước Việt Nam mới có đủ phương tiện để sống xứng đáng với phẩm cách con người, con người tự do thực sự. Tôi chủ trương những sự cải cách xã hội hết sức tân tiến và mạnh bạo, miễn là phẩm cách con người vẫn luôn luôn được tôn trọng và được tự do nảy nở.[6]
 
Với lời tuyên bố trên đây Chí sĩ Ngô Đình Diệm đã nêu điều kiện để ông đảm nhiệm trọng trách điều hành quốc gia là Việt Nam phải có được chủ quyền như các nước Ấn, Hồi vừa được độc lập từ năm 1947. Vì có được chủ quyền thì người Việt chúng ta mới có thể kiến thiết quốc gia, tiến hành một cuộc cách mạng cải thiện xã hội bất công của thực dân Pháp để lại. Đồng thời con người, nhân phẩm con người và tự do được đặt là mục đích, phải được duy trì, tôn trọng trong “những sự cải cách xã hội hết sức tân tiến và mạnh bạo” .

Để có thể đạt được mục đích “mọi người trong nước Việt Nam có đủ phương tiện để sống xứng đáng với phẩm cách con người, con người tự do thực sự” TT Ngô Đình Diệm và bào đệ là ông Ngô Đình Nhu đã phát triển Chủ Thuyết Nhân Vị. Chủ thuyết này được TT Ngô Đình Diệm cho biết khái quát vào năm 1955 như sau: “Chủ Nghĩa Nhân Vị cho rằng dân chủ của Cộng Sản độc tài chà đạp phẩm giá con người, coi người như con vật. Chủ Nghĩa Nhân Vị cũng bác bỏ loại dân chủ muốn đặt tư bản phong kiến trên tần lớp cần lao, và chủ trương chế độ thực dân để bóc lột những dân tộc nhược tiểu.”. 

Chủ Nghĩa Nhân vị
Vị có nghĩa là địa vị, chỗ đứng. Nhân có nghĩa là người, rộng hơn Nhân còn có nghĩa là đạo lý làm nguời, thí dụ như câu dậy con trong Gia Huấn Ca: «ở cho có Đức có Nhân». Trong Khổng học, để thành Nhân con người phải trải qua giai đoạn rèn luyện, tu luyện bản thân: Tu Thân.

Vũ trụ quan của Việt Nho (khác với Hán Nho) cho rằng trong vũ trụ này có ba quyền lực lớn, đó là Trời, Đất và Con Người. Vị trí con người được đặt ngang với Trời và Đất. Con người chính là nơi hội tụ của Trời Đất, do đó con người là nơi hôi tụ của mọi đối cực: tinh thần và vật chất, tình và lý, đúng và sai, quyền lợi cá nhân và lợi ích xã hội vv… Để có thể hành xử đúng, con người phải biết rèn luyện, tu thân, học hỏi bền bỉ.

Chủ nghĩa Nhân Vị do đó là một chủ nghĩa vì giá trị con người. Con người là trọng tâm của mọi hành động, mọi quyết định trong xã hội. Đồng thời chủ nghĩa Nhân Vị còn qui định trách nhiệm của mỗi con dân trong xã hội luôn phải rèn luyện bản thân và hành động vì lợi ích chung của xã hội.

Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Tấn giải thích Chủ nghĩa Nhân Vị như sau “chủ thuyết Nhân Vị là một triết lý nhằm xác định và đề cao giá trị con người, vị trí của con người trong tương quan với vũ trụ, với người khác và trong cộng đồng xã hội. đồng thời là một chủ thuyết chính trị chủ trương thiết lập những định chế thích hợp để tạo cơ hội và khuyến khích việc phát triển các giá trị nầy đến mức cao rộng nhất và hương về việc phục vụ hạnh phúc con người. Chủ Nghĩa Nhân Vị lấy “con người biết tu thân (thái hòa)” làm nền tảng cho giải pháp, để giải quyết các mâu thuẫn trong sinh hoạt của con người.[7]“. 

Nhận định của chuyên gia ngoại quốc
Tiến sĩ sử Philip Catton thuộc đại học Canterbury nhận xét: “Ông (Diệm) muốn một nhà nước không sao chép cả tư bản lẫn cộng sản. Ông muốn một xã hội lấy cảm hứng từ mô hình văn hóa xã hội truyền thống của Việt Nam – vừa hiện đại nhưng hình như cũng phải thuần Việt.[8]
 
Theo Tiến sĩ Edward Miller “Ông (Diệm) là một nhà chính trị xảo trí và là một nhà lãnh đạo “dân chủ” với một đường lối chấn hưng đất nước dựa trên cơ sở gắn kết có chọn lọc tư tưởng Thiên Chúa giáo, Khổng giáo, và sự đặc trưng chủ nghĩa dân tộc của Việt Nam.[9]
 
Tiến sĩ sử học Ronald Frankum viết trong một bài viết cho BBC là “Các quan chức phụ trách đối ngoại của Kennedy đụng độ với Diệm vì họ không bao giờ cố gắng tìm hiểu bản chất của sự trị quốc tại Việt Nam … Dù có một số thành công, một vài thất bại, Ngô Đình Diệm đã lãnh đạo đất nước theo cách tốt nhất có thể, trong hoàn cảnh chiến tranh và cách mạng ông phải đối đầu hàng ngày.[2]”.
Sử gia Henry Fairbanks đã tóm tắt sự thật lịch sử này bằng lời lẽ khách quan, trong một bài báo tưạ đề “The Enigma of Ngô Đình Diệm”, được đăng trong tờ Commonweal, như sau:

“Ông Diệm tìm kiếm và khôi phục laị những giá-trị cổ-truyền làm nền tảng cho giaỉ-pháp canh tân xứ sở trong khi đó những người khác laị đi tìm những học thuyết ngoại lai... Dù sao đi nữa, Ông ta vẫn là một người có cái nhìn sâu sắc về tương lai. Cả thế giới này đều yêu mến các chiến-sĩ dũng cảm và ai ai cũng phải nể trọng những kẻ đeo đuổi một lý-tưởng cao cả nào đó. Ông Diệm ao ước thực hiện một nhà-nước được xây dựng trên những giá-trị cổ-truyền tốt đẹp nhất của Á-châu và Tây-phương, những đặc điểm đúng đắn và khả thi nhất để phục vụ quyền-lơị chung và tôn trọng nhân-phẩm. Ông Diệm cho rằng Xã-Hội Chủ-nghiã và Tư-bản Chủ-nghĩa đều là những học-thuyết cực-đoan cần có một hình-thức trung-gian, một lực lượng đứng giữa, nhằm tổng hợp được những giá-trị ưu-tú nhất của cả hai để phục vụ cho lợi ích chung: công bằng đối với người này là tự-do của kẻ khác, cũng như loại bỏ độc tài toàn chế và tinh thần vô trách nhiệm của Chủ-nghĩa cá-nhân.”[10] (21-9-1962, tr.516) 

Nhận xét của đối lập về Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Cựu đại sứ Bùi Diễm, thành viên đảng Đại Việt trả lời một cuộc phỏng vấn vào năm 2003 như sau: “Thực sự ra mà nói thì mặc dù tôi thuộc lớp người chống chế độ ông Diệm, nhưng mà tôi cũng phải thành thực công nhận rằng, ông ấy là người yêu nước. Ông ấy là người trong sạch. Ông ấy đóng góp nhiều cho việc xây dựng miền Nam thành một quốc gia khá qui củ, nền nếp, uy tín: không thua kém gì các nước khác trong vùng vừa lấy lại nền độc lập.[11].

Ông Bùi Tín, cựu Đại Tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, phó Tổng biên tập báo Nhân Dân, phát biểu ý kiến khi được hỏi về khác biệt giữa ông Ngô Đình Diệm và ông Hồ Chí Minh cũng trong buổi phỏng vấn của đài phát thanh Úc châu vào năm 2003:
“ … Về vấn đề yêu nước mà có lợi cho đất nước thì tôi nghĩ ông Hồ Chí Minh đã đưa học thuyết Mác-Lênin về mà cho tới nay nhiều người vẫn còn sùng bái. Theo tôi học thuyết đó không ích lợi lắm, thậm chí còn tai hại cho đất nước vì dẫn đến chiến tranh.

Bởi vì cơ bản của học thuyết Mác-Lenin là đấu tranh giai cấp. Cơ bản của học thuyết này là cổ súy bạo lực. Chính đó là nguyên nhân dẫn đến chiến tranh…

… Bây giờ càng ngày càng có nhiều người, ngay cả những người ở trong nước, nhìn nhận ra rằng chủ nghĩa Mác_Lênin là học thuyết không phải đem lợi, mà thậm chí đem lại tai hại cho đất nước.

Do đó nếu so sánh về yêu nước thì tôi nghĩ rằng ông Hồ Chí Minh đã đi vào con đường không được đứng đắn lắm. Thế còn về nhân cách, về lòng trung thành với đất nước, về tinh thần dân tộc, đặc biệt là về tinh thần dân tộc, tôi nghĩ ông Hồ Chí minh không có tinh thần dân tộc lắm đâu. Cho nên ông mới đi lấy học thuyết ngoại lai về, mà theo tôi những học thuyết ngoại lai này rất không có lợi cho đất nước.

Còn về tinh thần dân tộc của ông Diệm thì rõ ràng ông chống lại việc người Mỹ đưa quá nhiều quân vào và đưa bom đạn vào. Tôi nghĩ rằng đấy là tinh thần dân tộc. Ông ấy chống Pháp, và đòi lại cái quyền cai trị Bắc Kỳ cho chính phủ Nam Triều. Đó là một thái độ rất dân tộc.

Thêm điều nữa là trong vấn đề đạo đức. Về đạo đức thì đúng là người ta thường so sánh về chỗ là hai ông đều không có vợ, đều không có con. (cười)

Nhưng thật ra thì bây giờ, bao nhiêu tư liệu ở Quảng Châu, ở Bắc Kinh, ở Pháp, ở Moscow đều nói rõ là ông Hồ Chí Minh có cưới vợ đàng hoàng.

Bà vợ ông Hồ là bà Tăng Tuyết Minh ở Quảng Châu. Ngoài ra ông Hồ còn có đủ thứ: ông có người yêu ở Nga, ở Đức, ở Pháp và nhất là ông chung sống với bà Nguyễn Thị Minh Khai nữa…

… Tất nhiên có vợ có con là chuyện bình thường, nhưng mà cái nghiêm trọng là cái sự che dấu sự thật, tỏ vẻ mình như là một nhà hiền triết tuyệt đối …

Ông Ngô Đình Diệm là một con người, tuy không phải tu hành nhưng ông quả là một nhà chân tu. Ông Diệm không có vợ, không có con, không có chuyện tửu sắc v.v…

Tôi nghĩ rằng, đứng về mặt đạo đức Á Đông thì rõ ràng về mặt đó. Tôi tôn trọng ông Ngô Đính Diệm hơn ông Hồ Chí Minh.” 

Kết luận
Đệ Nhất Cộng hoà sụp đổ đã đúng 50 năm. Các quốc gia trước đây ngang tầm chúng ta đã vươn lên mạnh mẽ nhưng Tổ quốc Việt Nam của chúng ta không những không tiến tới mà còn đi lùi ngược trở lại về mọi mặt, cả về kinh tế, đặc biệt là đạo đức xã hội suy đồi nặng nề và tinh thần thiếu trách nhiệm của người công dân trong xã hội ngày càng tăng. Đành rằng trách nhiệm chính là do nhà cầm quyền độc tài cộng sản vì họ chủ trương biến người dân thành những con cừu non để tha hồ thao túng đất nước. Nhưng người dân chúng ta cũng có lỗi, vì chúng ta đặt quyền lợi bản thân lên trên tất cả, không dám lên tiếng đòi hỏi cải thiện xã hội, cải thiện Tổ quốc như các công dân can đảm như Lê thị Công Nhân, Nguyễn Uyên Phương, Huỳnh Thục Vi, Lê Công Định, Trần Huỳnh Duy Thức vv…
Khi nào cái quái thai “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam còn tồn tại thì Việt Nam vẫn còn khập khễnh, bóc lột, bất công còn tồn tại và người dân Việt vẫn chỉ là những kẻ nô lệ cho giai cấp thống trị là lãnh đạo đảng và nhà nước “ngồi mát ăn bát vàng” mà thôi.

Tổ quốc không chỉ của riêng ai mà thuộc về tất cả mọi công dân nước Việt. Đã đến lúc tất cả người dân Việt cùng nhau nhận lãnh trách nhiệm cải thiện xã hội, sẵn sàng thay thế đảng cộng sản điều hành đất nước. Nếu hàng triệu người dân Việt cùng đồng lòng xuống đường đòi hỏi quyền công dân, đòi hỏi quyền quyết định vận mạng đất nước thì chắc chắn quê hương chúng ta sẽ mau chóng được tự do, dân chủ để mọi người chúng ta được tham gia kiến thiết đất nước một cách thiết thực.

Nếu lợi ích của đất nước luôn đặt lên hàng đầu, với khả năng thiên phú và sự cần cù của người dân Việt, đất nước chúng ta chắc chắn sẽ mau chóng giầu mạnh để chúng ta không phải hổ thẹn với tiền nhân, đặc biệt với vị anh hùng dân tộc thời đại là Ngô Đình Diệm vì chúng ta đã “nối chí” Ông là bảo vệ và kiến thiến Tổ quốc.

2/11/2013
P/s: “Nếu bọn cộng sản Việt Nam thắng, thì quốc-gia Việt-Nam cũng sẽ bị tiêu-diệt và sẽ biến thành một tỉnh nhỏ của Trung-hoa Cộng-sản. Hơn nữa toàn-dân sẽ phải sống mãi mãi dưới ách độc tài của một bọn vong bản vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo.” Ngô Đình Diệm (Khánh Thành Đập Đồng Cam, Tuy-Hòa 17-9-1955)
________________
Chú thích:

[1]. nguồn: EZB-Studie: Vermögen in Griechenland größer als in Deutschlandhttp://www.spiegel.de/wirtschaft/soziales/ezb-vermoegen-in-griechenland-groesser-als-in-deutschland-a-893412.html
[2]. Tiến sĩ Ronald Frankum: Một cách hiểu về Ngô Đình Diệmhttp://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/10/081028_frankum_ngodinhdiem.shtml
[4]. Minh Võ: NGÔ ĐÌNH DIỆM: Lời Khen Tiếng Chê
[5]. Douglas C. Dacy: Foreign aid, war and economic development south Vietnam 1955-1975, Cambridge 1986
[6]. Lời tuyên bố của chí sĩ Ngô Đình Diệm ngày 16 tháng 6 năm 1949http://ngodinhdiem.net/ChinhTri/NDD/LoiTuyenBo.html
[7]. Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Tấn: CHỦ NGHĨA NHÂN VỊ, Con Đường Mới, Con Đường của Tiến Bộ.
[8]. Dr. Philip Catton: Liên minh bất hòa: Ngô Đình Diệm và Mỹ
[9]. Edward Miller: Misalliance: Ngo Dinh Diem, the United States, and the fat of South Vietnam, tr. 137-138. Văn Cầm Hải: Ngô Đình Diệm và cuộc chiến kiến quốc.

• Ngày Quốc Khánh Đầu Đời

Tôn Nữ Hoàng Hoa
 
Năm 1956 ba tôi trở về nhiệm sở củ tại Tòa Đại Biểu Chính Phủ Trung Phần dưới thời của anh rễ họ tôi là ông Hồ Đắc Khương, sau hơn một năm làm Phó Tỉnh Trưởng tại Quảng Nam và suýt ra người thiên cổ.

Khi ở Hội An,, sau thời gian bị “nhốt” vào Trường Xơ ở xứ Tam Tòa Đồng Hới. Tôi được thư thả ở lớp nhất tại trường Nữ công lập Tiểu học Hội An 1955.
Nhưng trong tôi vẫn hoài niệm dòng sông êm đềm Lệ Thủy soi bóng Giáo đường Tam tòa, bên hình ảnh âm thầm của trường trung học Chơn Phước Phượng.

Về Huế năm 1956 ở cái tuổi 12, 13 như chim non đầu đời bắt đầu nghĩ đến niềm tin và hy vọng, nhưng cuối cùng cũng lại bị “nhốt” vào trường Jean D'arc trong thời buổi nghỉ  hè. Tại đây tôi có một ngừơi bạn nhỏ tên Nhạn. Nhạn và tôi học cùng lớp và cùng ở chung một xóm trên đường Lê Thái Tổ.



Hằng ngày chúng tôi thừơng ra bơi lội trên dòng sông Hương và ra ăn kem ở chỗ nhà làm kem của một ngừơi tên Thanh.

Giờ sắp bứơc vào tuổi 70 thất thập cổ lai hy lại ngồi  lục lọi tiềm thức để thấy ký ức rộn ràng trong niềm vui mới lớn. Có lẽ lại tháng 10. Tháng Mười đầy ắp kỷ niệm đầu đời của một con dân vừa thoát ra khỏi vòng đô hộ của thực dân Pháp.

Ý nghĩ về những con đường cũ khuất lấp theo thời gian nồng nàn trở về trong ký ức. Con phố xưa trên đường Lê Thái Tổ mờ nhạt theo tháng năm, nhưng giờ lại hiện ra trong mong manh và diễm ảo.
Tôi nhớ một lần đến nhà Nhạn chơi, ba Nhạn đang sửa soạn trang điễm một con phố nhỏ trước nhà làm kem của Thanh để treo lồng đèn, giăng biểu ngữ chào mừng Ngày Quốc Khánh 26/10/1956.

Trong thời gian này Nhạn và tôi được ba Nhạn chấp nhận cho hát trong đoàn hợp ca bản Ngô Tổng Thống Muôn Nặm . Ở tuổi 13 tôi bỗng nhiên được ca hát trình diễn đã ươm trong mãnh đất hồn nhiên nhỏ bé của tôi một niềm tin và hy vọng.

Bài hát đầu đời trình diễn của tôi là hình ảnh của một vị lãnh tụ Quốc Gia mà đất nước vừa mới thoát ra khỏi một căn bệnh trầm kha Đô hộ mà dân tộc Việt có thể đi đến tình cảnh diệt quốc vong thân. Trong tình hình hấp hối lại được tái sinh. Người Việt lúc bấy giờ không ai không khỏi mừng vui trên cơ thể hồi sinh của dân tôc Việt Nam sau khi bị phanh thây làm hai mãnh do bọn cộng sản Bắc Việt chủ tâm.

Ngày Quốc Khánh 26 tháng 10 năm 1956 đến. Con phố không mấy náo nhiệt như góc phố Hàng Me và Lê Thái Tổ như mọi ngày , hôm nay lại tưng bừng lời ca , tiếng nhạc." Ai bao năm từng lê gót nơi quê ngừơi. Cứu đất nứơc thề tranh đấu cho tự do. Ngừơi cương quyết chống Cộng..." cho ngừơi dân trang trọng trên hình ảnh của một vị Tổng Thống nhà Ngô thừơng đi kinh lý thăm dân trên những bứơc chân dài hơn thân thể và cái đánh đường xa trong tay cầm cái mũ như nhạc khúc quân hành .

Trong tâm trí tuổi thơ như  tôi và các bạn cùng tuổi tham gia Ngày Quốc Khánh đầu đời trên tình huống đất nứơc được hồi sinh qua sự lãnh đạo của một vị lãnh tụ độc lập. Đó là một trân trọng ghi ơn. Ngừơi dân tại Huế lúc bấy giờ đi đến đâu cũng nghe vang vang lời cầu nguyện "Xin Thượng Đế ban phước lành cho Người" cho vị lãnh tụ họ Ngô được đầy đủ năng lực để chống lại cả hai thế lực cộng sản và thực dân.

Ngay góc phố Hàng Me và Lê Thái Tổ tối hôm Ngày Quốc Khánh 1956 đã sáng trưng với những ngọn lồng đèn đủ màu sắc cùng tiếng hát vang vang lời ca "Người cương quyết chống Cộng diệt thực dân đang rắc reo tàn khốc"
Từ tiếng hát đầu đời và niềm vui trong ngày Quốc Khánh 26/10/1956 cùng hình ảnh đáng quí của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã đem lại niềm tự hào dân tộc của tôi trên ý nghĩ hình thành một đất nứơc thật sự Tự Do và Độc lập. Tôi mang hành trang đó vào đời trên ý thức thô thiển về  chính trị và trên những biến cố chính trị của đất nứơc Việt Nam.

Năm  Đệ Lục 1957 tại trường Nữ Trung Học Đồng khánh tôi thật sự thích tham gia vào đoàn Nữ Sinh đi làm hàng rào danh dự cho Ngô Tổng Thống đi kinh lý.
Trên những bước chân kinh lý của TT Ngô Đình Diệm là tiếng nhạc là những âm thanh, thanh thoát réo lên từ lòng ngừơi dân như một quấn quit thân yêu giữa người dân và chính quyền. Những lời ca Ngô Tổng Thống Muôn năm đã được họ tình nguyên tự hát ra mà không bị bắt buột dưới một thế lực nào.

Tháng 9/1959 ba tôi căn dặn Me tôi không cho tôi tham gia bất cứ một tổ chức nào của Sinh Viên Học Sinh cả  . Tôi không hiểu tại sao? nhưng vẫn tuân lệnh Me tôi ở nhà không được đi đâu sau giờ đi học. Từ đó, con đường về Thành Nội thăm O Phủ cũng bị giới hạn.

Sau biến cố tại chùa Từ Đàm , khi Sư Trí Quang xuất hiện xách động Phật tử xuống đường gây bất ổn cho chính quyền như là một Tướng Trận tuy rằng Sư Trí Quang đang khoát áo nâu sòng.

Tình hình trong các chùa có vẽ "khẩn trương". Năm 1960 tôi phải rời Huế vào Qui Nhơn trước khi Mẹ Tôi vào.

Giả từ cố đô trên tuổi đời đang đi vào con đường hoa mộng. Giả từ những con đường mang dấu tích tuổi thơ . Những hàng cây nghiêng bên bờ dòng sông tuổi nhỏ, qua mặt đường là biệt thự của ông Hà Thúc Luyện cùng lớp lớp ngồi đứng ngã nghiêng của học sinh trường Quốc Học sắp hàng chờ đợi để "nghễ" con gái Đồng Khánh từ Bến Ngự, Nam Giao, Kim Long , Long Thọ, Nguyệt Biều và Ga đi qua trước giờ vào học.

Vào Trung Học Cường Để Qui Nhơn mà lòng tôi vẫn còn hằn in những dấu ấn, từng kỷ niệm chưa phai mờ trên khoang thuyền của ký ức trôi trên dòng nước của thành phố Huế đã xa.

Trong thời gian của thập niên 60 , ba tôi thường ưu tư trên sự tràn quân của cs Bắc Việt vào miền Nam. Me tôi vì cai quản căn nhà hương hỏa của Bà Nội,nên không thể vào Qui Nhơn cùng lúc với tôi. Nhưng vừa mới thoát cảnh loạn ly của 1954 nên ba tôi lo lắng dục dả me tôi vào.

Tình hình xáo trộn gây bất ổn cho chính quyền mỗi ngày một tăng. Những cuộc xuống đường tàn sát lẫn nhau giữa người nỗi loạn và chính quyền mỗi lúc một mạnh.

Tôi vẫn thầm mong có một ngày trở lại Huế . Trở lại nơi chôn đã hắt lên trong tôi một niềm tin yêu và hy vọng của một quốc gia nhược tiểu được phồn vinh muôn đời từ căn bản của  một con dân được sống trong đất nước tự do dân chủ mà không phải chịu dưới áp lực nhân danh của một chủ nghĩa nào.
Cho đến hôm nay cuộc chiến Quốc/Cộng vẫn còn tiếp diễn trên chiều dài lịch sử của dân tọc Việt Nam.

Cũng giống như thời của thập niên 60 , đảng csVN trên âm mưu tuyền truyền với dân chúng Miền bắc là phải giãi phóng miền Nam dưới sự cai trị của “My-Ngụy” và chiêu bài "Đánh Mỹ Cứu Nước" để thực hiện âm mưu nhuộm đỏ toàn cõi Đông nam Á của cs Quốc tế.

Nhưng sau ngày 30/4/75 khi người dân miến Bắc vào miền Nam và những gì tuyên truyền của VC vốn là niềm tin sắt đá của người dân miền Bắc khi đối diện với những gì thực tế của miền Nam, người dân Việt miền Bắc đã phải hụt hẫng, một cảm giác bị đảng csVN lừa bịp đã làm ngừơi dân khủng hoảng niềm tin .

Cũng vậy, trên âm mưu thôn tính tập thể Ngừơi Việt Tỵ nạn cs tại hải ngoại. Một lần nữa đảng csVN lại dấu mặt và những văn nô của đảng được đưa ra hải ngoại để hướng dẫn ngừơi dân tỵ nạn bằng những chiêu bài ru ngủ như không nơi nào đẹp băng quê hương , quê hương là chùm khế ngọt. Ngừơi dân tỵ nạn tự hỏi nếu quê hương là chùm khế ngọt và không nơi nào đẹp bằng quê hương thì tại sao đảng lại dâng cho tầu Cộng?

Hơn nữa , chúng dùng bạo sách "trồng ngừơi" ở các thành phần tôn giáo, thì thử hỏi từ 1975 đến nay cũng đã là gần 39 năm và chính những "cây người" đó đang ngang nhiên tạo ra những cảnh phạm giới nữ sắc tại cửa Thiền, tại giáo đường để làm cho Phật tử, tín đồ khủng hoảng niềm tin với Tăng Ni của chùa, Cha Thầy của nhà thờ.

 Những nơi nào còn vững chắc không cho sư Quốc Doanh, hay Cha Quốc Doanh  len lõi vào thì bị chúng bôi nhọ vu khống dùng tác phong mafia hay những hành vi "bề hội đồng" theo cái kiểu "lấy thịt đè người" để làm tín đồ khiếp nhược hầu cướp chùa cứơp nhà thờ .

Bài viết của chúng tôi hôm nay không cố ý bài bác những ai đang nhục mạ Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Quí vị có quyền nhục mạ nhưng tiếp nhận sự nhục mạ ấy hay không là do ngừơi dân. Và cho đến hôm nay thì những tổ chức tưởng niệm Cố Tổng Thống một ngày một nhiều hơn, một trang trọng hơn trên những thể thức tổ chức trang nghiêm hơn của chính thể Việt Nam Cộng Hòa.
Cũng trong ý nhĩ đó, chúng tôi xin ghi lại nơi đây bằng một cảm xúc trong ngày 26/10/2013 và từ đó lờ mờ trong ký ức, những mảnh vụn của tuổi thơ trở về , cho dù đã thật xa nhưng như những cánh hoa đời không phai tàn hương sắc theo sóng nước thời gian.

 Ở đó tưng bừng với những hoa đèn biểu ngữ ngày Quốc Khánh 1956,  ở đó chất chứa niềm tin và hy vọng của tuổi thơ vào đời. Ở đó đã vang lên lời ca "Ngô Tổng Thống, Ngô Tông Thống Muôn Năm. Toàn dân Việt Nam Nhớ ơn Ngô Tổng Thống " .Tiếng hát xưa bỗng rào rào trong ký ức để bật mở một hình ảnh oai hùng sáng ngời của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

Từ hình ảnh tưởng vọng đó cùng những bước chân kinh lý dài hơn thân thể trên đoạn đường đưa dân tộc VN ra khỏi cảnh nô lệ của một thời đô hộ, chúng tôi xin kính dâng Ngô Tổng Thống một nén hương tưởng niệm.

Trước khói nhang lung linh vọng tưởng, Chúng tôi xin cầu nguyện cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm mãi mãi bình an trên cõi Vĩnh Hằng để phù hộ cho dân tộc Việt Nam sớm thoát khỏi xiềng xich của Việt Cộng.

Tôn Nữ Hoàng Hoa
26/10/2013